Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa

淨土大經解演義

phần 11

Chủ giảng: Lăo pháp sư Tịnh Không

Thời gian: Ngày 5 tháng 04 năm 2010

Địa điểm: Hương Cảng Phật Đà Giáo Dục Hiệp Hội

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo chánh: Đức Phong và Huệ Trang

 

Tập 21

 

Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa Kinh Vô Lượng Thọ Giải, trang mười chín, ḍng thứ sáu đếm từ dưới lên, xem câu này từ trang sau. Chúng ta đọc kinh văn: “Linh minh đỗng triệt, trạm tịch thường hằng. Cô minh lịch lịch, bỉnh hách hư không. Linh quang độc diệu, huưnh thoát căn trần” (Linh minh đỗng triệt, trạm tịch thường hằng, riêng sáng vằng vặc, rạng ngời hư không, linh quang độc diệu, thoát sạch căn trần), chúng ta xem tới chỗ này. Mấy câu này do cổ đại đức tán thán, miêu tả tự tánh. Thật ra, chẳng có cách nào diễn tả tự tánh, nói cách nào cũng chẳng trọn vẹn, chỉ có thể nói được một phần rất ít. Tổng hợp cách nói của nhiều vị cổ đức, chúng ta có thể lănh hội đôi chút, tổ sư bảo chúng ta: Chuyện này phải đích thân chứng th́ mới có thể hiểu rơ, đó gọi là: “Như nhân ẩm thủy, lănh noăn tự tri” (như người uống nước, nóng lạnh tự biết); quư vị chưa chứng đắc, nói kiểu nào, dù là Phật nói, hay Bồ Tát nói, [đối với quư vị] cũng đều rất khó hiểu, [v́] nó chẳng phải là cảnh giới của chúng ta. Trong đoạn này, cũng giảng rất rơ ràng, đó chính là Lư Thể của vạn hữu trong vũ trụ, tất cả hết thảy các pháp đều từ chỗ này biến hiện ra.V́ vậy, nó có thể sanh, có thể hiện, A Lại Da là có thể biến (năng biến). Cái “có thể sanh, có thể hiện” sẽ nhất định là đă có A Lại Da. Nếu không có A Lại Da, sẽ chẳng thể “có sanh, có hiện”. Cơi Thường Tịch Quang được nói trong Tịnh Tông chính là tự tánh, chữ “đại quang minh tạng” cũng nhằm h́nh dung tánh thể này. Nó chẳng phải là hiện tượng vật chất, mà cũng chẳng phải là hiện tượng tinh thần. Chẳng phải là hiện tượng vật chất, nên năm căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân của chúng ta chẳng có cách nào tiếp xúc nó. Nó chẳng phải là vật chất, nhưng cũng chẳng phải là hiện tượng tinh thần, nên chúng ta tư duy, tưởng tượng chẳng được. V́ vậy, trong kinh Phật thường dùng bốn chữ “bất khả tư nghị”, “tư” () là tư duy, quư vị nghĩ không ra. Tư duy có giới hạn, tuy nó có công năng rất lớn, đấy là thức thứ sáu, kinh dạy chúng ta: Đối với bên ngoài, tư duy có thể duyên tới hư không, pháp giới; đối với bên trong, nó có thể duyên tới A Lại Da, nhưng chẳng thể duyên tự tánh. V́ vậy, nhất định phải là đích thân chứng th́ mới có thể biết. Đến khi nào sẽ có thể chứng đắc? Kinh dạy chúng ta: Từ Bát Địa trở lên. Có tất cả năm mươi mốt giai tầng Bồ Tát, giống như chúng ta đi học, lớp Một, lớp Hai, [có tất cả] năm mươi mốt lớp. Phải đạt tới Bát Địa, Bát Địa rất cao, cao nhất là Thập Địa Bồ Tát. Đệ Bát Địa đă thấy, kiến tánh. Nói “kiến tánh” tức là đă thật sự thấy. Nếu nói theo nghĩa rộng, Sơ Trụ trong Viên Giáo đă thấy rồi. Sau khi thấy, hăy c̣n có tập khí vô thỉ vô minh chưa đoạn! Tuy tập khí chẳng chướng ngại sự, tức là nói trong tự tánh vốn sẵn đủ trí huệ, đức năng, tướng hảo, nó chẳng bị chướng ngại. Có thể nói: Những điều này sau khi được thấu lộ, sẽ chẳng khác ǵ Phật quả rốt ráo, đó là vũ trụ thuở tối sơ được bắt nguồn như thế nào. Họ biết [những điều ấy] là do thầy nói, chứ họ chưa đích thân chứng được. Đạt tới Bát Địa sẽ đích thân chứng; vị ấy chứng đắc giống hệt như thầy đă giảng, chẳng khác nhau. Khi ấy là đích thân chứng đắc. Câu thứ nhất: “Linh minh đỗng triệt, trạm tịch thường hằng” nói về tác dụng của nó (tự tánh). Nay chúng ta gọi “linh”“cảm ứng”; đối với sự cảm ứng tột bậc vi tế, tự tánh đều có thể hiểu được, biết rơ ràng, rành rẽ sự cảm ứng ấy. Nó khởi tác dụng ra sao? Tác dụng là đối với những dao động vô cùng vi tế trong trọn khắp pháp giới, hư không giới, nó đều có thể hiểu rơ. Các khoa học gia hiện thời cũng phát hiện, họ nói trong thế gian này không có vật chất, tất cả hết thảy các hiện tượng đều là hiện tượng dao động, các khoa học gia cận đại đă nói như vậy. Phật pháp bảo khởi nguyên của vũ trụ là một hiện tượng dao động vô cùng vi tế! Trong Tu Hoa Nghiêm Áo Chỉ Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán, Hiền Thủ quốc sư đă giảng rất rơ ràng. Trong sách ấy, ba đoạn đầu quả thật [nhằm giải thích] hai câu này: Từ Nhất Thể khởi Nhị Dụng, Nhị Dụng là hiện tượng vật chất và hiện tượng tinh thần sanh khởi.

Khi sanh khởi, tác dụng gồm ba điều:

1) Thứ nhất là “châu biến pháp giới” (trọn khắp pháp giới), “đỗng triệt” (洞徹) là trọn khắp pháp giới. “Linh minh đỗng triệt” là trọn khắp pháp giới hư không giới nó đều hoàn toàn biết, nó có tác dụng ấy! Hiện tượng vật chất cũng như vậy, mà hiện tượng tinh thần vẫn như vậy. Nói theo Phật pháp, hiện tượng vật chất và hiện tượng tinh thần dung hợp với nhau; tuy là hai thứ, nhưng chúng chẳng tách rời! Trong khi chúng ta học tập vấn đề này, dùng điện ảnh hiện thời để làm tỷ dụ, đặc biệt là TV, v́ trong hiện tại, gia đ́nh nào cũng hầu như hằng ngày chẳng rời khỏi TV. Tôi tỷ dụ màn h́nh như tự tánh, các h́nh ảnh trong TV ví như các hiện tượng dao động sanh khởi, tức là hiện tượng tinh thần và vật chất vĩnh viễn chẳng thể tách ĺa tự tánh. Hễ tách ĺa th́ chúng (các hiện tượng vật chất và tinh thần) sẽ không c̣n nữa, chúng ắt phải hiển thị trên màn h́nh. Không có màn h́nh, chúng chẳng thể hiển thị. Màn h́nh là chân tánh; những h́nh tượng ấy là huyễn tướng. Một đằng là chân, một đằng là vọng. Chân là ǵ? Tướng được hiện trên màn h́nh sanh diệt trong từng sát-na. Nó có sanh diệt nên là hư huyễn, chẳng thật sự tồn tại. Màn h́nh là vĩnh hằng, vĩnh hằng không thay đổi, đó là Chân. Nhưng quư vị phải hiểu: Chân vọng bất nhị, chân vọng nhất thể, diệu dụng ở chỗ này. Khi nó khởi ra tác dụng th́ sự dao động ấy đúng là trọn khắp pháp giới.

2) Loại thứ hai là “xuất sanh vô tận”. Trong tự tánh có A Lại Da. A Lại Da là thức biến. A Lại Da là cái thức năng biến (có thể biến), hết thảy các hiện tượng là sở biến (cái được biến hiện). Y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới là sở biến. Năng và Sở bất nhị, năng biến và sở biến là một, không hai. A Lại Da ở đâu? A Lại Da ở trong Tướng Phần, trong Kiến Phần và Tướng Phần đều có, đều chẳng tách rời. Nghiệp Tướng, Chuyển Tướng, Cảnh Giới Tướng tuy một mà ba, tuy ba mà một, quyết định chẳng thể độc lập. V́ thế, gọi là hư huyễn, huyễn tướng, mộng, huyễn, bọt, bóng. Bất luận dưới trạng thái nào, Thể của chúng đều là “trạm tịch thường hằng”, “trạm” () là thanh tịnh, “tịch” () là tịch diệt. Chúng ta dùng cương lănh tu học trong tựa đề kinh này để nói sẽ dễ hiểu: Trạm là thanh tịnh, Tịch là b́nh đẳng, Thường Hằng là vĩnh hằng bất biến. Những chữ này nhằm miêu tả tự tánh và sự khởi tác dụng của tự tánh. Thể, Tướng và Dụng như kinh Hoa Nghiêm đă giảng đều thuộc trong một câu này (trạm tịch thường hằng). V́ vậy, câu này quả thật chẳng dễ hiểu cho lắm!

Tiếp theo là “cô minh lịch lịch” (riêng sáng vằng vặc) cũng là h́nh dung. “Cô” (: một ḿnh) là chỉ có tự tánh, thực sự chỉ có tự tánh là bất sanh, bất diệt, chẳng có đối lập, chẳng có tương đối. Hễ khởi lên tác dụng th́ có tương đối, quư vị thấy tinh thần và vật chất là tương đối. Tuy tương đối, chúng dung hợp với nhau, trong tinh thần có vật chất, trong vật chất có tinh thần. Hôm qua, có một vị đồng học t́m được trên mạng Internet, hôm nay đă làm thành DVD, tối qua tôi có xem một chút, h́nh như [đoạn phim ấy] dài bốn mươi lăm phút. Đó là báo cáo gần đây nhất của một nhà khoa học Mỹ đang khảo sát, nghiên cứu nhằm chứng tỏ nước có kư ức. Nếu sau khi phát hiện này được xác nhận, trong Vật Lư Học sẽ dấy lên một cuộc cách mạng rất lớn, cách mạng ǵ vậy? Hiện thời, chúng ta nói khoáng vật chẳng phải là sinh vật, nhưng nghiễm nhiên là trong ấy có thấy, nghe, hay, biết, lại c̣n có kư ức. Có kư ức th́ có thể báo thù hay không? Chúng ta xử tệ với nó, nó có báo thù hay không? Nếu có báo thù sẽ phiền lắm. Ngày nay, chúng ta phá hoại núi, sông, đại địa trên địa cầu, phá hoại chúng. Nếu chúng ghi hận, sẽ báo thù; chúng nó sẽ báo thù bằng động đất, bằng thiên tai, rất đáng sợ! Do vậy, trong kinh giáo, đức Phật một mực dạy chúng ta hăy “cung kính hết thảy”. Trong Phật pháp nói tới luân lư, luân lư là nói về quan hệ. Người thế gian chúng ta nói tới luân lư th́ chỉ nói về quan hệ giữa con người, Ngũ Luân là quan hệ cha con, quan hệ vợ chồng, quan hệ vua tôi, quan hệ anh em, quan hệ bằng hữu, nói tới những mối quan hệ này. Nhưng quan hệ được giảng trong Phật pháp không chỉ là quan hệ giữa con người với nhau, mà c̣n là quan hệ giữa con người và hết thảy động vật, Phật pháp giảng khá nhiều quan hệ! Quan hệ giữa con người và các chiều không gian khác nhau, trong các chiều không gian khác biệt lại có sinh vật, c̣n có mối quan hệ giữa con người và hoa cỏ cây cối, đó là quan hệ với thực vật, quan hệ giữa con người và núi, sông, đại địa, quan hệ giữa con người với trọn khắp pháp giới hư không giới, luân lư được giảng hết sức rộng!

Sau khi đă biết quan hệ, đức Phật sẽ dạy cho chúng ta một tâm thái: Cung kính hết thảy! Quư vị thấy sám nghi trong Phật pháp vừa mở đầu bèn: “Nhất tâm đảnh lễ, nhất thiết cung kính” (nhất tâm đảnh lễ, hết thảy cung kính). Chúng ta cung kính hoa, cỏ, cây cối, cung kính núi, sông, cung kính vạn pháp trong vũ trụ, không có ǵ chẳng dùng tâm cung kính. Nguyện thứ nhất của Phổ Hiền Bồ Tát là “lễ kính chư Phật”, bao gồm quan hệ luân lư được giảng trong nhà Phật. Đối xử tử tế với vạn vật, hoa, cỏ, cây cối, chúng nó có Thọ, Tưởng, Hành, Thức; trong những năm qua, chúng tôi cũng chứng thực chuyện này. Chúng tôi trồng trọt rau dưa, cây ăn trái đều có cảm ứng, chúng ta khởi tâm động niệm chúng nó sẽ biết, đều có cảm ứng. Chúng tôi đối xử tử tế với chúng, chúng cũng báo đáp rất tốt đẹp: Lá đặc biệt xanh, hoa đặc biệt thơm, quả đặc biệt ngọt, chúng nó báo đáp đấy! Nếu những loài chim nhỏ, trùng nhỏ muốn ăn những loài rau dưa, hoa quả ấy, chúng tôi ước định với chúng nó, chúng tôi cũng chiếu cố chúng nó, chúng nó cũng chiếu cố chúng tôi. Do vậy, vườn rau của chúng tôi nhất định chừa ra một khu nhỏ, khu ấy chuyên dành cho tiểu trùng ăn. Chúng đến đó ăn, chẳng quấy nhiễu những nơi khác. Cây ăn trái cũng vậy, chúng tôi chỉ định mấy cây chuyên dành cho các loài chim nhỏ, chim tới ăn trái cây, sẽ ăn trên mấy cây ấy. Nếu cây không được chỉ định sẵn, chúng nó chẳng quấy nhiễu. Do chúng tôi đối xử hết sức tốt đẹp với những loài trùng nhỏ, chim nhỏ ấy, đôi bên tôn trọng lẫn nhau, chiếu cố lẫn nhau, cho nên hoa quả chẳng cần thuốc sát trùng. Thuốc sát trùng có hại, khi chim nhỏ ăn vào sẽ mắc bệnh, con người ăn vào lâu ngày cũng sanh bệnh, bản thân trái cây cũng bị biến chất. V́ thế, chớ nên dùng những thứ ấy! Không chỉ chớ nên dùng thuốc sát trùng, mà phân hóa học cũng chớ nên dùng. Chúng ta chẳng cần đến những thứ ấy, dùng thiện tâm đối đăi những tiểu động vật và hoa, cỏ, cây cối, sẽ thấy đặc biệt tốt đẹp. Những nông phu lân cận đến thăm nông trường của chúng tôi đều vô cùng kinh ngạc: Các vị dùng phương pháp ǵ mà trồng tốt đẹp ngần ấy? Tôi bảo họ, tôi dùng phương pháp Niệm Phật để trồng. Trong vườn rau, vườn cây ăn quả, chúng tôi đặt máy niệm Phật, suốt hai mươi bốn giờ phát ra Phật hiệu “A Di Đà Phật” cho cây cối nghe. Chúng tôi chỉ dùng A Di Đà Phật để trồng trọt, những năm qua trồng trọt rất thành công! Vậy th́ quư vị hăy nói, đó là đạo lư ǵ? Ở đây nói “linh minh đỗng triệt, trạm tịch thường hằng” chính là đạo lư và nguyên lư ấy, nó chẳng ĺa tự tánh, từ trong tự tánh biến hiện. Do vậy, chúng ta tùy thuận Tánh Đức th́ thứ ǵ cũng tốt đẹp, trái nghịch Tánh Đức sẽ xảy ra phiền phức liền! Khoa học kỹ thuật trái nghịch Tánh Đức, có thể trồng trọt quả, hạt to đùng, nhưng chẳng ngọt, chẳng có mùi vị ǵ, thoạt nh́n ngon lành lắm, ăn vào chẳng có mùi vị ǵ! Đó là ǵ? Đấy là thiên nhiên báo thù, chúng ta đừng nên đối đăi với chúng như thế!

      Mấy câu tiếp theo đều là tán thán: “Bỉnh hách hư không” (rạng ngời hư không). Đây là tán thán “hàm dung Không Hữu” (dung chứa Không và Có) trong ba thứ trọn khắp [như sách Hoàn Nguyên Quán đă nói]; đấy cũng là như nhà Phật thường nói: “Tâm bao thái hư, lượng châu sa giới” (tâm bao trùm hư không, lượng trọn khắp các cơi có số lượng nhiều như cát), chẳng có ngằn mé. “Linh quang độc diệu, huưnh thoát căn trần” (linh quang riêng chiếu, vượt thoát căn trần), đây là đặc biệt nói với người tu hành, người tu hành hăy nên làm như thế. “Linh quang độc diệu” là nói về trí huệ, trí huệ viên măn. Trí huệ viên măn do đâu mà có? Quư vị có thể buông căn trần xuống, trí huệ và đức tướng trong tự tánh thảy đều hiện ra, “căn” là lục căn, “trần” là lục trần. Thật ra, ở đây vẫn nói về lục thức; nói cách khác, chớ nên chấp tướng! Căn và trần là hiện tượng vật chất. Lục thức: Trong căn trần bao gồm thức. Căn, trần, thức hợp thành mười tám giới. Thức là hiện tượng tâm lư. Hiện tượng vật chất và hiện tượng tâm lư thảy đều phải buông xuống, v́ sao? Chúng là giả. “Linh quang độc diệu” là chân, linh quang độc diệu là trí huệ Bát Nhă sẵn có trong tự tánh, vạn đức, vạn năng. Trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật đă dạy: “Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng của Như Lai”. Chữ “linh quang” chỉ điều ấy, chỉ cần quư vị buông phân biệt, chấp trước xuống, nó sẽ hiển hiện. “Cố Liên Tŕ đại sư tán viết: Đại tai chân thể, bất khả đắc nhi tư nghị giả, kỳ duy tự tánh dư” (V́ thế, Liên Tŕ đại sư ca ngợi: “Lớn thay chân thể! Chẳng thể nghĩ bàn th́ chỉ có mỗi tự tánh mà thôi”). Những câu này đều nhằm tán thán tự tánh. Tự tánh cũng là bất đắc dĩ, gượng đặt tên là “tự tánh”, như trong phần trước đă nói: Ngay cả cái tên “tự tánh” cũng đừng nên chấp trước; hễ quư vị chấp trước th́ cũng trật rồi!

      Đoạn tiếp theo là: “Thật Tướng chi chỉ, như thượng thô minh” (Tông chỉ của Thật Tướng đă được giảng thô thiển như trên đây), tông chỉ của Thật Tướng đă được giảng đại khái trong đoạn trước. Hết thảy các kinh Đại Thừa đều căn cứ trên Thật Tướng của các pháp để nói, đấy là chân tướng của hết thảy các pháp. Đức Phật giảng kinh căn cứ vào đâu? Căn cứ trên chân tướng của hết thảy các pháp để nói. Nói những ǵ? Những ǵ Phật nói cũng chẳng rời khỏi chân tướng của hết thảy các pháp. Chúng ta có thể nói: Thích Ca Mâu Ni Phật, thậm chí hết thảy kinh giáo do mười phương ba đời hết thảy chư Phật Như Lai đă nói, đều nhằm giảng những ǵ? Thật Tướng của chư pháp. Nếu dùng một câu đơn giản, gần gũi để nói th́ là “giảng về chân tướng của vũ trụ vạn pháp”, giảng về điều ấy. Tiếp đó, lại nói về bản kinh này: “Chí ư bổn kinh thể tánh” (c̣n như Thể Tánh của kinh này), đối với bộ kinh Vô Lượng Thọ này, “hà đắc xưng vi Thật Tướng da?” (cớ sao gọi là Thật Tướng), cũng có thể gọi là Thật Tướng ư? “Hạ thân kỳ thuyết”, [nghĩa là] tiếp đó bèn nói rơ, quả đúng như vậy! “Thế Thân Bồ Tát”, ngài Thế Thân (Vasubandhu) c̣n gọi là Thiên Thân, trong Văng Sanh Luận có mấy câu như thế này: “Trang nghiêm Phật độ công đức thành tựu, trang nghiêm Phật công đức thành tựu, trang nghiêm Bồ Tát công đức thành tựu, thử tam chủng thành tựu nguyện tâm trang nghiêm, ưng tri” (trang nghiêm cơi Phật công đức thành tựu, trang nghiêm Phật công đức thành tựu, trang nghiêm Bồ Tát công đức thành tựu. Nên biết...). Ba thứ thành tựu ấy là thành tựu trong Tây Phương Cực Lạc thế giới: Phật độ (cơi nước Phật) là y báo, Phật, Bồ Tát là chánh báo. Phật là buông toàn bộ vọng tưởng, phân biệt, chấp trước xuống. Bồ Tát là đang buông xuống, chưa buông sạch sành sanh, chưa triệt để, đấy là Bồ Tát. Bồ Tát (Boddhisattva) là tiếng Phạn, Huyền Trang đại sư giải thích, dịch sang nghĩa tiếng Hán là Giác Hữu T́nh. Hữu T́nh (Sattva) là c̣n có t́nh thức, t́nh thức chưa đoạn, nhưng đă giác ngộ. Phật th́ sao? Phật là Giác, dùng một chữ này là được rồi, phía sau chẳng có Hữu T́nh. Phật thật sự giác ngộ viên măn rốt ráo; Bồ Tát tuy giác ngộ, nhưng t́nh thức chưa đoạn, Huyền Trang đại sư dịch theo cách ấy. Chúng ta gọi những bản dịch trước thời Huyền Trang đại sư là Cổ Dịch, cổ đại đức dịch chữ Bồ Tát thành Đại Đạo Tâm Chúng Sanh, Đại Đạo Tâm là Giác, Chúng Sanh là Hữu T́nh, cũng dịch rất hay! Quả thật là từ Huyền Trang đại sư trở đi, dùng cách gọi Bồ Tát là Giác Hữu T́nh khá nhiều!

