Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa

淨土大經解演義

Phần 12

Chủ giảng: Lăo pháp sư Tịnh Không

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Thời gian: Ngày 5 tháng 04 năm 2010

Địa điểm: Hương Cảng Phật Đà Giáo Dục Hiệp Hội

Giảo duyệt: Trịnh Lộc, Huệ Trang và Đức Phong

 

 

Tập 23

 

Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang hai mươi ba, ḍng thứ năm đếm từ dưới lên, chúng ta đọc một đoạn văn tự:

“Đàm Loan đại sư Văng Sanh Luận Chú viết: Vô Lượng Thọ Kinh tam bối văng sanh trung, tuy hạnh hữu ưu liệt, mạc bất giai phát vô thượng Bồ Đề chi tâm. Thử vô thượng Bồ Đề chi tâm, tức thị nguyện tác Phật tâm; nguyện tác Phật tâm, tức thị độ chúng sanh tâm; độ chúng sanh tâm, tức nhiếp thủ chúng sanh sanh hữu Phật quốc độ tâm” (Đàm Loan đại sư đă viết trong Văng Sanh Luận Chú: “Trong phần Tam Bối Văng Sanh của kinh Vô Lượng Thọ, tuy hạnh có hơn kém, nhưng không ai chẳng đều phát tâm vô thượng Bồ Đề. Tâm vô thượng Bồ Đề ấy chính là tâm nguyện làm Phật. Tâm nguyện làm Phật chính là tâm độ chúng sanh. Tâm độ chúng sanh là tâm nhiếp thủ chúng sanh sanh về cơi có Phật”). Chúng ta xem tới đây, đây là một đoạn ngắn. Đàm Loan đại sư là một vị đại đức chú giải Văng Sanh Luận trong Tịnh Độ Tam Kinh Nhất Luận, rất nhiều vị cổ đại đức cho rằng Ngài phải là một vị tổ sư của Tịnh Độ Tông. Nếu là tổ sư, [xếp theo niên đại] Ngài ở trước ngài Thiện Đạo, Ngài có cống hiến thù thắng đối với sự tu học và hoằng dương Tịnh Độ. Văng Sanh Luận do Thiên Thân Bồ Tát viết, đấy là bản báo cáo tâm đắc trong tu học Tịnh Tông của Thiên Thân Bồ Tát; khi truyền tới Trung Quốc, [luận ấy] trở thành điển tịch chánh yếu của Tịnh Tông, thuộc vào Tam Kinh Nhất Luận. Hiện thời là Ngũ Kinh Nhất Luận, hai thứ ấy, một là do cư sĩ Ngụy Nguyên đời Thanh trước kia đem quyển cuối cùng của Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm ghép vào sau tam kinh, trở thành tứ kinh; Ấn Quang đại sư đem chương Đại Thế Chí Viên Thông của kinh Lăng Nghiêm ghép vào sau tứ kinh, trở thành Ngũ Kinh Nhất Luận, ngũ kinh là như thế đó. Kinh văn của Ngũ Kinh Nhất Luận cũng chẳng dài; do vậy, in Ngũ Kinh Nhất Luận thành một quyển th́ vẫn là một cuốn sách nhỏ, toàn bộ điển tịch Tịnh Tông ở trong đó. Trong bản chú giải ấy, Đàm Loan đại sư nói: Trong phẩm Tam Bối Văng Sanh của kinh Vô Lượng Thọ, kinh nói tuy hạnh có hơn, kém (ưu, liệt), “hạnh” là nói tới sự tu hành, tức là công phu niệm Phật tu hành có cạn hay sâu khác nhau. Công phu sâu là ưu, công phu sâu là có thể niệm đến Sự nhất tâm, hoặc niệm tới Lư nhất tâm là công phu sâu, c̣n “kém” là nói về công phu thành phiến. Thật ra, công phu thành phiến cũng có hơn kém khác nhau, nhưng nói chung, mức độ thấp nhất là câu Phật hiệu phải có thể khuất phục phiền năo th́ mới được, nếu chẳng thể khuất phục tức là chẳng có công phu! Có thể chế phục [phiền năo] là công phu cạn nhất. Tuy cạn nhất, vẫn hữu dụng: Khi lâm chung c̣n có thể chế phục [phiền năo], người ấy chắc chắn văng sanh; nhưng một câu hết sức trọng yếu ở đây là “phát Bồ Đề tâm”. Nếu không có Bồ Đề tâm, công phu dù giỏi đến mấy cũng chẳng thể văng sanh, chúng ta phải biết điều này.

