Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa

淨土大經解演義

phần 10

Chủ giảng: Lăo pháp Tịnh Không

Thời gian: Ngày 5 tháng 04 năm 2010

Địa điểm: Hương Cảng Phật Đà Giáo Dục Hiệp Hội

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo chánh: Đức Phong Huệ Trang

 

Tập 19

 

Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa Lượng Thọ Kinh Giải, trang thứ mười tám, xem từ ḍng thứ ba từ dưới đếm lên.

Hựu Viên Giác kinh vân: Chư huyễn tận diệt, giác tâm bất động. Huyễn diệt diệt cố, phi huyễn bất diệt, thí như ma kính, cấu tận, minh hiện (Lại như kinh Viên Giác chép:Các huyễn tận diệt, giác tâm bất động. Sự diệt mất huyễn ấy đă bị diệt, chứ cái chẳng huyễn không bị diệt, giống như mài gương, chất hết, ánh sáng sẽ hiện). Chúng ta xem đoạn thứ nhất, đoạn này vẫn tiếp tục nghiên cứu thể tánh của kinh này, đây giảng đức Phật nói bộ kinh này đă căn cứ vào điều để nói, điều ấy được gọi thể tánh. Nếu chẳng căn cứ, kinh sẽ chẳng thể thành lập. Căn cứ vậy? Trong lần trước, chúng ta đă học tập, hết thảy các kinh Đại Thừa đều căn cứ trên Thật Tướng để nói. Thật Tướng, nói thông tục chân tướng của nhân sinh trụ. Những điều được nói [trong kinh Phật] đều chân tướng. Nếu chẳng phải chân tướng, sẽ thành vọng ngữ. Chân tướng này rất khó hiểu, chân tướng Thật Tướng tướng, Thật Tướng bất tướng (Thật Tướng tướng, Thật Tướng chẳng phải không tướng), các kinh Đại Thừa đều giảng sự thật này. đây, Hoàng lăo lại dẫn kinh văn của kinh Viên Giác để nói; do vậy, chúng ta đọc bản chú giải này, giống như đọc rất nhiều kinh luận những lời giảng giải của tổ đại đức. Đoạn kinh Viên Giác này hết sức trọng yếu! Chư huyễn tận diệt, giác tâm bất động, huyễn ǵ? Trong giáo pháp Đại Thừa nóitam tế, lục thô; tất cả hết thảy các huyễn pháp cội nguồn tam tế, lục thô. Rất khó hiện thời khoa học đă phát hiện tam tế tướng, họ bảo chúng ta: Trong trụ, chỉ ba thứ; trừ ba thứ này ra, thứ cũng chẳng có, ba thứ ấy ǵ? vật chất, năng lượng, thông tin. Những danh từ hiện đại này khác danh từ trong kinh Phật, nhưng cùng một ư nghĩa. Trong kinh Phật nói tới Nghiệp Tướng. Nghiệp Tướng của A Lại Da năng lượng, Cảnh Giới Tướng của A Lại Da vật chất, Chuyển Tướng của A Lại Da, hoặc gọi Kiến Tướng, chính thông tin. Quư vị thấy: Nói về những thứ giống nhau; nhưng các nhà khoa học chẳng thể giảng rệt như đức Phật: Những thứ ấy do đâu có? Các khoa học gia chẳng nói ràng.

      Trong Phật pháp, ba tế tướng này do đâu có? Do từ tự tánh có! Chỉ tự tánh thật , c̣n những tướng ấy đều chẳng thật. vậy, A Lại Da vọng tâm, chẳng phải chân tâm; nhưng chúng sanh trong mười pháp giới rộng răi nhiều hơn chúng sanh trong lục đạo. Phía trên lục đạo, vượt lên khỏi lục đạo, lục đạo giới hạn, thường chẳng dễ vượt thoát lục đạo luân hồi, vượt thoát lục đạo luân hồi A La Hán, [những người thể vượt thoát] được gọi A La Hán. Trên A La Hán Bích Chi Phật, trên Bích Chi Phật Bồ Tát, trên Bồ Tát Phật, chúng ta gọi họ tứ thánh pháp giới. [Những vị thuộc] bốn pháp giới này thánh nhân, họ vẫn dùng A Lại Da, [tức là] vẫn dùng vọng tâm; vậy, chưa phải Phật [trong Viên Giáo]. Thiên Thai đại gọi Phật trong mười pháp giới Tương Tự Tức Phật, chưa phải Phật thật sự, c̣n dùng vọng tâm, nhưng dùng [vọng tâm] rất chánh đáng, dùng rất thuần, thoạt nh́n dường như chân Phật, trên thực tế chưa phải. Phân biệt chân vọng như thế nào? chỗ dùng cái tâm khác nhau, Phật dùng chân tâm. Quư vị phải ghi nhớ điều này: Dùng chân tâm! Chân tâm chẳng phải ba thứ ấy (Chuyển Tướng, Nghiệp Tướng, Cảnh Giới Tướng), phải biết: Chân tâm tự tánh của Dụng. Tổ tiên bảo: Tánh con người vốn lành. Tam Tự Kinh dạy: Nhân chi sơ, tánh bổn thiện; cái tánh bổn thiện chính chân tâm, chẳng phải vọng tâm. Thiện ấy chẳng phải thiện trongthiện, ác. Nếu thiện trongthiện, ácth́ sẽ vọng tâm, phải biết điều này! Thiện đây h́nh dung từ, từ ngữ ca ngợi, [nhằm h́nh dung] không thể diễn tả được, quá tốt đẹp, quá hoàn bị, chẳng thiếu khuyết ǵ. Bổn thiện thể sanh ra vạn pháp, mới căn nguyên của trụ nhân sinh.

      Huệ Năng đại khai ngộ, khai ngộ đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, kiến tánh thấy ǵ? thấy bổn thiện. Thấy bổn thiện th́ phải diệt hết ba thứ Nghiệp Tướng, Chuyển Tướng, Cảnh Giới Tướng, ba thứ ấy chẳng c̣n, chúng vọng tâm, [vọng tâm đă chẳng c̣n th́] chân tâm mới hiện tiền. Chân tâm hiện tiền, trong chân tâm chẳng hiện tượng vật chất, cũng chẳng hiện tượng tinh thần, trong Tịnh Tông gọi tứ độ (bốn cơi Tịnh Độ), tầng tối cao Thường Tịch Quang Tịnh Độ, một bầu quang minh, trọn khắp hết thảy mọi nơi. nơi đâu? Không chỗ nào chẳng tồn tại! Không lúc nào chẳng hiện hữu. Chúng ta cũng chẳng rời khỏi Thường Tịch Quang, cũng chẳng rời khỏi tự tánh, nhưng chúng ta chẳng thấy. Chẳng rời khỏi nó, nhưng chẳng thấy! sao chẳng thấy? Năng lực của lục căn vọng, vọng chẳng thể duyên chân, vọng chỉ thể duyên vọng, chẳng duyên được chân. Vọng tâm của chúng ta rất lợi hại, thể duyên tới A Lại Da, tức Nghiệp Tướng, Chuyển Tướng, Cảnh Giới Tướng đều thể duyên được, đều thể đạt tới, nhưng chẳng thể đạt tới tự tánh. Đạt tới tự tánh th́ phải buông những thứ ấy xuống, ba thứ ấy đều buông xuống, tự tánh sẽ hiện tiền, quư vị mới ḥng thấy được!

      Buông xuống chẳng dễ dàng, nói rất dễ, nhưng sự thật rất khó. Trong kinh Đại Thừa, đức Phật nóikhởi tâm động niệmth́ khởi tâm động niệm Nghiệp Tướng, phân biệt Chuyển Tướng, chấp trước Cảnh Giới Tướng. Đối với hết thảy các pháp thế gian xuất thế gian, chúng ta đều chẳng chấp trước, quư vị sẽ chứng quả A La Hán. Trước hết, quư vị khôi phục điều ǵ? Khôi phục tâm thanh tịnh, tâm địa chẳng nhiễm mảy trần; cũng nghĩa chân tâm thấu lộ một phần. Thấu lộ một phần, lục đạo luân hồi chẳng c̣n nữa! vậy, chư vị phải hiểu: Lục đạo chẳng thật! Kinh Đại Thừa thường nói phàm những h́nh tướng đều vọng, chúng pháp sanh diệt. Quư vị thấy hết thảy động vật sanh, lăo, bệnh, tử; c̣n những thứ chân thật th́ sao? Đúng chẳng sanh, chẳng diệt. Do vậy, tôn giáo của phương Tây nói tới chân thần (Chúa thật) hơi giống, nhưng chưa đúng, vẫn c̣n cách biệt với chân tướng. Nhưng hiện thời tôn giáo của phương Tây nói tới chân thần khác với xưa kia, họ nói thần chẳng thân xác, không nơi đâu chẳng hiện hữu, họ cũng học theo cách nói này. Cách nói này hơi giống với ư nghĩa được giảng trong Phật pháp, nhưng trong ấy c̣n mê, ngộ khác biệt. Giác mới tự tánh, lúc sẽ gọi thần thức, danh từ nhà Phật gọi [chân tâm bị mê] thần thức. Người thế gian chúng ta, người phương Đông gọi [thần thức] linh hồn, người phương Tây cũng gọi linh hồn. Linh hồn Chuyển Tướng, Chuyển Tướng trong trạng thái bèn gọi Chuyển Tướng; giác ngộ th́ ba tướng ấy (Chuyển Tướng, Nghiệp Tướng, Cảnh Giới Tướng) đều chẳng có. Do vậy, đúng phàm những h́nh tướng đều vọng. Đây nói về khởi nguyên của trụ.

      Chuyển Tướng thông tin, do vậy, chuyển cảnh giới bằng cách nào? Cảnh giới tiếp nhận thông tin. Nếu chúng ta hiểu đạo này th́ hiện thời địa cầu tai nạn, chúng ta thể hóa giải tai nạn hay không? thể! Chỉ cần quư vị biết chuyển ra sao, quư vị nắm vững [cách chuyển ấy], sẽ thể chuyển cảnh giới. Chuyển cảnh giới th́ nhỏ chuyển tự thân, đối với thân tướng của chính ḿnh, đầu tiên khỏe mạnh. Làm thế nào để chẳng sanh bệnh, khỏe mạnh, trường thọ? Làm thế nào để thân thể chúng ta chẳng lăo hóa, hễ quư vị hiểu đạo sẽ liền làm được! Nói theo hiện thời, tâm thái của quư vị thanh tịnh chính tướng trường thọ, dung mạo rạng rỡ, màu da nhất định hết sức tươi tắn, chẳng dễ lăo hóa. sao? Tâm quư vị thanh tịnh. Nếu đạt tới b́nh đẳng, tức đạt lên một bậc cao hơn, tâm b́nh đẳng th́ thể nói quư vị sanh tử tự tại. Nếu tâm b́nh đẳng thật sự hiện tiền, chúng ta sống trên thế giới này hai ba trăm năm chẳng vấn đề ǵ. Đối với y học Trung Quốc, tức Trung Y, thầy tôi lăo Bỉnh Nam hết sức giỏi Trung Y, cụ bảo tôi: Cả đời cụ toa chữa bệnh cho người khác, chắc chắn chẳng lầm một ai, cụ dám nói như vậy. Cụ cũng từng làm quan ṭa. Cụ nói:Ta làm quan ṭa xử án, khiến ai bị oan uổng hay không, ta chẳng dám nói, không dám chắc, rất thể chỗ xử oan người ta, nhưng khám bệnh cho kẻ khác, chưa hề toa sai. Cụ gan nói ra lời ấy. Cụ bảo chúng tôi:Trung Y chẳng nhằm chữa bệnh. Điều thứ nhất trong Trung Y dạy con người trường sinh. Cụ nói:Đối với thọ mạng của con người, thân thể con người một cỗ máy. Nếu thể bảo dưỡng cỗ máy ấy rất khá, tối thiểu [có thể duy tŕ] hai trăm năm, hai trăm tuổi thọ mạng b́nh thường. Quư vị sống không đến hai trăm tuổi do không biết bảo dưỡng, chính ḿnh làm hỏng bản thân”. Lời ấy rất lư, mục tiêu thứ nhất của Trung Y trường sinh. Mục tiêu thứ hai pḥng ngừa bệnh tật, quư vị thật sự hiểu đạo này, thể ngăn ngừa cả đời chẳng bị bệnh. Mục tiêu thứ ba mới chữa bệnh, chữa bệnh mục tiêu thứ ba của Trung Y.

      Khi chữa bệnh c̣n thần kỳ hơn nữa. Thầy nói: Chữa bệnh th́ thầy lang bậc nhất chỉ nh́n, không cần phải hỏi, nh́n sắc tướng dung mạo, nghe âm thanh của quư vị nói, chẳng hỏi han, liền hoàn toàn liễu giải t́nh trạng thân thể của quư vị. Người ấy c̣n thể phán đoán: Hiện thời thân thể quư vị rất tốt, chẳng bệnh tật ǵ, nhưng người ấy biết mười năm sau, hoặc hai mươi năm sau, quư vị sẽ bị bệnh ǵ, bị trục trặc chỗ nào! Cụ nói: Thần kỳ! Điều này đạo lư, chẳng phải không đạo lư. Thí dụ như người thợ sửa chữa xe hơi, kinh nghiệm rất phong phú, nghe tiếng máy xe chạy, liền biết t́nh trạng cái xe. Quư vị c̣n chạy được bao nhiêu cây số nữa th́ chỗ nào đó [trong xe] sẽ bị trục trặc, người ta dân nhà nghề mà! Người ngoài nghề như chúng ta nghe không ra, nhưng người ấy thể nghe biết. vậy, Trung Y nói vọng, văn (quan sát, nghe tiếng), thứ ba bắt mạch, tức vọng, văn, vấn, thiết (quan sát, nghe tiếng nói, hỏi t́nh trạng bệnh tật, bắt mạch). Quư vị thấy hạng nhất, vừa nh́n biết, đây thầy chữa bệnh bậc nhất. Hạng hai phải hỏi, hỏi han quư vị. Hạng ba mới phải bắt mạch. Chúng tôi học những điều thường thức này từ thầy Lư, biết thầy thuốc phải bắt mạch loại thầy thuốc hạng ba. Quư vị thấy trong Trung Y, điều thứ ba mới chữa bệnh. Chữa bệnh nh́n, hỏi xong vẫn phải bắt mạch, sẽ thầy thuốc hạng ba, kể ra cũng khá lắm, nhưng hiện thời thầy lang giỏi trong loại ba này cũng chẳng dễ kiếm được!

      Chúng ta phải biết:Tâm thái chủ tể của hết thảy. Quư vị thấy vài hôm trước, Lưu Tố Vân biểu diễn đây, chính ta bị bệnh Hồng Ban Lang Sang, mắc bệnh ấy gần như chẳng cách nào chữa lành, nhưng ta hoàn toàn khôi phục, ngay cả vết sẹo cũng chẳng c̣n! Quư vị thấy ta giảng kinh, đây mỗi ngày giảng hai giờ; tôi nghe nói Thâm Quyến, mỗi ngày ta giảng tám giờ, chẳng dễ dàng! ta năm nay sáu mươi sáu tuổi, lúc năm mươi chín tuổi mắc bệnh ấy. Quư vị thấy đó! Tâm thái trị liệu, chẳng dùng thuốc. Đấy căn cứ luận trong Phật pháp, hễ tâm thái chuyển biến, các tế bào mắc bệnh trong nội tâm đều thể khôi phục b́nh thường. Nếu tâm thái chẳng tốt đẹp, quư vị thấy thầy lang Bành Hâm đă phân tích. Ông ta nói Ngũ Thườngnhân, nghĩa, lễ, trí, tín, làm được năm chữy, quư vị sẽ chẳng mắc bệnh. Bất nhân sẽ bị bệnh gan, bất nghĩa sẽ bị bệnh phổi, lễ sẽ bị bệnh tim, đều [bệnh tật] tương ứng [tâm thái]. Đây y học Trung Quốc. Y học Trung Quốc đă lịch sử hơn năm ngàn năm, làm sao quư vị thể chẳng thừa nhận? Thầy tôi tiên sinh Phương Đông Mỹ lần bảo tôi:Trung Y năm ngàn năm lịch sử, Tây Y mới ba trăm năm. Trong Đệ Nhị Thế Chiến đă may mắn phát minh chất kháng sinh (antibiotics). Nếu chẳng phát minh chất kháng sinh, sẽ chẳng Tây Y. Thầy hỏi tôi:Anh tin vào ba trăm năm, hay tin năm ngàn năm?Năm ngàn năm chịu đựng sự khảo nghiệm của thời gian con người, đă định h́nh. Quư vị chẳng thể không bội phục trí huệ của tổ tiên, họ chứng đắc Thật Tướng của các pháp như trong kinh điển đă nói. Những thứ được giảng trong kinh giống như vậy, đức Phật nói ai thể thấy chứng thực? Từ Bát Địa trở lên. Bồ Tát các tầng cấp: Bát Địa, Cửu Địa, Thập Địa, Thập Nhất Địa Đẳng Giác, Thập Nhị Địa Phật, năm tầng cấp này đều hiểu ràng, rành rẽ. Từ Thất Địa trở xuống đều chưa chứng đắc. Chưa chứng đắc th́ chỉ nên nghe lời thầy, nỗ lực nâng cao linh tánh của chính ḿnh, nâng lên tới Bát Địa, quư vị sẽ chứng đắc.

      Các huyễn diệt sạch như vừa mới nói tam tế tướng lục thô tướng. Từ tam tế biến thành lục thô; tam tế tướng quá vi tế, chẳng dễ nhận biết. Do vậy, khoa học hiện thời thể nói tới năng lượng, vật chất thông tin, chúng ta không thể chẳng bội phục họ, hết sức hiếm có! Khoa học vẫn cần tiến cao hơn, chúng ta cũng mong các khoa học gia thể minh tâm kiến tánh, nhưng minh tâm kiến tánh th́ phải buông khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước xuống. Nếu vẫn dùng những tâm ấy, tức dùng vọng tâm, vọng tâm chỉ thể đạt tới A Lại Da cùng, họ chẳng cách nào đột phá. vậy, chư huyễn tận diệt, công phu học Phật dùng chỗ này! Trước hết, công phu ấy thứ tự cũng khó, dễ, đầu tiên từ chấp trước, quyết định chớ nên chấp trước. Hễ chấp trước, sẽ chẳng thể đột phá cửa ải đầu tiên lục đạo. Lục đạo cũng chẳng thật, chỉ cần buông chấp trước xuống, chẳng chấp trước hết thảy các pháp thế gian lẫn xuất thế gian. Chẳng chấp trước th́ chúng ta thường nói: Phải thực hiện từ nơi đâu? Thực hiện bằng cách buông đối lập xuống, tôi thường khuyên lơn đồng học chuyện này, chúng ta thực hiện từ chỗ này: Quyết định chẳng đối lập với người khác. Hắn đối lập với ta, ta chẳng đối lập với hắn. Nếu ta đối lập với hắn th́ quư vị sẽ khó đi được một tấc nào trong Phật pháp. Chẳng đối lập hết thảy sự, chẳng đối lập hết thảy vạn vật, tâm lượng quư vị sẽ mở rộng, thể bao dung, đó bước đầu! Đầu tiên phải buông xuống, đối với hết thảy các pháp thế gian xuất thế gian, chớ nên ư niệm khống chế hay chiếm hữu. Nếu quư vị ư niệm khống chế hay chiếm hữu, đó căn bản của tất cả hết thảy phiền năo. Phải dốc sức nơi đây th́ mới thể đạt được cái tâm thanh tịnh, tâm thanh tịnh mới hiện tiền. Tâm thanh tịnh hiện tiền sẽ cùng sung sướng, đó pháp hỷ sung măn. Quư vị thấy câu đầu tiên trong Luận Ngữ, Khổng Tử nói: Học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ (học rồi thường tu tập, cũng chẳng sướng sao), quư vị hoàn toàn thực hiện những điều đă học trong cuộc sống, trong công việc, trong xử sự đăi người tiếp vật, trong tâm hỷ duyệt, sự hỷ duyệt ấy chẳng do ngũ dục lục trần bên ngoài kích thích, sự hỷ duyệt từ trong nội tâm lưu xuất ra ngoài. Phật pháp cũng giống như thế, quư vị thể thật sự buông tập khí phiền năo xuống, tâm sẽ tự tại lắm, thanh tịnh lắm!

      vậy, trước hết tu tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh đă đạt được, lục đạo chẳng c̣n nữa, vượt thoát lục đạo, thành A La Hán quả. Tiến thêm một bước nữa, buông phân biệt xuống; không chỉ chẳng chấp trước, ngay cả phân biệt cũng chẳng có, [cảnh giới] sẽ nâng cao lên thành Bồ Tát. Cuối cùng, chẳng khởi tâm, chẳng động niệm th́ gọi thành Phật. vậy, Phật, Bồ Tát, A La Hán danh xưng của ba tầng lớp tu hành trong nhà Phật, giống như danh xưng ba học vị trong nhà trường hiện thời: Cao nhất trong học đường hiện thời Tiến Sĩ, kế đó Thạc (Cao Học, Master), rồi Học (Cử Nhân, Bachelor). A La Hán Học Sĩ, Bồ Tát Thạc Sĩ, Phật Tiến Sĩ, đấy danh xưng học vị, chẳng thể lẫn lộn được! Ngày nay, Phật giáo biến thành tôn giáo chính tội lỗi của chúng ta, do tội lỗi của đệ tử Phật, lẽ nào Phật giáo bị lẫn lộn với tôn giáo! Thích Ca Mâu Ni Phật suốt đời dạy học, quư vị hăy xem kỹ, Ngài chẳng dính dáng với tôn giáo, nhưng nay Phật giáo thật sự biến thành tôn giáo, quư vị lại chẳng thể không thừa nhận tôn giáo. Chúng ta đă lỗi với thầy! Thích Ca Mâu Ni Phật mang thân phận, chức nghiệp của một vị thầy, giống như Khổng Tử, Khổng Tử giáo học chỉ được năm năm, Thích Ca Mâu Ni Phật dạy học suốt đời, bốn mươi chín năm, ba mươi tuổi đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, bắt đầu dạy học, nhập diệt năm bảy mươi chín tuổi, giảng kinh, giáo học suốt bốn mươi chín năm. Ngài dạy chúng ta: Tất cả vấn đề thế gian xuất thế gian, dùng phương pháp để giải quyết? Dùng giáo dục! Chỉ cần quư vị dạy người ta giác ngộ, giúp họ phá khai ngộ; hễ họ khai ngộ, sẽ thể giải quyết vấn đề. Trí huệ thể giải quyết vấn đề, nhưng tri thức không thể. Tri thức giải quyết vấn đề giới hạn, c̣n để lại hậu quả, trí huệ chẳng vậy, trí huệ chẳng ngằn mé, chắc chắn chẳng để lại hậu quả!