      Ba thứ thành tựu này là y báo và chánh báo trang nghiêm. Quư vị thấy thầy là một vị Phật trang nghiêm, đó là công đức của thầy đă thành tựu, Bồ Tát là học tṛ. Do vậy, trong thế giới Tây Phương, trong thế giới Hoa Tạng, chúng ta chỉ nh́n thấy người trong các thế giới ấy gồm hai loại người: Một là Phật, hai là Bồ Tát. Trừ hai loại này ra, dường như kinh chẳng nói tới ai khác. Nếu chúng ta quan sát cẩn thận thế giới ấy, sẽ thấy thế giới ấy giống như ǵ? Thế giới ấy là trường học. Trong trường học, chỉ có thầy và học tṛ, không có tổ chức chánh phủ nào! Trong thế giới Cực Lạc chẳng nói có quốc vương, trước nay chưa hề nói. Thế giới Hoa Tạng cũng không có một thiên vương nào! Do vậy, những tổ chức như trong thế gian chúng ta chỉ trong lục đạo mới có, bốn thánh pháp giới chẳng có. Trong lục đạo bèn có, Sắc Giới thiên có Đại Phạm Vương (Brahma), Sơ Thiền Thiên có Ma Hê Thủ La Thiên Vương (Maheśvara), Tứ Thiền Thiên; trong Vô Sắc Giới không có! Vô Sắc Giới không có hiện tượng vật chất, chỉ có tinh thần. Nay chúng ta nói tới Duy Vật và Duy Tâm, th́ Tứ Thiền và Tứ Không [có thể tạm hiểu là tương ứng với Duy Vật và Duy Tâm]. Tứ Không Thiên là duy tâm, người nơi ấy chẳng có nhục thể, tức là chẳng có hiện tượng vật chất. Do vậy, họ cũng chẳng cần sống trong cung điện, chẳng cần! Chúng ta gọi họ là “linh giới”, hoàn toàn là hiện tượng tinh thần. Nếu không có nhục thể th́ là u linh; nhưng trong vật chất, nhất định có hiện tượng tinh thần. Trên thực tế, trong hiện tượng tinh thần vẫn có hiện tượng vật chất, nhưng chúng ta chẳng thấy hiện tượng vật chất ấy, Phật, Bồ Tát thấy được, A La Hán cũng thấy được. Đấy là nói rơ tinh thần và vật chất vĩnh viễn chẳng tách rời. Trong sắc có hiển sắc và bất hiển sắc, nhà Phật gọi [bất hiển sắc] là Vô Biểu Sắc (Avijñapti-rūpa). Thật ra, loại sắc này đối với chúng ta cũng chẳng khó hiểu. Mỗi người chúng ta đều có kinh nghiệm nằm mộng, trong mộng có sắc hay không? Có sắc tướng, chính ḿnh nh́n thấy sắc tướng ấy rơ ràng, nhưng người khác chẳng nh́n thấy, đó là Vô Biểu Sắc. Chúng ta tưởng tượng, nghĩ đến Bắc Kinh, nghĩ đến Cố Cung, Cố Cung bèn hiện tướng ngay trong óc, chính chúng ta nghĩ đến rất rơ ràng, chúng ta biết, nhưng khi ta nghĩ, người khác chẳng biết. Thế nhưng đối với người có công phu, quư vị nghĩ ǵ, hiện ra tướng ǵ, người ấy sẽ thấy, nhưng người thường chẳng thể thấy. Điều này chứng tỏ vật chất và tinh thần vĩnh viễn chẳng thể tách rời. Nói duy tâm hay duy vật đều chẳng thỏa đáng, chúng là một Thể, chẳng thể chia thành hai phương diện. Chia thành hai phương diện là trật rồi! Giống như hiện thời chúng ta nói đến TV, màn h́nh TV và sắc tướng chẳng phải là một chuyện, nhưng chúng là nhất thể. Quư vị chẳng có cách nào tách rời chúng; hễ tách rời sẽ chẳng có. Câu tiếp theo rất quan trọng, phải nên biết, quư vị cần phải biết:

      “Lược thuyết nhập nhất pháp cú cố” (nói đại lược [th́ ba thứ trang nghiêm ấy] đều gồm trong một pháp cú), pháp cú ǵ vậy? Tiếp đó, sách có giải thích: “Nhất pháp cú giả, vị thanh tịnh cú” (một pháp cú là thanh tịnh cú). Thanh tịnh cú (câu thanh tịnh) là ǵ? “Thanh tịnh cú giả, vị chân thật trí huệ vô vi Pháp Thân cố” (Thanh tịnh cú là “Pháp Thân vô vi trí huệ chân thật”). Nói rơ ràng, trí huệ chân thật vốn trọn đủ trong tự tánh của chúng ta, đấy cũng là như trong kinh giáo, đức Phật thường nói “kiến, văn, giác, tri”, có thể thấy, có thể nghe, có thể cảm nhận, có thể biết. Đă thế, trong kiến văn giác tri chắc chắn chẳng nẩy sanh sai lầm, v́ sao? Nó là tánh đức, là trí huệ chân thật. Khi giác ngộ, người ấy chẳng lấy thân này làm thân, thân này là sắc thân, là nhục thân, người ấy chẳng coi cái thân này làm thân [chân thật], biết thân này là giả, nên lấy Pháp làm thân. Pháp là ǵ? Toàn thể vũ trụ. Trong Phật pháp nói hết thảy vạn vật trọn khắp pháp giới hư không giới thảy đều là thân, do tự tánh biến hiện ra. Thân thể này của chúng ta vẫn là tự tánh, chẳng ĺa khỏi tự tánh, giống như chúng ta xem TV, tất cả sắc tướng chẳng thể rời khỏi màn h́nh. Pháp Thân là ǵ? Màn h́nh là Pháp Thân, hết thảy các tướng được hiện trong màn h́nh đều là Pháp Thân, không có ǵ chẳng phải là Pháp Thân. Sau khi chúng ta hiểu rơ thân này chính là Pháp Thân, cũng là một trong các Pháp Thân. Tất cả hết thảy thân động vật đều là Pháp Thân, là một, không hai với ta, quả thật là một Thể. Chúng ta khởi tâm động niệm, mỗi thân ấy đều nhận được tin tức, mỗi cá nhân khởi tâm động niệm đều có thể giao thoa lẫn nhau, vô cùng nhạy bén, chẳng sai lầm tí nào! Cho đến cây cối, hoa, cỏ, núi, sông, đại địa, vô lượng vô số tinh cầu, tinh hệ trong vũ trụ, chẳng có ǵ không liên quan mật thiết với nhau, trao đổi khít khao với nhau trong từng sát-na. Nhà Phật dùng cái lưới làm tỷ dụ, tức là lưới trời của Đế Thích Thiên, giao thoa như vậy. Do vậy, theo vũ trụ quan của nhà Phật, vũ trụ là một Thể, có quan hệ mật thiết như vậy, đấy là Pháp Thân. Pháp Thân vô vi, nhưng không ǵ chẳng làm. “Vô vi” là nói về tự tánh, “không ǵ chẳng làm” là nói về A Lại Da. A Lại Da là vọng tâm, tự tánh là chân tâm, chân vọng bất nhị. V́ thế, điều này khác với triết học! Thời đầu Dân Quốc, Âu Dương Cánh Vô đại sư[1] trong bài phát biểu nhân dịp giảng diễn lần thứ tư tại đại học Trung Sơn, khi ấy cũng gây chấn động trong giới học thuật. Ông ta nói: “Phật pháp chẳng phải là tôn giáo, chẳng phải là triết học, mà là nhu cầu tất yếu trong hiện thời”, nêu ra một lập luận như thế. Chẳng phải là tôn giáo th́ chúng ta chẳng bàn tới, v́ sao chẳng phải là triết học? Triết học có Năng và Sở (chủ thể và khách thể, chủ quan và khách quan), Phật pháp tuy nói đến Năng và Sở, nhưng Năng và Sở là một, chẳng hai. Do vậy, đấy chẳng phải là phạm trù triết học (Category)[2], nên chẳng thể bảo Phật giáo là triết học được! Vậy th́ nên nói là ǵ? Phật pháp là Phật pháp, không thể dùng danh từ nào khác để thay thế! Đó là cách nói của Âu Dương đại sư, chúng ta nghe xong cũng cảm thấy rất có lư, ông ta nói Phật giáo là nhu cần tất yếu trong hiện thời, câu nói này hết sức nói thẳng vào trọng tâm!

      Do vậy, vô vi là Thể, hữu vi là Dụng. Vô vi là thanh tịnh, tịch diệt; hữu vi là cái thứ hai trong ba thứ “trọn khắp” (tam chủng châu biến) [được nói trong Hoàn Nguyên Quán]: “Xuất sanh vô tận”. Sau khi chúng ta hiểu rơ chân tướng, dùng tâm thái ǵ để đối ứng? “Hàm dung Có và Không”. Tâm lượng của quư vị vốn to như vậy, hết thảy đều có thể bao dung. Bao dung th́ sẽ chẳng so đo, đúng là “tâm bao thái hư, lượng châu sa giới”, vốn là như vậy, mỗi mỗi đều là như vậy. “Thử luận trực hiển Sự Lư vô ngại chi Nhất Chân pháp giới. Tức Sự nhi chân, đương tướng tức đạo” (Luận này đă hiển thị trực tiếp Nhất Chân pháp giới Sự Lư vô ngại, do chính từ Sự mà nhập Chân, ngay nơi tướng chính là đạo). Đây là nói về chư Phật, Bồ Tát và hoàn cảnh sống của họ trong thế giới Cực Lạc, nay chúng ta gọi đó là vũ trụ. Cụ Hoàng vô cùng tán thán mấy câu này của Thế Thân Bồ Tát trong Văng Sanh Luận. Khi chúng tôi gặp mặt, cụ cũng thường nhắc tới, cũng thường trích dẫn mấy câu này để chỉ rơ thế giới Cực Lạc là Nhất Chân pháp giới Sự Lư vô ngại. “Tức Sự nhi chân”, Sự là Tướng, Chân là Tánh, Tánh Tướng bất nhị, Tánh Tướng như một. “Đương tướng tức đạo”, Đạo là nói về Tánh, Tướng là nói về Sự. Hai câu này (tức “tức Sự nhi Chân”“đương tướng tức đạo”) có ư nghĩa tương đồng. “Cực Lạc thế giới chủng chủng y chánh trang nghiêm, nhất nhất giai thị chân thật trí huệ vô vi Pháp Thân” (Các thứ y báo và chánh báo trang nghiêm trong thế giới Cực Lạc, mỗi thứ đều là Pháp Thân vô vi trí huệ chân thật). Ở đây, cụ Hoàng đă giảng ư nghĩa lời nói của Thiên Thân Bồ Tát theo Lư, “chân thật” là tự tánh, “trí huệ” là Bát Nhă, “vô vi” là Đức, Pháp Thân là Tướng, chúng là nhất thể. “Nhất nhất tức thị Thật Tướng” (mỗi mỗi chính là Thật Tướng). Pháp vốn là như vậy, tự tánh là Thật Tướng, Bát Nhă là Thật Tướng, Đức cũng là Thật Tướng, Tướng cũng là Thật Tướng. “Cố vân bổn kinh dĩ Thật Tướng vi Thể dă” (V́ thế nói: Kinh này lấy Thật Tướng làm Thể vậy). Đây là nói theo Văng Sanh Luận của Thiên Thân Bồ Tát.

     Tiếp theo đó: “Minh Cừ Am đại sư viết: ‘Quỳnh lâm ngọc chiểu” (Cừ Am đại sư đời Minh nói: “Rừng quỳnh, ao ngọc”), “quỳnh lâm” là cây báu trong thế giới Tây Phương, “ngọc chiểu” là ao sen. Trong Đại Bổn lẫn Tiểu Bổn chúng ta đều thấy điều này. “Trực hiển ư tâm nguyên” (hiển hiện trực tiếp nguồn tâm), “tâm nguyên” là tự tánh. “Thọ lượng, quang minh, toàn chương ư tự tánh” (thọ lượng, quang minh, phô bày trọn vẹn tự tánh), thọ lượng là đức, quang minh là trí, phô bày trọn vẹn tự tánh, thảy đều là tự tánh viên măn thấu lộ, chúng ta thường nói là “tự tánh phóng quang, quang minh biến chiếu” (tự tánh tỏa ánh sáng, quang minh chiếu khắp) chính là nói đến ư nghĩa này. “Chương” là “chương hiển” (彰顯: phô bày rơ rệt). Trong bộ Viên Trung Sao, U Khê đại sư cũng nói đến ư nghĩa này giống như vậy: “Quỳnh lâm, ngọc chiểu, thọ lượng, quang minh, cố nhất thiết chư pháp chi tướng dă, nhiên tắc trực hiển ư tâm nguyên, toàn chương ư tự tánh, cố hà tướng chi khả đắc tai” (Rừng quỳnh, ao ngọc, thọ lượng, quang minh vốn là tướng của hết thảy các pháp, nên chúng đă hiển lộ trực tiếp nguồn tâm, phô bày trọn vẹn tự tánh th́ có tướng nào để đạt được?). Tướng chính là phi tướng, phi tướng chính là tướng, đấy là giáo pháp Đại Thừa đến chung cực nhập pháp môn Bất Nhị. Nhập pháp môn Bất Nhị tức là như đức Phật thường chỉ dạy chúng ta “chớ khởi tâm, đừng động niệm, chẳng phân biệt, chẳng chấp trước”, quư vị sẽ khế nhập. Làm được “chẳng phân biệt, chẳng chấp trước” th́ vẫn chưa được, vẫn chưa nhập pháp môn Bất Nhị. Nhập pháp môn Bất Nhị là Pháp Thân Bồ Tát, theo như kinh Hoa Nghiêm đă giảng, đó là bậc Sơ Trụ trong Viên Giáo trở lên! Buông phân biệt, chấp trước xuống, nhưng c̣n có khởi tâm động niệm, quư vị vẫn chưa thoát khỏi mười pháp giới. Chưa ra khỏi mười pháp giới, quư vị sẽ chẳng có cách nào khế nhập cảnh giới Bất Nhị. Đấy là một giới hạn rất lớn, là ranh giới giữa phàm và thánh. Vượt thoát mười pháp giới bèn minh tâm kiến tánh, chúng ta thường nói là “thành Phật”. Cư sĩ Giang Vị Nông chú giải kinh Kim Cang, trong bộ Kim Cang Kinh Giảng Nghĩa của chính ông, đă giảng về chư Phật Như Lai. Quư vị thấy ông giải thích chữ “chư Phật” chẳng phải là nhiều vị Phật, mà “chư Phật” là bốn mươi hai tầng cấp, tức Thập Trụ, những địa vị ấy đều thuộc Viên Giáo, [ngoài] Thập Trụ [ra, c̣n có] Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, Diệu Giác. Ông ta giải thích “chư Phật Như Lai” là bốn mươi hai địa vị chư Phật Như Lai. Minh tâm kiến tánh bèn thành Phật, minh tâm kiến tánh là đă buông khởi tâm động niệm xuống, chẳng khởi tâm, chẳng động niệm, đương nhiên chẳng có phân biệt, chấp trước.

      Trong cảnh giới này, v́ sao c̣n có bốn mươi hai tầng cấp? Không khởi tâm, không động niệm, cớ sao vẫn c̣n có tầng cấp? Có tầng cấp th́ chẳng phải là có khởi tâm động niệm ư? Chẳng khởi tâm, chẳng động niệm, đức Phật nói có bốn mươi hai tầng cấp. Chúng ta có thể hiểu: Bốn mươi hai tầng cấp ấy chẳng thể nói là có, mà cũng chẳng thể nói là không có, chẳng phải có, chẳng phải không. Nếu quư vị nói có th́ do chẳng khởi tâm động niệm, lấy đâu ra bốn mươi hai tầng cấp? Quư vị nói chúng là không có, th́ họ (các vị Pháp Thân Bồ Tát) chưa đoạn tập khí vô minh. Không khởi tâm, không động niệm là đoạn vô minh; vô minh đă đoạn rồi, nhưng c̣n có tập khí vô minh. Tập khí vô minh có dầy hay mỏng khác nhau, nên vừa mới đoạn vô minh, tập khí c̣n rất nồng, sau đó, [cảnh giới] càng cao lên, [tập khí vô minh] càng nhạt bớt. Chữ “tập khí” cũng chẳng dễ hiểu, nên cổ đức dùng b́nh rượu làm tỷ dụ, tỷ dụ này rất hay! B́nh đựng đầy rượu, đổ sạch đi, đổ hết, lau chùi sạch bóng bên trong, một giọt cũng chẳng c̣n, thật sự chẳng có tí rượu nào, nhưng vẫn ngửi thấy mùi. Đó gọi là Tập Khí. Mùi vị ấy không lau mất được, nhưng nó cũng chẳng trở ngại Sự. Quư vị đem thứ khác đựng trong đó cũng chẳng ngại Sự. Tập khí ấy sau một thời gian lâu dài sẽ tự nhiên chẳng c̣n. Do vậy, trong cơi Thật Báo, họ dụng công đoạn tập khí ấy, chẳng có cách nào khác, nên gọi là Vô Công Dụng Đạo. Trong ấy, chớ nên có một tí ư niệm nào! Hễ quư vị khởi niệm sẽ đọa lạc, vậy là không được rồi! V́ thế, người ấy chắc chắn chẳng khởi tâm, không động niệm. Khi ấy, phiền năo đă đoạn hết, chẳng cần phải dụng công đoạn phiền năo. Lúc đó, tâm từ bi trong tự tánh hiện tiền, kẻ ấy đă đạt được chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác, từ bi trong tự tánh, các Tánh Đức xuất hiện, người ấy và hết thảy chúng sanh trong trọn pháp giới hư không giới sanh khởi sự cảm ứng đạo giao, chúng sanh có cảm, người ấy bèn ứng.

      Hàng Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo có năng lực này: Nên dùng thân Phật để độ, bèn hiện thân Phật để nói pháp. Như trong phẩm Quán Thế Âm Phổ Môn [của kinh Pháp Hoa] đă nói về ba mươi hai ứng thân [của Quán Thế Âm Bồ Tát]: Nên dùng thân ǵ để độ được, bèn hiện thân ấy. Bản thân Phật, Bồ Tát chẳng có ư nghĩ “ta phải hiện thân ǵ”, [nếu các Ngài có ư nghĩ như vậy] th́ sẽ là phàm phu. Các Ngài không có Ngă, Ngă của các Ngài là Pháp Thân, chứ không có một cái Ngă đơn độc, không có ư niệm ấy! Pháp Thân ở nơi đâu? Pháp Thân trọn khắp pháp giới hư không giới, không chỗ nào chẳng tồn tại, không lúc nào chẳng hiện diện, một niệm của chúng ta bèn khởi cảm ứng. Do vậy, có bốn loại cảm ứng, chắc chắn có cảm ứng. Có khi có cảm ứng, nhưng bản thân chúng ta nghiệp chướng quá nặng nên chẳng thể thấy được, nhưng thật sự có cảm ứng. Biết chân tướng sự thật này, sẽ biết: Trong hết thảy chỗ, hết thảy lúc, chớ nên có ư niệm bất thiện. Đừng nghĩ không ai biết! Dấy lên một niệm bất thiện, chư Phật, Bồ Tát với số lượng chẳng biết nhiều hơn số người trên địa cầu bao nhiêu lần, các Ngài đều biết. Không chỉ chư Phật, Bồ Tát biết, mà như trong mấy đoạn trước chúng tôi cũng đă nói rất rơ ràng, tất cả vật chất đều có kiến văn giác tri, chúng đều biết! Ở nơi đây, chúng ta khởi tâm động niệm, bàn ghế có biết hay không? Biết. V́ sao? Hết thảy vật chất đều có Thọ, Tưởng, Hành, Thức, ư niệm dấy lên, chúng bèn cảm nhận, chúng cũng có thể suy nghĩ!

      Trong sách Hoàn Nguyên Quán đă giảng chuyện này rất rơ ràng, rất minh bạch, nhỏ đến mức độ nào? Nhà Phật nói “vi trần”. Ba thứ châu biến (trọn khắp) trong Hoàn Nguyên Quán đều lấy một vi trần làm tỷ dụ. Một hạt vi trần, nhục nhăn chẳng thể thấy, khoa học hiện thời gọi nó là nguyên tử, điện tử, hạt cơ bản, năng lượng của một hạt vi trần như thế trọn khắp pháp giới. Sau khi mê, năng lượng ấy biến thành Thọ, Tưởng, Hành, Thức, trong tự tánh, nó được gọi là kiến văn giác tri. Trong A Lại Da, chúng được gọi là Thọ, Tưởng, Hành, Thức; Thọ là năm thức trước, Tưởng là thức thứ sáu, Hành là thức thứ bảy, cái cuối cùng là A Lại Da Thức. Thức trong “Thọ, Tưởng, Hành, Thức” chính là A Lại Da Thức. A Lại Da Thức là năng lượng, hai thức thứ sáu và thứ bảy là phân biệt và chấp trước, nay chúng ta gọi chúng là “thông tin”. Năm thức đầu là do vật chất khởi tác dụng, chúng có Thọ. Năm thức đầu là Thọ, chúng có thể tiếp nhận, có năng lực tiếp nhận. V́ thế, mỗi hạt cơ bản đều có Thọ, Tưởng, Hành, Thức; thân thể của chúng ta do bao nhiêu hạt cơ bản hợp thành, mỗi hạt cơ bản đều có Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Trong kinh, đức Phật thường nói một sợi lông trên thân con người, nói theo y báo, tức là nói theo phương diện vật chất, mỗi vi trần đều có Thọ, Tưởng, Hành, Thức. V́ thế, các nhà khoa học hiện thời dùng nước làm thí nghiệm, [nhận thấy] nước có thể thấy, nghe, hiểu được ư nghĩ của con người, nó có cảm nhận, có Thọ, Tưởng, Hành. Hiện thời, họ c̣n thí nghiệm thấy nó có kư ức, kư ức ấy là Thức. A Lại Da Thức chứa đựng chủng tử, kư ức ấy chính là Thức khởi tác dụng, nó có toàn bộ Thọ, Tưởng, Hành, Thức, thảy đều trọn đủ. Đây chính là nói trong vật chất có đủ tâm pháp. Nhà Phật nói Ngũ Uẩn th́ Sắc là hiện tượng vật chất, Thọ, Tưởng, Hành, Thức là hiện tượng tâm lư, bất luận trong vật thể nào cũng đều có, nhưng quư vị chẳng nhận biết. V́ thế, Phật pháp quả thật là phi thường! Tới khi nào mới có thể nhận biết hiện tượng này? Nói thông thường th́ là khi đă đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh sẽ trông thấy hiện tượng này, triệt để hiểu rơ, trông thấy duyên khởi của vũ trụ. Duyên khởi của vũ trụ là lúc nào? Ngay trong lúc này, chẳng có quá khứ lẫn vị lai, mà là một niệm ngay trong lúc này! Thời gian và không gian là giả, là ảo giác. Trong Phật pháp, thời gian và không gian được gọi là Bất Tương Ứng Hành Pháp. Nói theo cách bây giờ, Bất Tương Ứng Hành Pháp là khái niệm trừu tượng, không có sự thật, [duyên khởi vũ trụ là] ngay lập tức.