      Bồ Đề tâm là ǵ? Cụ Hoàng nói: “Thử vô thượng Bồ Đề tâm, tức thị nguyện tác Phật tâm” (Tâm vô thượng Bồ Đề ấy chính là tâm nguyện làm Phật), câu này rất trọng yếu. Trong Di Đà Yếu Giải, Ngẫu Ích đại sư bảo: “Có thể văng sanh hay không, hoàn toàn do có tín nguyện hay không? Ở đây, nguyện ấy được gọi là “tâm nguyện làm Phật”, nguyện này trọng yếu! Quư vị tới Tây Phương Cực Lạc thế giới để làm ǵ? Để làm Phật, chẳng v́ lẽ ǵ khác! Đến nơi ấy là do minh tâm kiến tánh mà đến. Trong Thiền Tông nói “đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật”, ngoài Thiền Tông ra, tám vạn bốn ngàn pháp môn, có pháp môn nào chẳng lấy điều này làm mục tiêu? Do vậy, trong kinh Đại Thừa, đức Phật đă bảo: “Pháp môn b́nh đẳng, chẳng có cao thấp”, lời này là thật, v́ tám vạn bốn ngàn pháp môn, môn nào tới cuối cùng cũng đều là minh tâm kiến tánh. Tịnh Độ Tông cũng không ra ngoài lệ ấy! Tịnh Độ Tông văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, đúng là đới nghiệp văng sanh, chưa khai ngộ! Tới khi nào sẽ khai ngộ? Sau khi tới thế giới Cực Lạc, gặp A Di Đà Phật, chắc chắn khai ngộ. Cổ nhân nói: “Đản đắc kiến Di Đà, hà sầu bất khai ngộ” (chỉ thấy Phật Di Đà, lo ǵ chẳng khai ngộ). Đấy là điều thù thắng của Tịnh Tông. Tám vạn bốn ngàn pháp môn, bất luận một môn nào, nếu chẳng khai ngộ, hễ chưa kiến tánh, chẳng thể coi là thành tựu được! Riêng Tịnh Tông chỉ cần văng sanh, dẫu phẩm vị văng sanh kém cỏi đến mấy, hạ hạ phẩm văng sanh trong cơi Đồng Cư, đă khai ngộ hay chưa? Chưa khai ngộ! Tuy [kẻ đới nghiệp văng sanh] chưa khai ngộ; nhưng trong bốn mươi tám nguyện, A Di Đà Phật đă cho chúng ta biết: “Giai tác A Duy Việt Trí Bồ Tát” (đều là A Duy Việt Trí Bồ Tát). A Duy Việt Trí Bồ Tát là đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh. V́ sao kẻ chưa đoạn phiền năo, chưa khai ngộ, tới thế giới Cực Lạc bèn đại triệt đại ngộ, có trí huệ, đức năng, thụ dụng như vậy, đấy là chuyện như thế nào? Chúng ta hiểu những điều ấy đều do bổn nguyện và oai thần của A Di Đà Phật gia tŕ. Trước đó, quư vị chưa giác ngộ, chẳng sao cả! Công đức và trí huệ của Phật sẽ gia tŕ quư vị, cho nên trong Tây Phương thế giới, quư vị hưởng sự đăi ngộ chẳng khác Thất Địa Bồ Tát. Đây là phương pháp khó tin, trong kinh điển, đức Thế Tôn cũng thường nói pháp môn này “chỉ có Phật và Phật mới có thể thấu hiểu rốt ráo”. Chỉ có thật sự thành Phật mới hiểu rơ đạo lư này, Đẳng Giác Bồ Tát vẫn chưa mười phần thấu triệt đạo lư ấy. Đấy là chỗ sâu mầu của pháp môn này!