      Đại Thừa Phật pháp trí huệ viên măn, trí huệ do đâu có? Sẵn trong tự tánh, đó giác tánh. Giác tâm bất động, giác tánh trí huệ, cái quư vị vốn sẵn có, giác tánh ǵ? Kiến văn giác tri (thấy, nghe, hay, biết), chẳng sanh, chẳng diệt. Lúc Huệ Năng đại kiến tánh đă báo cáo rất đơn giản, hai mươi chữ, quả thật vốn tự thanh tịnh. Tâm quư vị ô nhiễm hay không? Chẳng có! Dẫu tạo tác ác nghiệp, đọa vào A Tỳ địa ngục vẫn chẳng ô nhiễm. Nếu bị ô nhiễm, sẽ chẳng gọi chân tâm, vọng. vậy, ô nhiễm ǵ? Ô nhiễm A Lại Da bị ô nhiễm. Tôi vừa mới nói tới Nghiệp Tướng, Cảnh Giới Tướng, Chuyển Tướng, những thứ ấy bị ô nhiễm, nhưng tự tánh chẳng ô nhiễm, tự tánh mới con người chân thật của chính ḿnh. Đại Thừa Phật giáo thường gọi phụ mẫu vị sanh tiền bổn lai mục (diện mạo sẵn trước khi được cha mẹ sanh ra); nhưng liền biến thành A Lại Da, giác ngộ th́ A Lại Da chẳng có, kiến văn giác tri hiện tiền. Kiến văn giác tri trọn khắp pháp giới không giới, toàn bộ không pháp giới một sanh mạng chung một cái Thể, đấy luân theo quan điểm nhà Phật. Luân nói về quan hệ. Chúng ta sống trong thế gian này, nói tới Ngũ Luân, tức quan hệ cha con, quan hệ anh em, quan hệ vua tôi, quan hệ bạn, nói tới những mối quan hệ này. Nhưng Phật gia nói tới luân lư, bèn nói tột cùng viên măn, sao? Cả không pháp giới cùng chính ḿnh một Thể, chẳng phải một nhà, một Thể, một sanh mạng cùng một Thể! vậy, ḷng yêu thương chẳng phạm vi, chẳng điều kiện, được gọi Duyên Đại Từ. Nói theo hiện thời, duyên điều kiện, [vô duyên] chẳng điều kiện. Đồng Thể Đại Bi: Thương xót chúng sanh cùng một Thể [với chính ḿnh], trên thân ta chỗ nào đau ngứa, ta rất quan tâm tới chỗ ấy, đồng thể mà! Đại Thừa Phật pháp thấy trọn khắp pháp giới không giới cùng một Thể với chính ḿnh, điều này quá khó! Nay chúng ta sao chẳng thể khế nhập cảnh giới? chúng ta Ngă, ta người khác vạch giới tuyến, chẳng biết tự tha chẳng hai, tự tha một, chẳng biết đạo này!

      vậy, trong Phật pháp, trước hết phải phá Thân Kiến, chẳng c̣n chấp trước cái thân này Ngă. Thân này ǵ? Thân sanh diệt, Ngă chẳng sanh diệt, Ngă giác tánh, giác tánh chẳng sanh diệt, kiến văn giác tri giác tánh. Trong hội Lăng Nghiêm, Thích Ca Mâu Ni Phật đă bàn vấn đề này với vua Ba Nặc. Vua Ba Nặc lo ngại, tuổi đă già rồi, lúc ấy, vua sáu mươi hai tuổi, bằng tuổi Thích Ca Mâu Ni Phật, dần dần già rồi sẽ phải bệnh chết, lo sầu chuyện này. Thích Ca Mâu Ni Phật liền hỏi nhà vua, nhằm dạy bảo vua, gọi vua đại vương vua quốc vương, hỏi vua:Đại vương thấy nước sông Hằng lúc mấy tuổi?Vua thưa:Ba tuổi. Mẹ dẫn vua đến một nơi cũng một thần miếu (miếu thờ thần), lúc tới chiêm bái thần miếu, đi trên bờ sông Hằng hà, biết đó ḍng sông Hằng, nh́n thấy sông. Đức Phật nói:Lúc đại vương mười ba tuổi, mười năm sau đó, đại vương cảm thấy thân thể già hơn lúc ba tuổi rất nhiều, bị lăo hóa hay chăng!” “Đúng vậy. Khi hai mươi ba tuổi, lại già hơn lúc mười ba tuổi mười năm, năm nay sáu mươi hai tuổi, thân thể biến hóa không ngừng. Đức Phật hỏi nhà vua:Cái thấy của đại vương đối với nước sông Hằng biến hóa hay chăng?” “Ba tuổi ta thấy nước sông Hằng, mười ba tuổi ta cũng thấy, lúc hai mươi ba tuổi ta cũng trông thấy.Tới sáu mươi hai tuổi, đại vương cũng thấy, cái thấy của đại vương biến hóa hay chăng?Vua thưa:Chẳng biến hóa. Đức Phật bèn nói:Chẳng biến hóa bất sanh, bất diệt. Bị biến hóa cái thân giả của đại vương. Cái thân giả của đại vương sanh tử, c̣n cái chẳng sanh chẳng diệt sẽ chẳng sanh tử. Vua Ba Nặc do vậy giác ngộ, rất vui vẻ, vốn thân đă chết, nhưng linh tánh của ta trọn chẳng thật sự chết!

      Thân ǵ? Thân chẳng phải Ngă, thân sở hữu của Ngă, công cụ, giống như y phục, quần áo của ta, thân để ta sử dụng, dùng vài chục năm chẳng c̣n thuận tiện sử dụng nữa bèn thay bộ khác, thay đổi thân thể; nhưng trong đây hay ngộ. Lúc gọi linh hồn, lúc ngộ gọi linh tánh. Lúc mê, phạm vi hoạt động của linh hồn lục đạo, không thoát ĺa lục đạo luân hồi. T́nh h́nh trong lục đạo đă được con người phát hiện rất sớm, cần biết hơn một vạn năm trước, điều này đă được các tôn giáo học phái xa xưa của Ấn Độ nhận biết. Lịch sử của họ lâu hơn chúng ta! Tôi qua lại với họ, các trưởng lăo Ấn Độ bảo tôi: Tôn giáo của họ tương truyền đă lâu hơn một vạn năm, chúng ta thể tin tưởng [chuyện này]. Người Ấn Độ không chú trọng lịch sử, chẳng giống người Trung Quốc đời đời truyền thừa; nhưng hiện tại cả thế giới thừa nhận họ (người Ấn Độ) tám ngàn năm trăm năm [lịch sử], cũng sớm hơn Phật giáo năm ngàn năm, trên thực tế không phải chỉ vậy! Thích Ca Mâu Ni Phật đă học những thứ của họ, điểm đặc sắc nhất trong sự tu học của họ Tứ Thiền Bát Định, kinh Phật nói Tứ Thiền Bát Định La Môn giáo. Nếu tu môn Định này thành công, trong Định thể đột phá các chiều không gian, cũng nghĩa là: Quư vị nhập Định này, trong Định, quư vị đi lên, sẽ thấy hai mươi tám tầng trời, đi xuống, thể thấy địa ngục. Chỉ cần quư vị tu Định này, đều thể thấy được. Tầng lớp sâu cạn khác biệt trong Định này, nói chung gồm bốn thứ: Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền; Bát Định tầng cao nhất, tức nói đến Sắc Giới Thiên. Tứ Thiền thấy tới Sắc Giới Thiên; đạt đến Đệ Bát Định, sẽ thấy Sắc Giới Thiên, hai mươi tám tầng trời đều trông thấy. A La Hán chẳng phải chỉ như vậy, A La Hán tu Cửu Thứ Đệ Định, đột phá lục đạo luân hồi, đạt tới một thế giới khác. Quư vị chân tu, sẽ thật sự thấy, chẳng giả nào, nhưng đức Phật nói đấy vẫn chưa phải rốt ráo, rốt ráo th́ c̣n phải tiến lên cao hơn nữa. Quư vị thấy: A La Hán vẫn chưa thấy A Lại Da; Bồ Tát cũng chẳng thấy, Phật trong mười pháp giới vẫn chưa thấy! Phải buông khởi tâm động niệm xuống, cái tâm ấy thật sự định, Định ǵ? Đó chân tâm. Chân tâm vốn bất động, quư vị thấy Huệ Năng đại nói: kỳ tự tánh, bổn dao động (nào ngờ tự tánh, vốn không lay động), trước nay chưa hề động! Bất động chân tâm, bị động vọng tâm, vọng tâm ư niệm, khởi tâm động niệm! Niệm tịnh, nhiễm; tịnh bèn ra khỏi lục đạo luân hồi, nhiễm sẽ chẳng thoát khỏi lục đạo luân hồi. Trong nhiễm thiện, ác; thiện niệm cảm ba thiện đạo, ác niệm cảm ba ác đạo. Trong nhiễm thiện, ác; trong tịnh chẳng thiện, ác. Đó tứ thánh pháp giới, vẫn chưa phải chân. Chân th́ sao? Nhiễm, tịnh, thiện, ác, thảy đều chẳng có, đó chân, bèn vượt thoát mười pháp giới.

      Chư huyễn tận diệt, giác tâm bất động, kiến văn giác tri sẵn trong tự tánh bèn hiện tiền, chúng bất động, kiến văn giác tri bất động. Lúc biến thành A Lại Da Thức; trong A Lại Da Thức, kiến văn giác tri biến thành Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Thọ quư vị cảm nhận, tức cảm nhậnkhổ, lạc, ưu, hỷ, xả. Tưởng quư vị suy nghĩ. Hành ư niệm chẳng trụ, niệm trước vừa diệt, niệm sau bèn sanh, đó Hành. Nay chúng ta nói một cách rất dễ hiểu th́ Thức ức, những quư vị đă từng trải qua đều thể ghi nhớ, đó tác dụng của Thức. Hôm qua, tôi nghe một đồng học cho biết: Họ thấy trên Internet, đại khái Mỹ, một số khoa học gia trong khi nghiên cứu, đă phát hiện nước ức. Thí nghiệm của tiến Giang Bổn Thắng cho chúng ta biết: Nước thể nghe, thấy, hiểu ư nghĩ của con người. Họ c̣n tiến hơn bước nữa phát hiện nước c̣n ức. Đây khoáng vật, trong kinh Phật đă sớm nói đến rồi! Kinh Phật dạy chúng ta: Tâm vật cùng một Thể, vĩnh viễn chẳng tách rời. Trong vật tâm, trong tâm vật. Bất luận vật chất đều Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Sau khi tiến Giang Bổn Thắng làm thí nghiệm này thành công, một đồng học phát hiện [tin ấy] trên Internet, in ra thành bốn trang đưa cho tôi xem. Sau khi tôi xem xong, cùng vui vẻ, khoa học gia đă chứng tỏ tất cả hết thảy hiện tượng vật chất đều năng lực ấy, đó bản năng (năng lực sẵn có). Nước Thọ, Tưởng, Hành, Thức, bùn đất hay không? Đương nhiên có! Đá hay không? Đương nhiên có. Một hạt cát, một hạt bụi cũng có, theo Phật pháp nói, một cọng lông, một sợi lông cũng trọn đủ [các năng lực ấy]. Thoạt nghe th́ rất thần kỳ, nhưng sự thật.

      Chúng ta thấy cuộc đối đáp giữa Thích Ca Mâu Ni Phật Di Lặc Bồ Tát, cuộc đối đáp ấy khoa học cao cấp. Thuở ấy, thầy Phương giới thiệu Phật giáo với tôi, đă nói Phật giáo triết học cao cấp. Tôi hiểu, tôi cũng phát hiện Phật giáo khoa học bậc cao. Nhỏ như vi trần, khoa học hiện thời gọi vi trần nguyên tử, điện tử, lạp tử, hạt bản khoa-khắc (quark), nhục nhăn chẳng thấy được; đó vật chất; trong các vật chất như vậy cũng Thọ, Tưởng, Hành, Thức. vậy, chúng sanh mạng, chúng sống động. Theo như Phật pháp giảng, cả trụ một thể hữu (organism), chẳng phải chết cứng, sống động. Chứng minh bằng cách nào? Dùng phương pháp Thiền Định để chứng minh. Không giống như khoa học, khoa học dùng các máy móc, máy móc đôi khi c̣n lầm lẫn, sai lệch; Thiền Định chẳng sai lạc. Từ trong Thiền Định rất sâu, đột phá từng tầng chướng ngại, quư vị sẽ thấy được. Người đời c̣n một phương pháp, nhưng rất hữu hạn, chỉ thể chứng minh chuyện này thể xảy ra, chẳng giả, đó thuật thôi miên rất thịnh hành phương Tây trong ṿng nửa thế kỷ trở lại đây! Trong lúc được thôi miên rất sâu, quư vị thể trở lại đời quá khứ, thậm chí trở lại nhiều đời trong quá khứ. Tôi đọc báo cáo của bác Ngụy (Brian L. Weiss) nước Mỹ, đă một người được thôi miên đă quay lại gần như mấy chục đời, không chỉ mấy chục đời, gần như bảy tám mươi đời, tức hơn bốn ngàn năm trước! Hoàn cảnh lúc ấy c̣n sống trong hang động, con người chưa biết trong nhà cửa, sống trong hang động. Người ấy thể nói ra t́nh trạng sống lúc ấy, tuyệt đối chẳng phải bịa đặt. vậy, từ thôi miên thể chứng thực. Thiền Định chứng thực con người thật sự thể trở lại quá khứ, cũng thật sự thể thấy được vị lai. sao? Thời gian không gian giả. Đại Thừa Phật pháp dạy chúng ta: Chẳng thời gian. Chẳng thời gian, sẽ chẳng trước sau; chẳng không gian, sẽ chẳng khoảng cách. Tây Phương Cực Lạc thế giới cách chúng ta mười vạn ức cơi Phật; nếu không gian bị đột phá, thế giới Cực Lạc đâu? Thế giới Cực Lạc ngay nơi đây. Các nhà khoa học đă thừa nhận thời gian không gian chẳng thật, nhưng dùng phương pháp để đột phá họ không biết! Các chiều không gian (không gian duy thứ: Spatial dimensions) do đâu chúng ta đều biết, kinh Phật đă giảng rất ràng chúng do đâu có? Từ vọng tưởng, chấp trước ra! Quư vị chẳng vọng tưởng, chấp trước, các chiều không gian sẽ chẳng c̣n nữa! Đều phải tu Định, phải tu tâm thanh tịnh, phải tu tâm b́nh đẳng; thanh tịnh thể đột phá lục đạo, b́nh đẳng thể đột phá mười pháp giới, giác tâm thể đột phá toàn thể trụ, ba tầng lớp như vậy. Phải công phu như thế nào? Buông xuống! Quư vị chẳng buông xuống sẽ chẳng được, phải thật sự buông xuống!

      vậy, tôi rất cảm tạ thầy tôi. Người xuất gia tôi gặp mặt đầu tiên Chương Gia đại sư, tôi hướng về Ngài thỉnh giáo, tôi nói: Thầy Phương giới thiệu Phật pháp cho tôi, tôi biết [Phật pháp] đúng một môn đại học vấn, phương pháp để thể khế nhập cảnh giới hay chăng? Tôi nêu câu hỏi như thế, nêu câu hỏi xong, lăo nhân gia không trả lời tôi. Ngài nh́n tôi, tôi cũng nh́n Ngài, chúng tôi trong căn pḥng khách nhỏ ấy nh́n nhau nửa giờ. Tôi đợi nửa giờ, đợi đến khi Ngài nói một chữ:. Có! Tinh thần chúng tôi phấn chấn, chú ư nghe, Ngài lại chẳng nói năng ǵ, lại đợi sáu, bảy phút, Ngài mới lại nói: Thấy thấu suốt, buông xuống. Mấy chục năm sau, tôi mới nghĩ ra: Khi ấy, lẽ nào Ngài nh́n tôi nửa giờ chẳng nói ǵ? Tôi tuổi trẻ, bộp chộp, nóng vội, nhất định phải đợi cho tâm t́nh lắng xuống, vọng niệm chẳng c̣n, lúc ấy nói với quư vị th́ mới ích, quư vị mới thật sự nghe lọt. Nói một chữ Có, tâm chúng tôi lại xáo động, lại chuyển động, không được rồi, vẫn phải chờ cho tâm t́nh lắng xuống. Nay tôi nh́n vào nhiều trường học, ấn tượng sâu nhất khi tôi Luân Đôn, đến thăm trường đại học Kiếm Kiều (Cambridge) tại Luân Đôn, tôi thấy sinh viên đấy kể ra c̣n khá, tốt hơn những trường khác, vẫn chẳng khác lắm so với lúc tôi trẻ tuổi. Gặp Chương Gia đại sư, Ngài chẳng nói ǵ, cứ trừng mắt nh́n, khi nào quư vị thể định được tâm thái bồng bột, Ngài mới nói với quư vị. Từ điểm này, chúng tôi hiểu được sự giáo học của cổ nhân. Bởi lẽ, thời cổ, trẻ nhỏ được bồi dưỡng sự ổn trọng từ nhỏ, nhất cử, nhất động đều giống như một người trưởng thành thu nhỏ, nên thể tiếp nhận [giáo dục đạo đức]. C̣n như những trẻ nhỏ của phương Tây, chẳng cách nào tiếp nhận, tiếp nhận khoa học kỹ thuật th́ được, chứ chúng chẳng năng lực tiếp nhận loại học vấn như của Trung Quốc. vậy, học cũng đều cần tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh, tâm b́nh đẳng, thật sự sở để học theo cổ thánh tiên hiền. Thiếu sở này, chúng ta chỉ nghe những kiến thức thông thường bề ngoài, chẳng cách nào khế nhập cảnh giới!

      Trong đoạn tiếp theo, vẫn điều được nói trong kinh Viên Giác: Huyễn diệt diệt cố, phi huyễn bất diệt (cái huyễn diệt bị diệt, nhưng cái chẳng huyễn bất diệt). Huyễn giả, chẳng thật, quư vị chẳng thể nói chẳng tướng, nay tất cả các hiện tượng đều hiện tiền, làm sao quư vị thể nóikhông tướng? Tuy hiện tượng hiện tiền, chẳng thể nói có, sao chẳng thể nói có? Tướng ấy huyễn tướng, thật vậy, giống như những tấm phim trong máy chiếu phim. Chúng ta coi phim, phim hiện thời dùng kỹ thuật hóa (digitalized), chẳng dễ thấy được [chúng huyễn tướng]! Trước đây, điện ảnh dùng phim nhựa. đây, tôi vẫn vài cuộn phim, phim xi-nê. Đây cuốn phim nhựa, đây máy chiếu; quư vị thấy mỗi tấm ảnh trong cuộn phim một tướng cảnh giới, một huyễn tướng. Ống kính của máy chiếu phim mở ra, tấm phim này được chiếu lên màn bạc; ống kính đóng lại, lại đổi sang tấm phim thứ hai, tấm phim thứ nhất chẳng c̣n, lại đổi sang tấm phim thứ ba, [tấm phim thứ hai chẳng c̣n]. thay đổi nhanh chóng, trong một giây thay đổi hai mươi bốn tấm, chúng ta bèn bị gạt, chúng ta coi phim giống như bị hoặc, dường như thật, thật ra tốc độ một phần hai mươi bốn phần giây. Hiện tượng trong trụ hiện tại của chúng ta nhanh hơn tướng được hiện trên màn ảnh bao nhiêu? Phật hỏi Di Lặc Bồ Tát, thật ra, hai Ngài một hỏi một đáp cho chúng ta nghe, song tấu cho chúng ta nghe ḥng giác ngộ. Phật hỏi, Di Lặc Bồ Tát đáp. Đức Phật nói tâm niệm, đây nói về những kẻ b́nh phàm giống như chúng ta trong tâm khởi lên ư niệm, trong một niệm bao nhiêu tế niệm? mấy niệm? Đó ư niệm cùng vi tế, giống như chúng ta trong một giây nh́n các h́nh ảnh hiện trên màn bạc, h́nh ảnh trong phim, thấy một giây hai mươi bốn niệm, hai mươi bốn niệm sanh diệt, chúng ta coi mỗi niệm một giây; c̣n Di Lặc Bồ Tát nói tới một cái khảy ngón tay, một cái khảy ngón tay chưa đầy một giây! Nếu chúng ta khảy nhanh, trong một giây thể khảy bốn lần. Khảy nhanh hơn sẽ thể khảy năm lần. Ngài nói một cái khảy ngón tay ba mươi hai ức trăm ngàn niệm, trăm ngàn mười vạn, ba mươi hai ức nhân với mười vạn, trong một cái khảy ngón tay bao nhiêu niệm? Ba mươi hai ức nhân với mười vạn ba trăm hai mươi triệu, chúng ta làm sao thể biết giả được! Nếu một giây chúng ta khảy năm lần, trong một giây bao nhiêu tế niệm? Một ngàn sáu trăm triệu! Trên màn bạc điện ảnh, một giây mới hai mươi bốn lần, hai mươi bốn niệm sanh diệt, c̣n hoàn cảnh hiện thực trong một giây một ngàn sáu trăm triệu, ai thể thấy được? Trong kinh, đức Phật nói: Bát Địa Bồ Tát! Bát Địa Bồ Tát do cái tâm [thanh tịnh, không chấp trước] công phu định lực thể nh́n thấy một giây một ngàn sáu trăm triệu niệm vi tế như vậy, Ngài thể nhận biết. Từ Bát Địa trở lên Cửu Địa Bồ Tát, Thập Địa, Đẳng Giác Bồ Tát, Diệu Giác, những vị thuộc năm địa vị này thấy ràng; đấy thấy được căn nguyên duyên khởi trụ. Dụng cụ khoa học chẳng cách nào, làm không được, [căn nguyên ấy] quá vi tế. Những công cụ của các nhà khoa học thể thấy được [ba tế tướng của] A Lại Da th́ kể ra là đă khá lắm rồi, c̣n niệm này tột bậc vi tế, [mong thấy được nó] quá khó khăn!

      Chúng ta tưởng thế giới này thật, do đức Phật dạy như vậy, chúng ta mới biết thế giới này luôn được tạo thành trong mỗi niệm, do những niệm cực kỳ vi tế tụ tập nên mới thành tựu. Do vậy, tướng chẳng thật, chúng huyễn tướng, giống như nay chúng ta đang xem TV, TV hiện thời dùng kỹ thuật hóa, nhanh hơn tốc độ của điện ảnh, quư vị càng thấy rất thật. Quư vị hiểu toàn thể hiện tượng trong trụ rất giống với chuyện [chiếu phim] này, chẳng thể nói giả, nhưng cũng chẳng thể nói thật. Nếu quư vị nói thật th́ niệm niệm chẳng tồn tại, niệm trước chẳng phải niệm sau. Trong lúc giảng kinh, chúng tôi thường dùng chữ tương tự tương tục tướng (tướng gần giống như liên tục) để chỉ tướng này. Tướng trước tướng sau tuyệt đối khác nhau, nhưng rất gần gũi, rất tương tự, chẳng hoàn toàn tương đồng, mỗi tấm phim khác biệt, chúng ta phải hiểu đạo này. Hoàn toàn khống chế ư niệm th́ ư niệm của quư vị càng thanh tịnh. Nói cách khác, biến hóa, từng tấm phim đều biến hóa, nhưng mức độ biến hóa rất nhỏ. Nếu tâm quư vị bộp chộp, nóng nảy, phiền năo tập khí rất nặng, sự biến hóa này cũng rất lớn. [Biến hóa] rất lớn th́ thí dụ như chúng ta suy lăo nhanh chóng, [biến hóa] rất chậm th́ chúng ta cũng già rất chậm. Đạo chỗ này, đạo lư! Sau khi quư vị liễu giải Phật pháp, nh́n lại thấy Trung Y đúng rất phi phàm, thật sự lư, kinh Phật đă giảng thấu triệt. vậy, chúng ta thể khống chế chính ḿnh, chúng ta làm thế nào để chẳng mắc bệnh, hoàn toàn khống chế từ tâm thái, tâm lượng phải lớn, nhất định phải tâm từ bi, nhất định chớ nên ḷng oán hận. Oán, hận, phiền năo, tức giận, phiền muộn, đều duyên gây nhiễm bệnh, nhân tham, sân, si, mạn, nghi. Tham, sân, si, mạn, nghi nguyên nhân gây bệnh; oán, hận, phiền năo, tức giận, phiền muộn nguồn gốc gây bệnh. Nhân duyên kết hợp, các tế bào sẽ sanh ra virus, sẽ biến thành virus. Quư vị hiểu đạo này, chỗ nào bệnh, quư vị liền giữ cho tâm địa thanh tịnh, nghĩ đến những điều tích cực! Chúng ta học kinh này, học Đại Thừa, ta liền khởi lên mười chữ Bồ Đề tâm, quư vị nghĩ tới chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác, từ bi, nghĩ tới những điều này. Các tế bào bị nhiễm virus sẽ khôi phục b́nh thường. Chúng phục tùng ư niệm của quư vị. Nếu người khác làm thiện sự, tụng kinh hồi hướng cho quư vị th́ cũng lợi đôi chút, chẳng nhiều lắm, không lớn, chính ḿnh vừa chuyển ư niệm sẽ sức mạnh to lớn. Người khác gia tŕ quư vị chẳng phải dụng, hữu dụng! Cũng ích đôi chút, nhưng hiệu quả chẳng trực tiếp như vậy. Nếu ư niệm thật sự xoay chuyển, hồi tâm hướng thiện, sẽ chuyển rất nhanh!