      Hai câu kế tiếp là: “Thử chánh vô tướng bất tướng” (đấy chính là vô tướng mà chẳng phải là không có tướng), vô tướng nhưng chẳng phải là không có tướng, câu này có ư nghĩa như vậy! “Tướng nhi vô tướng chi chánh thể” (cái chánh thể tuy có tướng nhưng là vô tướng), đó là Thật Tướng. Điều này nêu rơ đức Phật nói kinh Vô Lượng Thọ cũng là dựa trên Thật Tướng để nói. “Cái ngô nhân tâm tánh, lượng đồng pháp giới, linh minh đỗng triệt, trạm tịch thường hằng, thụ cùng tam tế, hoành biến thập phương. Cực Lạc quốc độ, phi tại tâm ngoại. Bách giới thiên như, giai ngă bổn cụ” (ấy là v́ tâm tánh của chúng ta lượng bằng pháp giới, linh minh đỗng triệt, trạm tịch thường hằng, theo chiều dọc cùng tận ba đời, theo chiều ngang trọn khắp mười phương. Cơi nước Cực Lạc chẳng phải ở ngoài tâm, bách giới thiên như ta đều sẵn đủ). Đây là chân tướng sự thật. Tâm tánh của chúng ta lượng đồng pháp giới, pháp giới (tức là vũ trụ) không có ngằn mé, v́ sao? Tâm tánh không có ngằn mé. Cổ nhân Trung Quốc đă nói hai câu: “Kỳ đại vô ngoại, kỳ tiểu vô nội” (không có ǵ lớn mà ra ngoài được, không có ǵ nhỏ nhoi chẳng gồm trong), [đó là] người Trung Quốc miêu tả tâm tánh. Do vậy, tôi nói tổ tiên của chúng ta là Phật, Bồ Tát tái lai, tuyệt đối chẳng phải là giả, họ nói hoàn toàn giống như Phật, quư vị hăy suy nghĩ hai câu nói ấy: “Kỳ đại vô ngoại, kỳ tiểu vô nội”, quyết định chẳng có ngằn mé, quư vị t́m ngằn mé chẳng ra! Các nhà khoa học và vật lư học hiện thời bảo: Vũ trụ mênh mông, chẳng có cái ǵ to lớn vượt ra khỏi nó, Lượng Tử Lực Học (Quantum Mechanics) nói về “kỳ tiểu vô nội”, nghiên cứu hai cực đoan này! Nghiên cứu cách nào đi nữa, vẫn chẳng có cách nào vượt khỏi những ǵ kinh điển đă nói, v́ sao? Nhờ vào các máy móc, nhờ vào toán học đều chẳng có cách nào, đều là c̣n có giới hạn. V́ sao đức Phật biết? Đức Phật chứng đắc bằng Thiền Định. Khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước Ngài thảy đều buông xuống; sau khi buông xuống, chân tướng ấy bèn rơ ràng, hiện tiền. Sau đấy mới hiểu: Khởi tâm động niệm là vô thỉ vô minh phiền năo. Dùng từ ngữ này rất hay, vô thỉ vô minh phiền năo, nó chẳng có khởi đầu, v́ sao? Nhất niệm, đó là nhất niệm [vô minh]. Chúng ta bị phiền phức v́ sau một niệm lại có một niệm khác tiếp nối, sanh ra tướng tương tục (tướng tiếp nối). Nếu nhất niệm là giác ngộ, tướng tương tục sẽ chẳng sanh, ngay lập tức Thường Tịch Quang hiện tiền. Do vậy, vấn đề chẳng có trước hay sau, quả thật là “đương hạ nhất niệm” (một niệm ngay trong hiện tại), quư vị chẳng nắm bắt niệm ấy được, nó quá nhanh. Trong một giây có bao nhiêu niệm? Nếu khảy ngón tay năm lần [trong một giây], sẽ là một ngàn sáu trăm triệu, làm sao quư vị có thể nắm bắt được? Do nó là giả, chẳng phải là thật, nên chẳng cần phải quan tâm, hễ bận tâm là trật rồi! Bận tâm sẽ sanh phiền năo, quư vị bèn đọa vào vô minh, hết thảy đều buông xuống là đúng, chân tâm sẽ hiện tiền. Trong chân tâm có vô lượng trí huệ, vô lượng đức năng, nhà Phật gọi [những điều ấy] là công đức, vô lượng công đức trang nghiêm, trang nghiêm là tướng hảo. V́ thế, lượng đồng pháp giới.

      Pháp giới, nói theo những cái nhỏ nhoi th́ chẳng điều nhỏ nhặt nào không bao gồm. Nhà Phật nói trong vi trần có thế giới. Trong vi trần có thế giới, nhưng vi trần chẳng ph́nh to, thế giới chẳng rút nhỏ, chúng b́nh đẳng như nhau! Phổ Hiền Bồ Tát có thể tiến nhập thế giới trong một vi trần để lễ Phật, cúng dường, nghe kinh, Phổ Hiền Bồ Tát có năng lực ấy. V́ sao Phổ Hiền Bồ Tát có năng lực ấy? Phổ Hiền Bồ Tát trở về tự tánh; bởi lẽ, mỗi nguyện trong mười đại nguyện vương của Ngài đều tương ứng viên măn với tự tánh, Ngài có năng lực vào thế giới trong vi trần để lễ Phật, tham học. Chúng ta phải hiểu: Bên trong thế giới ở trong vi trần ấy lại có vi trần, trong vi trần ấy lại có thế giới, trùng trùng vô tận, đấy là Pháp Tánh. Do vậy, nhà Phật thường nói: “Rộng không ngằn mé, sâu không có đáy” là nói đến đạo lư này. Không có [ngăn ngại, giới hạn]! Không có đáy. Pháp Tánh vốn là như thế, vốn là như vậy. “Linh minh đỗng triệt, trạm tịch thường hằng”, là nói về tác dụng [của Pháp Tánh]. “Thụ cùng tam tế, hoành biến thập phương” (theo chiều dọc cùng tột ba đời, theo chiều ngang trọn khắp mười phương), “thụ” () là nói đến “tam tế” (三際), tức quá khứ, hiện tại, vị lai; một đằng nói về thời gian, một đằng nói về không gian. “Hoành biến thập phương” là nói về không gian. “Trọn khắp thời gian và không gian” là nói về tự tánh. Sau đấy, lại nói với quư vị: “Cực Lạc quốc độ, phi tại tâm ngoại” (cơi nước Cực Lạc chẳng ở ngoài tâm), do tự tánh biến. “Bách giới thiên như, giai ngă bổn cụ” (bách giới thiên như đều là thứ ta vốn sẵn có) là nói về toàn thể vũ trụ. “Thiên như” chính là mười món Như Thị được nói trong kinh Pháp Hoa, ngài Thiên Thai triển khai Thập Như Thị thành Thiên Như (một ngàn món như thị)[3]. Triển khai mười pháp giới, mỗi pháp giới đều trọn đủ mười pháp giới, nên [mười nhân mười] thành “bách giới”. Đấy là nói tới vô lượng vô biên thế giới trong toàn thể vũ trụ. Những điều được nói trong các phẩm Hoa Tạng Thế Giới và Thế Giới Thành Tựu của kinh Hoa Nghiêm đă giảng trọn hết tám chữ ấy, đều là những thứ vốn sẵn trọn đủ trong tự tánh.

      Kế đó là lời kết luận, quư vị hiểu ngay: “Tâm tịnh tắc Phật độ tịnh, độ tịnh tức ngă tâm tịnh” (Tâm tịnh ắt cơi Phật tịnh, cơi tịnh th́ tâm ta tịnh). Nếu hiện thời chúng ta muốn giải quyết vấn đề của địa cầu, cứu vớt địa cầu bằng cách nào ư? [Vận dụng] hai câu ấy là đủ rồi, tâm chúng ta tịnh, địa cầu sẽ thanh tịnh; địa cầu thanh tịnh, chứng tỏ tâm chúng ta thanh tịnh, v́ chúng có cùng một Thể; cho nên cảm ứng hết sức nhạy bén. Ngày nay chúng ta phá hoại địa cầu, quư vị có phá hoại địa cầu hay không? Có! Ta phá hoại địa cầu khi nào? Mỗi ngày quư vị nghĩ đến tham, sân, si, mạn, mỗi ngày nghĩ tổn người lợi ḿnh, chính là quư vị phá hoại địa cầu. Quư vị v́ tự tư tự lợi mà tạo tiếng tăm, lợi dưỡng, tham cầu hưởng thụ ngũ dục lục trần, những điều ấy đều là sai lầm, tâm hạnh bất thiện tức là phá hoại địa cầu. Nói gần gũi hơn một chút, quư vị phá hoại thân của chính ḿnh, thân thể này là tiểu vũ trụ, bên ngoài là đại vũ trụ. Tư tưởng bất thiện khiến cho thân thể quư vị chẳng khỏe mạnh, thật đấy! Chẳng giả tí nào! Thân thể con người là một cỗ máy; nếu quư vị biết quư trọng cỗ máy ấy, sẽ có thể sử dụng bao lâu? Trước kia, thầy tôi là lăo cư sĩ Lư Bỉnh Nam cho tôi biết, thầy tinh thông Trung Y, y học rất cao minh, cụ bảo tôi [nếu bảo dưỡng thân thể đúng mực], tối thiểu phải sử dụng hai trăm năm. Quư vị không sống tới hai trăm năm là do chính ḿnh đă làm hư hỏng [thân thể]. Do vậy, chúng ta thấy đạo lư này trong kinh Phật: “Tâm tịnh, ắt cơi Phật thanh tịnh”. Nếu chúng ta chỉ dùng cái tâm thanh tịnh, chắc chắn thân thể này có thể sống đến hai trăm tuổi, mà c̣n có thể nhiều hơn nữa. Trung Quốc có cụ Bành Tổ[4] sống tám trăm tuổi. Kẻ b́nh phàm chúng ta chẳng dám tin [chuyện ấy], có phải là truyền thuyết hay chăng? Nếu chiếu theo kinh Phật để nói th́ [Bành Tổ sống đến tám trăm tuổi] là chuyện có thể xảy ra!

      Thích Ca Mâu Ni Phật có một vị đệ tử vẫn c̣n ở trên thế gian, chưa nhập diệt, ai vậy? Tôn giả Đại Ca Diếp. Ngài phải đợi Di Lặc Bồ Tát đến thế gian này thị hiện thành Phật, đem y bát của Thích Ca Mâu Ni Phật trao cho Di Lặc Phật. Ngài làm đại biểu, cho nên phải lưu lại thân thể trên thế gian. Phải lưu lại bao nhiêu năm? Phải lưu lại mấy chục ức năm. Có thể hay chăng? Có thể chứ! Hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng. Nh́n từ chỗ này, Bành Tổ tám trăm tuổi quá dễ dàng, có trở thành vấn đề hay chăng? Không thành vấn đề! V́ vậy, thọ mạng của chúng ta dài hay ngắn do chính tay ta thao túng, chẳng do người khác, phải biết điều ǵ? Tâm tịnh là trọng yếu, tâm thanh tịnh chẳng thể có ô nhiễm! Nghĩa là nhất định phải buông vọng tưởng, chấp trước xuống, đối với hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian chẳng chấp trước nữa, tâm thanh tịnh hiện tiền; chẳng c̣n phân biệt nữa, tâm b́nh đẳng hiện tiền. Có phân biệt sẽ bất b́nh đẳng; có chấp trước sẽ chẳng thanh tịnh. Tựa đề kinh ghi “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác”, thật sự đạt tới “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác” sẽ tự nhiên khai ngộ! Đấy là đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh. Do vậy, khởi tâm động niệm của chúng ta có quan hệ mật thiết với thân thể của chúng ta, mà cũng có quan hệ mật thiết với hoàn cảnh, cũng có quan hệ mật thiết với núi, sông, đại địa. Biết mối quan hệ này, biết chân tướng sự thật này, chúng ta sẽ biết: Chúng ta có thể cứu địa cầu này, có thể hóa giải tai nạn này, phương pháp là dùng “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác”. Chính ḿnh phải nghiêm túc học tập, lại c̣n phải giảng cho người khác nghe, v́ sao? Người khác có cộng nghiệp với chúng ta, nhiều người có cái tâm thanh tịnh b́nh đẳng, tai nạn sẽ chẳng xảy ra, chẳng có! V́ thế, người giác ngộ, sau khi giác ngộ chỉ có một sứ mạng là giáo học, giúp đỡ kẻ chưa giác ngộ, chuyện là như thế đấy. Trừ chuyện này ra, chẳng có chuyện ǵ khác!

“Hà hữu nhất pháp, tại ngă tâm ngoại” (há có pháp nào ở ngoài tâm ta), tổ sư đại đức thường nói: “Tâm ngoại vô pháp, pháp ngoại vô tâm” (ngoài tâm chẳng có pháp, ngoài pháp chẳng có tâm), tâm là tự tánh, không có một pháp nào ở ngoài tâm. “Bổn kinh sở thuyên, trực hiển bổn tâm, toàn chương tự tánh. Đương tướng tức đạo, vô phi Thật Tướng” (Những điều được nói trong kinh này nhằm chỉ thẳng cái tâm, phô bày trọn vẹn tự tánh. Từ ngay nơi Tướng chính là Đạo, không ǵ chẳng phải là Thật Tướng), mấy câu này nói rất hay! Đức Phật nói kinh Vô Lượng Thọ, nói ra bộ kinh này, các vị tổ sư đại đức thuở xưa đă giới thiệu cho chúng ta biết: Thuở đức Thế Tôn tại thế, Ngài đă nhiều lần tuyên giảng bộ kinh này. Hết thảy các kinh chỉ được đức Phật giảng một lần, chẳng giảng lần thứ hai, chỉ ḿnh kinh Vô Lượng Thọ được giảng rất nhiều lần, những dấu vết hiện thời cho thấy tối thiểu kinh này được giảng ba lần! Nhưng kinh Vô Lượng Thọ từ đời Hán tới đời Tống, trong tám trăm năm ấy, tổng cộng được phiên dịch mười hai lần, tức là vốn có mười hai bản dịch. Rất đáng tiếc trong mười hai bản dịch ấy, có bảy bản bị thất truyền. Trong mục lục của Đại Tạng Kinh th́ có [ghi tựa đề những bản dịch ấy], nhưng kinh không c̣n. Thất truyền bảy loại, c̣n giữ được năm loại. Năm loại ấy trong Đại Tạng Kinh đều có. Năm bản ấy sai khác rất lớn; nếu là bản gốc chỉ có một, chẳng thể nào có sai biệt lớn như vậy, mà phải là như thường nói: “Đại đồng tiểu dị”. Quư vị nói kinh Kim Cang có sáu bản dịch khác nhau, quư vị hăy xem kỹ trong Đại Tạng Kinh, [sáu bản ấy] đại đồng tiểu dị. Trong kinh Vô Lượng Thọ, phần quan trọng nhất là bổn nguyện tức là lời phát nguyện của A Di Đà Phật, hiện thời trong năm bản ấy, có hai bản ghi bốn mươi tám nguyện, có hai bản ghi hai mươi bốn nguyện, bản dịch đời Tống là bản cuối cùng, ghi ba mươi sáu nguyện, khi phiên dịch chắc chắn không thể nào có sai lầm được! Do vậy, cổ đại đức dựa vào điều này mà phán đoán: Tối thiểu đức Phật cũng giảng ba lần, tuy bảy bản thất truyền chẳng thấy, nhưng điều này đă chứng tỏ [kinh này được] tuyên giảng nhiều lần. Tuyên giảng nhiều lần, nhất định có dụng ư, đó là pháp môn này quá trọng yếu! Pháp môn này thật sự lợi ích chúng sanh, cũng có thể nói là trong hết thảy các kinh do đức Thế Tôn đă nói trong bốn mươi chín năm, kinh này trọng yếu nhất. Do vậy, lăo nhân gia tuyên giảng nhiều lần.

      Chúng ta phải hiểu “đương tương tức đạo, vô phi Thật Tướng” là cảnh giới ǵ? Sơ Trụ trong Viên Giáo, hay Sơ Địa trong Biệt Giáo bèn nhập cảnh giới này. Tướng là ǵ? Hiện tượng. Từ ngay nơi hiện tượng (h́nh tướng được hiện) ấy, chúng ta hiểu tự tánh, tướng do tự tánh biến. Cổ nhân nói: “Dùng vàng làm đồ vật, món nào cũng đều là vàng”, thấy các món đồ liền biết chúng là vàng; vàng và đồ vật chẳng thể tách rời. Tánh ở nơi đâu? Chúng ta đọc ngữ lục của Thiền Tông, tuy đọc không hiểu, nhưng thấy lăo ḥa thượng trắc nghiệm học tṛ, coi tṛ khai ngộ là ngộ như thế nào? Làm như thế nào? Thuận tay lấy một thứ ǵ đó để so sánh, [ấn chứng]: “Chẳng sai! Tṛ thật sự giác ngộ”. Chẳng lấy vật ǵ, duỗi một ngón tay cũng được! Từ ngay nơi tướng chính là đạo, thầy bèn ấn chứng cho tṛ, người này thật sự khai ngộ, thật sự khế nhập, đó là hiện tiền, chẳng rời khỏi khoảnh khắc trong hiện tại, không ǵ chẳng phải là Thật Tướng. Thật sự ngộ nhập, tâm thái hoàn toàn khác biệt, chẳng có phiền năo! Thưa quư vị, đoạn vô minh phiền năo th́ mới kiến tánh; chẳng đoạn sẽ chẳng thể kiến tánh. Đoạn vô minh phiền năo, quư vị liền biết phân biệt lẫn chấp trước đều chẳng có. Từ vô minh sanh ra phân biệt, từ phân biệt sanh ra chấp trước! Khi đă đoạn cội rễ, toàn bộ cành lá chẳng c̣n, sanh ra ǵ? Sanh ra trí huệ, trí huệ viên măn. Kẻ thật sự kiến tánh, bất luận hỏi kẻ ấy vấn đề ǵ, người ấy đều có thể nói rơ ràng, rành rẽ. Người ấy chẳng học, mà chẳng cần phải học, v́ sao? Chẳng ĺa tự tánh, trí huệ, thần thông, đạo lực hiện tiền viên măn. Hễ khai ngộ sẽ b́nh đẳng với thầy, thầy bảo tṛ: “Nhữ như thị, ngă diệc như thị” (ông như thế mà ta cũng như thế), b́nh đẳng! Tánh Đức hoàn toàn lưu lộ, chẳng có tăng giảm; v́ thế, kim Phật giống như cổ Phật tái lai.

      Thanh Lương đại sư khi giảng tựa đề kinh Tứ Thập Hoa Nghiêm đă nói một câu: Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh, thuyết pháp trong bốn mươi chín năm, hết thảy các kinh mà Ngài đă nói đều do cổ Phật đă nói, Phật Thích Ca chẳng nói kinh nhiều hơn cổ Phật một chữ! Chúng ta có thể tin tưởng [điều này] hay chăng? Trước đức Phật Thích Ca, chẳng nghe nói tới một vị nào, về sau, đức Phật dạy chúng ta: Ngài là vị Phật thứ tư trong Hiền Kiếp. Nhưng thời gian mỗi vị Phật xuất thế rất ngắn, thời gian không có Phật rất dài, cớ sao [kinh do Phật Thích Ca đă nói chính là kinh do] cổ Phật đă nói? Ngài kiến tánh, cổ Phật cũng kiến tánh, kiến tánh bèn là Phật Phật đạo đồng. Nếu là đạo đồng th́ quư vị có thể nói những lời do bản thân đức Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói chính là lời giảng của cổ Phật; cũng có thể nói như thế này: Những ǵ cổ Phật đă giảng chính là lời giảng của Thích Ca Mâu Ni Phật, các Ngài là một, không hai. Mê mới có một, hai; khi ngộ, chẳng c̣n nữa! Tướng được biểu thị ấy rất hay, h́nh tướng được biểu thị trở về Tánh Đức, chẳng có chính ḿnh, giống như Khổng lăo phu tử đă biểu thị cho chúng ta thấy, lẽ nào Ngài chẳng phải là Phật, Bồ Tát! “Thuật nhi bất tác, tín nhi hiếu cổ” (thuật lại chứ không trước tác, tin tưởng, chuộng cổ), Ngài khai ngộ, cổ nhân cũng khai ngộ, những thứ của cổ nhân chính là của Ngài, những thứ của Ngài cũng là của cổ nhân. Ngài không nói tới chính ḿnh, Ngài nói hết thảy những thứ của ta toàn là của cổ nhân, phá trừ cái tâm ngạo mạn của chúng sanh, dụng ư ấy quá tuyệt! Dụng ư ấy có công đức chân thật, hiện thân thuyết pháp. Chúng sanh chưa buông những phiền năo, tham, sân, si, mạn này xuống được, đức Thế Tôn hiển thị thái độ ấy, Khổng Tử giảng những điều này, nếu chúng ta hiểu ư Ngài hăy nên cảm ơn, Ngài chỉ dạy chúng ta khiến cho chúng ta triệt để buông tham, sân, si, mạn xuống, chính ḿnh khiêm tốn, tôn trọng người khác, tự tha bất nhị. Từ trong khiêm tốn mới hiển lộ Tánh Đức; từ lễ tán, hiển lộ đức hạnh và trí huệ chân thật trong tự tánh. Các Ngài hiện thân thuyết pháp nhằm dạy chúng ta, chúng ta phải nên thấu hiểu.

      Tiếp đó: “Như Di Đà Yếu Giải vân, Thật Tướng vô nhị, diệc vô bất nhị” (như sách Di Đà Yếu Giải nói: “Thật Tướng không hai, mà cũng chẳng phải là không hai”), vô nhị là nói theo Thể. “Không phải là chẳng hai” là nói theo tác dụng. “Thị cố cử thể tác y, tác chánh, tác pháp, tác báo, tác tự, tác tha, năi chí năng thuyết, sở thuyết, năng độ, sở độ, năng tín, sở tín, năng nguyện, sở nguyện, năng tŕ, sở tŕ, năng sanh, sở sanh, năng tán, sở tán, vô phi Thật Tướng chánh ấn chi sở ấn dă” (V́ thế, dùng toàn bộ cái Thể để làm y báo, chánh báo, Pháp Thân, Báo Thân, làm tự, làm tha, cho đến người nói (Thích Ca Mâu Ni Phật), cái được nói (pháp được nói), người hóa độ (Phật), kẻ được hóa độ (chúng sanh), người tin tưởng, pháp được tin tưởng, người phát nguyện (hành nhân tu Tịnh Độ), điều được phát nguyện (nguyện sanh về Tây Phương Cực Lạc), người tŕ (hành nhân Tịnh Độ), pháp được tŕ (danh hiệu A Di Đà Phật), kẻ sanh về, cơi nước được sanh về, người khen ngợi, cái được khen ngợi (pháp môn Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc, A Di Đà Phật v.v...), không ǵ chẳng được Thật Tướng Chánh Ấn in vào). Hai câu đầu nói nhiều ngần ấy! Thật Tướng vô nhị, mà cũng chẳng phải là bất nhị; v́ thế, “cử thể” tức là toàn bộ Thể biến hiện những ǵ? Biến hiện ra y báo hoặc chánh báo. Đối với “y, chánh” ở đây, chúng ta nhất định phải có khái niệm rất rơ ràng! Chánh báo là ǵ? Chánh báo là chính ḿnh, y báo là hoàn cảnh sống của chúng ta. Do vậy, chư vị nhất định phải hiểu chánh báo; nếu quư vị nói chánh báo là hết thảy mọi người, trật rồi! Chánh báo là chính ḿnh, là một người, ngoài ta ra, đều là hoàn cảnh sống, những người khác thuộc về hoàn cảnh nhân sự của ta! Trong hoàn cảnh có hoàn cảnh nhân sự, hoàn cảnh vật chất, hoàn cảnh tự nhiên, hoàn toàn thuộc về hoàn cảnh. Hoàn cảnh đều là y báo, chánh báo chỉ có một bản thân ta! Thân Thích Ca Mâu Ni Phật là chánh báo của Ngài, thân ta là chánh báo của ta. Nếu nói theo phía ta, Thích Ca Mâu Ni Phật là y báo của ta. Nói theo phía Thích Ca Mâu Ni Phật, chúng ta là y báo của Ngài. Do vậy, phải hiểu thật rơ quan niệm này: Chánh báo là một ḿnh ta. “Tác Pháp, tác Báo”: Pháp là Pháp Thân, Báo là Báo Thân; “tác tự, tác tha”: Bất luận như thế nào, đều là một tự tánh, hoàn toàn do một tự tánh biến hiện. Giống như ǵ? Giống như y báo và chánh báo hiện ra trong giấc mộng. Điều này chẳng dễ hiểu, tự tánh của ta biến hiện ra như thế nào? Cớ sao ta có thể biến hiện người khác? Biến hiện người nhiều dường ấy? Trong những người ấy c̣n có oan gia đối đầu, c̣n có những cư xử chẳng vui ḷng, v́ sao có chuyện này? Giống như nằm mộng, quư vị thấy: Có lần nào nằm mộng mà trong mộng chẳng có chính ḿnh? Quư vị có thể t́m được lần nào nằm mộng mà không có chính ḿnh? Không có chính ḿnh, sẽ không thể nằm mộng! Trong mộng nhất định có chính ḿnh, quư vị mộng thấy rất nhiều người, mộng thấy núi, sông, đại địa, đó đều là y báo. Người b́nh phàm chúng ta đều có kinh nghiệm, đấy là tâm ư thức khởi tác dụng. Thế giới hiện tiền của chúng ta do tự tánh khởi tác dụng, thật ra, trong mộng vẫn chẳng ĺa khỏi tự tánh. Truy cứu căn nguyên vẫn là tự tánh, hết thảy đều do tự tánh hiện.