      Ở đây nói “nguyện tác Phật tâm” (tâm nguyện làm Phật) th́ tâm nguyện làm Phật nghĩa là ǵ? Lời giải thích tiếp đó hay lắm: “Tức thị độ chúng sanh tâm” (tức là tâm độ chúng sanh), nguyện thứ nhất trong Tứ Hoằng Thệ Nguyện là “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”. Độ chúng sanh há phải là chuyện dễ dàng? Hiện thời, thế gian này chúng sanh khổ đến cùng cực, xă hội động loạn, thiên tai xảy ra liên tiếp, hết sức dày đặc. Từ truyền thông, TV, radio, quư vị đều có thể thấy: Mỗi ngày đều có tai nạn. Hơn nữa, dường như tai nạn mỗi lần càng nghiêm trọng hơn. Hiện nay, cư dân trên toàn địa cầu dường như chẳng một người nào có cảm giác an toàn, quư vị nói xem chuyện này có đáng khiếp hăi hay chăng? Từ trước tới giờ chưa hề có! Do nguyên nhân ǵ? Chúng ta thấy thế giới Cực Lạc tai nạn ǵ cũng đều không có, thân tâm con người khỏe mạnh, vô lượng thọ, thân kim cang bất hoại, những điều này có nghĩa là: Người trong Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng có nỗi khổ sanh, lăo, bệnh, tử. Sanh vào nơi ấy chẳng phải là thai sanh, mà là hóa sanh, tức là hóa sanh trong hoa sen, chẳng có nỗi khổ sanh, lăo, bệnh, tử, vô lượng thọ mà! Chẳng có nỗi khổ v́ cầu không được (cầu bất đắc khổ), khổ v́ yêu thương phải chia ĺa (ái biệt ly khổ), khổ v́ oán ghét mà cứ phải gặp gỡ (oán tắng hội khổ), khổ v́ năm ấm lừng lẫy (ngũ ấm xí thịnh khổ). Đấy là Bát Khổ như trong kinh Phật đă dạy. Người thế gian, lục đạo phàm phu, bị tám khổ chen nhau nung nấu; trong thế giới Cực Lạc chẳng có tám nỗi khổ ấy, Hoại Khổ và Hành Khổ cũng chẳng có; v́ thế, gọi là thế giới Cực Lạc. Người sanh vào nơi ấy, tức người văng sanh cơi ấy đều có tâm độ chúng sanh, đều phát cái nguyện này: “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”, giúp đỡ chúng sanh ĺa khổ được vui.

      Khổ do đâu mà có? Khổ do mê hoặc mà có! Quư vị chẳng hiểu chân tướng sự thật, khởi tâm động niệm đều do phiền năo làm chủ. Phiền năo làm chủ khiến cho quư vị tạo nghiệp. Khởi tâm động niệm là ư tạo nghiệp, ngôn ngữ và hành vi là thân khẩu tạo nghiệp. Tạo nghiệp, nghiệp có thiện và bất thiện. Thiện nghiệp thọ báo trong tam thiện đạo, ác nghiệp sẽ thọ báo trong tam ác đạo, khổ chẳng thể nói nổi, vĩnh viễn chẳng ra khỏi lục đạo luân hồi. Đó là chân khổ (nỗi khổ thật sự).