      Chúng ta hiểu đạo này: Huyễn diệt diệt cố, phi huyễn bất diệt. Phi huyễn giác tánh; vậy, b́nh thường, chỉ cần trừ khử những thứ vọng, sẽ khôi phục b́nh thường, vốn b́nh thường, vốn khỏe mạnh. Như thầy đă bảo tôi: Con người vốn thể sống thọ tới hai, ba trăm tuổi, sống hai ba trăm tuổi cũng chẳng hiếm lạ nào! Quan trọng nhất tâm thái phải b́nh thường, chớ nên tạp niệm, chớ nên phiền năo. Trong hội này, cái được gọichuyện chẳng như ưthường chiếm đến tám chín phần, đều nguyên nhân. Người này hủy báng ta, ta nhận lănh, chớ nên ghim trong ḷng, hăy cảm tạ kẻ đó! sao cảm tạ hắn? Cũng giống như kẻ đó đến khảo nghiệm công phu của ta, coi ta thể nhẫn hay không? Ta chịu đựng được th́ đạt, ta vượt được cái ải này, chẳng ghim trong ḷng, cảm tạ hắn. Hắn tổn hại ta, lăng nhục ta, đều khảo nghiệm, khảo nghiệm bằng nghịch cảnh; c̣n thuận khảo th́ làm cho quư vị vui sướng. Nếu quư vị đang bị thuận khảo th́ sẽ thuận cảnh thiện duyên, trong t́nh h́nh ấy, hết thảy đều rất thuận lợi, nếu quư vị khởi lên tham luyến, sanh tâm hoan hỷ, cũng trật rồi! sao? Thất t́nh ngũ dục phiền năo. Trong thuận cảnh chẳng tham luyến, trong nghịch cảnh chẳng oán hận, vĩnh viễn giữ ǵn tâm địa thanh tịnh, b́nh đẳng, khi ấy mới gọi huyễn diệt diệt tận. Liễu giải chân tướng thấy thấu suốt. Liễu giải chân tướng phàm những h́nh tướng đều vọng như kinh Kim Cang đă dạy: Hết thảy các pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng. Pháp hữu vi ǵ? Hữu vi sanh, diệt. Quư vị thấy pháp nào chẳng sanh diệt, động vật sanh, lăo, bệnh, tử, thực vật sanh, trụ, dị, diệt, khoáng vật, núi, sông, đại địa thành, trụ, hoại, không, chẳng một thứ nào không sanh diệt. Đă sanh diệt th́ quư vị biết những hiện tượng ấy do đâu có? Hiện tượng tụ tập trong từng sát-na. Di Lặc Bồ Tát nói: Trong một khảy ngón tay ba mươi hai ức trăm ngàn niệm, khởi lên như vậy. Niệm niệm đều bất khả đắc; vậy, quư vị thể hưởng thụ hết thảy tướng cảnh giới, nhưng đừng chấp trước, chớ nên chiếm hữu, chẳng thể chiếm hữu được! Ngay cả thân thể cũng chẳng thể chiếm hữu. Nếu ta thể chiếm hữu thân thể, ta sẽ mười tám tuổi măi măi, tốt hơn nhiều! Vĩnh viễn chẳng già ta đă chiếm hữu. Quư vị chẳng chiếm hữu được, nên biến hóa trong từng sát-na. Tất cả hiện tượng đều huyễn hóa, kể cả cơi Thật Báo Trang Nghiêm của chư Phật Như Lai như đức Phật đă giảng trong kinh. Cơi Thật Báo Trang Nghiêm biến hóa hết sức chậm răi. Do vậy, chúng ta đọc kinh Lượng Thọ, thấy kinh miêu tả t́nh trạng trong thế giới Cực Lạc: Người trong thế giới Cực Lạc trường sinh bất lăo, chẳng bị bệnh, không sanh bệnh, cũng chẳng bị già yếu. Hoa trong thế giới Cực Lạc vĩnh viễn chẳng tàn. Do nguyên nhân ǵ? Do người sống trong cơi ấy trong tâm chẳng phân biệt, chấp trước. sao c̣n hiện tượng? Do họ khởi tâm động niệm. Khi chẳng phân biệt, chấp trước, sự biến hóa trở nên cùng chậm răi, dẫu thời gian lâu đến đâu đi nữa, họ vĩnh viễn trẻ trung do đạo này. Nếu chúng ta hiểu, sẽ buông tập khí phiền năo xuống, tốc độ già yếu trong thế gian này sẽ chậm lại, do đạo như vậy!

      Tôi học Phật, cảm kích thầy đă truyền dạy tôi hăy thấy thấu suốt, buông xuống. Ngày đầu tiên gặp mặt, câu đầu tiên thầy dạy tôi, thật chẳng dễ dàng, đă nói cho tôi biết một mật của Phật pháp. Chúng tôi mới biết từ Phát Tâm cho tới địa vị Như Lai là như vậy, thấy thấu suốt, buông xuống; buông xuống, thấy thấu suốt. Lúc quư vị điều cũng buông hết xuống, ngay cả buông xuống cũng chẳng có, cũng buông xuống luôn, chúc mừng quư vị, quư vị đă thành Phật, trở về Thường Tịch Quang. Tập khí chưa đoạn sẽ cơi Thật Báo Trang Nghiêm, như tôi vừa mới nói, trong cơi ấy vĩnh hằng bất diệt, hoa vĩnh viễn tươi mới, chẳng héo hon, rơi rụng, con người vĩnh viễn trẻ trung, chẳng già yếu. Thật sự đạo lư, những đạo ấy chúng ta đều thể dùng được, lúc dùng sẽ thật sự hữu hiệu. Thầy tu hành thật sự công phu, chẳng giả. Thưa quư vị, vị thầy này một trong Tứ Đại Lạt Ma. Bốn vị này, hai vị Tây Tạng Đạt Lại Ban Thiền, hai vị Mông Cổ: Chương Gia Nội Mông, Triết Bố Tôn Đan Ba Ngoại Mông. Bốn vị này đều học tṛ của Tông Khách Ba đại sư. Bốn đại đệ tử của Tông Khách Ba bốn phương giáo hóa chúng sanh, tôi rất may mắn gặp một vị. Chúng tôi tuổi trẻ, chưa từng tiếp xúc Phật pháp. vậy, tôi đă từng rất mạo muội thỉnh giáo Ngài, chúng tôi gọi Ngài Phật gia. Tôi nói:Thưa Phật gia, nghe nói các Ngài chuyển thế, Hoạt Phật (Phật sống) chuyển thế thật hay giả?Tôi hỏi Ngài câu ấy. Vị thầy này thật tốt, luôn nói lời thật, chẳng lừa gạt chút nào! Ngài dạy: Ba đời đầu tiên thể thật, những đời sau sẽ chẳng thật. Ngài [Chương Gia] đời thứ mười sáu, thuộc về đời sau nên chẳng thật. Ngài nói: “Đứa linh đồng sau khi được t́m ra, tuyển chọn, sẽ được giáo dục tốt nhất, được vị thầy đức hạnh nhất, học vấn khá nhất đương thời dạy dỗ, người b́nh thường chẳng gặp được [cơ hội ấy]. Nếu thật sự chịu học, sẽ bản lănh khá sâu!Điều này đúng khó có, giống như hoàng tử thuở trước, được hưởng sự giáo dục người khác chẳng được hưởng. Trước đây, vào thời đại đế vương, cả thiên hạ của nhà vua, đế vươngđăng , đó cũng điển lễ nhậm chức. Chuyện lớn đầu tiên lập Thái Tử, nhằm bồi dưỡng thế hệ kế tiếp. Sau khi lập Thái Tử, thỉnh mấy vị đức hạnh ưu học vấn nhất trong nước làm thầy của Thái Tử. Thái tử thật sự tích cực học tập th́ triều đại kế tiếp sẽ tốt đẹp, con em của văn quan cùng học ké, đó nhằm bồi dưỡng một tiểu triều đ́nh kế tục. Thật sự dụng tâm, đời trước thật sự chịu trách nhiệm đối với đời kế tiếp. Trung Quốc khác ngoại quốc, ngoại quốc đúng chuyên chế, Trung Quốc chẳng phải vậy! Quư vị đọc lịch sử Trung Quốc cẩn thận sẽ thấy lịch đại đế vương của Trung Quốc rất trách nhiệm, kẻ thiếu trách nhiệm đă bị người khác lật đổ!

      Do vậy, các hoàng đế thuộc những đời cuối của mỗi triều đại đều kẻ chẳng tuân thủ giáo huấn của tổ tông, phá hoại toàn bộ gia quy, nên bị kẻ khác thay thế. Nếu họ thật sự tuân theo gia pháp do tổ tông truyền lại, y giáo phụng hành, triều đại của họ sẽ tiếp tục truyền thừa. Thầy Phương từng bảo tôi:Khổng Tử bội phục Châu Công . Lăo nhân gia suốt đời khâm phục Châu Công nhất. Cụ nói Châu Công đúng thánh nhân đă tạo ra một bản điển chương chế độ Châu Lễ. Châu Lễ hiến pháp của nhà Châu. Thầy bảo tôi đọc, nhưng tôi chẳng hứng thú đối với chánh trị, thầy bảo tôi nhiều lần, nhưng tôi chưa đọc Châu Lễ. Cụ nói nếu đời nào của nhà Châu cũng đều tuân thủ giáo huấn trong bộ sách ấy th́ đến nay vẫn nhà Châu, cụ đă nói một câu như thế. Đó đối với từng câu, từng chữ, Châu Công đều nghĩ thay cho người trong thiên hạ, chẳng hề chính ḿnh. Do vậy, tác phẩm của ông ta chịu được sự khảo nghiệm [của thời gian t́nh thế hội]. Trong lịch sử Trung Quốc, triều đại nhà Châu lâu nhất, tám trăm năm, nhưng đến cuối thời, năm trăm năm cuối cùng trong tám trăm năm ấy thời Xuân Thu Chiến Quốc, đời loạn. Triều đ́nh nhà Châu tuy xưng Thiên Tử, chư hầu chẳng nghe lệnh, nhưng nhà Châu vẫn hơn ba trăm năm gần như tới bốn trăm năm yên b́nh lâu dài. Vấn đề chỗ nào? Vấn đề chỗ tích cực thúc đẩy giáo dục hay không. Bởi lẽ, kiến quốc, quân dân, giáo học vi tiên (xây dựng đất nước, cai trị nhân dân, giáo dục đứng đầu), câu này chân lư! Chỉ cần thực hiện tốt giáo dục, vấn đề cũng đều được giải quyết, con người được dạy dỗ tốt đẹp rồi! Trung Quốc ổn định lâu dài mấy ngàn năm, càng lâu càng mới mẻ, cậy vào đâu? Cậy vào giáo dục. C̣n một cấu vững vàng cả thế giới đều chẳng có; đó gia tộc. Gia tộc của Trung Quốc gánh vác trách nhiệm hội, nhiều cống hiến đối với Trung Quốc! Trung Quốc đại gia đ́nh, quư vị tới nông thôn Trung Quốc để xem: Đây thôn họ Trương, kia thôn họ Lư, người một nhà, ngũ, lục đại đồng đường (năm sáu thế hệ cùng sống trong một nhà), chẳng tách ra. Do vậy, một gia tộc gần như khoảng ba trăm người, nếu chẳng quy củ, chẳng chế độ, làm sao gia tộc không loạn được? Tan nhà, chết người liền! vậy, đối với người Trung Quốc, trẻ nhỏ được dạy từ lúc mang thai, thai giáo đấy! Vừa sanh ra, quư vị phải biết: Đứa nhỏ ấy vừa biết nh́n, biết nghe đă học tập, đă phỏng, gieo trồng căn bản giáo dục trong ba năm, tức cho đến ba tuổi. [Được giáo dục] từ lúc ra đời cho đến khi tṛn ba tuổi một ngàn ngày, đó gọi đặt vững căn bản giáo dục. Đặt vững căn bản giáo dục do ai dạy? Mẹ dạy. Người mẹ đại, giúp chồng, dạy con, gia đ́nh quư vị đời sau nên người hay không tùy thuộc người mẹ. Dạy ǵ? Dạy luân lư, dạy đạo đức, dạy nhân quả, gốc rễ vững bền! vậy, trước đây tại Trung Quốc câu ngạn ngữ: Tam tuế khán bát thập, [nghĩa là] gieo trồng căn bản từ thuở ba tuổi th́ đến tám mươi tuổi chẳng thay đổi, gieo trồng căn bản kiên cố lắm! vậy, gia tộc gia đạo, gia quy, gia học, gia học trước đây thục, tức trường học của con em trong gia tộc, gia nghiệp, tức sự nghiệp kinh doanh của gia tộc, trong gia phả mỗi nhà đều chép rất ràng. vậy, gia đă tề, quốc bèn trị!

      Tôi thường nói, tôi quen nhiều bạn bè, rất nhiều người chân trong chánh trường, khi nói chuyện với họ, tôi nói: Thời quá khứ, trong hội Trung Quốc ba trăm sáu mươi ngành nghề, nghề nghiệp tốt nhất ai? [Những người] làm quan! Quư vị thấy văn chương, thi từ trong phần Tập[1] của bộ sách Tứ Khố Toàn Thư do ai viết? Đều do kẻ làm quan viết. Khi họ không làm việc, chẳng vụ án nào phải xử, ai nấy người tốt, mọi chuyện chuyện tốt, chẳng vụ án nào! vậy, họ là kẻ thanh nhàn nhất, đăi ngộ lại tốt đẹp, địa vị lại cao, được người khác tôn trọng, bất luận tới chỗ nào, đều được b́nh dân tánh yêu mến, cung kính. Họ thường lữ du, đến thăm các vị đạo trưởng, pháp sư, kết bạn phương ngoại[2] với họ, thật đấy. Trong hội hiện tại, nghề nghiệp khổ cực nhất làm quan, lẽ biến ra nông nỗi này? Giáo dục đă mất, gia tộc chẳng c̣n, gia giáo chẳng có. Chúng tôi cảm giác thật sâu đậm trong quá khứ, chúng ta trải qua tám năm kháng chiến chống Nhật, tám năm kháng chiến hy sinh tánh mạng, tài sản chuyện nhỏ, [điều bị mất mát to lớn] truyền thống gia tộc bị xóa sạch. Tề gia, quốc sẽ trị, thiên hạ sẽ thái b́nh, lịch đại đế vương nói thùy củng nhi trị (khoanh tay chẳng làm đất nước b́nh trị); chẳng chuyện ǵ, khoanh tay ngồi yên đất nước thịnh trị, thiên hạ thái b́nh, nhờ vào đâu? Cậy vào giáo dục, cậy vào gia tộc. Do vậy, trong quá khứ, trách nhiệm hội do gia đ́nh gánh vác, giáo dục do gia đ́nh phụ trách, dưỡng lăo cũng do gia đ́nh phụ trách. Một người sống trong thế gian này lẽ ǵ? gia đ́nh, vinh tông diệu tổ, vẻ vang ḍng họ, sẽ chẳng làm chuyện xấu. Làm chuyện xấu, gia đ́nh bị mất mặt, tổ tiên bị thiên hạ chửi mắng, đó đại bất hiếu! Truyền thống này t́m khắp thế giới không ra, chỉ riêng Trung Quốc có. Vào một trăm năm trước th́ Trung Quốc có, nhưng sau một trăm năm ấy cho tới hiện thời, chẳng có. Do vậy, hiện thời người Hoa rất khổ, chúng ta phải hiểu chuyện này! Làm sao mới thể ĺa khổ được vui? Phải khôi phục gia tộc như trước kia, nhưng gia tộc theo kiểu quan hệ huyết thống th́ chẳng được! Mấy năm nay, tôi nghĩ đến nghiệp gia. Chẳng phải thường nói nghiệp giaư? nghiệp đoàn thể; nếu nghiệp thể khôi phục tinh thần gia tộc Trung Quốc, Trung Quốc sẽ ổn định cả ngàn năm... Người Trung Quốc thật sự đạo, đạo ấy chính họ phương pháp, vừa luận, vừa phương pháp. Hiện nay, dần dần cũng mấy vị đồng tu trong Phật môn kinh doanh nghiệp, tôi khuyến khích họ, hăy kế thừa truyền thống gia tộc. Hiện thời phải kế thừa ra sao? Chủ nhân phải coi viên chức, công nhân trong nghiệp đều anh em ruột hay chị em ruột, coi người già của những công nhân viên chức đều chú bác của chính ḿnh, phải lănh trách nhiệm dưỡng lăo, coi con cái của công nhân, viên chức như con em, cháu chắt của chính ḿnh, phải đối đăi như vậy, quư vị đại gia trưởng mà! Chính chúng ta phải mở trường dạy dỗ con em, dạy dỗ con thơ của công nhân, viên chức. Chính chúng ta phải mở viện dưỡng lăo, chứ không phải hội, [để phụng dưỡng] người già của công nhân, viên chức. Công ty, đoàn thể ấy kinh doanh, phụ trách dưỡng lăo, nuôi nấng trẻ thơ, chữa trị, gánh vác trách nhiệm hội, nghiệm đảm nhận [những trách nhiệm ấy]. gương tốt ấy, các nghiệp khác đều làm theo, nhân viên, công chức vĩnh viễn trung thành với nghiệp, sao? Đối xử với họ quá tốt, trong nhà quư vị chuyện họ đều gánh vác. Đó một tổ chức đạo nghĩa, trước đây quan hệ huyết thống, nay quan hệ đạo nghĩa. Nếu sau khi cách này được truyền lại, Trung Quốc đúng ngàn năm vạn đời yên ổn, chứ không phải chẳng thể thực hiện được!   

Quốc gia nay đang đề xướng một chủ nghĩa hội đặc sắc của Trung Quốc, điểm đặc sắc của Trung Quốc ǵ? Hiếu! Dùng một chữ để nói th́ Trung Quốc văn hóahiếu, trên thế giới chẳng t́m được điều này! Từ Hiếu, diễn biến thành bốn khoa mục Ngũ Luân, Ngũ Thường, Tứ Duy, Bát Đức, mấy chữ này! vậy, tôi tin tưởng tổ tiên Trung Quốc không chỉ [tồn tại trong lịch sử] năm ngàn năm, người Ấn Độ đă tồn tại hơn một vạn năm, tôi tin Trung Quốc trọn chẳng kém họ. khi đó, [Trung Quốc] chưa văn tự, văn tự do Hoàng Đế[3] phát minh. Từ khi văn tự cho đến hiện tại mới bốn ngàn năm trăm năm, [trước đó] chưa văn tự. Tôi tin văn hóa truyền thống Trung Quốc tối thiểu cũng hơn một vạn năm, trọn chẳng kém hơn Ấn Độ. Đời đời truyền thừa, tới khi văn tự, Khổng lăo phu tử mới biên tập, hệ thống hóa hoàn chỉnh, dùng văn tự ghi lại những đă được truyền lại từ quá khứ, do tổ tông truyền lại, dùng văn tự viết xuống. vậy, tôi tin trong Luận Ngữ rất nhiều điều do tổ tiên nói. Thái độ của phu tử như lăo nhân gia đă nói rất hay, Ngài suốt đời: Thuật nhi bất tác, tín nhi hiếu cổ (thuật lại chứ không trước tác, tin tưởng, chuộng cổ). Nói cách khác, Ngài tự nói Ngài chẳng sáng tạo, chẳng phát minh, những Ngài đă học, tu, dạy, truyền lại đều của cổ thánh tiên hiền. Thái độ học tập này tốt đẹp, những thật sự tốt đẹp đâu cần cứ phải do chính ḿnh đề ra, chẳng cần phải vậy! Do đó, lần này tôi chọn bản chú giải của lăo Hoàng Niệm Tổ. Đối với tôi, tức đối với thân phận của tôi th́ thể nói Hoàng lăo thầy của tôi, tôi học tṛ của cụ. Tuy chúng tôi chẳng danh phận chính thức ấy, nhưng tôi quả thật mang tâm thái đó. Tôi cụ bạn già, trong hội hiện tiền, chúng tôi hai người hoằng dương bộ kinh này. Tôi [hoằng dương] hải ngoại, cụ trong nước, đều rất đơn. Vừa gặp mặt, [cảm thấy] đúng gặp gỡ tri kỷ. vậy, khi lăo nhân gia c̣n sống trên đời, mỗi năm, tối thiểu tôi sang Bắc Kinh đôi ba lần để gặp cụ. Đúng khó có! Nay tôi giảng bản chú giải của cụ lẽ ǵ? Thuật nhi bất tác, tín nhi hiếu cổ! Bày đầu, nêu gương tốt! Không cần chính ḿnh phải chơi trội, những của cụ của chính tôi, tự tha bất nhị. Dùng tên của người khác tốt đẹp th́ cần phải dùng đến tên ḿnh, chẳng ư niệm ấy. Đấy đi theo đường lối thánh hiền, tiếng tăm, lợi dưỡng thảy đều buông xuống, quư vị nói phải tâm chính ḿnh thanh tịnh nhiều lắm hay chăng? Tâm thanh tịnh sanh trí huệ, tâm thanh tịnh sanh pháp hỷ, sanh tâm hoan hỷ.