      Tiếp đó là nói tới “năng thuyết, sở thuyết”. Người có thể nói pháp (năng thuyết pháp) chính là Phật, sở thuyết pháp (pháp được nói) là kinh điển. Có thể độ chúng sanh là Phật, Bồ Tát; sở độ (kẻ được độ) là hết thảy chúng sanh. Năng tín, sở tín là chính ḿnh; năng nguyện, sở nguyện cũng là chính ḿnh. Chính ḿnh phát nguyện là năng nguyện, chúng ta mong muốn nguyện của ta được thỏa. Những điều tiếp theo đều có Năng và Sở, Năng và Sở là một, không hai, bất nhị là Thật Tướng. Câu cuối cùng: “Vô phi Thật Tướng chánh ấn chi sở ấn dă” (không ǵ chẳng được chánh ấn Thật Tướng in vào). Do vậy, nhất định phải chú tâm thấu hiểu: Những câu đức Phật đă nói đều là lời chân thật, đều nhằm giảng về Thật Tướng của các pháp. Nếu chúng ta nhận biết, khẳng định những điều ấy, tâm quư vị sẽ định, trong tâm sẽ chẳng khởi tâm động niệm, bèn khế nhập cảnh giới. Tuy “chẳng khởi tâm, không động niệm” quá sâu, chúng ta chưa làm được, nhưng đó là sự thật, vậy th́ chúng ta hăy làm từ chỗ nông cạn, dễ dàng, tức là: Đừng chấp trước, đừng phân biệt! Chấp trước là Kiến Tư phiền năo, phân biệt là Trần Sa phiền năo, chúng ta đổ công sức vào hai chỗ này; thấy sắc, nghe tiếng chẳng chấp trước, chẳng phân biệt. Quư vị tu ǵ? Chẳng chấp trước là tu tâm thanh tịnh, chẳng phân biệt là tu tâm b́nh đẳng, quư vị thật sự học. Lại thưa cùng quư vị, đó gọi là thật sự niệm Phật, chẳng phải là quư vị mong cầu sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới ư? Quư vị niệm Phật có phân biệt, có chấp trước, cũng chẳng sao, đới nghiệp văng sanh, sanh vào cơi Phàm Thánh Đồng Cư của thế giới Cực Lạc. Nếu quư vị chẳng chấp trước, niệm Phật sẽ văng sanh vào cơi Phương Tiện Hữu Dư. Nếu quư vị chẳng phân biệt, chúc mừng quư vị, quư vị tới thế giới Cực Lạc sanh vào cơi Thật Báo Trang Nghiêm. V́ sao? Quư vị b́nh đẳng, tâm b́nh đẳng là cơi Thật Báo, tâm thanh tịnh là Tịnh Độ, Tịnh Độ ấy là tứ thánh pháp giới, c̣n gọi là cơi Phương Tiện Hữu Dư. Phân biệt và chấp trước đều có, tâm quư vị vẫn chưa thanh tịnh, vẫn có thể văng sanh. Pháp môn này quá thù thắng; v́ thế, thích hợp khắp ba căn, thâu nhiếp toàn bộ lợi căn lẫn độn căn, vạn người tu, vạn người về.

      Đoạn phiền năo quả thật chẳng dễ dàng, đến cơi Phàm Thánh Đồng Cư bằng cách nào? Đối với cơi Phàm Thánh Đồng Cư, một câu Phật hiệu có thể khống chế phân biệt, chấp trước, giống như đá đè cỏ, [phân biệt, chấp trước vẫn] có, chưa đoạn, nhưng chúng nó chẳng khởi tác dụng là được rồi! Vào lúc nào? Trong một niệm văng sanh, một niệm cuối cùng là một câu Phật hiệu, trong tâm vẫn là một câu Phật hiệu, không có ư niệm nào khác, quư vị sẽ văng sanh. Trong một niệm cuối cùng, quư vị nghĩ tới chuyện khác, sẽ trở lại lục đạo, không thể văng sanh! Chân tướng sự thật này hết sức trọng yếu! Khi quư vị chẳng hiểu rơ ràng, sẽ thường là luống uổng một đời này, nhất định phải hiểu rơ ràng! Niệm Phật trong lúc b́nh thường là ǵ? Lúc thường ngày giống như luyện binh, một niệm lâm chung là giao chiến. Do vậy, có rất nhiều người b́nh thường niệm Phật rất khá, niệm cả đời, nhưng khi lâm chung không xong, v́ c̣n vướng mắc chưa buông xuống được, tôi đă thấy rồi! Lúc tôi mới xuất gia, tại chùa Lâm Tế thuộc Viên Sơn, Đài Bắc, có một lăo cư sĩ lớn tuổi hơn tôi, học Phật lâu hơn tôi. Trong chùa ấy có hội niệm Phật, cụ làm Duy Na, hướng dẫn đại chúng niệm Phật, tới cuối cùng, cụ chẳng văng sanh. Khi lâm chung, mọi người trợ niệm cho cụ, cụ bảo mọi người: “Các ngươi đừng niệm Phật tiễn ta, ta không thích!”, lại luân hồi! Cho đến lúc ấy, không thể làm chủ chính ḿnh, tập khí vô minh phiền năo quá nặng, cũng là như chúng tôi hay nói là “không buông xuống được!” V́ thế, buông xuống là phải buông xuống trong hiện tại, chớ nên đợi đến ngày mai hay năm sau, [nếu không], sẽ phiền phức lớn. Chúng tôi b́nh thường rất tôn kính vị lăo cư sĩ ấy, niệm Phật rất giỏi, quư vị thấy cụ có thể làm Duy Na hướng dẫn đại chúng, nhưng một chiêu cuối cùng cụ làm không được, chẳng thật sự buông xuống. Do vậy, “do thượng khả kiến toàn kinh hốt luân tại nhất Thật Tướng trung” (do những điều trên đây, có thể thấy toàn bộ bản kinh gồm trọn trong Thật Tướng). Chữ “hốt luân” (囫圇) có nghĩa là “hoàn toàn, hoàn mỹ, hoàn chỉnh”. Toàn bộ từng câu từng chữ trong kinh đều thuộc trong Thật Tướng, lời này là thật. “Cố vân dĩ Thật Tướng vi Thể Tánh dă” (cho nên nói lấy Thật Tướng làm Thể Tánh [của kinh này]), nói những điều này, chẳng có ǵ khác, khiến cho chúng ta tin tưởng đức Phật nói bộ kinh này có căn cứ lư luận, chẳng phải là tùy tiện nói; một mực từ trong tự tánh tự nhiên lưu lộ, nói như vậy cũng hợp lư!

      Trong đoạn cuối cùng, nêu kinh văn trong kinh này để chứng minh: “Hựu bổn kinh Đức Tuân Phổ Hiền phẩm vân, khai hóa, hiển thị chân thật chi tế” (hơn nữa, phẩm Đức Tuân Phổ Hiền trong kinh này có nói: “Khai hóa, hiển thị Chân Thật Tế”). Chân Thật Tế là tự tánh; khai thị, giáo hóa chúng sanh về Chân Thật Tế. “Đại Giáo Duyên Khởi phẩm vân: Dục chửng quần manh, huệ dĩ chân thật chi lợi” (Phẩm Đại Giáo Duyên Khởi nói: “Muốn cứu vớt quần manh, ban cho cái lợi chân thật”). Đức Phật nói kinh này, “quần manh” (群萌) là hết thảy chúng sanh, đức Phật giúp đỡ hết thảy chúng sanh, giúp họ ĺa khổ được vui. Ĺa khổ được vui nói đến chỗ rốt ráo là: Nếu quư vị chẳng rời khỏi lục đạo luân hồi, sẽ chẳng có cách nào thật sự ĺa khổ. Tôi giúp quư vị sanh lên trời, sau khi quư vị hưởng hết phước trời, vẫn phải đọa lạc; đấy chẳng phải là rốt ráo. Giúp quư vị thoát ly lục đạo luân hồi, quư vị chẳng thoát khỏi mười pháp giới, sẽ chẳng có chân lạc. V́ thế, đức Phật giúp đỡ chúng sanh, thật sự chỉ có một mục tiêu: Giúp quư vị thoát ly mười pháp giới, văng sanh Nhất Chân pháp giới, vấn đề này mới thực sự được giải quyết. Thật Báo Trang Nghiêm cũng là Nhất Chân pháp giới, cư dân nơi ấy không chỉ chẳng có phân biệt, chấp trước, mà ngay cả khởi tâm động niệm cũng đều không có, đó là thế giới ǵ? Thế giới Phật. Đến thế giới ấy, đều thật sự thành Phật, chẳng khởi tâm, chẳng động niệm, họ có thể cảm ứng đạo giao cùng hết thảy chúng sanh trọn khắp pháp giới hư không giới. Cảm ứng đạo giao th́ họ có khởi tâm động niệm hay không? Không có. Chẳng khởi tâm động niệm, làm sao có thể cảm ứng đạo giao? Chúng tôi lúc mới học Phật có nỗi nghi hoặc này, nghi hoặc suốt mấy chục năm. Chúng tôi đến thỉnh giáo các vị lăo ḥa thượng, đại đức, họ cũng chẳng giảng rơ ràng. Học tập vài chục năm mới từ từ thông hiểu, đấy là do Tánh Đức trong tự tánh chẳng thể nghĩ bàn. Tánh Đức là Thường Tịch Quang, trong ấy cái ǵ cũng đều không có, chính là như Huệ Năng đại sư đă nói năm câu: “Nào ngờ tự tánh, vốn tự trọn đủ”. Câu này nói rơ ràng, nhưng trước kia chúng tôi không hiểu, nghe mà chẳng hiểu ư nghĩa này: Trong tự tánh, thứ ǵ cũng trọn đủ, chẳng có ǵ khiếm khuyết. Y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới thảy đều ở trong ấy, nhưng nó chẳng hiển lộ. Giống như màn h́nh TV, chúng ta không mở máy th́ chỉ thấy một màn h́nh [trống trơn], trong ấy thứ ǵ cũng chẳng có! Lúc ấy, quư vị chẳng thể nói là nó không có; khi quư vị nhấn nút, chẳng phải là [h́nh ảnh] bèn xuất hiện ư? Nó ở trong cảnh giới ấy, cho nên thứ ǵ cũng đều chẳng có.

      Khi ứng th́ chư Phật, Bồ Tát có thể hiện hay chăng? Khi ứng th́ sẽ hiện. Hiện như thế nào? Cảm ứng. Ai nhấn nút? Người cảm “đă nhấn nút”, chư Phật, Bồ Tát bèn tự nhiên ứng, các Ngài chẳng khởi tâm động niệm. Người cảm cầu Phật, Bồ Tát gia hộ, cho nên một niệm tâm ấy là Cảm, khi các Ngài ứng bèn vô tâm, giống như tỷ dụ của chúng ta trong hiện tại. Nói thật ra, chỉ có thể tỷ dụ phảng phất, chẳng có cách nào tỷ dụ khít khao, không thể [kiếm được tỷ dụ vừa khớp]. Giống như làm thí nghiệm trên nước, nước là khoáng vật, chúng ta đối với nước khởi lên ư niệm: “Ta ưa thích ngươi, ta yêu mến ngươi”, nước sẽ tiếp nhận, phản ứng bằng cách kết tinh rất đẹp đẽ cho chúng ta thấy. Chúng ta truyền cho nó một ư niệm khác: “Tao chán ghét mày, tao hận mày”, nó bèn truyền tin tức trở lại bằng cách kết tinh rất xấu xí cho quư vị thấy. Nó có khởi tâm động niệm hay chăng? Nước có khởi tâm động niệm hay chăng? Không có! Nó hiểu bằng cách nào? Thuở xưa, đức Phật đă dùng chuông trống làm tỷ dụ. Ngài nói quư vị gơ chuông, cố ư gơ chuông, nó sẽ ngân vang. Quư vị gơ mạnh, âm thanh sẽ to; gơ nhẹ, âm thanh nhỏ, chuông có khởi tâm động niệm hay chăng? Nó có phân biệt, chấp trước hay không? Tự tánh cảm ứng giống như chuông trống, quả thật chẳng khởi tâm động niệm, chẳng có phân biệt, chấp trước, gơ mạnh kêu to, gơ nhẹ kêu bé, thật sự chẳng khởi tâm động niệm. V́ sao? Do có đạo lư này: Do trong tự tánh có kiến văn giác tri, nó là bất sanh, bất diệt. Thọ, Tưởng, Hành, Thức có sanh diệt. Hễ mê th́ từ tự tánh biến thành A Lại Da, bèn có Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Trong tương lai, chuyển thức thành trí, Thọ, Tưởng, Hành, Thức bèn chẳng có. Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức đều không có, trở về tự tánh. Điều này quả thật chẳng dễ hiểu lắm, nhưng nó là chân tướng sự thật, các tướng được hiện toàn là huyễn tướng, ngàn vạn phần chớ nghĩ nó là thật. Hễ tưởng là thật th́ quư vị đă trật rồi. Coi nó là thật th́ sao? Coi các hiện tướng là thật sẽ tạo nghiệp. Nghiệp có nhiễm nghiệp, có tịnh nghiệp, có thiện nghiệp, có ác nghiệp, quả báo khác biệt. Do vậy, đối với hết thảy chúng sanh, đúng là đức Phật đă ban cho hết thảy chúng sanh lợi ích chân thật; chân thật là ǵ? Khiến cho quư vị minh tâm kiến tánh, trở về tự tánh.

      Trong phẩm Tích Công Lũy Đức có một câu như thế này: “Trụ Chân Thật Huệ, dũng mănh tinh tấn, nhất hướng chuyên chí trang nghiêm diệu độ” (trụ Chân Thật Huệ, dũng mănh tinh tấn, một mực chuyên dốc chí trang nghiêm cơi nước mầu nhiệm). Ở đây nêu ra rất hay, nói ra ba thứ chân thật: “Chân thật chi tế, chân thật chi lợi, trụ chân thật huệ”, nói đến ba thứ chân thật. Chỉ có trụ trong Chân Thật Huệ th́ mới có thể dũng mănh tinh tấn. Chân Thật Huệ là ǵ? Là Thích Ca Mâu Ni Phật giảng bộ kinh Vô Lượng Thọ này. Kinh Vô Lượng Thọ dạy quư vị phương pháp “nhất hướng chuyên niệm”, dạy chúng ta phương pháp tu học để trở về tự tánh, phương pháp đại triệt đại ngộ, phương pháp thoát ly lục đạo, mười pháp giới, phương pháp văng sanh cơi Thật Báo Trang Nghiêm, [tức là] tám chữ “phát Bồ Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm”. Người thật sự làm, sẽ như Liên Tŕ đại sư đă nói: “Tam Tạng thập nhị bộ, nhượng cấp tha nhân ngộ” (Tam Tạng mười hai bộ, nhường cho người khác ngộ). Nay ta hiểu rơ, hiểu ư nghĩa thật sự của đức Thế Tôn, đó là chân thật nghĩa, ta chẳng c̣n kiếm lấy những nỗi phiền phức nữa, đó là “trụ Chân Thật Huệ”. Bao lâu sẽ có thể thành công? Tối đa là ba năm, thật đấy, chẳng giả tí nào! Ba năm sẽ đắc Niệm Phật tam-muội, có thể văng sanh. [Điều này được] chứng tỏ trong Văng Sanh Truyện, Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, quư vị hăy đọc, trong ấy, gần như quá nửa là người ta [niệm Phật] ba năm bèn văng sanh. Do vậy, trong quá khứ có một vị pháp sư hỏi tôi, vị này cũng đă mất, tức là pháp sư Đức Dung, h́nh như Sư đă qua đời chẳng ít năm, tuổi tác cũng xấp xỉ tôi. Sư từng hỏi tôi một câu. Sư nói: “Có đúng là những người được chép trong Văng Sanh Truyện thọ mạng chỉ c̣n vừa đúng ba năm, sau ba năm, thọ mạng đă hết nên họ phải ra đi?” Tôi nghe hỏi như vậy, không cho cách nghĩ ấy là đúng, đâu có chuyện phù hợp khít khao như vậy? Hai, ba người th́ có lẽ c̣n có thể, chứ đông như thế, mấy trăm người, làm sao có thể có chuyện như vậy được? Chuyện ấy chẳng thể xảy ra. Cớ sao họ niệm ba năm bèn văng sanh? Khẳng định là tṛn ba năm, người ấy đă tu được công phu thành phiến, bèn từ bỏ tuổi thọ. Công phu thành phiến tốt đẹp, chúng ta có thể chia công phu thành phiến thành ba bậc, chín phẩm. Thượng Phẩm văng sanh ra đi tự tại, muốn đi bèn đi, ta có thọ mạng nhưng chẳng cần tới, ta sang thế giới Cực Lạc, thân cận A Di Đà Phật, đến bên kia để tu hành, thật sự đi được

      Mấy năm trước, cư sĩ Hoàng Trung Xương ở Thâm Quyến, ba mươi mấy tuổi, c̣n rất trẻ, đă làm thí nghiệm: Bế quan niệm Phật ba năm, xem thử có thể văng sanh hay chăng? Ông ta niệm hai năm mười tháng, c̣n thiếu hai tháng nữa mới viên măn mà đă đi, thật sự chẳng giả tí nào! Chẳng cần [thọ mạng] nữa, thế gian này, quá khổ. Độ chúng sanh như thế nào? Cuộc biểu diễn ấy của ông ta nhằm độ chúng sanh, chẳng dạy bằng lời lẽ (ngôn giáo), mà dùng thân giáo, nêu gương cho quư vị thấy. Trong Tam Chuyển Pháp Luân, cách này gọi là Thị Chuyển, [tức là] thị hiện tấm gương cho quư vị nh́n vào, thật sự, chẳng phải là giả. Những trường hợp như vậy quá nhiều. Đấy là “trụ Chân Thật Huệ”, thâm nhập một môn. Đạt được công phu này, tam-muội là Định, chắc chắn Định sanh trí huệ, trí huệ sanh từ tâm thanh tịnh, tâm chẳng thanh tịnh sẽ sanh phiền năo, tâm thanh tịnh sanh trí huệ. Trong Tịnh Tông, đạt được công phu như thế, một là văng sanh Cực Lạc thế giới, hai là ở lại thế giới này ḥng độ chúng sanh. Ở lại thế giới này th́ cũng có thể nói là người ấy có nhiệm vụ: Mang thêm mấy người nữa về thế giới Cực Lạc. Chính ḿnh văng sanh th́ lúc nào cũng đều có thể đi, đến đi tự do, muốn đi lúc nào bèn đi lúc ấy, chẳng vướng mắc tí nào! Người ấy trụ trong thế gian này mới thật sự là chịu khổ thay cho chúng sanh. Nếu người ấy chẳng trụ trong thế giới này, sẽ chẳng thể giúp đỡ người khác. Người ấy ở trong thế giới này, đúng là bốn đức đă được nói trong sách Hoàn Nguyên Quán: “Tùy duyên diệu dụng, oai nghi hữu tắc, nhu ḥa chất trực, đại chúng sanh khổ” (tùy duyên diệu dụng, oai nghi có chừng mực, mềm mỏng, chân thật, thẳng thắn, chịu khổ thay cho chúng sanh). Người ấy làm những điều này, chịu khổ thay cho chúng sanh. Có phải là thật sự chịu khổ thay cho chúng sanh hay chăng? Chẳng phải! Người ấy thị hiện tướng trạng ấy. V́ sao? Tâm người ấy thanh tịnh, chẳng có phân biệt, chấp trước, làm sao có khổ được! Do vậy, trong tâm người ấy rất tự tại, giống như Thích Ca Mâu Ni Phật, đều là thị hiện. Thích Ca Mâu Ni Phật tam y nhất bát, đêm ngủ dưới cội cây, Ngài sung sướng lắm! Nhưng chúng ta thấy rất khổ, v́ sao? Chúng ta chịu không nổi. Phật có thể chịu được, Ngài là thân kim cang bất hoại, cho nên ở trong ấy, Ngài có niềm vui, pháp hỷ sung măn, thường sanh tâm hoan hỷ. Hôm nay lại hết thời gian rồi, ngày mai chúng ta sẽ học tập tiếp, hôm nay giảng tới đây.