Lục đạo là thật, chẳng giả, ai phát hiện lục đạo trước hết? Chẳng phải là Thích Ca Mâu Ni Phật! [Lục đạo] đă được Bà La Môn phát hiện từ xưa, c̣n sớm hơn Thích Ca Mâu Ni Phật tối thiểu mấy ngàn năm! Bà La Môn giáo hiện thời là Hưng Đô Giáo (Hinduism, Ấn Độ giáo), tôi có qua lại với họ, c̣n tham gia họp mặt với họ. Những trưởng lăo [Ấn giáo] bảo tôi: Tôn giáo của họ có lịch sử lâu đến một vạn năm, đời đời tương truyền, tôi tin tưởng [lời ấy], người Ấn Độ không coi trọng lịch sử. Nghĩ lại Trung Quốc th́ Trung Quốc thường nói có năm ngàn năm lịch sử, năm ngàn năm ấy là nói theo kiểu nào? [Tính từ khi] có ghi chép, có văn tự ghi chép. Văn tự được sáng chế vào thời Hoàng Đế, kể từ thời Hoàng Đế tới hiện đại là bốn ngàn năm trăm năm. Trước Hoàng Đế là Thần Nông, trước Thần Nông có Phục Hy; theo truyền thuyết, Bát Quái do Phục Hy vẽ ra. Trong khoảng thời gian ấy, từ Thần Nông đến Hoàng Đế là năm trăm năm, từ Thần Nông tới Phục Hy cũng là năm trăm năm, [tổng cộng] là một ngàn năm. Trước khi Trung Quốc chính thức sử dụng văn tự là một ngàn năm, đă bắt đầu có những phù hiệu [để đánh dấu những sự kiện quan trọng], những thứ Giáp Cốt Văn[1] được khai quật đă chứng tỏ điều này. Do vậy, Trung Quốc dùng phù hiệu để ghi chép, đích xác là có thể hơn năm ngàn năm. Trước năm ngàn năm, ngay cả những phù hiệu ấy cũng không có, nhưng có nhân loại hay chăng? Đương nhiên là có! Đă thế, người thông minh chẳng ít. Tinh hoa của văn hóa truyền thống Trung Quốc do cổ thánh tiên hiền lưu lại, Khổng phu tử biên tập, hệ thống hóa lại mà thôi. Lăo nhân gia nói hết sức thành thật, cả đời Ngài “thuật nhi bất tác, tín nhi hiếu cổ” (thuật lại chứ không trước tác, tin tưởng, chuộng cổ). Con người hiện thời phải nên học tập điều này! Từ thái độ ấy, quư vị thấy lăo nhân gia khiêm hư, cung kính. Hai câu này cho thấy: Sở học, sở tu, sở giáo, sở truyền suốt một đời Phu Tử chẳng phải là những thứ của chính Ngài, chính Ngài cả đời chẳng sáng tạo, chẳng phát minh, hết thảy đều do cổ thánh tiên hiền lưu lại, bất quá Ngài chỉ dùng văn tự để ghi chép ḥng lưu truyền hậu thế. Chúng tôi tin rằng trong Luận Ngữ có nhiều câu là do cổ thánh tiên hiền từ ngàn vạn năm trước truyền lại. Thích Ca Mâu Ni Phật cũng không ngoại lệ, Thanh Lương đại sư nói: Hết thảy các kinh do đức Phật đă nói trong bốn mươi chín năm đều do cổ Phật đă nói. Ngài Thanh Lương nói: Đức Thế Tôn từng bảo Ngài chẳng thêm một chữ nào vào các kinh do cổ Phật đă nói, thái độ c̣n nghiêm cẩn hơn Khổng Tử. Thánh nhân Đông phương và Tây phương đă nêu gương cho chúng ta.