      Phi huyễn giác tánh. Thí như ma kính, cấu tận, minh hiện (ví như mài gương, chất trừ hết, ánh sáng hiện). Quư vị phải biếtmài gương [tỷ dụ trong lời] chú giải của cổ nhân, cụ Hoàng cũng dùng [tỷ dụ này] của cổ nhân. Thời cổ, gương làm bằng đồng, phải thường xuyên mài, mài rất bóng sẽ thể soi mặt. Khác với hiện thời, hiện thời tiến bộ hơn thuở trước quá nhiều; do vậy, nóimài gươngngười hiện thời chẳng hiểu. Nếu quư vị lấy cái gương thời cổ [để giảng], người hiện thời mới hiểu; đó mài gương! Quư vị thấy gương cổ được đặt trong viện Bảo Tàng của Cố Cung, quư vị sẽ hiểu. Cái gương ấy phải thường xuyên mài, mài sạch sẽ, những thứ bẩn trên mặt gương chẳng c̣n, gương lại tỏa sáng, bèn tác dụng [soi chiếu]. Chúng ta tu hành cũng giống như vậy, phải mài sạch vọng tưởng, phân biệt, phiền năo, tập khí! Cách mài ra sao? Mài trong cuộc sống hằng ngày, mỗi ngày đều mài. Người tốt tán thán quư vị cũng mài; nếu quư vị sanh tâm hoan hỷ, tức nhơ bẩn, đă bị ô nhiễm; gặp phải nghịch cảnh, trong tâm quư vị bực bội, lại bị nhiễm dơ! Cảnh giới hiện tiền, quư vị đều thể giữ ǵn cái tâm thanh tịnh, cũng không ô nhiễm, đó tu hành thật sự. Quư vị phải biết: Tu hành chẳng phải hằng ngày niệm kinh, mỗi ngày niệm Phật, chẳng phải như vậy. Đấy cũng một phương pháp, nhưng công phu thật sự nơi giác tánh. Quư vị thời thời khắc khắc [phải dốc công phu giác tánh trong những hành vi nhỏ nhặt như] mặc quần áo, ăn cơm. Mặc quần áo, quư vị cảm thấy y phục này chẳng dễ nh́n, lại khởi tâm động niệm, lại phân biệt, chấp trước rồi! Do vậy, mặc quần áo cũng tu hành. Lúc ăn cơm, món này ngon ăn nhiều hơn một chút, ăn thêm mấy miếng, tâm tham của quư vị dấy lên. Món kia chẳng dễ coi, ăn không ngon, chẳng muốn ăn, quư vị cự tuyệt, quư vị thấy toàn bộ tập khí phiền năo hiện hành. Trong cuộc sống thường ngày, xử sự, đăi người, tiếp vật, thuận cảnh, nghịch cảnh, quư vị phải coi tất cả mọi người Bồ Tát, họ giúp ta nâng cao cảnh giới, [đối với bất cứ người nào, chuyện nào, cũng đều là] chuyện tốt, người tốt! Người lừa đảo, hăm hại quư vị đều người tốt; chẳng họ, làm sao quư vị biết công phu của quư vị hiện tiền? vậy, quư vị thường sanh tâm hoan hỷ, thấy ai cũng Bồ Tát, thấy ai cũng ân nhân, tri ân, báo ân. Cách báo ân như thế nào? Báo ân sửa lỗi, tu thiện, nhất định giữ ǵn cái tâm thanh tịnh tâm b́nh đẳng của chính ḿnh. Nếu thể giữ ǵn giác tâm th́ càng tốt hơn, đó rất viên măn. Đó gọi thật sự báo ân, thật sự thành tựu, thật sự nâng cao [cảnh giới].     

Tiếp đó, cụ Hoàng lăo nói: Kinh trung sở vân huyễn diệt hậu chi giác tâm (Giác tâm sau khi huyễn diệt như trong kinh đă nói), cái huyễn ấy vật chất tinh thần. Quư vị biết: Trong Phật pháp, vật chất được gọi sắc pháp, tinh thần tâm pháp, tinh thần ǵ? Thọ, Tưởng, Hành, Thức, tứccảm thụ trong cuộc sống hằng ngày, tứcnhững cảm nhận khổ, lạc, ưu, hỷ, xả. Những thứ này không b́nh thường, b́nh thường chẳng khổ, lạc, ưu, hỷ, xả. Tâm b́nh, thanh tịnh, vĩnh viễn thanh tịnh, b́nh đẳng, tâm ấy chẳng sanh phiền năo. Phiền năo ǵ? Khổ, lạc, ưu, hỷ, xả, sanh ra những cảm thụ này, chúng phiền năo. Tâm chẳng sanh phiền năo, sẽ sanh trí huệ, làm sao giống nhau cho được? Sanh phiền năo sẽ chẳng sanh trí huệ, sanh trí huệ bèn chẳng sanh phiền năo, khởi tác dụng, tác dụng viên măn. Chúng tôi nói thật thà: Tôi học nhiều năm như thế, đă đắc tâm thanh tịnh hay chưa? Chưa! Thanh tịnh, b́nh đẳng, giác đều chẳng đạt được! Nhưng so với người b́nh thường để nói, tôi đạt được ít phần, tâm thanh tịnh hơn so với người b́nh phàm, sao? Tôi tu tập hằng ngày, tánh cảnh giác rất cao, vậy, hằng ngày vui vẻ. Nhất trả lời câu hỏi, trong quá tŕnh học tập, đồng học nêu câu hỏi, lúc được phỏng vấn, rất nhiều vấn đề chẳng nghĩ đến, [nhưng câu hỏi] vừa nêu ra liền lập tức giải đáp, trí huệ đấy! Năng lực ấy do đâu có? Tâm tôi thanh tịnh hơn tâm họ, nên tôi thể trả lời họ. Nếu tâm tôi chẳng thanh tịnh hơn họ, tôi sẽ chẳng trả lời được, đạo như vậy đó. vậy, công phu ǵ? Tâm thanh tịnh công phu. Tôi nêu ra: Tâm chân thành, tâm thanh tịnh, tâm b́nh đẳng, tâm chánh giác, tâm từ bi, đấy công phu thật sự. Chẳng thể không dụng công, lợi ích quá nhiều!

      Đặc biệt trong thời gần đây, nhất trong hiện tại, nhiều vấn đề nan giải, hội hỗn loạn, tai nạn liên tiếp xảy ra, tôi gặp rất nhiều lănh tụ tôn giáo hỏi tôi, cũng rất nhiều người thuộc giới lănh đạo đem những vấn đề này hỏi tôi, tôi vẫn đều thể giải đáp. Sau khi quư vị thật sự hiểu rơ, tôi đă nói nhiều lần, muốn khôi phục cục diện hội Trung Quốc an định, hài ḥa, chỉ cần một năm thực hiện được rồi; giải quyết vấn đề của cả thế giới, ba năm thể làm được rồi! Như ông Thang Ân Tỷ (Arnold J. Toynbee) của Anh Quốc đă nói: [Giải quyết vấn đề của thế giới bằng] học thuyết Khổng Mạnh của Trung Quốc Đại Thừa Phật học, chẳng phải lời giả, thật đấy, bản thân chúng ta phải tín tâm. Bắt đầu làm từ ai? Làm từ chính ḿnh, đừng hy vọng ai khác. Hy vọng người khác, quư vị sẽ sanh phiền năo, trông cậy vào chính ḿnh sẽ sanh trí huệ, khác hẳn! Chính ḿnh học tốt đẹp rồi sẽ ảnh hưởng người khác, trong Phật pháp gọi chuyện ấy tự độ, độ tha. Chính ḿnh độ chính ḿnh c̣n chưa độ được, chắc chắn chẳng thể độ kẻ khác. Người giác ngộ ngày càng nhiều, duyên sẽ từ từ chín muồi. Tôi mong các đồng học hăy tín tâm đối với quốc gia dân tộc, quư vị thấy hiện thời, khắp nơi trong nước, nơi đâu cũng đều thực hiện Đệ Tử Quy. Các nghiệp gia cũng tổ chức những luận đàn (diễn đàn), khóa giảng về Đệ Tử Quy, đó hiện tượng tốt đẹp....

      Đối với tất cả các tôn giáo tôi được tiếp xúc, nhận thấy điều ǵ? Tôi nhận thấy các giáo chủ sáng lập tôn giáo thuở đầu, nói theo cách bây giờ, đều những nhà giáo dục hội đại, họ đều theo đuổi việc dạy học. Thời gian dạy học của Thích Ca Mâu Ni Phật dài nhất, bốn mươi chín năm. Mục Hăn Mặc Đức (Mohammed) hai mươi bảy năm. Gia (Jesus) bị kẻ khác hại chết, Gia giảng ba năm, bị kẻ khác hại chết. Quư vị lại nh́n những người như Ma Tây (Moses) đều dạy học. Dạy vậy? Phổ biến giáo dục, đại chúng hóa giáo dục, đều giảng luân lư, đạo đức, nhân quả; chẳng qua trong tôn giáo của những người ấy nói đến thần, nói tới Thượng Đế, ư thần, ư Thượng Đế. Trong Phật giáo chẳng nói tới thần, chẳng nhắc đến Thượng Đế, Phật giáo nói tới tự tánh, người Trung Quốc nói tới bản tánh. Nhưng chúng ta giải thích cho họ biết: Tuy nói khác nhau, nhưng cùng một ư nghĩa. Nhất hiện thời họ thừa nhận: Thần chẳng thân thể, chẳng h́nh tướng! Nói hay lắm, ngày càng gần với ư nghĩa bản tánh như người Trung Quốc đă nói. Tôi mong các tôn giáo đều giảng giải kinh điển cặn kẽ, hướng dẫn các tín đồ của họ. đây, thể nói: Tám mươi phần trăm những điều được giảng trong các tôn giáo rất gần gũi với nhau, đều tương đồng. Hai mươi phần trăm kia không giống nhau, đó ǵ? Thời cổ giao thông chẳng thuận tiện, chẳng truyền thông, người ta đến già đến chết chẳng qua lại với nhau; vậy, hoàn cảnh địa phương trụ, bối cảnh văn hóa khác nhau, phương thức sống khác nhau, sai biệt chỗ này! Hiện tại th́ khác, với phương tiện giao thông hiện thời, đi quanh địa cầu một ṿng thể thực hiện trong một ngày. Truyền thông phát triển. Hiện tại, chúng ta sống trên địa cầu, phải khẳng định người địa cầu chúng ta người một nhà, phải tương thân tương ái, phải học khiêm hư, phải học tôn trọng, phải học hỗ trợ hợp tác, chớ nên tranh chấp, chuyện cũng đều giải quyết ḥa b́nh, thế gian này sẽ tốt đẹp lắm! thể làm được hay không? thể làm được chứ! Chẳng phải không thể làm được! Vẫn bắt đầu làm từ chính chúng ta, làm từ một đơn vị nhỏ chính ḿnh, nêu gương cho người khác coi. một tấm gương tốt, ngay lập tức mọi người náo nức nh́n vào, ngay lập tức học theo, lẽ ǵ? Mỗi nhân đều muốn giải quyết vấn đề này, nhưng chẳng cách nào! nói th́ chẳng dễ dàng, người ta chẳng tin, họ bảo đó chuyện tưởng, làm không được! Nếu nêu gương, họ sẽ tin tưởng, sẽ bắt chước theo.

      Chúng ta coi đoạn văn tiếp theo: Ma kính thật thị ma cấu (mài gương thật ra mài bỏ chất nhơ), mài gương tu hành. Mài gương th́ gương cần mài hay chăng? Do mặt gương dính những thứ ô nhiễm, bẩn thỉu, nên phải mài bỏ những thứ ấy. Do vậy, mài gương như nay chúng ta nói tu hành, phải buông trần cấu xuống, buông xuống được! vậy, phải học buông xuống, chớ nên ghim trong ḷng, làm việc cũng phải nghiêm túc đảm trách, sau khi làm xong, tâm địa thanh tịnh, chẳng nhiễm mảy trần, đó tu hành thật sự. Cũng chẳng phải nói quư vị đừng làm chuyện ǵ, chẳng gánh trách nhiệm, [nếu hiểu như vậy] th́ không được, sai lầm rồi! Đó quư vị hiểu lệch lạc, hiểu sai giáo huấn của thánh nhân. Kính tánh bổn minh, phi tùng ngoại đắc (tánh gương vốn sáng, chẳng do bên ngoài có). Thời cổ, dùng gương làm bằng đồng; đối với tỷ dụ này, biếtgương cái gương bằng đồng, sẽ hiểu rất rệt. Tánh chất của cái gương đồng vốn sẵn sáng tỏ; gương vốn tác dụng chiếu soi, chẳng phải từ bên ngoài có. Chỉ cần mài sạch, trừ bỏ chất bẩn trên mặt gương, quang minh sẽ hiện tiền. Đây tỷ dụĺa vọng chính chân, chân vọng vĩnh viễn chẳng tách rời. Tôi thường lấy TV làm tỷ dụ cho mọi người dễ hiểu, quư vị mỗi ngày đều phải xem. Tôi màn h́nh TV với chân tánh, h́nh ảnh trong một băng tần vọng tướng (tướng vọng), đó huyễn tướng. sao? Nhà Phật nói tới chân vọng, chân vĩnh hằng bất biến, đó chân; chỉ cần biến hóa sẽ chẳng phải chân! Quư vị thấy các h́nh ảnh trong băng tần biến động trong từng sát-na, nên chẳng phải thật, nhưng màn h́nh vĩnh viễn chẳng động. Màn h́nh tự tánh của chúng ta, h́nh ảnhhuyễn tướng từ trong tự tánh hiện ra. Kinh Phật gọi trụ y báo chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới, đó huyễn tướng, đó h́nh ảnh được hiện trong băng tần. Vọng chỗ nào? Vọng chẳng rời khỏi chân, chân màn h́nh, rời khỏi màn h́nh sẽ chẳng thể hiện h́nh tướng. Chân đâu? Chân trong vọng, vọng trong chân, chân chẳng phải vọng, vọng chẳng phải chân, nhưng chânvọng nhất thể, chẳng cách nào tách ĺa. vậy, tôi thường nói, biết xem TV, quư vị thật sự biết xem, sẽ khai ngộ! Thật sự biết xem th́ màn h́nh TV sẽ Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, kinh Lượng Thọ, đó quư vị thật sự biết xem. Không biết xem, sẽ nơi h́nh ảnh: H́nh ảnh cười, quư vị cười theo; h́nh ảnh khóc, quư vị khóc theo, tâm quư vị hoàn toàn bị cảnh giới xoay chuyển, trật rồi! Từ các h́nh ảnh, quư vị phải nh́n ra chân, vọng. Sau khi đều nh́n minh bạch, chúng ta nhận biết hội hiện tiền chuyện này (h́nh ảnh trên TV) chẳng khác nhau, quư vị đều hiểu rơ, đều giác ngộ. Sau đấy, quư vị sẽ biết phải xử ra sao, trong khi xử sau khi xử xong, tâm thanh tịnh phải hiện tiền; đừng nên trong lúc xử lư, tâm sanh phiền năo. Hễ sanh phiền năo, sẽ sai lầm; sanh trí huệ sẽ xử cùng viên măn. Thật sự hiểu ràng, quư vị sẽ chẳng sợ chết, sao? Chẳng sanh tử! Huyễn tướng sanh diệt trong từng sát-na, linh tánh bất diệt, [giống như] màn h́nh chẳng diệt, màn h́nh mới chính ḿnh thật sự. Huyễn tướng giống như nằm mộng, mộng, huyễn, bọt, bóng, chẳng thật. Tự tánh mới thật, vĩnh hằng chẳng diệt, phải hiểu ràng. Do vậy, ĺa vọng chính chân. Ĺa vọng chẳng phải thật sự bảo quư vị vứt bỏ, bảo quư vị hăy hiểu rơ, trong tâm chẳng chấp trước, chẳng phân biệt, chẳng khởi tâm, chẳng động niệm, đó chân. Vọng chân, chân vọng vĩnh viễn chẳng tách rời. Chỉ cần ĺa vọng tưởng, phân biệt, chấp trước! Trong Phật pháp, người ĺa vọng tưởng sẽ thành Phật. Ĺa phân biệt, nhưng chưa ĺa vọng tưởng, đă ĺa phân biệt th́ Bồ Tát. Vọng tưởng và phân biệt chưa ĺa, nhưng ĺa chấp trước th́ A La Hán. Đó gọi tu hành thật sự.

      Tiếp đó lời tổng kết của đoạn này: Cố vân, bất dụng cầu chân, duy tu tức Kiến (V́ thế nói:Chẳng cần cầu chân, chỉ cần dứt Kiến). sao không cần cầu chân? Chân ngay trước mặt, chân vĩnh viễn không thay đổi, quư vị cầu chân trật rồi, sao? Quư vị khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước, sẽ chẳng thấy chân tướng; vậy, chớ nên cầu chân! Trong chân tánh trí huệ viên măn, đức năng viên măn, tướng hảo viên măn, điều cũng không thiếu, toàn thể trụ do chân tâm biến hiện, y báo chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới chẳng ĺa tự tánh. vậy, chỉ cần tức Kiến (dứt Kiến), Kiến ǵ? vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Cụ Hoàng dùng một chữ Kiến rất hay. sao? Khởi đầu từ chỗ này, Kiến Kiến Hoặc, chúng ta thấy sai lầm. Đầu tiên thấy sai, coi thân thể này Ngă. Đó cái thấy sai lầm đầu tiên. Trong kinh Kim Cang, đức Phật đă nói: ngă tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng, đấy chính dứt Kiến. ta, người, chúng sanh, thọ giả hay chăng? Có, đều trước mặt. Cách dứt như thế nào? Chẳng chấp trước dứt, đừng nên coi những thứ này thật; biết chúngcó, tuy chúng có, nhưng huyễn có, chẳng thật! sao? Sanh diệt trong từng sát-na, chẳng trụ. Trụ ngưng nghỉ, chúng [biến hóa] chẳng ngưng nghỉ, chẳng ngừng trong một sát-na nào! sao chẳng ngừng? Ư niệm của quư vị sanh diệt chẳng ngừng. Nếu niệm sanh diệt ngưng nghỉ th́ tốt lắm, không chỉ mười pháp giới chẳng có, cơi Thật Báo cũng chẳng có. Niệm ngưng nghỉ th́ cảnh giới xuất hiện? Thường Tịch Quang xuất hiện, đó đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, điều này chẳng dễ làm được. vậy, chúng ta nỗ lực thực hiện từ chỗ bản nhất: Chớ nên chấp trước thân ta, quư vị sẽ thấy thấu suốt cái ải sanh tử này, sẽ chẳng tham sống, sợ chết, sống thế gian này tùy duyên, quư vị thấy tự tại lắm, chẳng chấp trước! Quư vị hiểu rơ: Sau khi bỏ thân này, sẽ đạt được cái thân khác chắc chắn tốt đẹp hơn cái thân này, sao? Quư vị chẳng hoặc. Giống như mặc quần áo, bộ quần áo này ta mặc bẩn rồi, cởi ra, thay bộ khác, chắc chắn thay một bộ sạch sẽ hơn, mới hơn, đáng ưa hơn, chẳng phải đạo ấy hay sao? Chẳng mảy may bi thương, [do hiểu] ràng, rành rẽ. hoặc, điên đảo sẽ phiền phức lớn. Khi ra đi hoặc, điên đảo, sẽ bị nghiệp lực biến đổi, tự ḿnh chẳng thể làm chủ. Nghiệp lực ǵ? Thiện nghiệp sẽ vào trong ba thiện đạo, ác nghiệp sẽ vào tam ác đạo, chính quư vị chẳng thể làm chủ được! Khi [lâm chung, thần trí] sáng suốt, chính ḿnh sẽ làm chủ. vậy, người lúc mất chớ nên hoặc, điên đảo, nhất định phải tỉnh táo, sáng suốt, chắc chắn người ấy sẽ chẳng đọa trong ác đạo. Tức Kiến từ Kiến Hoặc đoạn; đoạn hết Kiến Hoặc, người ấy sẽ chứng quả Tu Đà Hoàn, đấy Tiểu Thừa Quả. Trong Đại Thừa địa vị Tín Bồ Tát như kinh Hoa Nghiêm đă dạy. Tuy địa vị rất thấp, nhưng thật sự thánh nhân, đă đặt vững sở. Tuy chưa thoát khỏi lục đạo, nhưng trong lục đạo, chỗ vị ấy tu hành nhân gian hay trên cơi trời, tuyệt đối chẳng đọa tam đồ. vậy, địa vị này được gọi đắc Vị Bất Thoái, [tức là] địa vị đă chứng đắc tuyệt đối chẳng thoái chuyển. Nhà Phật nói tới ba thứ Bất Thoái, người ấy đă đạt được món đầu tiên. Tốc độ nâng cao cảnh giới sẽ khác nhau, tùy thuộc người ấy dụng công siêng hay lười! Dụng công siêng năng, nhanh chóng tiến cao hơn; dụng công rề rà, sẽ tiến lên cao chậm chạp, nhưng chắc chắn tiến cao hơn, chẳng lui sụt. vậy, đây duy tu tức Kiến (chỉ cần dứt Kiến), dùng hai chữ tức Kiến hay lắm! Chúng ta phải cái nh́n chính xác, chớ nên cái nh́n sai lầm!

      Chúng sanh chi kiến, giai vọng kiến (cái thấy của chúng sanh đều vọng kiến). Câu này do đức Phật nói, trong kinh Đại Thừa lẫn Tiểu Thừa, đức Phật thường nói phàm phu tri kiến. Vọng kiến ǵ? Thấy sai chân tướng sự thật, vọng kiến mang ư nghĩa này, thấy trật rồi! sao thấy trật? quư vị phiền năo, tập khí. Tập khí phiền năo bẩm sinh, chẳng do học được, đă mang theo từ đời đời kiếp kiếp trong quá khứ, những thứ vậy? Tham, sân, si, mạn, nghi. Quư vị thấy trật, nh́n sai vấn đề, những thứ ấy, cho nên mới tự tự lợi, tham cầu tiếng tăm, lợi dưỡng, tham cầu hưởng thụ ngũ dục lục trần, mới thường khởi phiền năo tham, sân, si, mạn, xuất hiện những vấn đề này. Nếu quư vị thấy chân tướng sự thật, bổn tánh bổn thiện thật, vĩnh hằng bất diệt. Hết thảy những thứ trong ấy tuy chẳng có, [tức là] trong tự tánh chẳng tinh thần, chẳng vật chất, nhưng tự tánh thể sanh, thể hiện; hiện tượng vật chất hiện tượng tinh thần đều nương vào hiện, đấy tự tánh. Chúng sanh đông đảo trong mười pháp giới khác biệt, nhưng tự tánh giống hệt, nhất thể, đều do từ tự tánh biến hiện ra. Chuyện này rất sâu, Sự rất phức tạp, lượng nhân duyên rắc rối phức tạp, nhưng kinh Phật đă giảng ràng, minh bạch. Quư vị học Pháp Tướng Duy Thức, nói chung cũng phải mất hai mươi hay ba mươi năm, mới hiểu ràng đầu mối của chuyện này, sẽ hoảng nhiên đại ngộ. Trong tông Duy Thức, họ không nóiđại ngộ, bảo đại khai viên giải, tức giải viên măn. Trong Thiền Tông, trong Tánh Tông đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh; Giáo Hạ gọi đại khai viên giải, cảnh giới hoàn toàn tương đồng, nhưng dùng phương pháp khác nhau. Tịnh Độ Tông vẫn cảnh giới này, nhưng danh từ lại khác! Tịnh Độ Tông gọi nhất tâm bất loạn, chia ra Sự nhất tâm, nhất tâm, công phu thành phiến, ba tầng cấp ấy! nhất tâm cùng cảnh giới với đại khai viên giải đại triệt đại ngộ, đều vượt thoát mười pháp giới. Sự nhất tâm bất loạn tứ thánh pháp giới, tức tứ thánh pháp giới trong mười pháp giới, vượt thoát lục đạo luân hồi. Nhưng bất luận học pháp môn hay tông phái nào, nếu chưa đạt được cảnh giới này, sẽ chẳng cách nào vượt thoát luân hồi, không gọi thành tựu, cũng giống như chúng ta đi học chẳng học vị! Phải năng lực vượt thoát lục đạo luân hồi th́ mới đạt được học vị đầu tiên, giống như chúng ta đi học, tốt nghiệp đại học giành được học vị Học (Cử Nhân), phải hiểu điều này. Nhưng gặp được Tịnh Độ th́ lại khác, chẳng học vị vẫn thể đến thế giới Cực Lạc, đấy điều được nói trong bộ kinh này. Do vậy, bộ kinh này thể đại diện cho hết thảy các kinh do Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói trong bốn mươi chín năm, làm Phật chẳng chi khác, Phật mong giúp cho quư vị vĩnh viễn thoát ly lục đạo luân hồi, vĩnh viễn thoát ly mười pháp giới. Pháp môn này quá thù thắng, thù thắng khôn sánh, chẳng cần đoạn phiền năo cũng được. Hễ thể khống chế phiền năo, đè nén chúng, không cho chúng phát tác, năng lực này được rồi! Nhưng trong các pháp môn khác, năng lực này vẫn chưa được, phải đoạn hết th́ mới được, khuất phục phiền năo th́ chưa được, c̣n trong pháp môn [Tịnh Độ] này, hễ khuất phục phiền năo đă thể thành tựu rồi!