 

Tập 22

 

Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi xuống. Tôi vừa mới xem một tờ truyền đơn, nghe nói tờ truyền đơn này đă lưu hành trên Internet khá lâu! Tôi đọc một đoạn cho mọi người nghe nhé: “[Tờ truyền đơn này] đến từ lăo pháp sư Tịnh Không. Sau khi tai nạn bộc phát tại Tứ Xuyên, Miến Điện, gần đây tai nạn lại bộc phát càng nghiêm trọng hơn. Cả thế giới bị ôn dịch, có thể hơn trăm vạn người bị chết, so với tai nạn tại Tứ Xuyên và Miến Điện trong thời gần đây càng đáng sợ hơn. Hiện thời đă có mấy quốc gia như Đại Hàn, Ấn Độ đă bắt đầu [xảy ra tai nạn]”. Tôi chẳng biết chuyện này, mà cũng chẳng biết ai đă viết [như vậy], chuyện này tôi không hiểu. Đoạn tiếp theo viết: “Pháp sư Tịnh Không kêu gọi các đồng tu trên thế giới bắt đầu từ tám giờ rưỡi mỗi tối, niệm tụng thánh hiệu Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát một ngàn câu suốt một tuần để hồi hướng cho chúng sanh trên cả thế giới tiêu tai miễn nạn, ĺa khổ được vui, quốc thái dân an, mưa ḥa, gió thuận. Xin quư vị sau khi nhận được tin tức này bèn báo cho càng nhiều nhân sĩ thiện tâm biết, công đức vô lượng”. Câu sau cùng là do người viết truyền đơn thêm vào. Tôi kêu gọi đồng học Tịnh Tông trên toàn cầu niệm Quán Thế Âm Bồ Tát ḥng tiêu tai miễn nạn cho thế giới, tôi đă nói điều này, đoạn ấy tôi đă nói, nhưng câu trước và câu cuối cùng, tôi chẳng biết đến. Những ǵ tôi nói đă được đài truyền h́nh vệ tinh Hoa Tạng phát sóng. Mặt sau tờ truyền đơn có toa thuốc của Quán Thế Âm Bồ Tát, đối với toa thuốc ấy, tôi không biết Trung Y, có thể nhờ các thầy thuốc Bắc xét coi có hiệu quả hay không? Chuyện này thận trọng một chút sẽ tốt hơn. Tai nạn rất nhiều, nhất là trong thời gian gần đây nhất, h́nh như hôm nay tại Đài Loan lại bị động đất, c̣n có núi lở. Nhiều năm qua, tôi thường khuyên lơn các đồng tu phải nghiêm túc học mười sáu chữ: “Phóng hạ tự tư tự lợi, phóng hạ danh văn, lợi dưỡng, phóng hạ đối ngũ dục lục trần hưởng thụ, phóng hạ tham, sân, si, mạn” (Buông tự tư tự lợi xuống, buông tiếng tăm, lợi dưỡng xuống, buông hưởng thụ ngũ dục lục trần xuống, buông tham, sân, si, mạn xuống). Tâm thái của chúng ta đoan chánh sẽ khiến cho thân tâm khỏe mạnh, mang lại hạnh phúc cho gia đ́nh, mang lại thuận lợi trong sự nghiệp, mang lại an định ḥa b́nh cho xă hội, đưa đến sự đối xử ḥa thuận trên thế giới, tôi thường nói những điều này. Tai nạn chẳng đáng sợ, chúng ta đoan chánh tâm hạnh sẽ có thể hóa giải tai nạn, trong kinh, đức Phật thường dạy chúng ta: “Tướng do tâm sanh, cảnh chuyển theo tâm”. Trong giáo pháp Đại Thừa nói rất nhiều, đối với những lư luận ấy, chúng ta có mức độ khá hiểu biết. Do vậy, chúng ta công nhận hai câu nói ấy của đức Phật, chỉ cần sửa đổi tâm thái của chúng ta cho đúng, sẽ có thể hóa giải tai nạn. V́ thế, rất nhiều thứ được lưu truyền mượn danh nghĩa của tôi, tôi chẳng biết rơ lắm! Trong quá khứ, cục trưởng cục Tôn Giáo Quốc Gia là ông Diệp đă từng cho tôi biết. Ông ta đến Hương Cảng phỏng vấn. Trong thời gian phỏng vấn, có một hôm mời tôi dùng bữa sáng tại khách sạn, ông ta bảo: “Trong nước có những kẻ giả mạo danh nghĩa pháp sư để làm những chuyện bất thiện, pháp sư có biết những chuyện đó hay không?” Tôi nói tôi thật sự không biết. Ông ta bảo: “Chuyện này sẽ do quốc gia xử lư”. Tôi nói tôi rất cảm ơn. Do vậy, ở đây, tôi nói kèm thêm chuyện này cùng mọi người. Tờ truyền đơn này không có khuyết điểm ǵ to lớn, toàn là khuyến thiện, nhưng lời khuyến thiện và toa thuốc của Quán Âm Bồ Tát chúng tôi chẳng biết tới, toa thuốc Quán Âm Bồ Tát do đâu mà có? Tôi hoàn toàn không biết. Quư vị liễu giải là được rồi, cám ơn mọi người.

      Nay chúng ta bắt đầu xem kinh, xin coi Vô Lượng Thọ Kinh Giải trang hai mươi, ḍng thứ hai từ dưới đếm lên, coi từ giữa câu: “Tích Công Lũy Đức phẩm vân: Trụ Chân Thật Huệ, dũng mănh tinh tấn, nhất hướng chuyên chí trang nghiêm diệu độ” (Phẩm Tích Công Lũy Đức có nói: “Trụ Chân Thật Huệ, dũng mănh tinh tấn, một mực chuyên dốc chí trang nghiêm cơi nước mầu nhiệm”). Câu đầu tiên này hết sức trọng yếu! Quư vị thấy chư Phật Như Lai chỉ dạy chúng ta trí huệ chân thật, điều này quan trọng lắm! Trí huệ chân thật ở đâu? Trí huệ chân thật chẳng ở bên ngoài, mà sẵn có trong tự tánh của chúng ta, lại c̣n viên măn, hết thảy chúng sanh đều có. Trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật đă nói rơ ràng: “Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng của Như Lai”. Trong quá khứ, đối với câu nói này, tŕnh độ hiểu biết của chúng tôi như sau: Nói “hết thảy chúng sanh” th́ đại khái là người, tối đa là động vật, chúng tôi hiểu như vậy. Hiện thời, chúng tôi hiểu sâu đậm hơn, v́ “chúng sanh” được nói trong Phật giáo vốn có nghĩa là “các hiện tượng do các duyên ḥa hợp mà sanh khởi” th́ gọi là “chúng sanh”. Định nghĩa này bao gồm tất cả các hiện tượng, có hiện tượng nào chẳng do các duyên ḥa hợp? Kinh thường nói động vật là Tứ Đại, Ngũ Uẩn, đó là các duyên ḥa hợp. Nay chúng ta đă biết: Thực vật cũng do các duyên ḥa hợp, bộ phận vật chất của thực vật là Sắc pháp, hiện thời thực vật cũng có Thọ, Tưởng, Hành, Thức.

      Mười năm gần đây, chúng tôi ở Úc. Tại Úc, chúng tôi có một vườn rau rất lớn, trong vườn rau trồng rất nhiều loại rau, đại khái có từ mười mấy tới hai mươi loại, do chính chúng tôi chăm bón. Chúng tôi chăm bón những thứ rau ấy, c̣n có cây ăn quả, trong bốn năm qua, chúng tôi c̣n trồng trúc, cho nên năm nay, thu được hoạch măng trúc rất ngon, chúng tôi cũng chẳng thiếu thức ăn. Chúng tôi chuyện tṛ với những loài thực vật ấy, nhận thấy chúng nó có Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Chuyện tṛ rất tốt đẹp, hỗ trợ hợp tác. Đối với khoáng vật, chúng ta chẳng có cách nào thí nghiệm! Tiến sĩ Giang Bổn Thắng của Nhật Bản đă làm thí nghiệm trên nước, phát hiện nước có “kiến, văn, giác, tri”, nó có thể thấy, nghe, hiểu được ư nghĩ của con người. Mấy bữa gần đây, tôi đă xem một đĩa DVD [do một đồng tu] hạ tải (download) từ Internet, đặc biệt đưa cho tôi xem. Khoa học gia Mỹ đă phát hiện nước có kư ức, kư ức là thức. Nói cách khác, khoáng vật có Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Phạm vi ấy to lắm! Đức Phật nói “thân Ngũ Uẩn” bao gồm tất cả các hiện tượng trong trọn khắp pháp giới hư không giới, bất luận hiện tượng tinh thần hay hiện tượng vật chất. Tinh thần và vật chất vĩnh viễn chẳng tách rời, trong phần trước, tôi đă từng thưa bày cùng quư vị điều này. Trong vật chất có Thọ, Tưởng, Hành, Thức; Thọ, Tưởng, Hành, Thức là tinh thần, trên phương diện tinh thần có Vô Biểu Sắc, nó chẳng phải là không có sắc. Chúng ta nằm mộng, trong mộng có sắc; chúng ta tưởng tượng, trong tưởng tượng có sắc pháp. Do vậy, nói thật ra, Vô Sắc Giới Thiên vẫn có sắc, sắc của họ là Vô Biểu Sắc, người b́nh thường chúng ta chẳng thấy, nhưng Phật, Bồ Tát có thể trông thấy, A La Hán có thể trông thấy, những người có công phu đều có thể trông thấy. Do vậy, “trụ Chân Thật Huệ” có ư nghĩa rất rộng. Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng của Như Lai, một hạt bụi, một giọt nước, hoặc như kinh nói một sợi lông, một vi trần, đều trọn đủ trí huệ và đức tướng của Như Lai. Chúng ta hiểu như vậy th́ mới là chân thật nghĩa của Như Lai, chẳng giới hạn trong động vật, động vật có phạm vi quá nhỏ.

      “Trụ” () là an trụ. Khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo tác, tự hành, hóa tha; tự hành là trong cuộc sống hằng ngày của chính chúng ta, hóa tha là ảnh hưởng hết thảy chúng sanh chung quanh; đó là Trụ, toàn là trí huệ chân thật. Đương nhiên người b́nh phàm chúng ta chẳng làm được câu này, v́ sao? Chúng ta mê tự tánh, tức là mê Chân Thật Huệ. Thật ra, Chân Thật Huệ vẫn khởi tác dụng, khi mê bèn khởi tác dụng ǵ? Khởi phiền năo. Do vậy, phải hiểu, kinh dạy “phiền năo tức Bồ Đề”, phiền năo và Bồ Đề là cùng một chuyện. Hễ giác ngộ, phiền năo liền biến thành trí huệ; mê th́ trí huệ biến thành phiền năo. Quư vị thấy: Do chúng ta mê hay ngộ bèn có thể biến hóa những thứ được sanh bởi tự tánh! Giác ngộ sẽ sanh ra thứ tốt nhất, trí huệ viên măn. Nếu mê th́ trí huệ biến thành vô lượng vô biên phiền năo. Do vậy có thể biết: Phật, Bồ Tát trụ Chân Thật Huệ, hiện thân thuyết pháp dạy bảo chúng ta, chúng ta và các Ngài có cùng một tự tánh, chẳng hai, chẳng khác. Các Ngài trụ Chân Thật Huệ như thế nào? Buông khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước xuống, trí huệ chân thật bèn hiện tiền. So với các Ngài, chúng ta khởi tâm động niệm, có phân biệt, chấp trước, những thứ này được gọi là “phiền năo”. Trong pháp Đại Thừa, khởi tâm động niệm gọi là Vô Minh phiền năo, phân biệt là Trần Sa phiền năo, chấp trước là Kiến Tư phiền năo. “Kiến” là kiến giải, “Tư” là tư tưởng. [Kiến Tư phiền năo] là trong kiến giải và tư tưởng của quư vị có kèm theo các phiền năo. Phiền năo vô lượng vô biên, nhằm nói cho thuận tiện, đức Phật đă chia phiền năo thành ba loại lớn. Buông những thứ ấy xuống, trí huệ bèn hiện tiền. Quư vị thấy: Buông phiền năo xuống, phiền năo bèn khôi phục nguyên trạng, nguyên trạng (t́nh trạng vốn có) của nó là trí huệ. Phiền năo là ǵ? Phiền năo là t́nh trạng [trí huệ đang] bị bệnh (ư nói: Bị biến chất, bị ô nhiễm bởi phân biệt, vọng tưởng). Chúng ta khởi lên ư niệm, trật rồi! Trong tự tánh chẳng có khởi tâm động niệm, không có phân biệt, chấp trước; do vậy, những tướng được hiển lộ đúng mực [của tự tánh] sẽ là trí huệ, đức năng, tướng hảo, đó là b́nh thường. Trong kinh giáo, đức Phật nói tới Nhất Chân pháp giới, hoặc cơi Thật Báo của chư Phật Như Lai, đó là b́nh thường. Mười pháp giới th́ sao? Không b́nh thường. Mười pháp giới từ Phật cho đến địa ngục, mỗi tầng sau nghiêm trọng hơn tầng trước, nghiêm trọng nhất không chi hơn địa ngục, tầng này nghiêm trọng nhất, mê sâu nhất. Trong địa ngục, cũng có rất nhiều chủng loại, cũng có [mê hoặc] sâu hay cạn khác nhau. Chỗ mê sâu nhất gọi là A Tỳ địa ngục, mê nặng nề! Do vậy, đức Phật hóa độ chúng sanh, nguyên tắc là ǵ? Giúp đỡ chúng sanh phá mê khai ngộ. Họ chẳng mê hoặc, sẽ giác ngộ, bệnh thái (t́nh trạng bệnh tật) hoàn toàn khôi phục b́nh thường, sẽ được an vui. Do vậy, đức Phật giáo hóa chúng sanh, giúp đỡ chúng sanh, hoàn toàn dùng giáo dục, chúng ta phải hiểu điều này.

      Do vậy, chúng tôi thường nghĩ, mà cũng thường nhắc nhở mọi người: Tổ tiên chúng ta, cổ thánh tiên hiền, thật sự đều là Phật, Bồ Tát tái lai. Những ǵ họ dạy bảo chúng ta chẳng khác ǵ kinh Phật. Tổ tiên dạy chúng ta: “Kiến quốc, quân dân, giáo học vi tiên” (kiến thiết đất nước, cai trị dân chúng, giáo học làm đầu), giáo học! Quư vị chỉ cần thực hiện tốt giáo học, vấn đề ǵ cũng đều được giải quyết, hăy thực hiện tốt việc giáo dục. Giáo dục là dạy những ǵ? Dạy luân lư, dạy đạo đức, dạy nhân quả, đấy là giáo dục phổ thông, cần phải được học tập phổ biến. C̣n có một số ít người tiến cao hơn nữa, đó là giáo dục khoa học, giáo dục triết học, những điều ấy nhằm giúp đỡ quư vị nâng cao linh tánh, nhưng cũng đều xếp giáo dục vào vị trí bậc nhất. Phật pháp cũng giống như thế. Bậc đại thánh đại hiền vĩ đại nhất trong thế gian và xuất thế gian, nói theo Phật pháp, toàn là Phật, Bồ Tát; nói cách khác, đều là những người tiến hành công tác giáo dục. Tại Trung Quốc, cổ thánh tiên hiền cũng có vị tham gia chính trường, như Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang nắm quyền chính trị từ ngôi vua, nhưng cũng có vị chuyên môn tiến hành giáo dục như Khổng Tử, Mạnh Tử, cũng là suốt đời dạy học. Khổng Tử tuy chu du các nước, mong được một chức quan nhỏ nhoi để thực hiện hoài băo của Ngài, nhưng trong lúc chu du các nước, học tṛ theo Ngài, rất nhiều người chẳng rời thầy, mỗi ngày đều học tập, giống như Tăng đoàn của Thích Ca Mâu Ni Phật, bất quá tăng đoàn của Khổng Tử chẳng có quy mô to như Thích Ca Mâu Ni Phật, nhưng đều là tiến hành công tác giáo dục. Khổng Tử chu du các nước, cảm thấy tuổi tác đă cao, tuy gặp rất nhiều chư hầu, chẳng ai muốn dùng Ngài, tới lúc ấy, mới bỏ cách nghĩ ấy, trở về nhà, chuyên môn tiến hành công tác giáo học. Khi đó, lăo nhân gia đă sáu mươi tám tuổi, mất năm bảy mươi ba tuổi, cho nên toàn bộ tinh thần chuyên chú vào dạy học chỉ là năm năm. Thích Ca Mâu Ni Phật toàn tâm toàn ư dạy học bốn mươi chín năm, trong các vị cổ thánh tiên hiền, thời gian dạy học dài nhất là Thích Ca Mâu Ni Phật, đấy là dũng mănh tinh tấn.

      Chúng ta cầu trí huệ, học Phật là học trí huệ, là đào bới, khơi lên trí huệ trong tự tánh, giống như khai quật kho báu từ trong hầm mỏ. “Khai quật” là buông xuống. Buông xuống những chấp trước đối với hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian, trí huệ sẽ bắt đầu hiện bày, bắt đầu trào ra ngoài, [tuy vậy, trí huệ ấy] chưa nhiều lắm, trong Phật pháp gọi là A La Hán. A La Hán đắc Chánh Giác, Chánh Giác là trí huệ. Tiếp tục buông xuống không ngừng. Tôi thưa với các đồng học, buông tự tư tự lợi xuống, buông tiếng tăm, lợi dưỡng xuống, buông tham, sân, si, mạn xuống, buông ngũ dục lục trần xuống, sẽ đạt đến giai đoạn nào? Thưa quư vị, sẽ đạt tới cửa ngơ của Phật giáo, nhưng chưa tiến vào. Chư vị phải biết: Chớ nên tưởng rằng ta buông xuống nhiều ngần ấy, bèn nghĩ chính ḿnh ghê gớm lắm, mới đến ngoài cửa mà thôi, chưa vào cửa! Bước vào cửa, cần phải dùng tiêu chuẩn của Phật. Do vậy, tôi nói tới phương tiện nhằm giúp đỡ quư vị tiến đến trước cửa, sau đấy, chính quư vị lại phải bước vào. Thật sự tiến vào cửa, sẽ là như trong kinh thường nói: Đối với Kiến Tư phiền năo, phải đoạn sạch Kiến Hoặc, quư vị có rất nhiều cách nh́n sai trái phải bỏ đi. Cách nh́n sai lầm rất nhiều, đức Phật đă quy nạp thành năm loại. Loại thứ nhất là Thân Kiến, hăy buông xuống, biết thân chẳng phải là chính ḿnh, thân là ǵ? Thân là cái mà ta có, chẳng phải là ta, phải xoay chuyển quan niệm sai lầm này. Y phục chẳng phải là ta, mà là cái thuộc về ta, thân thể giống như quần áo, là cái ta vốn có, chẳng phải là ta. Do vậy, cái thân dùng vài chục năm đă trục trặc, lại thay một thân khác, giống như quần áo mặc dơ, quư vị rất vui vẻ cởi ra, đổi lấy một bộ mới. Sau khi đột phá cái ải này, quư vị sẽ chẳng sợ hăi sanh tử, thay một bộ quần áo mới mà thôi! Chẳng sợ hăi, thưa quư vị, y phục càng thay càng đẹp đẽ hơn, càng thay càng tốt hơn. Tham sống sợ chết th́ càng thay càng tệ hơn! Phật có ân đức rất lớn đối với chúng ta. Chúng ta liễu giải chân tướng, thân chẳng phải là chính ḿnh, chớ nên v́ thân này khởi tham, sân, si, mạn; [nếu khởi lên] là trật rồi, nó chẳng phải là chính ḿnh.

      Thứ hai là phải buông bỏ đối lập, danh từ Phật giáo [gọi đối lập] là Biên Kiến, nhị biên (hai bên, tức có không, đúng sai, thiện ác v.v...), nay chúng ta nói là “đối lập”, mọi người dễ hiểu. Đối lập là căn nguyên của tất cả phiền năo tội nghiệt, v́ trong vũ trụ, trong Pháp Tánh chẳng có đối lập, t́m không ra đối lập! Hết thảy chúng sanh trong toàn thể vũ trụ và chính ḿnh là nhất thể, nhất thể mà quư vị chia thành đối lập th́ trật mất rồi! Chẳng thể phân chia. V́ thế, kinh Kim Cang vừa mở đầu liền dạy: “Vô ngă tướng, vô nhân tướng, vô chúng sanh tướng, vô thọ giả tướng”, bốn câu này nói rất hay, ĺa tứ tướng, nó là một chỉnh thể (entirety), nhất thể! Làm sao quư vị có thể phân chia được? Đâu có đạo lư ấy! Do vậy, chúng ta phải học chẳng đối lập với hết thảy mọi người, họ đối lập với ta, nhưng ta và họ chẳng đối lập, v́ sao? Họ mê, chưa giác ngộ. Nay ta đă hiểu rơ, giác ngộ; nếu ta đối lập với các vị, chẳng phải là lại mê hay sao? Do vậy, không có đối lập. Chẳng đối lập với người khác, chẳng đối lập với sự, mà cũng chẳng đối lập với hết thảy vạn vật, đối với núi, sông, đại địa cũng không đối lập, v́ sao? Nhất thể, chúng là y báo của ta, đều do tự tánh biến hiện, giống như trong Hoàn Nguyên Quán đă giảng: Từ nhất thể khởi nhị dụng. Tuy khởi nhị dụng, nhưng nhị dụng vẫn là nhất thể, nhị mà bất nhị. V́ thế, Tánh và Tướng như nhau, Tánh và Tướng bất nhị, cách nh́n này là chính xác.

      Điều buông xuống thứ ba là Thành Kiến. Thành Kiến là ǵ? Tự cho ḿnh là đúng. Người Hoa thường nói: “Kẻ nào đó có thành kiến rất sâu”. Thành Kiến là ǵ? Thành Kiến là chấp trước. Thành Kiến có hai loại: Một là Thành Kiến nơi nhân, hai là Thành Kiến nơi quả trong lục đạo. Chúng sanh trong lục đạo đều rất chấp trước, đây là loại chấp trước nghiêm trọng, tự cho ḿnh là đúng, đấy là sai lầm. V́ sao sai lầm? Trong kinh, đức Phật thường nói: “Phàm những ǵ có h́nh tướng đều là hư vọng”; nếu đă hiểu hết thảy hiện tượng đều là hư vọng, mà cũng chẳng chân thật, sẽ chẳng có thành kiến. Không có thành kiến mới có thể tùy duyên, tùy hỷ công đức. “Hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức”. Phật, Bồ Tát chẳng có thành kiến, c̣n hết thảy chúng sanh, quư vị nói như thế nào mới là tốt theo kiểu nào đi nữa, Phật cũng đều có thể tùy thuận, chẳng ép buộc quư vị một tí nào! Quư vị làm lành, sanh lên thiên đường; quư vị tạo ác bèn đọa địa ngục, Phật biết rất rơ ràng, nhưng Phật chẳng ngăn trở quư vị, v́ sao? Quư vị thích làm như vậy th́ c̣n cách nào nữa? Tới khi nào quư vị thật sự giác ngộ, hướng về Phật thỉnh giáo, Ngài sẽ dạy quư vị. Quư vị chẳng hướng về Ngài thỉnh giáo, Ngài chẳng dạy quư vị, v́ sao? Dạy th́ quư vị chẳng chịu tiếp nhận, tạo tội nghiệp. Đó là trí huệ chân thật. Trí huệ chân thật hiển thị, đó là đức năng chân thật, tướng hảo chân thật sẽ tự nhiên hiển thị.

      “Dũng mănh tinh tấn”, đoạn kinh văn này nhằm miêu tả A Di Đà Phật khi đang tu nhân, chúng ta phải học tập, học theo A Di Đà Phật. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta khởi tâm động niệm có phải là trí huệ hay chăng? Là trí huệ hay là t́nh thức? T́nh thức là phiền năo, “t́nh” là Mạt Na thức, “thức” là A Lại Da. Trong kinh Phật đă giảng rất rơ ràng, t́nh là ǵ? T́nh là Ngă Kiến, ngă ái, ngă si, ngă mạn, đấy là t́nh. Trong kinh Đại Thừa thường nói là “tham, sân, si, ngă”, “ngă” ở sau tham, sân, si, c̣n có “mạn”. Tham, sân, si mạn là bốn đại phiền năo thường nương theo [A Lại Da], đó là “t́nh chấp” (chấp trước nơi t́nh thức). Do vậy, nếu chẳng dùng trí huệ, sẽ biến thành t́nh chấp, chắc chắn sẽ là như vậy. Dũng mănh tinh tấn, muốn t́m lại tự tánh, muốn t́m lại trí huệ. Một mực như vậy, quư vị nh́n theo một phương hướng, chuyên môn trang nghiêm cơi nước nhiệm mầu, cơi nước nhiệm mầu chính là thế giới Cực Lạc. Thế giới Cực Lạc do nguyện lực của A Di Đà Phật biến hiện, thật sự là hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng. Thế giới Cực Lạc từ tâm tưởng của A Di Đà Phật mà xuất hiện. Chúng ta có tưởng ra một thế giới hay chăng? Cũng tưởng ra, quả địa cầu là một thế giới do tâm tưởng của chúng ta sanh ra. Nếu tâm chúng ta chẳng tưởng, sẽ chẳng có địa cầu, thật đấy, chẳng giả đâu!