      Hiện nay, chúng ta thường nghĩ phải sáng tạo, phải phát minh, phải trội hơn người khác, quan niệm ấy là ǵ? Quan niệm ấy là phiền năo! Tham, sân, si, mạn, nghi, quư vị xem người đó đă phạm bao nhiêu chữ trong mấy chữ ấy? Chẳng khiêm nhượng như cổ nhân. Phu Tử ôn ḥa, hiền từ, cung kính, tiết kiệm, nhường nhịn, chắc chắn chẳng tranh danh, đoạt lợi, tự ḿnh có kiến giải giống như cổ nhân, bèn nói những điều cổ nhân đă nói, chẳng nói những điều của chính ḿnh, đó là đức hạnh, tích đức. Chẳng ham tiếng tăm, lợi dưỡng, đấy là điều kiện căn bản của học vấn, đức hạnh thế gian và xuất thế gian. Do vậy, Phổ Hiền Bồ Tát dạy chúng ta mười cương lănh tu học, thứ nhất là “lễ kính chư Phật”. Kinh Mân Côi của đạo Thiên Chúa có tất cả mười lăm đoạn, đoạn thứ nhất bảo chúng ta hăy học tập đức khiêm tốn của Đức Mẹ Maria. Quư vị mở sách Lễ Kư ra xem, câu đầu tiên là “Khúc Lễ viết, vô bất kính” (Khúc Lễ nói: “Không ǵ chẳng kính”). Thánh nhân thế gian và xuất thế gian dạy chúng ta học từ đâu? Học từ khiêm tốn. Người Trung Quốc nói tới Lễ, tinh thần của Lễ là “tự ty, tôn nhân”, [tức là] chính ḿnh khiêm tốn, tôn trọng người khác, đó là Lễ. Chính ḿnh làm cho người khác thấy, họ tiếp xúc sẽ cảm động, học tập theo quư vị, lúc ấy mới là “độ chúng sanh”. Thánh nhân thế gian và xuất thế gian “độ” là giáo hóa, chỉ dạy người khác, cách dạy ra sao? Trước hết, [chính ḿnh] phải làm, thân hành, ngôn giáo. Thân hành được xếp hàng đầu, đó là giáo dục người khác bằng hành động gương mẫu, ta phải làm được [những điều ta dạy]. Người khác trông thấy, mong học theo, họ nêu câu hỏi, quư vị lại dùng ngôn ngữ để chỉ dạy. Nhất định phải là trước hết [chính ḿnh] làm được.

      Chúng ta phải giúp chúng sanh làm được rốt ráo viên măn trong một đời này, điều này khó lắm. Chính chúng ta muốn làm tới mức viên măn c̣n chưa dễ dàng, huống hồ người khác? Nhưng A Di Đà Phật, Thích Ca Mâu Ni Phật đă mở cho chúng ta một pháp môn phương tiện, đó là pháp môn Tịnh Độ. Pháp môn này tu như thế nào? Quư vị hăy xem, “nhiếp thủ chúng sanh sanh hữu Phật quốc độ tâm” (tâm nhiếp thủ chúng sanh sanh vào cơi nước có Phật). A Di Đà Phật ở trong cơi nước Tây Phương, quốc độ này do Ngài kiến lập, chúng ta có thể tin tưởng hay chăng? Nếu quư vị có thể khế nhập Đại Thừa đôi chút, quư vị sẽ tin tưởng, do đạo lư nào? Hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng! Trong tương