      Sau khi ĺa vọng, chân sẽ hiện tiền. Chân giả, Phật tri kiến (Chân tri kiến Phật), Phật tri, Phật kiến. Phật ai? chính ḿnh, trí huệ vốn sẵn trong tự tánh hiện tiền. vậy, trí huệ chẳng do học được, trí huệ phải từ tâm thanh tịnh có, trí huệ từ Định có. Tri thức thể học được. Lần trước, lúc tôi giảng diễn tại đại học Kiếm Kiều (Cambridge), đă bàn đến vấn đề này, tôi nói điều các đồng học đang học chính tri thức, chẳng phải trí huệ. Ba nhà Nho, Thích, Đạo của Trung Quốc đều nói tới trí huệ, đều đ̣i hỏi trí huệ. Trí huệ thể giải quyết vấn đề, chẳng để lại hậu quả. Tri thức giải quyết vấn đề hạn chế, chẳng viên măn, để lại hậu quả, chẳng thể không biết điều này! Do vậy, Chân trí huệ viên măn trong chân tánh hiện tiền. Thời gian trôi qua rất nhanh, đă hết hai tiếng đồng hồ rồi. Ngày hôm nay chúng ta học tới đây, cám ơn mọi người!

 

Tập 20

 

Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa Lượng Thọ Kinh Giải, trang mười chín, hàng thứ hai. Chúng ta đọc một đoạn kinh văn: Hựu Yếu Giải vân: Ngô nhân hiện tiền nhất niệm tâm tánh, bất tại nội, bất tại ngoại, bất tại trung gian; phi quá khứ, phi hiện tại, phi vị lai; phi thanh, hoàng, xích, bạch, trường, đoản, phương, viên; phi hương, phi vị, phi xúc, phi pháp. Mịch chi liễu bất khả đắc, bất khả ngôn kỳ vô; cụ tạo bách giới thiên như, bất khả ngôn kỳ hữu. Ly nhất thiết duyên lự, phân biệt, ngữ ngôn, văn tự tướng, nhi duyên lự, phân biệt, ngữ ngôn, văn tự, phi ly thử biệt hữu tự tánh (Lại nữa, sách Yếu Giải nói:Một niệm tâm tánh hiện tiền của chúng ta chẳng trong, chẳng ngoài, chẳng khoảng giữa, chẳng phải quá khứ, chẳng phải hiện tại, chẳng phải vị lai, chẳng phải xanh, vàng, đỏ, trắng, dài, ngắn, vuông, tṛn, chẳng phải hương, chẳng phải vị, chẳng phải xúc, chẳng phải pháp, t́m trọn chẳng thể được, chẳng thể nói không; tạo đủ bách giới thiên như, chẳng thể nói có. Ĺa hết thảy duyên lự, phân biệt, ngôn ngữ, tướng văn tự, nhưng duyên lự, phân biệt, ngôn ngữ, văn tự chẳng ĺa điều này riêng tự tánh được”), chúng ta xem tới đoạn này. Cụ Hoàng Niệm Tổ trong phần Bổn Kinh Thể Tánh đă dẫn một đoạn từ sách Yếu Giải của Ngẫu Ích đại sư. kinh Di Đà kinh Lượng Thọ thuộc cùng một bộ, cổ nhân gọi [hai kinh ấy] Đại Bổn Tiểu Bổn. Kinh Lượng Thọ gọi Đại Bổn, kinh Di Đà gọi Tiểu Bổn, nhưng thể tánh để y cứ [của hai kinh] hoàn toàn tương đồng. Nói thật ra, hết thảy các kinh Đại Thừa đều cùng một thể tánh, thể tánh ấy gọi Thật Tướng. Chúng ta cũng thể nói như thế này: Thuở Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế, nói hết thảy các kinh trong bốn mươi chín năm đă dựa vào đâu? Nương vào đâu để nói? Một câu: Chư pháp Thật Tướng, tức chân tướng của hết thảy các pháp, dựa vào đây để nói. Chúng ta lại hỏi một câu: Hết thảy các kinh đă nói trong bốn mươi chín năm nhằm giảng những ǵ? Dùng một câu để trả lời, vẫn một câu này: Chư pháp Thật Tướng! Hết thảy các kinh đă nói trong bốn mươi chín năm nhằm giảng cho chúng ta chân tướng của trụ nhân sinh, một câu bèn nói minh bạch. Kinh Bát Nhă thường nói chư pháp Thật Tướng, bốn chữ này hay lắm! đây, Ngẫu Ích đại đă giảng chư pháp Thật Tướng như thế nào? Đoạn này nhằm miêu tả h́nh trạng của nó.

Điều khó hiểu một niệm tâm tánh hiện tiền của chúng ta; câu này hết sức khó hiểu! Hiện tiền chính ngay trong lúc ấy, nhất niệm đă chẳng dễ hiểu rồi! B́nh thường, chúng ta khởi tâm động niệm, niệm ấy rất thô, đây nói tớiniệm vi tế, niệm cùng vi tế, chúng ta phải hiểu điều này! Chẳng phải thô niệm như chúng ta đang khởi tâm động niệm trong hiện tại. Trong Bồ Tát Xử Thai Kinh một đoạn nói đức Thế Tôn đối trước Di Lặc Bồ Tát giảng giải: Phật vấn Di Lặc, tâm hữu sở niệm (đức Phật hỏi ngài Di Lặc, tâm bao nhiêu niệm). Đấy phàm phu chúng ta, tâm khởi lên một niệm, trong thời gian rất ngắn ngủi, tạm bợ, bèn dấy lên một niệm. Trong một niệm ấy, mấy niệm, mấy tướng, mấy thức? Hỏi điều này chúng ta sẽ biết: Phàm phu chúng ta dấy lên một niệm, trong một niệm ấy bao nhiêu [tế] niệm, khiến cho chúng ta nhận biết một niệm dấy lên, bao nhiêu niệm? Tướng hiện tượng vật chất, Thức hiện tượng tinh thần. Tôi nghĩ rất nhiều người trong quư vị đều từng niệm Tâm Kinh; Tâm Kinh nói tới Ngũ Uẩn. Ngũ Uẩn Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Đức Phật hỏimấy tướng, th́ đó Sắc, tức sắc tướng, đây một phần vật chất.Mấy thức? nói về Thọ, Tưởng, Hành, Thức sau [Thức], bao nhiêu Thọ, Tưởng, Hành, Thức? Di Lặc Bồ Tát đáp lời hỏi của Thích Ca Mâu Ni Phật: Nhất đàn chỉ (một cái khảy ngón tay), nói theo phía chúng ta, thời gian khảy ngón tay một niệm, tức trong tâm một niệm. Thời gian khảy ngón tay rất ngắn, đại khái một giây. Chúng ta khảy nhanh, trong một giây thể khảy từ bốn lần tới năm lần. Nói cách khác, trong một giây chúng ta chừng bốn tới năm niệm, đây điều chúng ta thể cảm giác được! Bồ Tát nói trong một cái khảy ngón tay, bao nhiêu tế niệm? Chúng ta không cách nào tưởng tượng được! Ngài nói ba mươi hai ức trăm ngàn niệm, trăm ngàn đơn vị, trăm ngàn mười vạn, ba mươi hai ức nhân với mười vạn, quư vị thấy một cái khảy ngón tay [là như thế đó]! Phàm phu chúng ta cảm giác đó một niệm, nhưng trong một cái khảy ngón tay nhiều niệm như thế!

      Tôi tin tưởng đức Phật nói lời chân thật, [điều này] khiến cho chúng tôi nghĩ đến lời Thế Tôn đă nói trong kinh Nhân Vương, đó nói phương tiện, chẳng phải chân tướng sự thật, nói phương tiện. Trong kinh Nhân Vương, đức Phật nói một cái khảy ngón tay sáu mươi sát-na, một sát-na chín trăm lần sanh diệt, giảm rất nhiều! T́m Di Lặc Bồ Tát để hỏi, Di Lặc Bồ Tát chuyên gia Duy Thức, nói như bây giờ, Ngài chuyên gia tâm học trong Phật giáo, chuyên môn giảng tâm học, lời Ngài nói nhất định sự thật, chẳng phải nói phương tiện, nói chân thật. Một cái khảy ngón tay ba mươi hai ức trăm ngàn niệm; chúng ta lấy ba mươi hai ức nhân với mười vạn, tức nhân với một trăm ngàn, thành ba trăm hai mươi triệu. Trong một khảy ngón tay ba trăm hai mươi triệu niệm, [như vậy là] bao nhiêu hiện tượng vật chất? Bồ Tát nói: Niệm niệm thành h́nh, trong mỗi niệm đều hiện tượng vật chất; h́nh đều thức, trong mỗi hiện tượng vật chất đều hiện tượng tinh thần, cũng Ngũ Uẩn trọn đủ, Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức Ngũ Uẩn trọn đủ! Ngũ Uẩn sở, căn bản của hết thảy các pháp, giống như nay chúng ta nói tới nguyên tử, điện tử, lạp tử bản, nhục nhăn chẳng nh́n thấy những sở vật chất hết sức vi tế ấy. Ngài nói vật chất tinh thần đồng thời phát sanh; lại c̣n chẳng tách rời, trong vật chất tinh thần, trong tinh thần vật chất. Nếu trong tinh thần chẳng vật chất, t́m không ra, th́ trong vật chất chẳng tinh thần, cũng t́m không được, sao? Chúng đồng thời phát sanh, chắc chắn chẳng thể phân cách, chúng một Thể.

      Gần đây, tiến Giang Bổn Thắng của Nhật Bản đă dùng thời gian mười mấy năm, phải biết đến năm nay đă mười hai năm, hay mười ba năm, nghiên cứu nước, phát hiện nước đủ Ngũ Uẩn, Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức trọn đủ. Nước một vật thể, hiện tượng vật chất, hơn nữa khoáng vật. Chúng ta nói khoáng vật, chẳng phải sinh vật, phát hiện nước thể thấy, nghe, hiểu ư con người, chúng ta khởi tâm động niệm đều biết; thiện niệm hay ác niệm nước đều hiểu toàn bộ. Những điều này đều được trắc nghiệm, thí nghiệm mười mấy năm, chẳng sai chạy mảy may! Quư vị thấy trong hiện tượng vật chất lại hiện tượng tinh thần. Hơn nữa, chúng ta phải biết: Một cái khảy ngón tay ba trăm hai mươi triệu niệm, [những niệm ấy] tế niệm. Lúc chúng ta dấy lên một niệm vi tế, trong một sát-na nhiều tế niệm dường ấy! Mỗi niệm đều sanh ra hiện tượng vật chất, trong mỗi hiện tượng vật chất đều trọn đủ hiện tượng tinh thần. Hôm nay một đồng học cho tôi biết: Ông ta hạ tải (download) từ Internet [một văn bản, theo đó], một khoa học gia của Mỹ đă tiến hơn nữa, phát hiện nước năng lực ức, điều này cũng được các khoa học gia chứng thực. Nước không chỉ thể thấy, nghe, hiểu được ư tưởng của con người, c̣n thể ghi nhớ. Điều này hoàn toàn tương ứng với những điều được giảng trong kinh Phật: Một hiện tượng vật chất nhỏ đến mấy đi nữa, nói theo danh từ trong kinh Phật vi trần, nói theo khoa học hiện thời lạp tử bản, nhục nhăn không thấy được, vẫn trọn đủ hết thảy các thông tin viên măn trong trụ.

      Kinh thường nói: Giới tử nạp Tu Di, Tu Di nạp giới tử (hạt cải bỏ vào núi Tu Di, Tu Di bỏ vào trong hạt cải), đây nói lớn nhỏ chẳng hai! Kinh Hoa Nghiêm nói trong vi trần thế giới, thế giới trong vi trần thế giới bên ngoài to như nhau, trong thế giới ấy lại vi trần, trong vi trần lại thế giới, trùng trùng tận. sao hiện tượng này? đây, Ngẫu Ích đại cũng giải thích rất tuyệt, điều này thuộc về tự tánh, tự tánh công đức viên măn. Trong tự tánh chẳng lớn hay nhỏ; vậy, trong nhỏ thể hiện lớn, trong lớn thể hiện nhỏ, chẳng lớn hay nhỏ, tự tại ngại. Trong tự tánh chẳng thời gian, chẳng quá khứ, hiện tại, vị lai, cũng chẳng không gian, không gian khoảng cách, chẳng có! Kinh Di Đà nói thế giới Cực Lạc cách đây mười vạn ức cơi Phật, trong tự tánh đương hạ tức thị (ngay nơi đây chính là). Điều này rất khó hiểu, một sự thật rất khó hiểu, đấy Thật Tướng, Thật Tướng của các pháp như thế đó. vậy, sách Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán do Hiền Thủ quốc đă hoàn toàn căn cứ trên giáo nghĩa của kinh Hoa Nghiêm để viết thành bài luận văn ấy. Bài luận văn ấy chẳng dài, nhưng đă thật sự giảng viên măn rốt ráo trụ quan nhân sinh quan của Đại Thừa. trụ do đâu có? Vạn vật do đâu có? Ta do đâu có? Do tự tánh biến hiện!

      Trong Đàn Kinh, Huệ Năng đại đă giảng rất hay, Ngài kiến tánh, thưa bày với thầy Ngũ Tổ Nhẫn ḥa thượng. Quư vị phải biết: Huệ Năng đại không biết chữ, chưa hề học hành. Ngũ Tổ giảng kinh Kim Cang cho Ngài, chắc chắn giảng đại ư kinh Kim Cang, nửa đêm canh ba trong Phương Trượng Thất, chúng tôi phỏng đoán thời gian nhiều nhất hai giờ. Giảng tới câu ưng sở trụ nhi sanh kỳ tâm (hăy nên đừng trụ vào đâu để sanh tâm), Ngài bèn hoảng nhiên đại ngộ, trong Thiền Tông gọi [sự hoảng nhiên đại ngộ ấy] minh tâm kiến tánh. Kiến tánh như thế nào? Ngài báo cáo rất đơn giản, năm câu: kỳ tự tánh, bổn tự thanh tịnh (nào ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh), điều này trọng yếu. Cũng nghĩa nói: T tánh chân tâm, thể hiện, thể sanh (năng hiện, năng sanh); vạn vật, y báo chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới sở hiện sở sanh (cái được hiện, cái được sanh). Chân tâm thể hiện, thể sanh, vĩnh viễn thanh tịnh. Câu thứ hai, Ngài nói: Bổn bất sanh diệt (vốn chẳng sanh diệt), tự tánh cái Ta chân thật, tức cái trong Tông Môn gọi phụ mẫu vị sanh tiền bổn lai diện mục (diện mạo vốn trước khi được cha mẹ sanh ra), đó Chân Ngă. Thân này giả ngă, chẳng phải Ngă, vốn chẳng sanh diệt! Câu thứ ba bổn tự cụ túc (vốn tự trọn đủ), nào ngờ tự tánh vốn tự trọn đủ. Trọn đủ ǵ? Chẳng mảy may khiếm khuyết. Dùng một câu trong kinh Hoa Nghiêm để giải thích th́ như trong phẩm [Như Lai] Xuất Hiện, đức Phật đă nói: Hết thảy chúng sanh đều trí huệ đức tướng của Như Lai, đấy vốn tự trọn đủ. vậy, trí huệ sẵn trong tự tánh, quư vị hết thảy chư Phật Như Lai chẳng khác nhau; đức đức năng, đức hạnh, cũng chẳng khác nhau; tướng hảo cũng chẳng khác nhau. Câu này chính phân nửa của tựa đề kinh này: Đại Thừa trí huệ, Lượng Thọ đức, Trang Nghiêm tướng hảo, hết thảy chúng sanh đều trí huệ đức tướng của Như Lai, trọn đủ! Chẳng phải cầu từ bên ngoài, hễ quư vị kiến tánh sẽ đạt được. Huệ Năng đại trọn chẳng nói lời giả với chúng ta. Câu thứ là: Bổn dao động (vốn chẳng dao động), đây tự tánh vốn định, chẳng phải do tu thành. Câu cuối cùng là: Năng sanh vạn pháp(có thể sanh ra vạn pháp). vậy, nói tới đức hạnh tự thể của chính ḿnh bốn câu trước, câu cuối cùng nói tới tác dụng, đức dụng, thể sanh ra vạn pháp.

      Sanh ra vạn pháp như thế nào? Nhất niệm dấy lên. Nhất niệm ấy chẳng nguyên nhân. Trong giáo pháp Đại Thừa gọi nhất niệm ấy minh, tức thỉ minh. minh động, một niệm ấy dấy động. Hễ động, bèn hiện tướng, hiện tướng ǵ? Hễ động, A Lại Da bèn hiện ra; bất động, chẳng A Lại Da (A Lại Da vọng tâm), [bất động là] chân tâm! Vừa động, chân tâm liền biến thành A Lại Da. Quư vị phải biết: Câu này rất khó giảng, lúc mọi người nghe nói phải nghe ra ư nghĩa của nó, đừng hiểu lầm nơi mặt ngôn ngữ. Chân tâm bất động, vốn chẳng dao động, làm sao động được? Động, nhưng [sự động ấy] chẳng phải thật. Quư vị hiểu sự “độngấy chẳng phải thật, nương theo y tự tánh dấy lên một hiện tượng, hiện tượng ấy gọi A Lại Da. A Lại Da vọng tâm, vọng tâm nương vào chân tâm dấy lên, chẳng phải chân tâm. Một niệm tối ấy chẳng khởi đầu, sao? Ngay chính khi đó, chẳng quá khứ, chẳng vị lai! Quư vị thấy một cái khảy ngón tay ba trăm hai mươi triệu niệm, mỗi niệm đều ngay lập tức. Hiện tượng này, nói thật ra một thứtương tự tương tục tướng(tướng gần giống như liên tục). Đúng như chúng ta thấy trong điện ảnh, điện ảnh trước kia, chứ không phải hiện thời, hiện thời họ dùng kỹ thuật hóa (digitalized), chẳng dễ nh́n ra được. Trước kia dùng cuộn phim nhựa. Phim nhựa phim được soi bằng đèn chiếu lên từng tấm một. Tốc độ chiếu phim hai mươi bốn tấm trong một giây, mỗi một tấm phim đều khác nhau, từng tấm độc lập, chẳng giống nhau. vậy, tương tự; chúng ta nói đại đồng, tiểu dị, tương tự, tướng gần giống như liên tục. Trong một giây, sanh diệt hai mươi bốn lần, lừa dối khiến chúng ta thấy giống như thật. C̣n đối với hiện tượng trong hiện tiền, trong một giây bao nhiêu tấm, bao nhiêu lần? Nếu [một giây] khảy ngón tay bốn lần, sẽ một ngàn hai trăm tám mươi triệu; nếu khảy ngón tay năm lần, sẽ một ngàn sáu trăm triệu. vậy, dùng phim ảnh để nói th́ [trong một giây sẽ có] một ngàn sáu trăm triệu [tấm phim được chiếu ra], chúng ta làm sao biết giả cho được? Huyễn tướng mà!

      Tâm tánh, thưa quư vị, chính Tánh trongminh tâm kiến tánh. Tánh chẳng trong, ngoài, cũng chẳng giữa, trong, ngoài, trung gian đều trong tánh, chẳng ĺa khỏi tánh, chẳng rời khỏi tự tánh. Chẳng phải quá khứ, chẳng phải hiện tại, chẳng phải vị lai. Đấy chẳng thời gian, c̣n những điều trong phần trên (chẳng trong, ngoài, cũng chẳng giữa) tức chẳng không gian. chẳng h́nh tướng, chẳng sắc tướng, dài, ngắn, vuông, tṛn h́nh tướng, cái cũng chẳng phải! T́m chẳng thể được, thật đấy! sao? Sáu căn chẳng duyên được, mắt nh́n chẳng thấy nó, tai chẳng nghe được nó, tâm nghĩ chẳng ra. Tâm tưởng thức thứ sáu, tức ư thức. Công năng của thức thứ sáu thức) rất lớn, đối nội bèn thể duyên đến A Lại Da, đối ngoại thể duyên tới không pháp giới, nhưng chẳng duyên được tự tánh, sao? vọng tâm, vọng tâm chẳng thấy chân tâm. vậy, t́m chẳng thể được. Quư vị chẳng thể nói không, thể hiện tướng, hiện ra vậy? Tạo đủ bách giới thiên như, nhưng chẳng thể nói có. thể biến hiện bách giới thiên như, nay chúng ta nói trụ, vạn vật. trụ vạn vật do sanh ra, nhưng quư vị chẳng thể nói trụ vạn vật có! sao chẳng thể nói có? Quư vị phải hiểu duyên khởi của nó, hiện tượng tích lũy trong từng niệm một, giống như chúng ta coi phim, hoặc giống như nh́n vào h́nh ảnh trên màn h́nh [TV, hoặc computer], thấy dường như có, nhưng trên thực tế, chúng chẳng có, sanh diệt trong sát-na. Phải hiểusát-nathật sự ba trăm hai mươi triệu lần sanh diệt trong một cái khảy ngón tay. Do sanh diệt quá nhanh, nhanh đến nỗi không cách nào tưởng tượng, nên sanh diệt chẳng sanh diệt. Câu này ư nghĩa rất sâu. Nếu thật sự chẳng sanh diệt, nóisanh diệt chẳng sanh diệt, phải lời lẽ thừa thăi ư? Quả thật sanh diệt, nhưng sanh diệt quá nhanh. Không chỉ năng lực sáu căn của chúng ta chẳng cách nào thấy được sự sanh diệt này, sáu thức của chúng ta duy, tưởng tượng cũng nghĩ không ra, tốc độ quá nhanh, lục căn, lục thức đều do biến hiện. Phải như thế nào th́ mới thể thấy? Chúng ta buông lục căn lục thức xuống, tự nhiên sẽ hiện tiền. vậy, nếu chúng ta hỏi Thích Ca Mâu Ni Phật khai ngộ dưới cội Bồ Đề như thế nào ư? Trong Phương Trượng Thất, Huệ Năng đại nghe giảng kinh Kim Cang khai ngộ như thế nào? Chẳng khác! Giáo pháp Đại Thừa dạy chúng ta: Chỉ cần quư vị buông vọng tưởng, phân biệt, chấp trước xuống, bèn khai ngộ. Những thứ này cương lănh tu hành yêu cầu trong Tông Môn cùng một ư nghĩa, tu hành trong Tông Môn đ̣i hỏi người ta phải ĺa tâm ư thức để tham, tức Tham Thiền. Tham như thế nào? Ĺa tâm ư thức mới gọi tham; dùng tâm ư thức th́ gọi nghiên cứu. Dùng tâm ư thức để tu học Phật pháp Phật học; ĺa tâm ư thức th́ quư vị thật sự học Phật, sao? Quư vị thành Phật. Tâm ǵ? Tâm A Lại Da. Nghiệp Tướng trong ba tế tướng của A Lại Da gọi tâm; Mạt Na chấp trước, tứ đại phiền năo thường nương theo, đó chấp trước; ư thức phân biệt. Ĺa tâm ư thức ǵ? Ĺa vọng tưởng, phân biệt, chấp trước; ĺa sạch sành sanh, tự tánh bèn hiện tiền.