      Kế đó là lời giải thích, Hoàng lăo cư sĩ giải thích: “Chân thật chi tế giả” (Chân Thật Tế là...), Chân Thật Tế là ǵ? “Chân Như Thật Tướng chi bổn tế dă” (căn cội của Chân Như Thật Tướng). Chân là Chân Như, Thật là Thật Tướng, Tế là bổn tế (cội rễ, giới hạn), cũng có nghĩa là Chân Như Thật Tướng, “tế” () là giới hạn, là “biên tế” (ranh giới), giới hạn ấy có hay chăng? Chẳng có, không có ngằn mé! Không có ǵ to lớn có thể vượt ra ngoài được, trong giáo học của Phật, điều đó được gọi là Chân Thật Tế. “Thử tức bổn kinh chi sở khai thị giả dă” (đấy chính là điều được khai thị trong bản kinh này). Đây là nói rơ bộ kinh này giảng điều ǵ? Giảng về Chân Thật Tế, giảng chân tướng này, không ǵ to lớn lọt ra ngoài, không ǵ nhỏ nhặt chẳng được bao gồm. Đấy là biên tế; chẳng ngoài, chẳng trong; đấy là “biên tế”, nó không có biên tế. “Cực Lạc diệu độ năi chân thật trí huệ chi sở trang nghiêm thành tựu giả” (cơi nước mầu nhiệm Cực Lạc được trang nghiêm thành tựu bởi trí huệ chân thật). Câu này quan trọng lắm! V́ sao chúng ta phải cầu sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới? A Di Đà Phật mở một trường học tại đó. Thế giới Cực Lạc là một đại học Phật giáo, cũng có thể nói là một đại học về Chân Thật Tế. Chúng sanh trong mười pháp giới thuộc mười phương thế giới, mười phương thế giới đều có mười pháp giới, mười pháp giới là mê, chẳng giác, những chúng sanh ấy đă giác ngộ, mong quay đầu, nhưng t́m không ra phương pháp, nhất là chẳng t́m được một phương pháp rất thỏa đáng, rất nhanh chóng. A Di Đà Phật ban cho chúng ta một môn phương tiện, tiếp dẫn quư vị về thế giới Cực Lạc để tấn tu tại đó, hết thảy điều kiện tu học bên ấy đều vô cùng hoàn thiện, đấy là “trang nghiêm thành tựu”. Trong phần trước, chúng ta thấy ba thứ thành tựu, “trang nghiêm Phật thành tựu, trang nghiêm Bồ Tát thành tựu, trang nghiêm diệu độ thành tựu”, kinh gọi ba thứ thành tựu này là ba thứ thành tựu chân thật.

      Chúng ta tập khí phiền năo nặng nề, mê rất sâu, những điều đức Phật đă giảng trong kinh, chúng ta hiểu rơ, nhưng chưa thể làm được! Chúng ta có thể tin tưởng, v́ sao có thể tin tưởng? V́ sau khi nghe những đạo lư ấy, chúng ta có thể khẳng định chúng hợp lư, chẳng phải là vô lư, nên có thể tin tưởng, có thể lư giải, nhưng chưa làm được. Làm chưa được do chưa bỏ xuống được! Thật đấy, chẳng giả đâu! Buông xuống sẽ có thể khế nhập, bèn nhập cảnh giới, như tôi vừa mới nói: Đi tới cửa ngơ, nếu quư vị chẳng buông ba thứ ấy xuống, sẽ chẳng tiến vào được! Quư vị buông Thân Kiến xuống, buông Biên Kiến xuống, buông Thành Kiến xuống, mới có thể tiến vào. Quư vị chẳng buông xuống, sẽ không tiến vào được! Hễ tiến vào, thưa quư vị, sẽ gọi là thánh nhân, chẳng gọi là phàm phu; trong Tiểu Thừa là Tu Đà Hoàn, Sơ Quả; trong Đại Thừa th́ như kinh Hoa Nghiêm đă dạy: Bồ Tát thuộc địa vị Thập Tín chứng đắc Sơ Tín, quư vị thấy tầng thứ nhất là Sơ Tín. Thập Tín giống như Tiểu Học trong Phật giáo, học lớp Một Tiểu Học, trường học này có mười lớp, từ lớp Một đến lớp Mười, quư vị vừa mới vào lớp Một, trở thành thánh nhân. Khác với phàm phu ở chỗ nào? Quư vị chỉ cần tiến nhập lớp Một của ngôi trường ấy, chắc chắn chẳng đọa trong tam ác đạo. Tuy chưa thoát khỏi lục đạo, bảo đảm chẳng đọa tam đồ. Không gian học tập của quư vị là bảy lần sanh trong cơi trời hay nhân gian, chắc chắn sẽ thoát ly lục đạo luân hồi, đạt được sự bảo đảm ấy, đó là Vị Bất Thoái trong ba thứ Bất Thoái, [tức là] địa vị của quư vị chẳng thoái chuyển. Nhà Phật nói ba thứ Bất Thoái, quư vị đạt được loại thứ nhất (Vị Bất Thoái). Loại thứ hai là Hạnh Bất Thoái, tức là Bồ Tát. Loại thứ ba là Niệm Bất Thoái, đó là Pháp Thân đại sĩ, hoặc là Phật, chứ Bồ Tát vẫn chưa làm được. Do vậy, ba tầng lớp này chính là cảnh giới dần dần được nâng cao lên.

      A Di Đà Phật kiến lập thế giới Cực Lạc nhằm giúp đỡ chúng ta là những kẻ thiếu năng lực đoạn phiền năo, chỉ cần chuyên niệm A Di Đà Phật, quư vị có thể văng sanh. Đối với A Di Đà Phật, chỉ nên chú tâm niệm, chớ nên phân biệt. A Di Đà Phật có ư nghĩa rất rộng, A là Vô, Di Đà là Lượng, đấy là tiếng Phạn, chẳng phải là không thể dịch nghĩa, có thể dịch nghĩa, nhưng do tôn trọng nên chẳng dịch. [A Di Đà] là vô lượng. Phật th́ sao? Phật là giác ngộ. [A Di Đà Phật là] vô lượng giác, vô lượng giác là ǵ? Là danh hiệu của trí huệ Bát Nhă có sẵn trong tự tánh. Nếu quư vị chẳng phân biệt, chẳng chấp trước, niệm Phật hiệu là niệm tự tánh, đó là “tự tánh Di Đà”. Mỗi ngày niệm tự tánh, tự tánh phóng quang, tự tánh bèn hiển lộ. Chẳng phải là hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng ư? Đạo lư như thế đó! Do vậy, niệm Phật thấy Phật, lúc lâm chung, A Di Đà Phật, Quán Âm, Thế Chí đến tiếp dẫn quư vị, đó là ǵ? Toàn là tự tánh biến, tự tánh Di Đà, tự tánh Quán Thế Âm, tự tánh Đại Thế Chí, ngay cả Tây Phương Tịnh Độ cũng là duy tâm Tịnh Độ, do Chân Như bổn tánh của chính ḿnh hiện ra. Quư vị hiểu rơ đạo lư này, liễu giải chân tướng sự thật, sẽ nắm chắc niệm Phật văng sanh; quư vị có tín tâm, chẳng c̣n hoài nghi nữa, lẽ nào chẳng thành tựu! Do vậy, Thiện Đạo đại sư nói pháp môn này là “vạn người tu, vạn người về”, không ai chẳng thành tựu. Kẻ niệm Phật chẳng văng sanh là ai vậy? [Thứ nhất là những kẻ] hoài nghi pháp môn này, thứ hai là những kẻ tu học pháp môn này nhưng tạp niệm quá nhiều. Xen tạp nên tâm chẳng thuần, sẽ chẳng thể tương ứng.

      Chân Thật Huệ do đâu mà có? Do tâm thanh tịnh mà có. Khi quư vị xen tạp, tâm quư vị chẳng thanh tịnh. Tâm không thanh tịnh chẳng sanh trí huệ, chỉ sanh phiền năo. Phiền năo là vọng niệm. Vọng niệm ấy niệm trước vừa diệt, niệm sau liền sanh, vĩnh viễn chẳng ngừng, niệm này tiếp theo niệm kia, đó là phiền năo tập khí, những thứ ấy rất nghiêm trọng. Trong tu học pháp môn, cũng là nói chuyển biến những phiền năo tạp niệm ấy, khôi phục trí huệ chân thật. Trí huệ chân thật gọi là Bồ Đề, khôi phục trí huệ chân thật th́ phương pháp niệm Phật này tuyệt diệu! Trong tám vạn bốn ngàn phương pháp, phương pháp Niệm Phật này đơn giản nhất, dễ dàng nhất, ổn thỏa, thích đáng nhất, thẳng chóng nhất, cho nên chọn lựa pháp môn này là đại trí huệ! Có rất nhiều ông già bà cả chẳng có học thức ǵ, không biết chữ, quư vị dạy họ, họ bèn tin tưởng, chịu niệm, có phải là chân trí huệ hay chăng? Đúng là chân trí huệ, chính họ vẫn chẳng biết [chính ḿnh trọn đủ] thiện căn, phước đức, nhân duyên. V́ sao quư vị giảng cho kẻ khác nghe, kẻ ấy chẳng tin tưởng? Giảng cho phần tử tri thức cao cấp nghe, họ vẫn không tin, v́ sao? Có lắm chướng ngại, Phiền Năo Chướng nặng nề, Sở Tri Chướng nặng nề, hai thứ chướng ấy chướng ngại họ. Chướng ǵ vậy? Chướng trí huệ, chướng thiện căn, nhân duyên của người ấy. Do vậy, chớ nên coi thường những ông già bà cả, đừng coi thường họ. V́ sao họ có thể tiếp nhận? Đời trước họ đă huân tập, đời này vừa tiếp xúc, liền sanh tâm hoan hỷ, trong đời quá khứ, trong A Lại Da có chủng tử Phật pháp, có thiện căn Tịnh Tông, chẳng phải là không có đạo lư!

      “Di Đà Thế Tôn nhiếp thử diệu độ, tuyên thử diệu pháp giả, dục huệ dữ chúng sanh dĩ chân thật chi lợi dă” (Di Đà Thế Tôn nhiếp cơi mầu nhiệm này, tuyên pháp mầu này, muốn ban cho chúng sanh mối lợi chân thật). A Di Đà Phật, trong Tây Phương Cực Lạc thế giới quả thật có vị này, Ngài ở nơi đó, tuyên dương pháp môn này. Pháp môn này được nói trong bộ kinh Vô Lượng Thọ. Tuyên dương pháp môn này nhằm mục đích ban cho chúng sanh, “huệ” () là bố thí, ban cho hết thảy chúng sanh lợi ích chân thật. Hoàng lăo cư sĩ nói: “Thử tam chân thật” (ba điều chân thật này), tức là Chân Thật Tế, trụ Chân Thật Huệ, Chân Thật Lợi Ích, ba món chân thật này một chính là ba, ba tức là một. Trong Chân Thật Bổn Tế, nhất định có Chân Thật Huệ, nhất định có Chân Thật Lợi Ích; trong Chân Thật Lợi Ích, nhất định có Chân Thật Tế và Chân Thật Huệ, một mà ba, tuy ba nhưng một. “Phương tiện cứu cánh, bất khả tư nghị” (phương tiện rốt ráo, chẳng thể nghĩ bàn). Tám vạn bốn ngàn pháp môn đều là phương tiện môn, mà Tịnh Tông là môn phương tiện nhất trong các môn phương tiện, đúng là quá đơn giản, quá dễ dàng. V́ quá đơn giản, quá dễ dàng, nên rất nhiều người không tin, ở ngay trước mặt mà bỏ lỡ chẳng biết là bao nhiêu. Chúng ta chớ nên khinh dễ người khác, bản thân chúng ta trong nhiều đời nhiều kiếp quá khứ cũng đă ở ngay trước mặt mà bỏ lỡ chẳng biết bao nhiêu lần! Không có nhiều thiện căn, phước đức, nhân duyên trong quá khứ như vậy, dẫu đời này gặp gỡ cũng chẳng thể tin tưởng; bởi thế, pháp môn này chẳng dễ dàng, gọi là phương pháp khó tin, chẳng giả.

      “Cực Lạc y chánh, Tịnh Độ pháp môn, cử Thể thị chân thật chi tế, cố vân bổn kinh dĩ Thật Tướng vi thể tánh dă” (Trọn vẹn cái Thể của y báo, chánh báo của cơi Cực Lạc và pháp môn Tịnh Độ là Chân Thật Tế, cho nên nói kinh này lấy Thật Tướng làm thể tánh). Tới cuối cùng, tổng kết bộ kinh này dùng Thật Tướng làm Thể, bộ kinh này nói về Thật Tướng của các pháp. Đối với y báo và chánh báo trong thế giới Cực Lạc, nói theo kinh th́ chánh báo là A Di Đà Phật, y báo là hoàn cảnh cư trụ của A Di Đà Phật. Chúng ta niệm Phật văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới th́ chánh báo là bản thân chúng ta, A Di Đà Phật là hoàn cảnh y báo của chúng ta. Sau khi quư vị tới thế giới Cực Lạc, mới thật sự dần dần buông khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước xuống. Sau đấy mới biết A Di Đà Phật và chính ḿnh là nhất thể, vũ trụ và chính ḿnh là nhất thể, thế giới Cực Lạc và chính ḿnh là nhất thể. Nếu trọn đủ trí huệ chân thật, chúng ta hăy nghĩ xem [thế giới] hiện tiền có phải là thế giới Cực Lạc hay chăng? Đúng vậy, chẳng sai chút nào! Nhưng rất nhiều người chẳng hiểu điều này, v́ sao? Tâm thái chẳng xoay chuyển! Quư vị khởi tâm động niệm hoàn toàn tương ứng với kinh th́ sẽ có thể lănh hội: Không nơi nào chẳng phải là thế giới Cực Lạc. Thế giới này của chúng ta nằm trong thế giới Cực Lạc, v́ sao? Chẳng có lớn hay nhỏ! Trong mỗi vi trần đều có thế giới, trong thế giới lại có vi trần, trong vi trần lại có thế giới, lẽ nào [thế giới hiện tiền] chẳng ở trong [thế giới Cực Lạc]? Cho tới lúc ấy, quư vị sẽ thấy A Di Đà Phật ở khắp mọi nơi, hết thảy y báo và chánh báo đều là A Di Đà Phật, chúc mừng quư vị, quư vị thành Phật. Quư vị đă thành một vị Phật rất tuyệt diệu, trở thành A Di Đà Phật. Chúng ta học phần Bổn Kinh Thể Tánh tới đây.

      Chúng ta xem tiếp đoạn thứ ba, tức đơn vị thứ ba [trong bộ chú giải này], Nhất Kinh Tông Thú, tức là [phần giảng về] Tông và Thú của bộ kinh này. “Kinh chi sở sùng thượng giả, danh chi vi Tông. Tông giả, yếu dă” (Điều được kinh đề cao gọi là Tông; Tông nghĩa là trọng yếu). Chữ Yếu này có ba ư nghĩa: Chủ yếu, trọng yếu, và tuân theo. “Toàn kinh chi tông chỉ” (tông chỉ của cả bộ kinh), Tông là tông chỉ. Câu tiếp theo lại giảng về [ư nghĩa của] tông chỉ: “Hựu Tông giả, tu hành chi yếu kính dă” (lại nữa, Tông là đường lối trọng yếu trong tu hành), đó là đường lối quan trọng. Chúng ta nói tới tông chỉ của một bộ kinh th́ đó nguyên tắc chỉ đạo tu học tối cao, đó là Tông. “Cố tri Tông giả, vi toàn kinh chi cương lănh. Cương cử, mục trương, lănh đề, y thuận. Thị cố ư Biện Thể hậu, thủ ưng Minh Tông. Thể thị Lư, tông thị Hành” (V́ thế, phải biết Tông là cương lănh của cả bản kinh. Cái lưới giơ lên, mắt lưới căng ra, nắm cổ áo, áo sẽ xuôi theo. V́ thế, sau phần biện định Thể, trước hết phải giảng rơ Tông. Thể là Lư, Tông là Hành). Ư nghĩa của hai khoa lớn này đều được nói rất rơ ràng, rất minh bạch. Phần trước là Biện Thể, tức phân biệt, biện định bản thể của kinh. Kinh Thể là căn cứ lư luận: Bộ kinh này căn cứ trên lư luận nào để giảng, giảng về điều ǵ? Trong phần trước, chúng ta đă học, kinh này nương vào Thật Tướng, tức chân tướng sự thật. Kinh nói những ǵ? Cũng là nói về Thật Tướng. Nay chúng ta bàn cách tu, cách học tập ra sao; v́ thế, nói đến Hành, tức Hành môn. “Thể giả, năi Tông sở y chi Thể. Tông giả, tức thị hiển Thể chi Tông. Nhị giả hỗ tương biểu lư. Tông thị hội Thể chi yếu hạnh, cố ưng sùng thượng” (Thể là cái Thể để Tông nương vào; Tông là cái Tông nhằm hiển lộ Thể. Hai thứ này lần lượt làm trong và ngoài của nhau. Tông là hạnh trọng yếu để thấu hiểu Tông, cho nên cần phải đề cao). Mấy câu này nói rất hay. Thể là chỗ nương vào của Tông, tức là chỗ nương tựa, căn cứ của việc tu hành, đấy là Thể. Tông: Tông là hạnh, là nguyên tắc chỉ đạo tối cao trong tu hành, sự tu hành ấy có thể hiển lộ Thể, có thể hiển thị Thật Tướng trong hành vi sinh hoạt của quư vị. “Hiển thị” là nói tới điều ǵ? Trí huệ chân thật (Chân Thật Huệ), Chân Thật Tế, Chân Thật Lợi Ích. Nếu quư vị chẳng tu hành, ba thứ chân thật ấy sẽ chẳng thể hiển lộ. Có thể thấy người thật sự tu học Tịnh Tông, quư vị chú tâm quan sát, sẽ thấy tư tưởng, lời nói và việc làm của người ấy chắc chắn tương ứng với ba câu ấy, từ Sơ Phát Tâm cho đến địa vị Như Lai, dần dần nâng cao lên, dần dần mở rộng, lợi ích thù thắng ấy t́m ở đâu ra? Do vậy, Lư Thể chẳng thể rời khỏi sự tướng, rời khỏi sự tướng sẽ biến thành huyền học. Sự tướng mà không có Lư th́ sự tướng sẽ trái nghịch tự tánh; nếu chẳng tùy thuận tự tánh sẽ là trái nghịch tự tánh. V́ thế, hai thứ ấy (Lư và Sự) làm trong và ngoài cho nhau: Ngoài là Sự, trong là Thật Tướng. “Hội Thể chi yếu” (Điều quan trọng để thấu hiểu Thể), hiển Thể, như vừa mới nói, đây là một phương tiện trọng yếu, cho nên phải tuân theo, phải đề cao.

Nói tới chỗ này, chúng ta hiểu văn hóa truyền thống của Trung Hoa lấy Hiếu làm Thể. Hiếu là ǵ? Hiếu là Thật Tướng. Quư vị hăy nh́n vào chữ Hiếu của Trung Quốc, sở dĩ văn tự Trung Quốc chẳng thể thay đổi là v́ nó là phù hiệu trí huệ, khiến cho quư vị nh́n vào phù hiệu ấy sẽ hiểu được ư nghĩa của nó. Chữ Hiếu () phía trên là Lăo (), phía dưới là Tử (), hiển thị điều ǵ? Hiển thị quan hệ luân lư. Phía trên c̣n có phía trên nữa, đó là tổ tông, quá khứ vô thỉ (không có khởi đầu); đời tiếp theo c̣n có đời tiếp theo nữa, vị lai vô chung (không kết thúc). Vô thỉ vô chung là nhất thể! Do vậy, người ngoại quốc nói tới “sự cách biệt giữa các thế hệ”, người Hoa không có “sự cách biệt giữa các thế hệ”. Nếu có “sự cách biệt giữa các thế hệ”, sẽ là đại bất hiếu. Quư vị nh́n vào chữ Hiếu ấy, những ư nghĩa được bao hàm trong ấy dường như cũng có ba thứ ư vị. Do vậy, văn hóa Trung Quốc là văn hóa Hiếu, mở rộng ra thành Ngũ Luân, Ngũ Thường, Tứ Duy, Bát Đức. Đấy là Tông. Chúng ta nói tới Thể, nói tới Tông, lấy “tu thân, tề gia, trị quốc, b́nh thiên hạ” làm Thú, tức Thú Hướng (điều để hướng về, đạt đến). Chúng ta nói tới Thể, Tông và Thú của toàn bộ văn hóa Trung Quốc chớ nên hiểu lầm, nó tương ứng với Đại Thừa Phật pháp, quư vị nói xem: Tổ tiên chẳng phải là Phật, Bồ Tát tái lai th́ họ từ đâu đến? [Điều này được] khẳng định! Thầy Lư nói: “Nói theo Lư th́ thông suốt, nhưng trên mặt Sự thiếu chứng cứ”. Nói theo Lư quả thật là hợp lư.

“Hương Tượng Tâm Kinh Sớ vân: Ngôn chi sở quư viết Tông, Tông chi sở quy viết Thú” (Bản Tâm Kinh Sớ của ngài Hương Tượng[5] có viết: “Điểm được coi trọng trong lời giảng th́ gọi là Tông, chỗ quy hướng của Tông gọi là Thú”), đây là giải thích hai chữ Tông và Thú. “Ngôn” là nói tới Giáo, tức ngôn giáo. “Ngôn chi sở quư”: “Quư” là điều trọng yếu nhất trong sự hướng dẫn giáo học, [điều ấy] được gọi là Tông. Tông có nghĩa như vậy. Chỗ quy hướng của Tông, tức là sau đấy Tông sẽ trở về đâu, điều đó được gọi là “thú hướng”. Do vậy, Tông là nhân, Thú là quả; ở đây nói tới nhân quả, tu nhân chứng quả. Tôi nương theo cái Tông này để tu, tu đến cuối cùng sẽ đạt được ǵ, cái quả ấy là Thú, “tu nhân, thú quả” (tu nhân, hướng đến quả). Tiếp đó, sách viết: “Khuê Phong đại sư”, tức là ngài Tông Mật, tổ sư đời thứ năm của tông Hoa Nghiêm, “Viên Giác Lược Sớ vân: Thú giả, ư thú, thú hướng. Tức tâm ư thức sở quy thú chi xứ” (Viên Giác Lược Sớ ghi: “Thú là có nghĩa là hướng đến, tức là chỗ quy hướng của tâm ư thức”), lời giải thích này rất rơ ràng. Thú () là ǵ? Quy thú (歸趣), [tức là] chỗ quư vị trở về, hướng đến chỗ nào. Chỗ hướng về của tâm ư thức gọi là Thú Hướng. “Khả tri, Thú giả, quy thú dă. Thị cố, y kinh tông chỉ, minh kỳ sở vi, thức kỳ sở cầu, cứu kỳ sở chí, danh chi vi Thú” (Có thể biết: Thú là hướng đến, quay về. V́ thế, dựa vào tông chỉ của kinh để tỏ rơ việc được làm, biết điều mong cầu, thấu đạt tột cùng chỗ kinh sẽ đạt tới, th́ gọi là Thú). Quư vị chiếu theo nguyên tắc chỉ đạo trong bộ kinh điển này để tu hành, biết đức Phật làm ǵ [khi giảng bộ kinh này], biết Ngài mong cầu điều ǵ. Việc Ngài làm là ban bố lợi ích chân thật, do điều này mà chư Phật, Bồ Tát, tổ sư đại đức giảng kinh, diễn giáo. “Diễn” ở đây chẳng phải là “nghiên” trong “nghiên cứu”[6] mà là biểu diễn. Ngài dạy bằng cách làm ra, biểu diễn, thuyết kinh, diễn giáo, v́ sao? Nhằm ban cho chúng sanh lợi ích chân thật. Người ta chưa hiểu rơ [cho nên phải giảng kinh, diễn giáo], sau khi đă thật sự hiểu rơ, cái tâm cung kính đối với Phật giáo sẽ nẩy sanh tràn trề, tự nhiên sanh khởi, tuyệt diệu quá! Chúng ta đối với những vị Phật, Bồ Tát, tổ sư đại đức giảng kinh thuyết pháp chẳng có chỗ tốt đẹp ǵ, các Ngài ban cho chúng ta những điều lợi ích, lại c̣n ban cho chúng ta lợi ích chân thật. Chúng ta đối với các Ngài chẳng chân thật, nhưng các Ngài đối với chúng ta luôn chân thật. Trong thế gian t́m đâu ra người tốt lành dường ấy? Vậy là quư vị hiểu rơ việc làm của các Ngài. “Thức kỳ sở cầu” (biết điều mong cầu): Các Ngài cầu điều ǵ? Các Ngài mong mỏi quư vị khai ngộ, giúp quư vị phá mê khai ngộ. Sau khi ngộ, thấu đạt điều sẽ đạt tới chính là quư vị sẽ ĺa khổ được vui. Kinh Phật dạy người ta như vậy. V́ thế, trong hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian, trừ giáo học ra, chẳng có cách nào khác có thể đạt được [mục đích ấy]!