lai, từ bộ kinh này, chúng ta cũng có thể thấy: Trong ấy, nói đến lịch sử của Tây Phương Cực Lạc thế giới, thế giới ấy thành tựu như thế nào, khi giảng đến chỗ ấy, chúng tôi sẽ lại báo cáo tỉ mỉ cùng mọi người. Chúng ta liễu giải lịch sử, sanh tâm cảm ơn A Di Đà Phật, Ngài kiến lập thế giới Tây Phương, tiếp dẫn lục đạo chúng sanh trong hết thảy các cơi Phật trọn khắp pháp giới hư không giới. Người thuộc tứ thánh pháp giới dễ độ, chúng sanh trong lục đạo chẳng dễ độ, họ chưa thể đoạn phiền năo. Tiếp dẫn những chúng sanh ấy đến thế giới Cực Lạc, nói theo cách bây giờ sẽ là “di dân”. Nơi này hoàn cảnh học tập chẳng tốt đẹp, chướng duyên rất nhiều; thế giới Cực Lạc là hoàn cảnh học tập hết sức tốt đẹp, điều kiện học tập bên ấy thứ ǵ cũng đều trọn đủ. Có thầy giỏi, có hoàn cảnh tốt đẹp, bạn học tốt lành, trong hoàn cảnh ấy, tập khí phiền năo của chúng ta đều bất tri bất giác bị đào thải sạch; điều này hết sức khó có, hết sức thù thắng. “Hữu Phật quốc độ” (Cơi nước có Phật): Trên thế giới này chẳng có Phật, thời gian Thích Ca Mâu Ni Phật trụ thế rất ngắn! Từ lúc Ngài giáng sanh cho đến khi nhập diệt là tám mươi năm, từ lúc Phật khai ngộ tới khi [hoàn tất sự nghiệp] dạy học là bốn mươi chín năm. Ngài khai ngộ năm ba mươi tuổi, bắt đầu dạy học từ năm ba mươi tuổi, bảy mươi chín tuổi viên tịch, người Trung Quốc nói theo kiểu hư tuế[2] là tám mươi tuổi. Nói theo cách của người ngoại quốc th́ Phật vừa đúng bảy mươi chín tuổi. A Di Đà Phật thường trụ trong thế giới ấy, chúng sanh thọ vô lượng, Phật cũng thọ vô lượng. Không chỉ riêng A Di Đà Phật giáo hóa ở bên ấy, mà mười phương chư Phật cũng thường đến nơi ấy để giảng kinh, giáo học. A Di Đà Phật mở trường, mười phương chư Phật tới đó với thân phận giáo thụ, tức là dùng thân phận của một vị thầy để đến nơi ấy. A Di Đà Phật cũng có hai vị trợ thủ là Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát. Hai vị trợ thủ của Phật, một vị chủ tŕ Hạnh môn, một vị chủ tŕ Giải môn: Đại Thế Chí Bồ Tát chủ tŕ Giải môn, giảng kinh, dạy học. Quán Thế Âm Bồ Tát chủ tŕ Hạnh môn, chỉ đạo quư vị thật sự tu tập như thế nào, chúng ta nói là “thật sự hành”. Do vậy, tiến bộ hết sức vô cùng nhanh chóng, đây là lư do v́ sao chúng ta phải chọn lựa pháp môn này. Chọn lựa pháp môn khác sẽ không được ư? Đúng là không được! Do chúng ta chưa buông phiền năo tập khí xuống được, nên mới chọn lựa pháp môn này.