      Hiện thời chúng ta đă hiểu đạo này, đă hiểu như thế nào? Đă hiểu gọi giải ngộ, nhưng chưa cách nào chứng đắc. Chứng đắc mới hữu dụng, giải ngộ vẫn chưa hữu dụng. Lúc chứng đắc gọi chứng ngộ, quư vị thật sự buông xuống, buông vọng tưởng, phân biệt, chấp trước xuống. Họ (người đă chứng ngộ) rất lợi hại, đốn xả, đốn ngộ, ngay lập tức buông vọng tưởng, phân biệt, chấp trước xuống. Phàm phu thành Phật trong một niệm; buông một niệm xuống, rất lợi hại! Qua kinh giáo, chúng ta thấy Thích Ca Mâu Ni Phật như vậy, đó căn tánh viên đốn. Chúng ta thấy Huệ Năng đại vào thời Đường tại Trung Quốc cũng đốn ngộ, đốn xả. Vấn đề quư vị chịu buông xuống hay không? Chẳng chịu buông xuống giải ngộ, buông xuống chứng ngộ. Nay chúng ta giải ngộ, huân tập trong giáo pháp Đại Thừa nhiều năm như thế, chúng ta thừa nhận, chẳng hoài nghi nào, chúng ta cũng thể được gọi căn tánh Đại Thừa trung thượng. Quư vị đă hiểu rơ, minh bạch chân tướng sự thật, chẳng hoài nghi, chẳng buông xuống. Cổ nhân nói: Ngộ hậu khởi tu (sau khi ngộ sẽ bắt đầu tu), nay quư vị phải làm ǵ? Buông xuống. Buông xuống như thế nào? Lúc ăn cơm, buông vọng tưởng, phân biệt, chấp trước xuống; lúc mặc quần áo, buông vọng tưởng, phân biệt, chấp trước xuống; lúc làm việc cũng như thế; xử sự, đăi người, tiếp vật cũng như thế, quư vị bèn thành công, đó gọi tu hành thật sự!

      Đốn xả khó lắm, Phật, Bồ Tát phương tiện thiện xảo, dạy chúng ta tiệm tu (tu từ từ), từ từ buông xuống. Phải thật sự đoạn trừ tập khí phiền năo, đoạn () buông xuống; do vậy, buông xuống được! Lúc ăn cơm, chớ nên kén chọn, tùy duyên chẳng phan duyên, đó gọi công phu, tu hành. Theo như kinh giáo đă dạy: Trước tiên buông Thân Kiến xuống, kinh điển dạy chúng ta điều này. Căn bệnh lớn nhất của chúng ta chấp trước thân này ta, chấp trước ấy do tự tự lợi nên bèn tham, sân, si, mạn. Lời đức Phật nói thật, đầu tiên, quư vị phải thấy thấu suốt thân chẳng phải ta, cái ta? Tự tánh ta. Vạn hữu trong trụ do tự tánh biến, tự tánh ta, hết thảy các pháp, y báo chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới do tự tánh biến. Nếu thật sự hiểu ràng y báo, chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới chính ḿnh nhất thể, thứ nào chẳng phải ta? Đông đảo chúng sanh ta, hoa, cỏ, cây cối ta, núi, sông, đại địa ta, khắp pháp giới không giới ta, chúc mừng quư vị, quư vị đă chứng đắc Pháp Thân, đó gọi Pháp Thân. Thân đó chính ḿnh cùng một Thể, một, chẳng hai! sao? Tự tánh biến. Tự tánh thể sanh, thể hiện, A Lại Da Thức thể biến, cái được hiện được sanh hết thảy vạn pháp thiên biến vạn hóa, cái thiên biến vạn hóa ǵ? A Lại Da, thức thể biến. Tánh thể sanh, thể hiện; thức thể biến, nhất thể! Dùng ngôn ngữ Trung Quốc để nói th́ luân lư, đây luân Phật pháp, luân Đại Thừa. Luân nói tới quan hệ, trọn hết không khắp pháp giới chính ḿnh. Quư vị nói quan hệ này mật thiết lắm hay không!

      vậy, chỉ cần quư vị kiến tánh, ḷng từ bi trong tự tánh tự nhiên sanh khởi, gọi đại từ đại bi. Duyên Đại Từ, Đồng Thể Đại Bi hiện tiền. Hễ hiện tiền, quư vị sẽ tự nhiên giống như chư Phật, Bồ Tát, phải phổ độ chúng sanh. Chúng sanh biên thệ nguyện độ, quư vị làm chuyện này, giúp hết thảy chúng sanh giác ngộ. Đặc biệt chúng sanh trong lục đạo đang mê, quá sâu, chẳng liễu giải chân tướng sự thật, tự cho ḿnh đúng. vậy, người giác ngộ nhất định sẽ giúp đỡ những kẻ chưa giác ngộ. Quư vị đoạn phiền năo, học pháp môn, thành Phật đạo, những điều đó đều biểu diễn tuồng cho họ xem, giúp họ giác ngộ. Pháp môn: Pháp phương pháp, môn môn đạo (門道: đường nẻo), lượng biên! Quư vị đă khai trí huệ hoàn toàn, khéo dùng những pháp môn phương tiện thiện xảo ấy giúp chúng sanh giác ngộ. Thuở đức Thế Tôn tại thế, Ngài đă chúng ta biểu diễn phương pháp này, biểu diễn hết sức sống động. Sau khi chúng ta hiểu rơ, bèn bội phục năm vóc sát đất. Do vậy, Phật pháp ǵ? Quư vị phải hiểu điều này! Phật pháp giáo học, Thích Ca Mâu Ni Phật ba mươi tuổi khai ngộ liền bắt đầu dạy học, dạy suốt cả đời, bảy mươi chín tuổi viên tịch; kinh chép giảng kinh hơn ba trăm hội, thuyết pháp bốn mươi chín năm. Ngài mang thân phận ǵ? Chúng ta hiểu rất ràng, nói theo cách bây giờ mang chức nghiệp của một vị thầy! Ngài dạy những ǵ? Dạy Thật Tướng của các pháp, chân tướng của trụ nhân sinh. Dựa vào điều này [để thuyết pháp], [thuyết pháp] cũngđể dạy điều này.

      Thật sự hiểu chân tướng trụ, chắc chắn quư vị sẽ chẳng làm chuyện sai quấy, chắc chắn sẽ chẳng tạo nghiệp. Người hồ đồ tạo nghiệp, do hoặc nên tạo nghiệp, người giác ngộ chẳng tạo nghiệp. Tuy giúp đỡ hết thảy chúng sanh, giúp họ phá khai ngộ; phá khai ngộ nhân, ĺa khổ được sướng quả. Khổ do đâu có? Khổ do có; đă phá, khổ sẽ chẳng c̣n. Vui sướng do đâu có? Vui sướng giác ngộ, giác ngộ bèn vui sướng, pháp hỷ sung măn, do ngộ sẽ được vui sướng. Muốn giúp chúng sanh ĺa khổ được vui sướng, dùng phương pháp ǵ? Dùng phá khai ngộ. Dùng phương pháp để phá khai ngộ? Dạy học bằng thân hành, ngôn giáo! Đức Phật thị hiện, những Ngài đă giảng đều biểu diễn toàn vẹn cho quư vị thấy. Quư vị thấy Ngài chẳng chấp trước món ăn, lần lượt đi xin từng nhà, người ta cho ăn nấy, đều hoan hỷ, chẳng kén chọn, chẳng hề! Thường Tùy Chúng của đức Phật một ngàn hai trăm năm mươi lăm người, mỗi ngày ra ngoài khất thực, chẳng phải xin xong sẽ tự ḿnh ăn, chẳng thể vậy! Sau khi xin xong trở về, bèn để chung [những món xin được vào] một chỗ, thảy đều dồn chung lại, sau đấy, chính ḿnh lại lấy từ đó ra. thế nói: Nhất bát thiên gia phạn (Một bát, cơm ngàn nhà), quư vị ăn một bát cơm đúng xin từ một ngàn nhà bên ngoài, dồn chung lại, trộn lẫn rồi lại chia ra, đó lợi ḥa đồng quân. Chẳng phải quư vị xin được món ăn ngon th́ hôm nay sẽ ăn ngon lành lắm, kẻ khác chẳng xin được món ngon, sẽ chẳng được nếm món ngon, trộn chung với nhau!     

Đức Phật biểu diễn cho chúng ta thấy, nay chúng ta biết: Một ngàn hai trăm năm mươi lăm vị đệ tử của Ngài đều những vị đại Bồ Tát tái lai, Giống như diễn tuồng, Thích Ca Mâu Ni Phật đóng vai chính, họ đóng những vai phụ, thảy đều tới thị hiện, đến hát vở tuồng này biểu diễn cho chúng ta xem, giúp chúng ta giác ngộ. Các Ngài mới thật sự giai cấp sản, Thích Ca Mâu Ni Phật suốt đời chẳng dựng một ngôi chùa miếu nào, vậy th́ Tăng đoàn nơi đâu? ngoài đồng, trong rừng, dưới cội cây. Quư vị hăy suy nghĩ, tưởng của Thích Ca Mâu Ni Phật cũng cùng sống động, chúng ta nói Ngài hết sức hiện đại hóa, chẳng câu thúc chút nào! Quư vị thấy quốc vương, đại thần, trưởng giả, sĩ, chính họ hoa viên, biệt thự, mời Ngài đến cúng dường, thỉnh Ngài tới giảng kinh, Ngài cũng đồng ư, cũng tiếp nhận. Nổi tiếng nhất Trúc Lâm Tinh (Kalandaka Venuvana), Kỳ Thụ Cấp Độc Viên (Jetavana Vihara), thời gian đức Phật trụ tại những nơi ấy cũng khá dài; nhưng sau khi giảng hết một bài kinh lớn, Ngài rời khỏi, vật trở về chủ cũ. Nói theo cách bây giờ, Ngài chỉ tiếp nhận quyền sử dụng, chẳng cần tới quyền sở hữu. Quyền sở hữu vẫn thuộc về chủ nhân các vị, Ngài không cần sẽ giao lại. Lúc đức Phật nhập diệt trong rừng, chẳng trong nhà! vậy, chúng ta quan sát cặn kẽ, suy ngẫm ư nghĩa này, đúng sắc thân trong thế gian này cũng chẳng nhiễm mảy trần, chẳng sở hữu một thứ ǵ, ba y một bát, ngày ăn một bữa Ngọ, ngủ dưới cội cây, đắc đại tự tại, thật sự an lạc.

Hiện thời, người ta gọi Phật giáo tôn giáo, Thích Ca Mâu Ni Phật nghe như vậy cũng thở dài, oan uổng! Phật giáo chẳng phải tôn giáo, Phật giáo tôn giáo chẳng dính dáng với nhau, làm sao thể nói Phật giáo tôn giáo? Ngài suốt đời giáo học! Từ kinh điển, nếu chúng ta quan sát cẩn thận, liễu giải Phật, nói theo cách bây giờ, đức Phật một nhà giáo dục văn hóa hội đa nguyên chánh cống. Suốt đời Ngài biểu diễn cho chúng ta thấy [tấm gương của] một người nghĩa vụ làm công tác giáo dục văn hóa hội đa nguyên. Đức Phật dạy học chẳng phân biệt quốc tịch, chủng tộc, tôn giáo. Từ kinh điển, chúng ta thấy nhiều người La Môn giáo, hay thuộc các tôn giáo khác Ấn Độ, theo Thích Ca Mâu Ni Phật học tập. Dạy dỗ không phân biệt, Ngài chẳng cự tuyệt, cũng không buộc quư vị thay đổi, tín ngưỡng hay tôn giáo nào, Ngài thảy đều hoan nghênh. Chúng ta phải học tập điều này. Đức Phật dạy này nọ, cách dạy như thế nào? Nhân Giới sanh Định, nhân Định khai Huệ, đấy tổng cương lănh giáo học của Phật. Đầu tiên, dạy quư vị tŕ giới, tŕ giới ǵ? Giữ quy củ, nghe lời, khiến cho cái tâm của quư vị định. Nóiđịnh phiền năo, tập khí thảy đều buông xuống, tâm bèn định. Sau khi tâm định bèn khai trí huệ. Do vậy, tâm định rồi th́ tâm thanh tịnh hiện tiền, tâm thanh tịnh sanh trí huệ. Cái tâm phập phều, chao động sẽ sanh phiền năo, người Hoa gọi [cái tâm ấy] tâm phù khí táo (bộp chộp, vội vàng), tâm phù khí táo sanh phiền năo, tâm thanh tịnh sanh trí huệ. vậy, tu hành bước đầu tiên phải đạt được tâm thanh tịnh. Người đạt được cái tâm thanh tịnh, nói theo Phật pháp đă đạt được học vị thứ nhất, tức A La Hán. A La Hán đoạn Kiến phiền năo, tâm thanh tịnh, đấy học vị đầu tiên. Sau đó, tiếp tục nỗ lực, phân biệt cũng buông xuống. Công phu của bậc A La Hán buông chấp trước xuống. Chấp trước Kiến phiền năo. Kinh Đại Thừa thường gọiphân biệt Trần Sa phiền năo, trần sa tỷ dụ nhằm vonsố nhiều. Đoạn Trần Sa phiền năo chẳng phân biệt, chẳng phân biệt hết thảy các pháp thế gian xuất thế gian, chẳng tâm phân biệt. Hiểu ràng cảnh giới trước mặt, đó Huệ; chẳng phân biệt Định. Định này cao hơn Định của A La Hán; vậy, danh xưng của học vị này Bồ Tát, cao hơn A La Hán. Tới cuối cùng, trong giai đoạn cuối cùng, bèn chẳng khởi tâm, chẳng động niệm, đó đoạn sạch vọng tưởng, đoạn thỉ minh. thỉ minh khởi tâm động niệm. Sau khi đoạn sạch, mười pháp giới chẳng c̣n. Đạt đến cảnh giới A La Hán, lục đạo chẳng c̣n, vượt thoát lục đạo; khi đạt đến cảnh giới Phật, mười pháp giới chẳng c̣n, lúc đó, Nhất Chân pháp giới hiện tiền, đó cơi Thật Báo Trang Nghiêm của chư Phật Như Lai.

Chúng ta thấy trong kinh điển, Thích Ca Mâu Ni Phật giới thiệu thế giới Cực Lạc thế giới Hoa Tạng. dân trong các thế giới ấy đúng trường sinh bất lăo, thọ mạng lượng thọ, con người chẳng hiện tượng lăo hóa, hoàn toàn đúng h́nh tướng trẻ trung, chẳng tướng già nua. Hoa, cỏ, cây cối xanh tươi măi măi, chẳng giống như nơi này Xuân sanh, Hạ trưởng, chẳng hiện tượng ấy, chẳng tướng biến hóa ấy, vĩnh hằng. Thật sự thế giới ấy. Trong kinh điển, đức Phật đă giảng đạo đó, chúng ta hiểu rơ, minh bạch, luận để thể dựa vào. sao người trong thế giới ấy chẳng lăo hóa? họ chẳng phân biệt, chấp trước. sao người trong thế gian này bị lăo hóa? phân biệt, chấp trước. Hoa, cỏ, cây cối sao Xuân sanh, Hạ trưởng? Chúng cũng phân biệt, chấp trước, hoa, cỏ, cây cối [phân biệt, chấp trước]; núi, sông, đại địa thành, trụ, hoại, không, sao? Núi, sông, đại địa cũng phân biệt, chấp trước, Ngũ Uẩn mà! Thí nghiệm trên nước của tiến Giang Bổn Thắng đă chứng tỏ rất ràng, quư vị thấy nước thể thấy, nghe, lại c̣n hiểu ư nghĩ con người. Chúng ta tán thán, ca ngợi nó, sẽ biểu hiện sự kết tinh cùng đẹp đẽ, đáp ứng chúng ta. Chúng ta chửi bới, chán ghét nó, phản ứng [bằng cách kết tinh] rất xấu xí. Nước phân biệt, chấp trước. Hiện thời, khoa học c̣n tiến một bước nữa, phát hiện nước c̣n ức. ức sẽ phiền lắm! Nếu quư vị xử tệ đối với nó, sẽ trả thù quư vị. Hiện thời, khoa học kỹ thuật phát triển, chúng ta phá hoại hoàn cảnh sanh thái thiên nhiên, thiên nhiên ức, oán hận, sẽ trả thù chúng ta. vậy, núi lửa bùng nổ, động đất, đó thiên nhiên báo thù, chẳng phải chuyện thần thoại. vậy, đối với tin tức này, chúng tôi mong CD/DVD cho mọi người xem, thấy nước ức, nước một đại biểu [của toàn bộ thiên nhiên]. Tất cả hiện tượng vật chất, nay đă được khoa học chứng tỏ, đúng như lời đức Phật đă nói, thảy đều Ngũ Uẩn, đều Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Thức ức, Thọ cảm nhận, Tưởng phân biệt, Hành chấp trước, Thức thỉ minh, những vọng tưởng đều hết. Động vật biểu hiện [Ngũ Uẩn] rất rệt, khoáng vật biểu hiện chẳng ràng, phải thông qua thí nghiệm khoa học để chứng tỏ. Ngay cả đối với núi, đá, bùn, đất, chúng ta cũng chớ nên đắc tội, huống chi cây, cối, hoa, cỏ, huống hồ hết thảy động vật! vậy, khoa học kỹ thuật càng ngày càng phát triển, ngày càng chứng thực những điều đức Phật đă dạy trong kinh. Đây chuyện tốt, chúng ta chẳng thể không tin!

vậy, chớ nên chấp trước hết thảy các hiện tượng có, cũng đừng chấp trước chúng không! hay không đều chẳng thể được! Trong giảng đường, chúng tôi thường dùng điện ảnh để tỷ dụ, dùng TV làm tỷ dụ. Nay chúng ta học tập, thể nói đại đa số đồng học đều cùng nhau học tập qua Internet, hay truyền h́nh vệ tinh. Internet th́ quư vị thể thấy cùng lúc; truyền h́nh vệ tinh phát sóng, đại khái phải sau một tháng, vẫn c̣n phải chế tác [băng đĩa], in chữ phụ đề lên phim. Nói tới Thật Tướng của các pháp, quư vị hăy quan sát cẩn thận màn h́nh TV của chúng ta, chân tướng ǵ? Chúng ta hăy sánh màn h́nh như tự tánh, Thật Tướng tướng, đúng tướng! Quư vị chẳng thể nói thật sự chẳng có, vặn đúng đài, sắc tướng bèn hiện tiền, hiện tượng này chúng ta đều biết, bày ra trước mắt mỗi ngày. Sắc tướng hiện tiền, quư vị chẳng thể nói có, sao? Quư vị tắt TV đi, chẳng c̣n nữa! Đổi sang băng tần khác, sẽ đổi sang h́nh ảnh khác, đổi băng tần giống như mười pháp giới. Phật pháp nói chân vọng, vọng thể biến. Sắc tướng trên màn h́nh thể biến, sanh diệt trong từng sát-na, Di Lặc Bồ Tát nói một cái khảy ngón tay ba mươi hai ức trăm ngàn niệm. Mỗi một niệm đều sắc tướng, đều Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Lúc gọi Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Khi giác ngộ, Thọ, Tưởng, Hành, Thức chẳng có, biến đổi, biến thành ǵ? Biến thành Chân, kiến văn giác tri, đấy trí huệ đức tướng trong tự tánh, nhưng chẳng hiện tiền, quả thật có. Do vậy, quư vị chẳng thể nói không!

      Chúng ta dùng màn h́nh làm tỷ dụ, tắt máy đi, quư vị chẳng thể nói trong ấy chẳng sắc tướng. Mở trúng băng tần, sắc tướng hiện tiền, quư vị chẳng thể nói thật sự có, t́nh h́nh trong toàn thể trụ rất giống như vậy! Nếu quư vị hiểu những đại đạo này, mỗi ngày mở TV, xem TV bằng cách nh́n này, xem lâu ngày sẽ khai ngộ, cùng một đạo lư! Trong quá khứ, chuyện này đúng khó hiểu! Đối với các bậc tổ đại đức thời cổ đọc kinh Phật thể khai ngộ, chúng ta bội phục năm vóc sát đất. Hiện tại, những công cụ khoa học nhiều ngần ấy bày ra trước mặt chúng ta, những thứ tương tự ngày càng nhiều, nên dễ hiểu, nhưng các Ngài chẳng những thứy, làm thế nào để hiểu? Từ chỗ này, từ màn h́nh TV, quư vị bèn nhập pháp môn Bất Nhị, Không bất nhị, Không Hữu bất nhị. Màn h́nh không, sắc tướng trong mỗi băng tần có, Không Hữu bất nhị. Tâm Kinh dạy: Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc; Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc, quư vị hoàn toàn thấy được, chúng một, chẳng hai. Đấy triết học tối cao. Nếu nh́n từ duyên khởi, đấy khoa học tối cao. Khởi nguyên của trụ, khởi nguyên của vạn vật, khởi nguyên của sanh mạng, nhà Phật nói y báo chánh báo trang nghiêm từ đâu có, quư vị đều hiểu ràng, đều minh bạch, hoàn toàn trở về tự tánh. Trở về tự tánh thành Phật, sự giáo học của Phật đă viên măn, [học tṛ (chúng sanh được hóa độ) đă] tốt nghiệp rồi!

      Chúng ta xem câu cuối cùng: Yếu chi, ly nhất thiết tướng, tức nhất thiết pháp. Ly cố tướng, tức cố bất tướng, bất đắc cưỡng danh Thật Tướng (Nói tóm lại, ĺa hết thảy tướng tức hết thảy pháp. Do ĺa nên tướng, dotứcnên chẳng phải không tướng, bất đắc dĩ cưỡng gọi là Thật Tướng). Nói Thật Tướng với quư vị th́ Thật Tướng thật hay chăng? Nếu quư vị chấp trước trật rồi, đây danh từ thuật ngữ, một thứ phương tiện dạy học nhằm làm cho quư vị ngộ nhập những điều trên đây, quư vị đừng nên chấp trước thật sự Thật Tướng. Thật sự Thật Tướng? T́m Thật Tướng chẳng được! vậy, điều khẩn yếu chúng ta ĺa hết thảy tướng sẽ chính hết thảy các pháp. Chỉ cần quư vị rời khỏi vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, sẽ thấy chân tướng. Hết thảy các pháp, giống như chúng ta coi TV, chỉ cần tách ĺa khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước, quư vị sẽ thấy chân tướng, chẳng bị những h́nh ảnh trên TV nhiễu loạn, chẳng bị xoay chuyển. Quư vị bị h́nh ảnh xoay chuyển tức tâm quư vị chẳng làm chủ được, vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, đă bị xoay chuyển, bị quấy nhiễu. Nếu quư vị chẳng khởi tâm động niệm, chẳng phân biệt, chấp trước, sẽ thể chuyển nó, chẳng thể chuyển quư vị. Nhược năng chuyển cảnh, tắc đồng Như Lai (nếu thể chuyển cảnh, sẽ giống với Như Lai), ta chẳng bị cảnh giới bên ngoài xoay chuyển, sao? Liễu giải rồi! Giống như kinh Đại Bát Nhă sáu trăm quyển, Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh Bát Nhă hai mươi hai năm, điều này chư vị đồng học đều biết. Khởi đầu, lúc vừa mới thành đạo, [đức Phật] bèn giảng Hoa Nghiêm. Hoa Nghiêm giảng trong Định; vậy, Tiểu Thừa chẳng thừa nhận, không tin, đức Phật giảng trong Định mà! Tiểu Thừa chỉ thừa nhận đức Thế Tôn sau khi thành đạo độ năm vị tỳ-kheo tại Lộc Uyển, đó khởi đầu của sự nghiệp giáo học, họ thừa nhận chuyện này, chẳng thừa nhận Hoa Nghiêm. Đức Phật giảng A Hàm mười hai năm, Phương Đẳng tám năm, Bát Nhă hai mươi hai năm, Pháp Hoa tám năm, [tổng cộng] bốn mươi chín năm, thời gian giảng Bát Nhă dài nhất. Bát Nhă tổng kết lại ǵ? bảo quư vị: Hết thảy các pháp sở hữu, rốt ráo không, chẳng thể được, đó chân tướng.