      Vào thời cổ ở Trung Quốc, đế vương từ Hoàng Đế, Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, măi cho đến đời cuối cùng, có đế vương nào chẳng tuân theo giáo huấn của tổ tông? Đời đời truyền nhau, giáo học làm đầu, đều xếp giáo dục vào vị trí thứ nhất. Phật giáo truyền tới Trung Quốc, tiến sĩ Thang Ân Tỷ (Arnold J. Toynbee) nói rất hay: Người Trung Quốc tâm lượng lớn, phước lớn, có thể bao dung văn hóa khác biệt. Phật giáo là văn hóa Ấn Độ, truyền đến Trung Quốc, được Trung Quốc tiếp nhận hoàn toàn, biến thành văn hóa của chính Trung Quốc, phải có tâm lượng rất lớn. Chẳng bài xích! Hơn nữa, văn hóa nhà Phật từ Ấn Độ truyền đến Trung Quốc, quả thật đă nâng cao nền văn hóa vốn có của Trung Quốc trên một mức độ to lớn, v́ sao? Dùng kinh Phật để giải thích th́ giống như chúng tôi vừa mới nói: Văn hóa truyền thống của Trung Quốc lấy Hiếu làm Thể, Luân Thường, Bát Đức, Ngũ Luân, Ngũ Thường, Tứ Duy là Tông, tu thân, tề gia, trị quốc, b́nh thiên hạ là Thú. Chúng ta dùng văn hóa Phật giáo để giải thích, nâng cao văn hóa truyền thống của Trung Quốc, b́nh đẳng với Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Vô Lượng Thọ trong Phật pháp, làm phong phú văn hóa truyền thống Trung Quốc. Ngày nay nói tới văn hóa truyền thống th́ Nho, Thích, Đạo là một nhà, quyết định chẳng tách rời. Nếu quư vị nói chẳng cần Nho, sẽ nói chẳng xuôi, chẳng có cách nào nói cho vẹn toàn được! Đề cương ấy của tổ tông chẳng được tŕnh bày cặn kẽ, Phật giáo truyền đến cơi này, giảng giải cặn kẽ, đem kết hợp với đề cương của tổ tông liền hoàn toàn khít khao, quá khó có! Cổ nhân thông minh hơn con người hiện thời, có trí huệ hơn người hiện thời. Đây là giải thích rành rẽ thế nào là Tông, thế nào là Thú.

      Kế đó, chúng ta xét tông chỉ của bộ kinh này: “Ngụy dịch Vô Lượng Thọ Kinh chi Tông Thú, cổ hữu đa giải, kỳ lệ phi nhất” (đối với Tông và Thú của bản dịch kinh Vô Lượng Thọ đời Ngụy, xưa kia có nhiều cách giải thích, chẳng phải chỉ có một cách). “Ngụy dịch” là bản dịch của ngài Khang Tăng Khải (Samghavarman), là bản được lưu thông rộng răi nhất trong năm bản dịch. Nguyên nhân là do chúng ta đọc bản dịch của ngài Khang Tăng Khải rất thuận tiện, so với các bản khác dễ đọc hơn. Lại nữa, lời giảng trong ấy cũng rất viên măn, rất khó có. V́ thế, có mấy vị cổ đức dùng bản này để chú giải, như trong bản Gia Tường Sớ (sớ giải kinh Vô Lượng Thọ của ngài Gia Tường Cát Tạng) đă nói: “Thử kinh Tông Trí phàm hữu nhị lệ, nhất, Di Đà tu nhân, cảm Tịnh Độ quả; nhị giả, khuyến vật (chỉ chúng sanh) tu nhân, văng sanh bỉ độ” (Tông Trí của kinh này có hai thứ: Một là Di Đà tu nhân, cảm quả Tịnh Độ. Hai là khuyên vật (chỉ chúng sanh) tu nhân, văng sanh cơi ấy), đây là lời giảng về Tông Thú trong Gia Tường Sớ. Ngài nói Tông Thú có hai trường hợp: Thứ nhất là A Di Đà Phật tu nhân, cảm quả Tịnh Độ; đó là điều được giảng trong kinh. Thế giới Cực Lạc, nói thật ra là do nguyện lực của A Di Đà Phật thành tựu, do bốn mươi tám nguyện thành tựu. Thứ hai là “khuyến vật”, “vật” là chúng sanh, Ngài chẳng nói “khuyến nhân”. Nếu nói là “khuyến nhân” th́ chỉ có nhân đạo trong mười pháp giới. Nếu “khuyến vật” th́ hết thảy mười pháp giới đều bao gồm, có phạm vi lớn hơn. Nhân nằm trong Vật, chẳng thể bao gồm Vật, Vật có thể bao gồm Nhân. Do vậy, khuyên hết thảy chúng sanh tu nhân ḥng văng sanh cơi ấy, đấy là Thú. Hết sức rơ rệt, câu trước là tu nhân, câu sau là hướng đến cái quả. Hai tầng: Thứ nhất là Phật Di Đà tu nhân, cảm thế giới Cực Lạc thành tựu viên măn. Thế giới Cực Lạc quả thật chẳng có mảy may khiếm khuyết, do Tánh Đức viên măn lưu lộ, công đức trang nghiêm. Thành tựu như thế nào? Do trí huệ; v́ thế, trong phần trước đă nói ba thứ trí huệ trọn đủ.

      “Hải Đông Nguyên Hiểu sư” (sư Nguyên Hiểu ở Hải Đông), Hải Đông được nói ở đây nay là Hàn Quốc. Sư Nguyên Hiểu cũng du học ở Trung Quốc, sau khi trở về Hàn Quốc, là nhất đại cao tăng, tổ sư đại đức của Hàn Quốc. Tôi chưa đọc những tài liệu ấy, nhưng tôi nghĩ, sư Nguyên Hiểu sống vào thời Đường, rất có thể đă thân cận Thiện Đạo đại sư, vị này là một tổ sư của Tịnh Độ Tông. Bản chú giải của Sư có tên là [Vô Lượng Thọ Kinh] Tông Yếu, trong ấy nói như sau: “Thử kinh chánh dĩ Tịnh Độ nhân quả vi kỳ Tông Thể, nhiếp vật (chỉ chúng sanh) văng sanh dĩ vi Ư Trí” (Kinh này lấy nhân quả Tịnh Độ làm Tông Thể, lấy nhiếp thọ chúng sanh văng sanh làm Ư Trí). [Cách hiểu] của sư Nguyên Hiểu và ngài Gia Tường hết sức gần gũi, cùng một ư nghĩa, trong ấy cũng có hai tầng ư nghĩa. “Đàm Loan”, có người cho rằng Ngài phải là tổ sư Tịnh Độ Tông, nhưng trong các vị tổ sư Tịnh Độ Tông không có tên của Ngài; đối với Tịnh Tông, Ngài có cống hiến hết sức to lớn. Ngài nói: “Dĩ Phật danh hiệu vi kinh Thể” (dùng danh hiệu của Phật làm Thể của kinh), từ đầu đến cuối chẳng rời danh hiệu, cách nói này cũng có một chút hợp lư: Trong Thể bao gồm cả Tông lẫn Thú, v́ do một câu danh hiệu quư vị có thể văng sanh. Từ xưa tới nay, người thành tựu do chấp tŕ danh hiệu rất nhiều, một câu Phật hiệu niệm đến rốt ráo, khi văng sanh, có thể biết trước lúc mất, chẳng đau khổ, không bệnh tật qua đời, bảo người chung quanh: “Phật tới tiếp dẫn”, thật chẳng dễ dàng! Bất luận tu học pháp môn ǵ cũng chẳng thể sánh bằng! Nhưng mấu chốt của sự thành tựu ấy là ở chỗ tín nguyện, tín nguyện kiên định, nhất định chẳng có nghi hoặc th́ sẽ có thể đạt được! Thậm chí chẳng cần phải học tập kinh này, mà cũng chẳng cần phải đọc, một câu Phật hiệu, chắc chắn thành tựu. Niệm một câu Phật hiệu là buông xuống vạn duyên, thành tựu phẩm vị cao hay thấp hoàn toàn tùy thuộc hành nhân buông xuống được bao nhiêu. Nếu hành nhân thật sự giống như kinh Hoa Nghiêm đă nói, các chấp trước thế gian và xuất thế gian thảy đều buông xuống, sẽ sanh vào cơi Phương Tiện Hữu Dư. Nếu người ấy có thể buông phân biệt xuống, hết sức có khả năng sanh vào cơi Thật Báo. Sanh vào cơi Thật Báo th́ phải buông khởi tâm động niệm xuống. Có thể buông phân biệt, chấp trước xuống hay chăng? Có thể, v́ khi văng sanh, Phật quang chiếu gội, nâng cao công phu gấp bội. Lúc lâm chung thấy Phật, Phật lực gia tŕ; vừa được gia tŕ, bao nhiêu công phu do quư vị tu sẽ tăng lên gấp bội, nâng cao gấp bội, cho nên sanh vào cơi Thật Báo. Dùng phương pháp ǵ để tu thành tựu? Một câu Phật hiệu!

      Trong Yếu Giải, Ngẫu Ích đại sư đă giảng rất hay, trong phần sau cụ Hoàng có trích dẫn [lời nhận định ấy]. Những vị khác, chưa ai nói điều ấy, nhưng Ngẫu Ích đại sư nói: “Có thể văng sanh hay không, do có tín nguyện hay không quyết định!” Thật sự tin tưởng, phát nguyện thiết tha, không một ai chẳng văng sanh; phẩm vị cao hay thấp, ba bậc chín phẩm trong bốn cơi, địa vị cao hay thấp do công phu sâu hay cạn quyết định, tức là công phu niệm Phật của quư vị cạn hay sâu. Công phu là ǵ vậy? Quư vị buông xuống nhiều hay ít. Chúng ta hiểu đạo lư này, v́ sao không chịu buông xuống? Không chịu buông xuống sẽ tạo thành chướng ngại rất lớn đối với phẩm vị văng sanh trong thế giới Cực Lạc. Nếu quư vị có thể triệt để buông xuống, quả thật có thể văng sanh trong cơi Thật Báo. Ở đây có một tin tức hết sức trọng yếu mà quư vị chẳng thể không biết: Quư vị tu pháp môn khác, buông phân biệt, chấp trước xuống, chỉ có thể sanh vào Phật pháp giới trong mười pháp giới, hoàn toàn chẳng có cách thoát khỏi mười pháp giới, v́ sao? Quư vị chưa đoạn vọng tưởng, nhưng với công phu ấy trong pháp môn Tịnh Tông sẽ quyết định sanh vào cơi Thật Báo, v́ sao? Phật tới tiếp dẫn, Phật quang vừa chiếu, công phu được nâng cao gấp đôi, đă nâng lên rồi. Tin tức này trọng yếu lắm! Nhanh lắm! Giống như nói: Khi quư vị đạt tới địa vị Thập Tín, địa vị Đệ Thập Tín, trong chốc lát, Phật sẽ nâng [cảnh giới của quư vị] lên tới Sơ Trụ Bồ Tát, nâng cao trong chốc lát, đấy là oai thần của A Di Đà Phật gia tŕ, là ân huệ, ân đức của A Di Đà Phật. Do vậy, quư vị có thể buông chấp trước xuống, Phật có thể giúp đỡ quư vị, khi văng sanh chẳng có phân biệt. Không chỉ chẳng có chấp trước, mà phân biệt cũng không có, được nâng cao, trong chín phẩm của bốn cơi Tịnh Độ, sẽ được nâng cao với một mức độ rất lớn. Chúng ta chớ nên không hiểu điều này.

      “Thiện Đạo sư vân” (ngài Thiện Đạo nói), vị này là tổ sư đời thứ hai của Tịnh Tông chúng ta, Ngài là người đời Đường, “Niệm Phật tam-muội vi Tông, nhất tâm hồi nguyện văng sanh Tịnh Độ vi Thể (Thể tự tức chỉ Tông Thú chi Thú)” (Niệm Phật tam-muội là Tông, một ḷng phát nguyện hướng về văng sanh Tịnh Độ là Thể (chữ Thể ở đây chính là Thú trong Tông Thú)), hăy hiểu rơ lời chú giải này, chớ nên hiểu lầm ư nghĩa. Cùng một chữ, nhưng Ngài nói về điều ǵ, điều này rất quan trọng. Chữ Thể [trong lời dạy của ngài Thiện Đạo] chính là Thú trong Tông Thú, tức Thú Hướng. Lấy Niệm Phật tam-muội làm tông, có cùng một ư nghĩa với ngài Đàm Loan “lấy danh hiệu Phật làm Thể của kinh”. Chữ Thể của ngài [Đàm Loan] có nghĩa là Tông, c̣n Thiện Đạo đại sư nói chữ Thể lại có nghĩa là Thú. Do vậy, chữ giống nhau, nhưng quư vị đọc đoạn văn trước và sau, sẽ biết nó chỉ điều ǵ. Dùng Niệm Phật tam-muội, tức là như trong bộ kinh này đă nói “nhất hướng chuyên niệm”, phát Bồ Đề tâm, một mực chuyên niệm. Phát Bồ Đề tâm là buông xuống, một mực chuyên niệm chính là Niệm Phật tam-muội. Nhất tâm quay về nguyện văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, đấy là chỗ quy túc. “Nhật Thích Quán Triệt Hợp Tán vân” (trong bộ Hợp Tán của sư Thích Quán Triệt người Nhật), tác phẩm chú giải của Sư có tên là Hợp Tán, tức Vô Lượng Thọ Kinh Hợp Tán. “Thử kinh niệm Phật vi Tông, văng sanh vi Thể (tức Thú)”, chữ Thể này cũng có nghĩa là Thú, cũng theo cách nói ấy. “Nhất kinh sở tôn chuyên tại niệm Phật, cố dĩ niệm Phật vi chi Tông dă. Tông chi sở thú duy tại văng sanh, cố dĩ văng sanh vi kinh Thể (tức Thú)” (Điều được kinh tôn trọng là chuyên niệm Phật, nên lấy niệm Phật làm Tông. Tông chỉ nhằm hướng đến văng sanh, nên lấy văng sanh làm Thể (tức Thú) của kinh này). Đây là một đoạn văn trong sách Hợp Tán.

      Chúng ta xem tiếp đoạn dưới: “Tịnh Tông xưng Vô Lượng Thọ Kinh vi Đại Kinh, A Di Đà Kinh vi Tiểu Kinh. Cái thử nhị kinh cẩn hữu tường lược chi biệt. Cố Liên Tŕ Sớ Sao xưng Đại Kinh vi Đại Bổn, Tiểu Kinh vi Tiểu Bổn, lương dĩ nhị giả thật đồng nhất kinh dă” (Tịnh Tông gọi kinh Vô Lượng Thọ là Đại Kinh, kinh A Di Đà là Tiểu Kinh. Ấy là do hai kinh chỉ khác nhau ở chỗ tường tận hay đại lược. V́ thế, trong bộ Sớ Sao, ngài Liên Tŕ gọi Đại Kinh là Đại Bổn, gọi Tiểu Kinh là Tiểu Bổn do hai kinh thật sự là cùng một kinh). Những điều này là kiến thức thông thường trong Tịnh Tông, chúng ta cần phải biết. “A Di Đà Kinh chi Tông Thú, diệc hữu đa thuyết” (Tông Thú của kinh A Di Đà cũng có nhiều thuyết). V́ hai kinh là cùng một bộ kinh, Tông Thú [của kinh A Di Đà] có thể dùng để tham khảo [nhằm phán định Tông Thú của kinh Vô Lượng Thọ], cũng đều là cùng một chuyện. Kế đó: “Tư trạch kỳ tinh yếu giả, như Sớ Sao” (Ở đây, chọn ra những thuyết tinh yếu, như Sớ Sao), [Sớ Sao] do Liên Tŕ đại sư soạn, “y chánh thanh tịnh, tín nguyện văng sanh, dĩ vi Tông Thú” (y báo, chánh báo thanh tịnh, tín nguyện văng sanh, [lấy đó] làm Tông Thú). Y báo và chánh báo của Tây Phương Cực Lạc thế giới không ǵ chẳng thanh tịnh, đấy là Tông; tín nguyện văng sanh là Thú. Ư nghĩa sâu hơn một tầng, chúng ta là người tu Tịnh Độ, đối với y báo và chánh báo hiện tiền, phải lấy thanh tịnh làm tiêu chuẩn, tương ứng với tựa đề của bản kinh này. Tựa đề kinh đă dạy chúng ta phương pháp tu hành, mà cũng là tông yếu tu hành: “Thanh tịnh, b́nh đẳng, giác”, đấy là Nhân. Chánh báo của chúng ta, tức thân của chính ḿnh phải thanh tịnh, hoàn cảnh phải thanh tịnh, thanh tịnh hoàn cảnh như thế nào? Thân chúng ta thanh tịnh, hoàn cảnh sẽ thanh tịnh, thân gây ảnh hưởng tới hoàn cảnh. Tín nguyện tŕ danh, cầu sanh Tịnh Độ, đấy là thật chẳng giả, lấy điều này làm Tông Thú. “Viên Trung Sao vân: Dĩ tín nguyện tịnh nghiệp vi nhất kinh Tông Trí” (sách Viên Trung Sao viết: “Lấy tín nguyện tịnh nghiệp làm Tông Trí của kinh”). “Tông Trí” là Tông Thú, tin sâu, nguyện thiết, chuyên tu Tịnh nghiệp, đấy là cương lănh chỉ đạo tu học trong Tịnh Tông. “Di Đà Yếu Giải viết” (sách Di Đà Yếu Giải nói), đây là bản chú giải của Ngẫu Ích đại sư, “dĩ tín nguyện tŕ danh vi Tông” (lấy tín nguyện tŕ danh làm Tông). Tin sâu, nguyện thiết, chấp tŕ danh hiệu, sẽ có thể văng sanh thế giới Cực Lạc. Cụ Hoàng đă trích dẫn ba bản chú giải kinh Di Đà, ba bản này quan trọng nhất: Bộ Sớ Sao của ngài Liên Tŕ, bộ Yếu Giải của ngài Ngẫu Ích, bộ Viên Trung Sao của pháp sư U Khê. Đại Bổn và Tiểu Bổn nội dung đă là nhất trí, cho nên Tông Thú cũng chẳng thể là ngoại lệ được!

      “Tổng thượng đại tiểu nhị bổn, trung ngoại chư gia sở minh Tông Thú, giai dĩ tín nguyện tŕ danh, văng sanh Tịnh Độ vi bổn. Ư thị, quảng tham chư gia chi thuyết, cứ bổn kinh chi văn, tiêu minh bổn kinh Tông Thú viết” (Tổng hợp những thuyết về Tông Thú của Đại Bổn và Tiểu Bổn do các vị sớ giải trong ngoài nước đă nêu ra, do vậy, tham khảo rộng khắp các thuyết của các vị, dựa trên kinh văn của kinh này, nêu rơ Tông Thú của kinh này là...). Phần sau là kết luận của cụ Hoàng Niệm Tổ. “Bổn kinh dĩ phát Bồ Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm vi Tông” (kinh này lấy phát Bồ Đề tâm, một mực chuyên niệm làm Tông), đây là nguyên tắc chỉ đạo tu học tối cao; “dĩ viên sanh tứ độ, kính đăng Bất Thoái vi Thú” (lấy sanh trọn vẹn trong bốn cơi, nhanh chóng chứng Bất Thoái làm Thú), đấy là quy thú. Chữ “viên sanh” tuyệt lắm! “Viên” là viên măn, đây là chỗ thù thắng của thế giới Cực Lạc, Di Đà trí huệ hoằng nguyện viên măn. V́ sao? Trong nguyện thứ mười chín, đă có nguyện “phát Bồ Đề tâm”, trong ấy có kinh văn để làm căn cứ như vậy, sanh về thế giới Cực Lạc “giai tác A Duy Việt Trí Bồ Tát” (đều là Bất Thoái Chuyển Bồ Tát). Chữ Viên trong từ ngữ “viên sanh” của cụ Niệm Tổ xuất phát từ chỗ này. A Duy Việt Trí là Viên, điều này rất chẳng thể nghĩ bàn! Từ kinh Hoa Nghiêm, chúng ta đọc thấy Sơ Trụ Bồ Tát phá một phẩm vô minh, chứng một phần Pháp Thân, chứng ba thứ Bất Thoái, ba thứ Bất Thoái thảy đều trọn đủ: Vị Bất Thoái, Hạnh Bất Thoái, Niệm Bất Thoái, đă chứng đắc, nhưng chưa thể gọi là Viên. Viên chứng ba món Bất Thoái là địa vị nào? Từ Thất Địa trở lên, địa vị đă nâng lên cao bao nhiêu? Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, cho tới Thất Địa trong Thập Địa, địa vị đă nâng lên bao nhiêu? Nâng cao hơn ba mươi sáu địa vị!     