      Làm thế nào để thấy chân tướng này? Đó ĺa hết thảy tướng chính hết thảy các pháp. Quư vị ĺa vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, sẽ thấy được, sẽ thấy chân tướng của hết thảy các pháp.Lytức một, chẳng hai. Quư vị thật sự ngộ điều này, thật sự thụ dụng. Doĺanên tướng, tâm trong sạch, thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác, chẳng dấu vết pháp thế gian xuất thế gian. Dotứcnên chẳng phải không tướng. “Tứclychẳng hai, chân vọng đồng thời. Giống như màn h́nh TV chẳng phải chân vọng đồng thời ư? Chẳng phải lytứcchẳng hai ư? Màn h́nh chân, sắc tướng vọng, chân vọng nhất thể, chân vọng chẳng hai, phải liễu giải ràng điều này. Chân đâu? Chân trong vọng, lục đạo mười pháp giới, chân trong ấy, vọng đâu? Vọng trong chân; băng tần và sắc tướng đều trên màn h́nh, màn h́nh chân. [Phải nói như vậy] quư vị mới thật sự liễu giải chân tướng; vậy, bất đắc nóiThật Tướng”, quư vị chớ nên chấp trước danh từ Thật Tướng này. Trong Khởi Tín Luận, Minh Bồ Tát dạy chúng ta: Đọc kinh đừng chấp trước tướng văn tự, văn tự công cụ, phương pháp, chẳng phải mục đích, mục đích khai ngộ. Nếu quư vị chấp trước, sẽ chẳng khai ngộ. Chớ nên chấp tướng văn tự, nghe giảng th́ sao? Nghe giảng đừng nên chấp trước tướng ngôn thuyết, văn tự phù hiệu của ngôn thuyết, chớ nên chấp trước. Điều thứ hai, Ngài dạy chúng ta đừng nên chấp trước tướng danh tự. Danh từ thuật ngữ giả lập, chẳng thật. Những thứ ấy thể hướng dẫn quư vị, đừng nên chấp trước! Giống như những tấm biển chỉ đường, chúng ta muốn đến Bắc Kinh, con đường này xa lộ cao tốc (Express way), bên đường tấm biển ghiBắc Kinh. Tấm biển ấy chẳng phải Bắc Kinh, tướng danh tự. Quư vị chiếu theo phương hướng đó đi, chớ nên chấp trước tấm biển th́ mới thể tới Bắc Kinh. Nếu quư vị chấp trước Bắc Kinh ngay nơi ấy, lầm rồi! Chớ nên chấp trước danh từ thuật ngữ! Điều thứ ba, chớ nên chấp trước tướng tâm duyên. Đọc kinh, ta nghĩ điều này nghĩa ǵ, vừa nghĩ bèn trật, chớ nên suy tưởng, sao? Chẳng ư nghĩa ǵ. Quư vị suy nghĩ [một ư nghĩa nào] th́ đấy ư nghĩa của chính quư vị, chẳng thể ư nghĩa của Phật. Chớ nên suy tưởng th́ quư vị mới thể hiểu nghĩa chân thật. Nghĩa chân thật ǵ? Thưa quư vị, tâm thanh tịnh, tâm b́nh đẳng, tâm chánh giác. Sau khi khôi phục, sau khi đạt được, không chẳng biết, không chẳng thể. Người ta chẳng hỏi quư vị th́ tâm địa trong sạch, chẳng [nhận thấy chính ḿnh] biết một thứ ǵ, đó Bát Nhă tri. Người khác đến thỉnh giáo quư vị, lúc kẻ ấy hỏi quư vị, quư vị bèn ứng đối lưu loát, không chẳng biết. Không chẳng biết do đâu có? Từ tri có, tri tự tánh, tự tánh khởi tác dụng, pháp thế gian xuất thế gian đều chẳng ĺa khỏi tự tánh, vậy, kiến tánh sẽ viên măn. Huệ Năng đại kiến tánh, Ngài biết những điều do Thích Ca Mâu Ni Phật đă giảng hay không? Biết toàn bộ, chẳng cần học, [những điều ấy] đều từ tự tánh lưu xuất. Hết thảy các kinh do mười phương hết thảy chư Phật Như Lai đă nói, Huệ Năng đại biết hay không? Đều biết, chẳng thiếu một điều ǵ! vậy, kinh Phật được gọi nội học, chẳng phải hướng ngoại. Hướng ngoại sẽ cầu chẳng được. Cái cầu được do hướng ngoại tri thức, chẳng phải trí huệ; hướng nội sẽ cầu được trí huệ, chẳng phải tri thức. Trí huệ thể giải quyết vấn đề, tri thức giải quyết vấn đề mang tánh chất cục bộ, hạn chế; lại c̣n hậu quả, trí huệ chẳng giống như vậy. Chúng ta chớ nên không hiểu ràng điều này!

      Chúng ta xem tiếp đoạn dưới: Khả kiến Thật Tướng năi ngô nhân đương tiền nhất niệm tâm tánh chi cưỡng danh (có thể thấy Thật Tướng chính tên gọi miễn cưỡng của một niệm tâm tánh hiện tiền của chúng ta), cưỡng danh miễn cưỡng dùng danh từ này, chớ nên nghĩ thật, chúng ta ngàn vạn phần chớ nên coi thật. Danh khả danh, phi thường danh (cái tên thể gọi ra th́ chẳng phải cái tên thường hằng), Lăo Tử nói: Đạo khả đạo, phi thường đạo (cái đạo thể diễn tả sẽ chẳng phải cái đạo thường hằng). Thứ chân thật sẽ chẳng thể diễn tả được, chắc chắn ĺa ngôn ngữ, văn tự. vậy, đây bất đắc dĩ, miễn cưỡng thành lập một danh tướng. Ngô nhân nhất niệm tâm chi tánh, cưỡng danh vi tự tánh (Một niệm tâm tánh của chúng ta cưỡng gọi tự tánh). Tất cả những danh từ thuật ngữ này đều bất đắc phải dùng nó, dùng để làm ǵ? Nhằm dạy học thuận tiện. Hễ chấp trước sẽ trật, hễ chấp trước th́ sao? Kinh Phật biến thành Phật học, biến thành một thứ học thuật thế gian. Kinh Phật vốn ǵ? Kinh Phật vốn tự tánh, hễ chấp trước sẽ trật, lầm rồi, hễ phân biệt sẽ hỏng bét. Đây chỗ khó khăn trong Phật học. Nếu quư vị thật sự hiểu th́ đây cũng chỗ dễ dàng trong Phật học, thật sự quá dễ! Quư vị đến trường để học hành, trong đại học hiện thời ước chừng mấy trăm khoa hệ, một khoa học bốn năm, mười khoa hệ bốn mươi năm, một trăm khoa hệ bốn trăm năm, quư vị học suốt một ngàn năm vẫn chưa tốt nghiệp, chẳng cách nào học xong! Sau khi học xong th́ như thế nào? Vẫn chẳng thông một nào hết! Nếu quư vị thật sự hiểu khuôn phép Phật pháp này, sẽ dễ dàng, tốn mấy năm thật sự y giáo phụng hành, vọng tưởng, chấp trước thảy đều buông xuống, đều tách rời. Quư vị thấy: Buông chấp trước xuống, chứng A La Hán; buông phân biệt xuống, thành Bồ Tát; buông khởi tâm động niệm xuống, quư vị thành Phật. Toàn bộ trí huệ đức tướng trong tự tánh đều hiện ra, không điều chẳng thông, không chẳng thể!

      Chư vị phải nhớ: Lúc Huệ Năng đại minh tâm kiến tánh, Ngài hai mươi bốn tuổi, chẳng chuyện thế gian hay xuất thế gian nào Ngài không biết! Tuy Ngài không biết chữ, quư vị cầm một quyển sách đọc cho Ngài nghe, Ngài bèn giảng cho quư vị nghe trong sách ấy nói điều ǵ, giảng chẳng trật một nào! Trí huệ đă mở mang, từ tự tánh lưu xuất, chẳng do học được! vậy, Phật pháp chẳng phải tôn giáo, nhưng bản thân Phật pháp xưng Tông Giáo, [tức là] Tông Môn và Giáo Hạ [nói gộp chung lại], hoàn toàn chẳng liên can đến hàm ư trong [thuật ngữ] tôn giáo trong hiện thời. Tông Môn hay Giáo Hạ do dùng phương pháp giáo học khác nhau. Thiền Tông chẳng dùng sách giáo khoa, hoàn toàn dùng phương pháp tham cứu, trong ấy, rất nhiều phương pháp. Quư vị phải nhớ: Tham cứu ĺa tâm ư thức, quyết định không dùng tâm ư thức, cũng nghĩa chẳng khởi tâm, chẳng động niệm, chẳng phân biệt, chẳng chấp trước, huấn luyện điều này, khiến cho quư vị khôi phục cái tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh vốn sẵn có, khôi phục cái tâm thanh tịnh; sau đấy, tiến thêm một bước nữa khôi phục tâm b́nh đẳng. Thanh tịnh, b́nh đẳng, sau đấy nhất định khai ngộ, khai ngộ giác. Thanh tịnh công phu cảnh giới của A La Hán Bích Chi Phật. Tâm b́nh đẳng cảnh giới của Bồ Tát. Chẳng khởi tâm, chẳng động niệm sẽ khai ngộ, đại triệt, đại ngộ. Ngộ rồi khởi tu, sau khi giác ngộ, quay lại đọc kinh. Người ấy đă khai ngộ, tuyệt vời!

      Chúng ta thấy vị cổ đại đức trong Phật môn Long Thọ Bồ Tát của Ấn Độ được Trung Quốc rất tôn kính. Tám tông phái Đại Thừa Trung Quốc đều công nhận Long Thọ Tổ, Long Thọ Tổ của tám tông, các tông đều tôn trọng Ngài. Trong truyện dường như một đoạn như thế này: Thuở lăo nhân gia tại thế, Ngài học hết thảy các kinh giáo do Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói trong bốn mươi chín năm, nay chúng ta gọi Đại Tạng Kinh, Ngài học xong những kinh điển ấy, trong bao lâu? Ba tháng! Ba tháng học xong toàn bộ những Thích Ca Mâu Ni Phật đă giảng trong bốn mươi chín năm. thể như thế ư? thể chứ! Chúng tôi tin tưởng, sao? Từ Đàn Kinh, chúng ta thấy được một đoạn tin tức. Đó thiền Pháp Đạt thọ tŕ kinh Pháp Hoa, niệm được ba ngàn biến kinh Pháp Hoa. Chúng tôi tin niệm ba ngàn biến phải mất mười năm! Kinh Pháp Hoa rất dài, mỗi ngày niệm một bộ, mất thời gian mười năm. tới Tào Khê gặp Lục Tổ, khi lễ bái, đầu chẳng sát đất. Khi lễ ba lạy, tổ Huệ Năng thấy rất ràng: Đầu chẳng chấm đất. Sau khi bái xong, đứng dậy, Huệ Năng đại hỏi Sư:Ông lễ bái đầu chẳng sát đất, nhất định điều đáng để kiêu ngạo, ông hăy nói cho ta nghe. thưa:Đă tụng kinh Pháp Hoa ba ngàn biến”. Lục Tổ gật đầu:Kinh Pháp Hoa giảng những ǵ? nói không được, thỉnh giáo ngược lại Lục Tổ! Lục Tổ nói:Ta chưa nghe kinh này. Đương nhiên Ngài chẳng thể xem, không biết chữ, chẳng xem sách. Tổ nói:Nếu ông niệm ba ngàn lần th́ hăy đọc cho ta nghe. Kinh Pháp Hoa tổng cộng hai mươi tám phẩm, niệm tới phẩm thứ hai phẩm Phương Tiện, niệm tới phẩm thứ hai, Huệ Năng đại nghe:Được rồi! Chẳng cần niệm nữa, ta đă hiểu toàn bộ. Học theo cách giống như vậy, một bộ Đại Tạng Kinh thể học trong ba tháng, chắc chắn học xong, không cần phải xem toàn vẹn. Coi mấy trang đă hiểu toàn bộ. Giảng đại ư kinh Pháp Hoa cho nghe, liền khai ngộ. Sau khi khai ngộ lại lễ bái, dập đầu sát đất, thiền Pháp Đạtnhư vậy đấy! Từ một đoạn tin tức này, chúng ta liễu giải, vốn ngộ hậu khởi tu nhanh chóng dường ấy, vừa nh́n liền hiểu rơ, vừa nghe liền hiểu rơ, không cần nghe hết!

      vậy, chúng ta biết lúc ấy Long Thọ Bồ Tát chứng đắc Địa, phải biết đấy Biệt Giáo, c̣n trong Viên Giáo Trụ, đă vượt thoát mười pháp giới, Pháp Thân Bồ Tát. vậy, gọi ngộ hậu khởi tu, đó phương pháp của Thiền Tông. Đây pháp của người thượng thượng căn, chẳng dành cho người thường, người thường chẳng tu được! Lúc tôi mới học Phật, ba vị thầy của tôi cảnh cáo tôi: Chẳng cho phép tôi đọc Đàn Kinh. Họ nói:Chớ nên học theo Huệ Năng, chắc chắn học không được, chúng ta chẳng phải căn tánh ấy”. [Căn cơ] b́nh thường căn tánh thượng trung hạ, thật sự ngay cả thượng căn chúng ta vẫn chưa đạt được, căn tánh trung hạ, vẫn phải thật thà làm theo từng bước, giống như đi học, lớp Một, lớp Hai, lớp Ba, dần dần trèo lên cao. Ngài Huệ Năng một bước lên trời; [c̣n chúng ta bắt chước Ngài] lên không được sẽ tan thân, nát xương, xong luôn! vậy, nhất định phải hiểu căn tánh của chính ḿnh. Căn tánh trung hạ, chỉ cần quư vị giùi mài kinh giáo, chẳng buông bỏ, hiểu phương pháp. Phương phápy vẫn một môn thâm nhập, trường thời huân tu, sao? Tương ứng với Giới, Định, Huệ, chớ nên tâm tham, thứ ta cũng đều phải học, quảng học đa văn, hỏng rồi! Đó ǵ? Đó pháp thế gian, quư vị phân tâm, vọng niệm nhiều quá! Những thứ trong Phật pháp nhằm tu tâm thanh tịnh, vọng niệm chẳng tương ứng với tâm thanh tịnh[4]. vậy, chỉ học một môn. Một môn th́ quư vị chẳng vọng tưởng, [tuân theo] quy củ, cung kính học một môn, quyết định tuân thủ giáo huấn của Minh Bồ Tát trong Khởi Tín Luận. Ta học một bộ kinh này, chẳng chấp tướng văn tự, chẳng chấp tướng danh tự (danh từ thuật ngữ), chẳng chấp tướng tâm duyên. Mỗi ngày niệm như vậy, niệm từ đầu đến đuôi một bộ kinh này. Do vậy, kinh Đại Thừa rất hiệu quả, như ngài Pháp Đạt cũng rất lỗi lạc. Quư vị thấy Ngài niệm một bộ kinh Pháp Hoa mười năm, thể thấy tâm Ngài đă định. Nếu tâm Ngài chưa định, Huệ Năng đại giảng cho Ngài mấy câu, Ngài thể khai ngộ được chăng? sao nay chúng ta đọc Đàn Kinh chẳng khai ngộ, Ngài khai ngộ? Người ta mười năm Pháp Hoa tam-muội làm sở, nên vừa giảng bèn khai ngộ.

      Do vậy, phương pháp học tập của Trung Quốc rất phi phàm, người ngoại quốc nằm mộng cũng nghĩ không ra, trí huệ do như vậy có! Tại Trung Quốc, Nho, Thích, Đạo đều dùng phương pháp này. Phật pháp coi trọng khai ngộ, Nho Đạo cũng coi trọng, đều nói tới Thiền Định. Trước đây, trong trường thục, thầy coi trọng điều nơi tṛ? Ngộ tánh, chớ nên chướng ngại ngộ tánh của tṛ. Tṛ học đồng thời rất nhiều thứ sẽ chẳng ngộ tánh, cái tṛ học được tri thức, chẳng khai ngộ. Phương pháp này thật sự chỉ tại Cổ Ấn Độ Trung Quốc, trong các quốc gia khác rất ít, chưa hề nghe nói tới. Một môn thâm nhập, trường thời huân tu, huân thành ǵ? Huân thành tam-muội. Nếu chúng ta mỗi ngày niệm kinh Lượng Thọ, kinh văn của kinh Lượng Thọ chẳng dài, người thật sự tu hành trong một ngày thể đọc mười biến hay chín biến, mỗi lần bốn mươi phút, đại khái mỗi ngày mất tám giờ. Niệm kinh ǵ? Tu Định, chẳng khác tham Thiền của Thiền Tông. Họ dùng phương pháp tham cứu để tu Định, chúng ta dùng phương pháp đọc kinh để tu Định. Dùng phương pháp Niệm Phật cũng thể tu Định. Nói chung, tám vạn bốn ngàn pháp môn tám vạn bốn ngàn phương pháp tu Định khác biệt. Quư vị phải dựa theo quy củ này để làm, chớ nên tam tâm nhị ư, một môn thâm nhập, sau một thời gian lâu dài sẽ định, định tới một tŕnh độ nhất định, tự nhiên sẽ khai ngộ. Sau khi đă ngộ, lại học hết thảy kinh giáo rất dễ dàng, vừa xem liền hiểu rơ, chướng ngại cũng chẳng có, đó ǵ? Trí huệ khai rồi! Giáo Hạ khai trí huệ, tiểu ngộ, đại ngộ, đại triệt đại ngộ. Tích lũy tiểu ngộ biến thành đại ngộ, tích lũy đại ngộ biến thành đại triệt đại ngộ. Đó gọi tiệm tu, [tức là] từng bước một nâng cao lên. Người căn tánh trung hạ thể làm được. vậy, thầy tôi dạy tôi đi theo con đường này, tôi cũng rất nghe lời; nhưng Đàn Kinh tôi vẫn đọc, tôi vẫn hết sức hoan hỷ; trong hoàn cảnh này, cả đời tôi chẳng đạo tràng, chẳng chùa chiền. Học hội của chúng ta do các tại Hương Cảng phát tâm tạo dựng, họ đổng sự hội (board of directors) quản lư, đây cũng chẳng phải chỗ của tôi. Cả đời này, đâu duyên t́m tôi, tôi liền đến đó. Lúc đi, nói chung tùy duyên, họ thích nghe kinh ǵ, đến bảo tôi phải giảng kinh ấy, gần như tôi đều đáp ứng. vậy, cả đời này, giảng kinh luận cũng rất nhiều, nói chung mấy chục bộ. Tôi cũng mong hoàn toàn giống như cổ nhân một môn thâm nhập, nhưng chẳng duyên ấy. Nếu phước báo rất lớn, quư vị mới thể làm được. Chẳng đại phước báo sẽ không được. Đến mọi nơi kết duyên, nói chung nghe lệnh người khác, hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức; nhưng pháp bản thân tôi học Niệm Phật, niệm Phật chẳng gián đoạn.

      đây nói tới nhất niệm tâm, chúng ta hiểu nhất niệm tâm. Nhất niệm ấy chính thỉ minh, cũng tự tánh. vậy, theo Pháp Tướng Duy Thức, A Lại Da chân vọng ḥa hợp, một nửa chân, một nửa vọng. Chúng ta dùng màn h́nh TV làm tỷ dụ, đó chính hiện tượng này. Quư vị thấy màn h́nh thật, hiện tượng trong ấy vọng, chân vọng ḥa hợp. Vọng A Lại Da, chân khi chẳng hết thảy các tướng, đó tánh, tự tánh. vậy, nhất niệm tâm tánh, cưỡng gọi tự tánh. Chân tánh chẳng phải vật chất, cũng chẳng phải tinh thần. Do chẳng phải vật chất, ngũ căn của chúng ta duyên chẳng được; mắt, tai, mũi, lưỡi, thân chẳng duyên được nó. chẳng phải tinh thần; vậy, ư thức của chúng ta chẳng duyên được nó. Miễn cưỡng gọi tên, đặt cho một tên gọi Tự Tánh. rất nhiều [danh xưng], đức Phật gọi Chân Như, Bổn Tánh, Pháp Tánh, rất nhiều danh từ, nhưng đều cùng một chuyện. Đối với chuyện này, đức Phật nói ra rất nhiều danh từ; đấy cũng phương tiện dạy học thiện xảo nhằm bảo quư vị chớ nên chấp trước, chỉ cần hiểu ư nghĩa này được rồi, chớ nên nghiêm túc chấp trước. Danh tướng chẳng khẩn yếu, chẳng quan hệ, kiến tánh mới thật sự trọng yếu.

Nhị Tổ mịch tâm bất khả đắc, tức thịan tâm cánh, đản bất khả ngôn kỳ (Nhị Tổ t́m tâm chẳng thể được, chính tâm đă an rồi, nhưng chẳng thể nói tâm không). Trong câu chuyện này, Nhị Tổ ngài Huệ Khả thuộc Thiền Tông. Đạt Ma Tổ tới Trung Quốc truyền pháp môn Thiền này, Trung Quốc, Ngài được coi Tổ; Huệ Khả đại truyền nhân của Ngài, minh tâm kiến tánh trong hội của Ngài. Câu chuyện này các đồng tu học Phật đều biết. Đạt Ma Tổ giống như bế quan tại chùa Thiếu Lâm, sao? Chẳng gặp người căn tánh như vậy để truyền pháp; vậy, Ngài chỉ đành tự ḿnh bế quan nhập định, chờ người truyền pháp. Đợi rất nhiều năm, một người xuất gia như thế hướng về Ngài cầu pháp, tâm địa rất kiền thành, rất cung kính thầy. vậy, chư vị phải biết: Điều kiện trọng yếu nhất của truyền nhân tôn sư, trọng đạo. Quư vị chẳng tôn trọng thầy, chẳng tôn trọng điều ḿnh sẽ học, Phật, Bồ Tát truyền cho quư vị, ích! Quư vị chẳng cách nào tiếp nhận. Tuyệt đối chẳng phải thầy mong quư vị phải tôn trọng Ngài, không phải! Vị thầy nào [mong được quư vị tôn trọng] sẽ chẳng phải chân thiện tri thức, kẻ c̣n ham danh. Chẳng phải vậy! [Tôn trọng thầy tức là] tâm quư vị chân thành cầu đạo. Ấn Quang đại nói: Một phần thành kính được một phần lợi ích, mười phần thành kính được mười phần lợi ích. Tâm thành kính của quư vị được biểu hiện qua điều này, thầy thấy tâm quư vị mười phần thành kính, thầy sẽ chẳng bỏ quư vị. Một vị thầy cả đời chẳng khác, mong muốn gặp được một học tṛ giỏi để thể truyền đạo của ḿnh. Đó như người Trung Quốc thường nói: Bất hiếu hữu tam, hậu vi đại (Bất hiếu ba điều, không người kế tục điều bất hiếu lớn nhất). Hậu nhân của thầy người truyền pháp. Điều này hết sức trọng yếu!

      Huệ Khả mười phần thành kính, mùa Đông trời đổ tuyết, ngoài cửa, Đạt Ma Tổ nhập định bên trong, ngoài cửa, [tức là] đứng ngoài cửa, tuyết phủ đến đầu gối, thể thấy trời đổ tuyết rất lâu, tuyết đóng dầy như thế, vẫn chẳng bỏ đi, một mực đứng đó. Đạt Ma Tổ biết, nh́n hỏi, h́nh như quỳ gối nơi đó, Tổ hỏi:Ông đến cầu điều ǵ? thưa:Tâm con chẳng an, xin đại an tâm cho con. Đạt Ma Tổ nói: Ông lấy cái tâm ra đây, ta sẽ an thay cho ông. Nay chúng ta thấy rất nhiều tượng Đạt Ma giơ một tay ra, đó ư nghĩa này! Quư vị lấy tâm ra, ta sẽ thay quư vị an nó. Huệ Khả t́m măi, t́m không được, tâm rốt cuộc đâu? Kinh Lăng Nghiêm bảy chỗ gạn tâm, thật sự chẳng t́m được! Huệ Khả bèn thưa: T́m tâm trọn chẳng thể được, nói lời ấy, con chẳng t́m được tâm chỗ nào cả! Đạt Ma Tổ trả lời: Ta đă an cái tâm của ông rồi! Một câu nói này của Ngài đă đánh thức Huệ Khả, Ngài bèn khai ngộ. Chư vị phải hiểu: Tâm người ta đạt tới thanh tịnh; vậy, sau khi được chỉ điểm liền b́nh đẳng. Tâm b́nh đẳng Phật tâm, tâm Lục Độ Bồ Tát tâm, tâm b́nh đẳng Phật tâm, Ngài lập tức khai ngộ. vậy, t́m tâm trọn chẳng thể được! Quư vị chẳng thể nói không tâm. Nếu nóit́m tâm chẳng thể được, bèn hiểunhư vậy chẳng tâm, trật mất rồi! Nếu chỗ này, quư vị đưa ra câu trả lời như thế này:Chẳng phải không tâm ư?Quư vị đă rơi vào hầm minh rồi, vĩnh viễn chẳng khai ngộ. Phật pháp vĩnh viễn sống động, nơi đâu? Ngay chính lúc này, từ đầu đến cuối ngay trong một niệm ấy; nhưng một niệm ấy chẳng thể được, một niệm ấy vậy? Trôi qua rất nhanh! Khi phàm phu chúng ta dấy lên một niệm, Di Lặc Bồ Tát đă giảng một [thô] niệm (một niệm chúng ta thể nhận biết) tới ba mươi hai ức trăm ngàn [tế] niệm. Chính một niệm ấy, tuy một niệm chẳng thể được, chẳng thể nói không!

      Lục Tổ vân: kỳ tự tánh năng sanh vạn pháp, diệc bất năng chấp vi hữu (Lục Tổ nói:Nào ngờ tự tánh thể sanh vạn pháp, vẫn chẳng thể chấp có). Đối với trụnhư chúng ta nói hiện thời, nhà Phật gọi vạn pháp, haypháp giới. Y báo chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới thể sanh ra vạn pháp. Tuy y báo chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới bày ra trước mặt, quư vị chẳng thể nói có. Thân thể hiện thời của chúng ta, đồng tu đạo hữu đông như thế cùng ngồi một chỗ, chẳng thể nói có, đấy cảnh giới. Người ta hỏi chúng ta hay không? Chúng ta trả lời có, sao? Quư vị phân biệt, chấp trước, khi tôi quư vị chung một chỗ, tôi cũng phân biệt, cũng chấp trước, nên chúng ta mới thể tṛ chuyện, trao đổi với nhau. Nếu tôi nóichẳng , quư vị sẽ coi tôi dị loại, rắc rối to! vậy, chư Phật, Bồ Tát thị hiện trong thế gian này, phải ḥa quang đồng trần cùng hết thảy chúng sanh. Đức Phật thuyết pháp, đă giảng rất ràng, Ngài dựa vào ǵ? Nhị Đế! Đức Phật dựa vào Nhị Đế để giảng kinh, thuyết pháp cho hết thảy chúng sanh. Nhị Đế: Thứ nhất Tục Đế, sự hiểu biết giải thông thường của chúng sanh. Thuận theo những chúng sanh hiểu rơ, nói với quư vị hiếu, đễ, trung, tín, quư vị hiểu ngay. Nói Ngũ Luân, Ngũ Thường, quư vị hiểu liền, đó ǵ? Thế Tục Đế (Tục Đế). Tới khi cảnh giới của quư vị đă nâng lên cao hơn, bèn giảng Chân Đế. Đạt Ma Nhị Tổ nói về lẽ chân, quả thật, chúng ta nghe chẳng hiểu, rành rành có, sao quư vị nói chẳng có? Đúng chẳng có, nhưng chúng ta hiểu lầm, tưởng thật sự có. Phật cũng chẳng tranh căi với chúng ta, quư vị nói th́ có, quư vị nói không th́ không! Hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức, giúp quư vị nâng cao lên từ từ. Đây phương pháp áp dụng cho tuyệt đại đa số mọi người!

      Quư vị thấy Đạt Ma Tổ Trung Quốc nhiều năm như vậy, độ được một người Huệ Khả; Huệ Khả cũng độ một người, suốt đời chỉ độ được một người Tăng Xán, măi cho đến Huệ Năng, suốt thời Ngũ Đại[5] đều đơn truyền. Ngũ Tổ Nhẫn ḥa thượng cũng độ một người. Huệ Năng đại Lục Tổ độ bốn mươi ba người, chưa tiền lệ trong lịch sử. Ngài dạy bốn mươi ba người đều đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, đúng trước sau Ngài chẳng hề trường hợp nào giống như vậy! Sau thời Lục Tổ chẳng t́nh h́nh này, thầy chỉ dạy được đôi ba người khai ngộ, dường như tối đa được năm người, nhiều hơn nữa chẳng có! thể thấy chuyện này khó khăn lắm! Trong thời đại hiện tại, ai khai ngộ hay không? Xưa kia, tôi sang Hương Cảng giảng kinh vào năm một ngàn chín trăm bảy mươi bảy (1977), nơi tôi giảng kinh Trung Hoa Phật Giáo Đồ Thư Quán của lăo pháp Đàm trên đường Giới Hạn (Boundary Street), lần đó giảng kinh Lăng Nghiêm. Tôi nghe băng thâu âm lời khai thị lăo pháp Đàm trong Phật Thất, khi tôi đến đó, lăo ḥa thượng đă văng sanh mấy năm rồi, ba bốn năm, chẳng được gặp mặt. Trong lời khai thị, bảo, cả đời Ngài đă từng gặp người đắc Định, tức đắc Thiền Định trong Thiền Tông, Ngài đă thấy, cũng từng nghe nói, nhưng khai ngộ th́ không chỉ chưa hề thấy, cũng chưa hề nghe nói tới. Nên biết lúc Đàm lăo pháp nói [lời ấy], Ngài đă chín mươi tuổi.

      Gần đây nhất, đại khái hai mươi năm trước, tôi quen biết lăo Hoàng Niệm Tổ. Lúc lăo nhân gia c̣n sống, mỗi năm tôi sang Bắc Kinh tối thiểu hai lượt để gặp cụ. Hai người chúng tôi đều học bản kinh này, tức bản hội tập của lăo Hạ Liên Cư, không ai giảng bản này. Tôi hải ngoại giảng bản này, cụ trong nước giảng bản này, trong nước cũng chẳng người thứ hai giảng. vậy, hai người chúng tôi gặp nhau rất hợp ư. Cụ bảo tôi: Cụ học Thiền, cũng như học Mật, đều thành tựu khá. Cụ bảo tôi: Trong thời đại hiện tiền này, căn tánh Thiền Mật đều chẳng có. Ngay cả tham Thiền đắc định c̣n chẳng thấy; học Mật, tam mật tương ứng, tức thân thành Phật cũng chẳng có! Cụ nói từ nay về sau, thể thành tựu trong Phật pháp chỉ niệm Phật. Thầy của cụ lăo Hạ Liên cũng từng học Thiền, cũng từng học Mật, lúc mất bèn niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, Hoàng lăo cũng giống như thế. Lúc cụ ngă bệnh, đă cho tôi biết, mỗi ngày niệm mười bốn vạn câu Phật hiệu, đúng buông xuống vạn duyên, những điều đă học trong cuộc đời cũng đều buông xuống, một câu Phật hiệu đưa cụ đi văng sanh. Đây đại thiện tri thức thị hiện, hiện thân thuyết pháp cho chúng ta biết pháp sẽ thể thành tựu, do pháp này sẽ thể thành tựu.

      Nhất trong hiện thời, hội động loạn, tai nạn liên tiếp xảy ra, người b́nh thường chẳng c̣n kiêng bàn nói tai nạn. Trước đây, trong các cuộc gặp gỡ quốc tế, chẳng hề bàn chuyện tai nạn. Năm nay, tôi Úc, trong cuộc phỏng vấn năm tôn giáo, hết thảy mọi người đều bàn vấn đề này. Vài hôm trước, đài truyền h́nh Phượng Hoàng cũng phỏng vấn tôi về đề tài này, thể thấy hết thảy mọi người rất coi trọng [chuyện này]. Chúng tôi giảng kinh Hoa Nghiêm chưa xong, đă giảng đến bốn ngàn giờ, nhưng cũng hội hiện tại cần thiết, tạm ngưng kinh Hoa Nghiêm, giảng kinh Lượng Thọ một lần nữa, phối hợp giữa quốc nội Đài Loan, nơi khác tổ chức Tam Thời Hệ Niệm một trăm thất, đều đem công đức của những chuyện này hồi hướng cho Trung Quốc, cho nơi này, cho toàn bộ thế giới, mong rằng do công đức này, tai nạn thể giảm nhẹ, chậm xảy ra. Muốn hoàn toàn hóa giải, sợ rằng sức chúng ta chưa làm được! vậy, chúng ta đồng tâm hiệp lực làm chuyện này, tôi giảng bộ đại kinh này để phối hợp với họ. Giảng kinh này viên măn, tôi lại giảng tiếp kinh Hoa Nghiêm. Đây nhân duyên giảng kinh lần này.  

Chúng ta xem đoạn tiếp theo: Cái ly tứ cú, tuyệt bách phi, phi lượng, phân biệt chi sở năng giải (Ấy ĺa tứ cú, dứt bách phi, chẳng thể do suy lường, phân biệt ḥng hiểu được). Tứ có, không, cũng cũng không, chẳng phải chẳng phải không, bốn câu này. Những điều này đều nói về tâm phàm phu của chúng ta, tâm phàm phu quả thật tâm luân hồi; trong tâm luân hồi, phân biệt, chấp trước nghiêm trọng nhất. Nay chúng ta biết: Trong Thật Tướng của các pháp, Không đều chẳng có. Không đối lập.Cũng có, cũng khôngchẳng phải có, chẳng phải khôngđều luận, Phật pháp gọi [những điều đó là] luận. luận chẳng ư nghĩa chân thật. Những gọi chẳng nghĩa chân thật? Trái nghịch chân tướng sự thật. Lời này thật, tuyệt đối chẳng giả; nhưng lời như vậy người tu lâu thể hiểu, kẻ mới học sẽ khá khó hiểu. Người nào thể hoàn toàn tiếp nhận, chẳng hoài nghi? Phải người thượng căn trong Phật pháp; nhưng căn tánh thể nâng cao lên nhờ huân tu. Chúng ta kẻ hạ căn, chẳng sao hết! Chỉ cần tuân thủ giáo huấn của cổ thánh tiên hiền, [điều này] khiến cho chúng tôi nhớ đến một câu ngạn ngữ của Trung Quốc: Bất thính lăo nhân ngôn, ngật khuy tại nhăn tiền (chẳng nghe lời người già, bị thua thiệt trước mắt), lăo nhân ai? Chư Phật, Bồ Tát lăo nhân, cổ thánh tiên hiền lăo nhân. Tôi do để tin văn hóa Trung Quốc chẳng phải chỉ năm ngàn năm, văn hóa Cổ Ấn Độ truy ngược về thời đại La Môn hơn một vạn năm, Trung Quốc trọn chẳng thua kém họ. Chúng ta nói [văn hóa Trung Quốc lịch sử] năm ngàn năm ǵ? thời đại thượng cổ chẳng văn tự, chẳng ghi chép, đều dựa vào truyền khẩu, từ đời này truyền sang đời kia; Ấn Độ vẫn như vậy, họ không coi trọng lịch sử, c̣n người Trung Quốc coi trọng ghi chép lịch sử. Do đó, Khổng phu tử nói bản thân lăo nhân gia thuật lại chứ không trước tác, tin tưởng, chuộng cổ. Tôi cảm thấy hai câuy của Luận Ngữ cùng quan trọng, đó ǵ? Tu học thành tựu nhờ vào đâu? Thái độ tu học. Câu này nói cả đời Khổng Tử chẳng sáng tạo, chẳng phát minh, chẳng lỗi lạc, những Ngài học, tu, dạy, truyền lại, hết thảy đều của cổ thánh tiên hiền. Trong Luận Ngữ rất nhiều câu tôi tin từ cả ngàn vạn năm trước truyền lại, lăo nhân gia thâu thập, hệ thống hóa, chỉnh lư, dùng văn tự ghi lại lời cổ thánh tiên hiền để lưu truyền hậu thế. vậy, nói: Đại Thành Chí Thánh Tiên đă tập đại thành. Công đức này lượng, biên, chẳng văn tự của Ngài ghi chép, những thứ được truyền lại cũng rất ít, đây cống hiến lớn nhất của Ngài đối với người đời sau.

      Chúng ta nên thái độ này, thái độ này của Phu Tử tâm thanh tịnh, chẳng tự tự lợi, chẳng tiếng tăm, lợi dưỡng. Ngài yêu thích những giáo huấn của cổ nhân, nói cách khác, Ngài ưa chuộng thánh nhân, Ngài thánh nhân. Nếu Ngài chẳng phải thánh nhân, làm sao thể ưa thích thánh nhân? Giống như năm mươi ba lần tham học trong kinh Hoa Nghiêm, Thiện Tài đồng tử tham phỏng tỳ-kheo Cát Tường Vân. Tỳ-kheo Cát Tường Vân Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo, chính Ngài đă chứng đắc. Nếu Ngài chẳng phải Trụ, sẽ chẳng thấy Trụ; chẳng phải Địa sẽ chẳng thấy Địa. Khổng Tử thể thấy, hiểu nghĩa chân thật trong những giáo huấn của thánh nhân, Ngài đă đạt tới cảnh giới ấy. Đă đạt th́ dùng những giáo huấn của người khác được rồi, cần phải dùng của chính ḿnh! Nêu gương tốt cho người đời sau; đó chính xác, chúng ta phải nên học theo điều này! vậy, tôi giảng bộ kinh này, lần này lần thứ mười một, phương pháp sử dụng trong lần thứ mười một khác hẳn, giảng bản chú giải của lăo Hoàng Niệm Tổ; đây thuật nhi bất tác, tín nhi hiếu cổ, chẳng của chính ḿnh, cớ cứ phải của chính ḿnh! Hoàng lăo chú giải, tôi đồng ư, chẳng phải giống hệt như của chính ḿnh ư? Cớ cứ phải nêu ra những thứ của chính ḿnh? Nêu ra những thứ hay đẹp của người khác, mong muốn hết thảy mọi người học tôn trọng cổ thánh tiên hiền, sẽ đại lợi ích! Chẳng tạo tiếng tăm, lợi dưỡng cho chính ḿnh, chẳng làm chuyện tự tự lợi, khiến cho tâm của chính ḿnh được khôi phục sự thanh tịnh, chẳng nhiễm mảy trần!

      Ĺa tứ cú, tuyệt bách phi, được tổng kết ngay sau đó, phi lượng phân biệt chi sở năng giải (chẳng phải suy lường, phân biệt ḥng hiểu được). Chúng ta dùng tâm ư thức, tâm ư thức chính nghiên cứu trong hiện thời, nghiên cứu ǵ? Dùng thức thứ sáu thức) để phân biệt, dùng thức thứ bảy để chấp trước. thể nghiên cứu những thứ chân thật hay chăng? Chẳng thể nào! Đấy chỗ khác biệt giữa khoa học truyền thống Trung Quốc. Truyền thống Trung Quốc thể kiến tánh, thể khôi phục trí huệ trong tự tánh, khoa học không làm được, sao không làm được? Khoa học dùng tâm ư thức. Dùng tâm ư thức sẽ đạt được tri thức, chẳng phải trí huệ, hai chuyện [khác nhau]. Cổ Ấn Độ Trung Quốc cổ xưa coi trọng trí huệ, tri thức hạng nh́. Hai mươi lăm bộ sử tri thức, mười ba kinh[6] trí huệ. Tri thức thể dùng làm tài liệu tham khảo, nhưng quyết sách, quyết đoán nhất định phải trí huệ. vậy, Trung Quốc mấy ngàn năm ổn định đạo lư. Những thứ của tổ tiên thật sự tốt đẹp, nếu chúng ta coi thường sẽ đại bất hiếu, [tổ tiên] lưu lại những thứ quá tốt như vậy, sao lại hời hợt coi thường?

      Tiếp theo linh minh đỗng triệt, trạm tịch thường hằng. Đă hết thời gian rồi, ngày hôm nay chúng ta học tới đây, ngày mai chúng ta sẽ học tập tiếp câu này. Nghĩa trong đoạn này rất sâu, chúng ta phải chú tâm cùng nhau học tập trong lần tới. À! Ngày hôm nay học tới đây!

Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa

Phần 10 hết



[1] Tứ Khố Toàn Thư được chia thành bốn phần: Kinh, Sử, Tử, Tập. Tập chính là phần thu thập tất cả các trước tác văn chương, thi phú.

[2] Phương ngoại danh xưng chỉ người xuất gia. Bạn phương ngoại tức tăng kết giao với người trong thế tục.

[3] Hoàng Đế c̣n gọi Hiên Viên Hoàng Đế, được coi thủy tổ của người Hán. Theo huyền sử, ông trị từ năm 2697 đến năm 2598 trước Công Nguyên. Theo Hán Thư, Hoàng Đế vốn họ Cơ,con của Thiếu Điển, do sống tại Hiên Viên nên lấy Hiên Viên làm tên. Về sau, tên ấy được coi họ (với danh xưng Hiên Viên Thị). Sách Sử lại nói ông vốn họ Công Tôn, nhưng cũng công nhận do ông sống tại Hiên Viên nên lấy Hiên Viên làm tên. Do đặt tên nước Hữu Hùng, nên c̣n gọi Hữu Hùng Thị. Hoàng Đế liên kết Viêm Đế đánh bại Xi Vưu (thủ lănh bộ tộc Cửu Lệ) tại cánh đồng Trác Lộc. Về sau, do mâu thuẫn quyền lợi, Viêm Đế Hoàng Đế đánh nhau. Viêm Đế thua trận Bản Tuyền, Hoàng Đế trở thành Cộng Chủ (thủ lănh liên minh các bộ lạc thời ấy) của cả Trung Nguyên. Các phát minh trong thời kỳ này đều được gán cho Hoàng Đế như làm nhà cửa, đóng ghe thuyền, chế kim chỉ nam, làm lịch, y học v.v... Tương truyền, một đại thần của vua Thương Hiệt đă chế ra chữ Hán. Vợ Hoàng Đế Luy Tổ được coi người đầu tiên t́m ra cách kéo kén, dạy phụ nữ ươm tơ, dệt lụa.

[4] Ư nói các pháp môn trong Phật pháp đều nhằm tu thanh tịnh, nhưng nếu hành giả tham cầu học càng nhiều pháp môn càng tốt, tưởng đó quảng học đa văn, thật ra vọng niệm, vọng niệm chẳng tương ứng với tâm thanh tịnh!

[5] Ngũ Đại giai đoạn lịch sử từ năm 907 đến năm 979, trải qua năm triều đại chính Hậu Lương (907-923, do Châu Hoảng tức Châu Ôn sáng lập), Hậu Đường (923-937, do Tồn Úc sáng lập), Hậu Tấn (936-947, do Thạch Kính Đường sáng lập), Hậu Hán (947-951, do Lưu Trí Viễn sáng lập), Hậu Châu (951-960, do Quách Oai sáng lập). Trong giai đoạn này, ngoài năm vương quốc chính nói trên, tất cả mười vương quốc được sáng lập diệt vong trong một thời gian ngắn nên sử thường gọi chung Ngũ Đại Thập Quốc. Mười nước ấy Ngô (904-937, do Dương Hành Mật sáng lập), Nam Đường (937-975, do Biện sáng lập), Ngô Việt (907-978, do Tiền Liêu sáng lập), Sở (897-951, do Ân sáng lập), Mân (909-945, do Vương Thẩm Tri), Nam Hán (917-971, do Lưu Nghiễm sáng lập), Tiền Thục (907-925, do Vương Kiến sáng lập), Hậu Thục (934-965, do Mạnh Tri Tường sáng lập), Nam B́nh (c̣n gọi Kinh Nam hay Bắc Sở, 924-963, do Cao Quư Hưng sáng lập) Bắc Hán (951-979, do Lưu Mân sáng lập).

[6] Thoạt đầu, Trung Hoa chỉ coi hai mươi bốn bộ sử được coi sách lịch sử chính thống, đến năm 1921, tổng thống Từ Thế Xương hạ lệnh đưa thêm Tân Nguyên Sử (do Kha Thiệu Mẫn biên soạn) vào danh sách ấy nên mới hai mươi lăm bộ sử. Về sau, ngoại trừ tại Đài Loan vẫn chấp nhận quy định này, các nơi khác thay thế Tân Nguyên Sử bằng Thanh Sử Cảo (do Triệu Nhĩ Tốn chủ biên). Hai mươi bốn bộ sử truyền thống Sử (do Thiên biên soạn dưới thời Đông Hán), Hán Thư (do Ban Cố biên soạn), Hậu Hán Thư (do Phạm Việp biên soạn), Tam Quốc Chí (do Trần Thọ biên soạn), Tấn Thư (do Pḥng Huyền Linh chủ biên), Tống Thư (do Trầm Ước biên soạn), Nam Tề Thư (do Tiêu Tử Hiển biên soạn), Lương Thư (do Diêu Liêm biên soạn), Trần Thư (do Diêu Liêm soạn), Ngụy Thư (do Ngụy Thâu soạn), Bắc Tề Thư (do Bách Dược soạn), Châu Thư (do Lệnh Hồ Đức Phân chủ biên), Tùy Thư (do Ngụy Trưng chủ biên), Nam Sử (Lư Diên Thọ biên soạn), Bắc Sử (Lư Diên Thọ biên soạn), Cựu Đường Thư (do Lưu chủ biên), Tân Đường Thư (do Âu Dương Tu biên soạn), Cựu Ngũ Đại Sử (Tiết Chánh chủ biên), Tân Ngũ Đại Sử (Âu Dương Tu biên soạn), Tống Sử, Liêu Sử, Kim Sử (ba bộ này đều do Thoát Thoát chủ biên), Nguyên Sử (do Tống Liêm biên soạn), Minh Sử (do Trương Đ́nh Ngọc biên soạn).

Thập Tam Kinh mười ba bộ kinh điển chủ yếu của Nho gia các tử Trung Hoa kể từ đời Tống bắt buộc phải học nếu muốn đỗ đạt, gồm kinh Thi, kinh Thư, Lễ Kư, Châu Dịch, Tả Truyện (Tả Thị Xuân Thu bộ biên niên sử nhằm chú giải kinh Xuân Thu do Tả Khâu Minh biên soạn), Công Dương Truyện (chú giải kinh Xuân Thu do Công Dương Cao người nước Tề biên soạn), Cốc Lương Truyện (chú giải kinh Xuân Thu do Cốc Lương Tử biên soạn), Châu Lễ (tương truyền do Châu Công biên soạn, viết về cách tổ chức quan chế đời Châu), Nghi Lễ (ghi chép các thứ nghi lễ đời Châu), Luận Ngữ (ghi chép lời dạy của Khổng Tử), Hiếu Kinh (ghi chép lời Khổng Tử dạy Tăng Sâm về đạo hiếu), Nhĩ Nhă (bộ từ điển đầu tiên của Trung Hoa, không tác giả) Mạnh Tử (sách ghi lại tưởng, quan điểm của Mạnh Tử, thường được tin do chính Mạnh Tử biên soạn, do các học tṛ của ông như Vạn Chương, Công Tôn Sửu v.v... chỉnh lư).