Pháp môn này được gọi là “pháp khó tin”, nói thật ra là hết sức khó tin. Quư vị nói: “Những vị Bồ Tát b́nh thường tu đến địa vị này khổ cực lắm, tốn bao nhiêu thời gian mới đạt tới địa vị này, làm sao có thể vừa sanh về thế giới Cực Lạc bèn đạt tới? Đâu có đạo lư này!” Do vậy, đức Phật nói pháp môn Tịnh Tông, “duy Phật dữ Phật phương năng cứu cánh” (chỉ có Phật và Phật mới có thể thấu hiểu rốt ráo), đối với pháp môn Tịnh Độ, Đẳng Giác Bồ Tát giống như cách một lớp the ngắm trăng. Thời cổ chưa có thủy tinh, dùng “la sa” (the lượt), lượt, là, the, đoạn, “la” () là loại vải sa rất mịn [để che hay bịt cửa sổ], cách một lớp the để ngắm trăng, c̣n cách một tầng! Chỉ có thành Phật mới rốt ráo hiểu rơ, mới biết là chuyện ra sao. Bổn nguyện và oai thần của A Di Đà Phật chẳng thể nghĩ bàn. Do vậy, quư vị tới thế giới Cực Lạc, có thể hưởng thụ tức là được đăi ngộ giống như Thất Địa Bồ Tát, hiện thời nói là “đăi ngộ”, hưởng thụ giống như Thất Địa Bồ Tát. A Duy Việt Trí Bồ Tát mà! Chẳng phải là hạng Bồ Tát tầm thường! Viên chứng ba thứ Bất Thoái, khó có lắm! Thật chẳng dễ ǵ tin tưởng được! Hạ hạ phẩm văng sanh về cơi Phàm Thánh Đồng Cư, tới thế giới Cực Lạc cũng là A Duy Việt Trí Bồ Tát. Chúng ta đọc đoạn kinh văn nói về bốn mươi tám nguyện, trọn chẳng thấy A Di Đà Phật bảo “hạ hạ phẩm trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư bị gạt ra ngoài”. Ngài chẳng nói lời này, chẳng có câu ấy, điều đó có nghĩa là hạ hạ phẩm văng sanh trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư cũng là A Duy Việt Trí Bồ Tát. Do vậy, thế giới Cực Lạc gọi là thế giới b́nh đẳng, thật sự b́nh đẳng.

      Do vậy, trong Yếu Giải, Ngẫu Ích đại sư giải thích chữ A Bệ Bạt Trí trong kinh Di Đà chính là chữ A Duy Việt Trí trong kinh Vô Lượng Thọ. Tiếp theo câu ấy, Ngài nói: [Quư vị đă] văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, nói quư vị là Bồ Tát th́ phiền năo tập khí chưa đoạn, một phẩm cũng chưa đoạn, văng sanh trong bậc Hạ là chưa đoạn. Nói quư vị chẳng phải là Bồ Tát, th́ quư vị hưởng thụ đăi ngộ giống như Thất Địa Bồ Tát. Do vậy, Ngẫu Ích đại sư bảo: Chẳng thể nói quư vị là phàm phu, cũng chẳng thể nói quư vị là Bồ Tát; mà cũng có thể nói quư vị là Bồ Tát, và cũng có thể nói quư vị là phàm phu. Tới thế giới Cực Lạc, thân phận là như vậy! [Đối với] thân phận trong thế giới Cực Lạc, nếu chính ḿnh thật sự tu đắc A Duy Việt Trí sẽ chẳng cần A Di Đà Phật gia tŕ nữa, chính quư vị đă đạt tới chuẩn mức sống [của bậc thượng thiện trong cơi Cực Lạc], chẳng cần A Di Đà Phật giúp đỡ, chuyện này vẫn phải mất một khoảng thời gian. Đúng như Quán Kinh đă nói, hạ hạ phẩm văng sanh phải tu mười hai đại kiếp, đại kiếp ấy là đại kiếp trong nhân gian; nhưng trong thế giới Cực Lạc, thọ mạng của quư vị là vô lượng thọ, cho nên mười hai đại kiếp bất quá cũng giống như mười hai ngày, rất nhanh, thời gian bên đó và thế giới chúng ta chẳng giống nhau. V́ vậy, đến thế giới Cực Lạc thành tựu đặc biệt dễ dàng. Nếu chúng ta liễu giải chẳng thấu triệt chuyện này, không hiểu rơ lắm, sẽ thường lầm lỡ một đời này, v́ sao? Chẳng chuyên tâm tu. Hoàn toàn dồn hết thời gian và tinh lực của chúng ta để tu pháp môn này, sẽ thành tựu rất nhanh. Thật sự phải buông xuống, chẳng buông xuống sẽ chịu thiệt tḥi to lớn. V́ thế, kinh do đức Phật nói, Tam Tạng pháp sư phiên dịch, tổ sư đại đức chú giải, [các vị ấy] đều chẳng phải là phàm nhân. Từ chỗ này, ta thấy các vị Phật, Bồ Tát thật sự quan tâm, thật sự chiếu cố những chúng sanh mê hoặc, điên đảo trong lục đạo, vô lượng vô tận ân huệ! [Thế mà chúng sanh] chẳng biết! Có biết th́ mới biết báo ân, tri ân mới có thể báo ân; chẳng biết ân làm sao có thể báo ân? Báo ân bằng cách nào? Y giáo tu hành! Có thể văng sanh trong một đời này chính là báo ân. Hạ hạ phẩm văng sanh về cơi Đồng Cư cũng là báo ân Phật, Phật hoan hỷ, chẳng cô phụ Phật, Tổ! Hai chữ Tông Thú nói tới đây!

      Phần tiếp theo mới nói tới Tông Thú của bản kinh này, v́ chúng ta nói tỉ mỉ. Đoạn thứ nhất “Giáp, thủ minh Tông” (Một, trước hết giảng về Tông), trước hết, giảng nguyên tắc chỉ đạo tu hành trong bản kinh này: “Kinh trung Tam Bối Văng Sanh phẩm trung, sở hữu thượng trung hạ tam bối văng sanh chi nhân, mạc bất dĩ phát Bồ Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm vi nhân” (Trong phẩm Tam Bối Văng Sanh của kinh này, tất cả những người văng sanh trong ba bậc thượng, trung, hạ, không ai chẳng lấy phát Bồ Đề tâm, một mực chuyên niệm làm nhân). Đối với câu kinh văn này, trong phẩm Tam Bối Văng Sanh có tất cả bốn đoạn, ba đoạn trước là thượng bối, trung bối, hạ bối, trong cuốn Khoa Phán, pháp sư Từ Châu đă gọi đoạn cuối cùng là “nhất tâm tam bối”. Đoạn ấy giảng điều ǵ? Nói về người tu Đại Thừa, chẳng chuyên tu Tịnh Độ mà tu Đại Thừa. Người tu Đại Thừa, bất luận tu pháp môn nào, lúc lâm chung, đem những ǵ đă tu học hồi hướng Tịnh Độ, cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, thảy đều có thể văng sanh. A Di Đà Phật tâm lượng to lớn, bất luận quư vị tu pháp môn nào, chỉ cần quư vị trọn đủ điều kiện này, thảy đều có thể văng sanh. Nhưng quư vị phải nhớ điều rất quan trọng là bất luận tu hành pháp môn nào, do v́ quư vị thật sự văng sanh, cuối cùng vẫn là tín nguyện tŕ danh, vẫn là tới cuối cùng, bất luận tu pháp môn ǵ, công đức ấy đều giúp quư vị đến thế giới Cực Lạc, tăng cao phẩm vị, tuyệt diệu thay! Quư vị phải có cái tâm Đại Thừa th́ mới được.

     Đại Thừa là ǵ? Đại Thừa là tự lợi, lợi tha, đó là Đại Thừa. Chỉ nói tới tự lợi, chẳng nói tới lợi tha, đấy là Tiểu Thừa. Đại hay Tiểu Thừa chẳng phải do kinh điển sai biệt, chẳng phải do giáo tướng sai biệt, mà do tâm lượng của chính ḿnh sai biệt. Hiểu rơ ư nghĩa này, chúng ta học tôn giáo khác có được chăng? Suốt đời học Cơ Đốc Giáo, suốt đời học Y Tư Lan Giáo (Islam, đạo Hồi), khi lâm chung, niệm Phật có thể văng sanh hay chăng? Chắc chắn văng sanh. Người ấy tu công đức đó, nhất định cũng nâng cao phẩm vị, pháp môn này to quá! Trong các thứ giáo học tôn giáo, Tịnh Tông là đa nguyên văn hóa, tôn giáo ǵ cũng đều bao gồm, từ kinh điển chúng ta có thể thấy điều này. Người đọc kinh Địa Tạng rất nhiều, quư vị xem kinh Địa Tạng, thấy [kinh nói tới] Bà La Môn, đọc thấy chữ “ngoại đạo”, đó là ǵ? Đó là tôn giáo khác, đức Phật chẳng bài xích. Thuở Phật tại thế, bất luận quư vị tín ngưỡng tôn giáo nào, đức Phật tuyệt đối chẳng bảo quư vị buông bỏ tôn giáo của chính ḿnh, tu theo Ngài, không hề có! Đối với niềm tin tôn giáo, quư vị vẫn tin tôn giáo của chính ḿnh, vẫn chiếu theo giáo lư của quư vị để tu học, đức Phật giảng cho quư vị trí huệ. Do vậy, thuở ấy, đức Phật giáo học, chẳng phân biệt quốc tịch, chẳng phân biệt sắc tộc, chẳng phân biệt tôn giáo, bất luận quư vị thuộc bối cảnh văn hóa nào, Ngài đều chẳng phản đối, chỉ cần quư vị tới học đều hoan nghênh, người đến chẳng cự tuyệt, kẻ đi chẳng giữ lại, Phật dạy theo cách ấy.

      Do vậy, những ǵ mà Thích Ca Mâu Ni Phật đă phô diễn rộng răi, người hiện thời gọi là “đa nguyên văn hóa”. Trong tâm mục của Phật, Bồ Tát, tất cả hết thảy chúng sanh, bất đồng tôn giáo cũng thế, mà bất đồng văn hóa [cũng vậy], cũng đều có cùng một Thể với chính ḿnh. Không chỉ quư vị sống trên địa cầu có cùng một Thể với chúng tôi, mà ở trên tinh cầu khác vẫn là một Thể. Trọn khắp pháp giới hư không giới đều là một Thể, lẽ đâu c̣n có phân biệt? Làm sao có chấp trước? [Phân chia] người của chúng ta, người của bọn họ, đấy là ǵ? Đấy là tri kiến phàm phu, là cái tâm luân hồi. Tâm luân hồi học Phật cũng là tạo nghiệp luân hồi, cũng chẳng thoát khỏi lục đạo luân hồi, tâm lượng quá nhỏ, chớ nên không biết. Phàm phu có quan niệm ấy, Phật, Bồ Tát không có, người tu Tịnh Độ cũng phải nên không có. Đó mới là đúng, đấy gọi là Bồ Đề tâm. Bồ Đề tâm là tâm giác ngộ, đến phần sau chúng tôi sẽ giảng cặn kẽ. Thể của Bồ Đề tâm là chân thành tâm, sau khi giác ngộ sẽ có Tự Thụ Dụng và Tha Thụ Dụng. Dùng tựa đề kinh [để nói] th́ là tâm thanh tịnh, tâm b́nh đẳng, tâm chánh giác. “Thanh tịnh b́nh đẳng giác” là Tự Thụ Dụng, c̣n Tha Thụ Dụng là dùng tâm ǵ để đối đăi người khác? Đại từ, đại bi. Từ bi là ǵ? Tâm chân thành yêu thương đối với người khác. Quư vị không có Bồ Đề tâm, sẽ chẳng phải là một mực chuyên niệm, chẳng phải là tu Tịnh Tông. Mở đầu của Tịnh Tông là nguyên tắc chỉ đạo tu học tối cao này!

      Kế đó, cụ trích dẫn rất hay: “Hựu Di Đà đệ thập cửu nguyện viết: Văn ngă danh hiệu, phát Bồ Đề tâm, tu chư công đức, phụng hành Lục Ba La Mật, kiên cố bất thoái. Phục dĩ thiện căn hồi hướng, nguyện sanh ngă quốc. Nhất tâm niệm ngă, trú dạ bất đoạn. Lâm thọ chung thời, ngă dữ chư Bồ Tát chúng, nghênh hiện kỳ tiền, kinh tu du gian, tức sanh ngă sát, tác A Duy Việt Trí Bồ Tát” (Lại nguyện thứ mười chín của Phật Di Đà là: “Nghe danh hiệu ta, phát Bồ Đề tâm, tu các công đức, phụng hành sáu Ba La Mật, kiên cố chẳng lui sụt, lại đem thiện căn hồi hướng, nguyện sanh về cơi ta. Nhất tâm niệm ta, ngày đêm chẳng dứt. Khi lâm chung, ta cùng các vị Bồ Tát đến đón trước mặt, trong khoảnh khắc sanh về cơi ta, thành bậc A Duy Việt Trí Bồ Tát”). Đoạn kinh văn này trọng yếu! Bốn mươi tám nguyện do chính A Di Đà Phật nói, Thích Ca Mâu Ni Phật thuật lại cho chúng ta nghe, từng câu từng chữ đều do chính A Di Đà Phật nói. Do vậy, toàn bộ phẩm thứ sáu do A Di Đà Phật nói, c̣n có thể hư giả ư? Quư vị xem nguyện thứ mười tám: “Phát Bồ Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm”, đấy là Tông; nguyện thứ mười chín là Thú Hướng, Tông Thú, sanh về thế giới Cực Lạc làm A Duy Việt Trí Bồ Tát. Trong nguyện mười tám, đức Phật cũng nói và cũng được cụ trích dẫn ở đây. Kế đó là: “Đệ thập bát nguyện viết: Văn ngă danh hiệu, chí tâm tín nhạo, sở hữu thiện căn, tâm tâm hồi hướng, nguyện sanh ngă quốc. Năi chí thập niệm, nhược bất sanh giả, bất thủ Chánh Giác. Duy trừ Ngũ Nghịch, phỉ báng chánh pháp” (nguyện thứ mười tám là: “Nghe danh hiệu ta, chí tâm tin ưa, tất cả thiện căn tâm tâm hồi hướng, nguyện sanh về cơi ta. Thậm chí mười niệm mà chẳng sanh th́ chẳng giữ lấy Chánh Giác. Chỉ trừ Ngũ Nghịch, phỉ báng chánh pháp”). Ở chỗ này, tạo tội Ngũ Nghịch có thể văng sanh hay không? Có thể văng sanh, chỉ cần quư vị chẳng hủy báng chánh pháp, quư vị có thể tin, có thể nguyện, đều có thể văng sanh. Do vậy, câu cuối cùng là trọng yếu nhất, quư vị hủy báng là ǵ? Chẳng chịu tiếp nhận! Vậy là chẳng có cách nào hết. Chỉ cần quư vị chịu tiếp nhận, không ai chẳng văng sanh. Do vậy, lúc lâm chung, thậm chí mười niệm, đều có thể văng sanh. Những trường hợp như vậy rất nhiều, thời cổ đă được ghi chép, chúng ta hăy đọc Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, Văng Sanh Truyện; hiện thời trong số các đồng tu niệm Phật, chúng tôi cũng đă thấy.

      Chính mắt tôi thấy một trường hợp là cư sĩ Châu Quảng Đại ở Mỹ. Ông này là người thật thà, là người tốt, suốt đời chẳng tin tôn giáo, chẳng có niềm tin tôn giáo. Ông ta mở một tiệm bánh ḿ tại Mỹ, bị bệnh ung thư. Tới thời kỳ cuối, bệnh viện từ chối trị liệu, bảo người nhà chở về, ông ta chẳng c̣n sống được mấy ngày. Khi ấy, người nhà cũng chẳng tin tôn giáo, nhưng lúc ông ta sắp chết mới đi cầu thần, mong mỏi có kỳ tích xuất hiện. Ở nơi ấy, nhằm lúc chúng tôi có một hội Phật giáo, tức Hoa Phủ Phật Giáo Hội, tại Washington DC. Họ t́m đến chúng tôi, có các đồng tu đến trợ niệm cho ông ta. Đến nơi đó, thấy t́nh h́nh ấy, bảo ông ta: Quả thật là không có cách nào chữa lành được, khuyên dạy ông ta đừng cầu lành bệnh, giảng cho ông ta nghe Tây Phương Cực Lạc thế giới, giảng mạng người vô thường, không nên lưu luyến thế gian này, tới thế giới Cực Lạc tốt đẹp như thế nào, giảng cho ông ta nghe. Sau khi nghe xong, ông ta hết sức vui vẻ, tiếp nhận, bảo vợ, con thơ và con gái trong nhà: “Các ngươi đừng t́m cách chữa trị, đừng cầu ta lành bệnh nữa. Các ngươi hăy cùng niệm Phật giúp ta văng sanh”. Niệm ba ngày ba đêm, ông ta ra đi, tướng lành hết sức hiếm có, hỏa táng c̣n có xá-lợi. Đây là nói “lâm chung mười niệm ắt sanh”. Ông ta lúc lâm chung mới tin tưởng, tiếp nhận. Năm sáu người [liên hữu] và thân nhân của ông ta, đại khái là mười mấy người, suốt ba ngày ba đêm thay phiên nhau trợ niệm giúp ông ta bèn thành công. Đây là một trường hợp chính mắt tôi thấy, lúc ra đi an tường, chẳng kinh sợ, chẳng hoảng hốt, sau khi mất, thân thể mềm mại. Kinh nói chẳng giả, có thể nói là thiện căn, phước đức, nhân duyên trong đời quá khứ thành tựu. Quả thật chẳng dễ dàng! Vừa nói, ông ta bèn tiếp nhận, hoan hỷ, thật sự làm theo, thật sự được thụ dụng.

      Do vậy, tiếp theo [cụ Hoàng] viết: “Khả kiến đệ thập cửu nguyện trọng tại phát Bồ Đề tâm, nhất tâm niệm ngă. Đệ thập bát nguyện trọng tại chí tâm tín nhạo, nhất hướng chuyên niệm. Cố tri phát Bồ Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm thị Di Đà bổn nguyện chi tâm tủy, toàn bộ đại kinh chi tông yếu, văng sanh tất bị chi chánh nhân, phương tiện độ sanh chi từ hàng, bổn kinh sở sùng, toàn tại ư thử, tu hành yếu kính, duy tư tiệp yếu, cố vi bổn kinh chi tông dă” (Có thể thấy là nguyện thứ mười chín chú trọng “phát Bồ Đề tâm, nhất tâm niệm ta”. Nguyện thứ mười tám chú trọng “chí tâm tin ưa, một mực chuyên niệm”. V́ thế, biết “phát Bồ Đề tâm, một mực chuyên niệm” là tâm tủy của Di Đà bổn nguyện, là tông yếu của toàn bộ đại kinh, là chánh nhân ắt phải đủ trong văng sanh, là thuyền Từ để làm phương tiện độ sanh. Điều được kinh đề cao đă hoàn toàn thuộc trong ấy. Đường tu hành trọng yếu, chỉ có con đường nhanh chóng, quan trọng này. V́ thế, đó là Tông của kinh này vậy). Kết luận khéo lắm, hết thảy đều là dựa theo nguyên văn trong kinh. Nguyên tắc chỉ đạo tu học tối cao là “phát Bồ Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm”. Nhật Bản có một phái cũng tu Tịnh Tông, nhưng chỉ chú trọng “nhất hướng chuyên niệm”, chẳng phát Bồ Đề tâm; v́ thế gọi là Bổn Nguyện Niệm Phật. Không được rồi! Đă sơ sót! Chỉ giữ lấy nguyện thứ mười tám, chẳng học nguyện thứ mười chín. Do vậy, có những đồng tu của họ (Tịnh Độ Tông Nhật Bản) tới t́m tôi, tôi nói các vị sai rồi. Họ nói: “Đây cũng là do tổ sư truyền lại”. Tôi nói: “Không sai! Khi tổ sư truyền lại, lúc ấy, mỗi nguyện đều hàm nhiếp viên măn bốn mươi bảy nguyện kia, nguyện nào cũng như thế, cho nên là đúng. Nếu quư vị chỉ [chú trọng] đơn độc nguyện này, những nguyện khác đều chẳng được bao gồm trong ấy, không được rồi, đó chẳng phải là bổn nguyện của A Di Đà Phật, nhất định phải hiểu rơ ràng, minh bạch. Phát Bồ Đề tâm là trọng yếu. Bồ Đề tâm là giác ngộ, Bồ Đề tâm mới có thể buông xuống. Không có Bồ Đề tâm, sẽ chẳng buông xuống được. Buông xuống th́ nhất hướng chuyên niệm mới có thể thu được hiệu quả, mới chính thức tâm tâm tương ấn, cảm ứng đạo giao cùng A Di Đà Phật. Do vậy, nguyên tắc chỉ đạo này là chính xác. Nhân đă chánh th́ đương nhiên quả cũng chánh, quyết định được sanh vào thế giới Cực Lạc, thân cận A Di Đà Phật. Hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng ta học tập tới đây.

Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa

phần 11 hết

 

 

 



[1] Xin lưu ư là Âu Dương Cánh Vô là một triết gia, một nhà Phật học tại gia, chứ không phải là tăng sĩ. Ḥa Thượng Tịnh Không dùng chữ “đại sư” ở đây theo cách dùng phổ biến của người Hoa để gọi một chuyên gia hàng đầu về một lănh vực nào đó. Chẳng hạn, cụ Chương Thái Viêm được gọi là Quốc Học đại sư, Tề Bạch Thạch được gọi là Thư Pháp đại sư.

[2] Có thể hiểu sơ lược như thế này: Phạm trù là cách phân loại những khái niệm trong triết học, người ta sắp xếp những khái niệm có cùng một số đặc điểm tiêu biểu và quy luật phát triển thành từng loại, xem xét quan hệ giữa những khái niệm ấy với khái niệm khác. Do vậy, phạm trù có thể hiểu là một cách hệ thống hóa tư tưởng, xác định phạm vi của những khái niệm, nghiên cứu sự tương tác giữa các khái niệm với nhau.

[3] Thiên Như là phối hợp bách giới với mười món như thị mà thành. Sách Pháp Hoa Huyền Nghĩa giảng: “Mỗi pháp giới có mười như thị, mười pháp giới trọn đủ một trăm như thị. Lại nữa, trong mỗi pháp giới có chín pháp giới kia, cho nên một trăm pháp giới có ngàn món như thị”. Mười món Như Thị được nói trong phẩm Phương Tiện kinh Pháp Hoa như sau: “Chỉ có Phật và Phật mới có thể thấu hiểu rốt ráo Thật Tướng của các pháp, tức là các pháp như thị tướng, như thị tánh, như thị thể, như thị lực, như thị tác, như thị nhân, như thị duyên, như thị quả, như thị báo, như thị cứu cánh bổn mạt...”

[4] Bành Tổ, tên thật là Tiễn, c̣n gọi là Tiễn Khanh, chắt của Chuyên Húc (một trong Ngũ Đế, người được coi là có công sáng chế lịch pháp, thiên văn, quy định người có quan hệ huyết thống không được lấy nhau v.v...). Do được vua Nghiêu phong cho thái ấp ở đất Bành, nên gọi là Bành Khanh. Bành Tổ được coi là thủy tổ của những người mang họ Bành. Ông giữ chức Thủ Tạng từ đời vua Nghiêu trải các đời Hạ, Thương, Châu. Theo truyền thuyết, do quá thọ, Bành Tổ lấy vợ bốn mươi chín lần, sanh được năm mươi bốn người con. Đạo giáo coi ông là một vị tiên, những tác phẩm như Bành Tổ Dưỡng Sanh Kinh, Bành Tổ Nhiếp Sanh Dưỡng Tánh Luận do hậu nhân biên soạn rồi gán cho ông.

[5] Theo Ḥa Thượng Tịnh Không đă nói trong Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú, tập 19, ngài Hương Tượng chính là Hiền Thủ quốc sư, tác giả bộ Tu Hoa Nghiêm Áo Chỉ Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán.

[6] Do chữ Diễn (yǎn) và Nghiên (yán) có cách phát âm tương tự, nhất là chữ “nghiên giáo” (yán jiào: nghiên cứu giáo pháp) được dùng rất phổ biến, nên Ḥa Thượng sợ người nghe hiểu lầm Ngài đang nói về “nghiên giáo” thay v́ “diễn giáo”.