      Chúng ta lại đọc tiếp, “thị cố nguyện sanh bỉ An Lạc Tịnh Độ giả, yếu phát vô thượng Bồ Đề tâm dă. Nhược nhân bất phát vô thượng Bồ Đề tâm, đản văn bỉ quốc độ thọ lạc vô gián, vị lạc cố nguyện sanh, diệc đương bất đắc văng sanh dă” (v́ thế, kẻ nguyện sanh về cơi An Lạc Tịnh Độ kia, phải phát vô thượng Bồ Đề tâm. Nếu ai chẳng phát vô thượng Bồ Đề tâm, chỉ nghe trong cơi kia hưởng sự vui chẳng gián đoạn, v́ [ham chuộng] vui sướng mà nguyện văng sanh, cũng chẳng thể văng sanh). Chúng ta phải nhớ kỹ câu này, nghe nói cơi nước ấy quá tốt đẹp, nhưng ta chẳng phát tâm độ chúng sanh, chỉ v́ thế gian này quá khổ sở, ta đến đó hưởng lạc, thế giới ấy quá tốt đẹp, vô cùng hâm mộ, như vậy th́ có thể văng sanh hay chăng? Chẳng thể văng sanh! V́ chẳng tương ứng với bổn nguyện của A Di Đà Phật, mà cũng chẳng tương ứng với nguyện vọng của tất cả những người đă văng sanh thế giới Cực Lạc; do vậy, quư vị không đi được. Đây là nói về tầm quan trọng của nguyện thứ mười chín của A Di Đà Phật, trọng yếu hơn bất cứ điều ǵ khác, chẳng thể xem nhẹ! Nguyện mười tám là “mười niệm ắt sanh”, nguyện mười chín là “phát Bồ Đề tâm”. Bồ Đề tâm là ǵ? Kinh Quán Vô Lượng Thọ dạy Bồ Đề tâm có ba ư nghĩa. Thứ nhất là chí thành tâm, đây là Thể của Bồ Đề tâm, chân thành. Thứ hai là thâm tâm, tức tâm sâu hay cạn. Thâm tâm là Tự Thụ Dụng. Trong tựa đề kinh nói tới thanh tịnh tâm, b́nh đẳng tâm và giác tâm. Ba món này là Tự Thụ Dụng Bồ Đề tâm. Nói cách khác, chính ḿnh hằng ngày tu hành, cũng có nghĩa là trong cuộc sống, trong công việc, xử sự, đăi người, tiếp vật, đều phải dùng tâm “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác”, đấy là Tự Thụ Dụng. Tâm thứ ba nhằm dành cho người khác, chúng ta dùng tâm ǵ để đối đăi người khác? Hồi hướng phát nguyện tâm. Hồi hướng phát nguyện là đại từ đại bi, giúp hết thảy chúng sanh nhận biết Tịnh Độ, liễu giải Tịnh Độ, và cũng phát tâm cầu sanh Tịnh Độ giống như chúng ta. Đó gọi là hồi hướng phát nguyện tâm. Ba tâm này là một tâm, chẳng phải là nói có ba tâm, mà chúng là một tâm, nhất tâm. [Nói ba tâm là nói tới] Thể và Dụng của một tâm, trong Dụng lại chia thành hai loại: Tự Thụ Dụng và Tha Thụ Dụng. Phàm là người tu Tịnh Độ, nếu không có ba tâm ấy, dẫu niệm Phật hiệu giỏi giang cách mấy, vẫn chẳng thể văng sanh! Phải ghi nhớ điều này! Ở đây, nói rất rơ ràng: Nếu chẳng phát Bồ Đề tâm, sẽ không thể văng sanh, có thể thấy phát tâm trọng yếu. Ngẫu Ích đại sư nói rất hay: Có thể văng sanh hay không được quyết định bởi có tín nguyện hay không! Quư vị có tin Tịnh Độ hay không? Quư vị có phát Bồ Đề tâm hay chăng? Chỉ cần quư vị tin tưởng Tịnh Độ, phát Bồ Đề tâm, chắc chắn được văng sanh. Công phu niệm Phật sâu hay cạn [quyết định] phẩm vị sanh về thế giới Cực Lạc của quư vị, phẩm vị cao hay thấp khác nhau. Công phu niệm Phật sâu, phẩm vị sẽ cao; công phu kém hơn một chút, phẩm vị sẽ thấp. Trong hai thứ này, thứ nào trọng yếu? Phát tâm trọng yếu. Thật sự phát tâm, cổ đại đức bảo: Mỗi ngày quư vị tu pháp Thập Niệm là được rồi. Cả đời chẳng gián đoạn, sáng tối mỗi ngày, buổi sáng thức dậy bèn niệm Phật mười tiếng, buổi tối đi ngủ niệm Phật mười tiếng, mỗi ngày chẳng gián đoạn, cả đời chẳng gián đoạn, đấy là “tịnh niệm tiếp nối”. Quư vị thấy pháp môn này dễ lắm, đơn giản lắm, đúng như Thiện Đạo đại sư nói: “Vạn người tu, vạn về”, chẳng sót một ai!

      Xem đoạn tiếp theo: “Hựu An Lạc Tập viết, y Thiên Thân Tịnh Độ Luận” (Lại nữa, sách An Lạc Tập ghi: “Dựa theo Tịnh Độ Luận của Thiên Thân Bồ Tát”), [Tịnh Độ Luận] là Văng Sanh Luận, trong ấy nói, “phàm dục phát tâm hội vô thượng Bồ Đề giả, hữu kỳ nhị nghĩa” (phàm muốn phát tâm hiểu vô thượng Bồ Đề th́ có hai ư nghĩa), giảng vô thượng Bồ Đề rơ ràng hơn. “Tiên tu ly tam chủng dữ Bồ Đề môn tương vi pháp” (trước hết, phải ĺa ba thứ pháp trái nghịch Bồ Đề môn). Ba pháp trái nghịch ấy sẽ chướng ngại quư vị phát Bồ Đề tâm. Chỉ cần quư vị có cái tâm ấy, sẽ chẳng thể phát Bồ Đề tâm. Do vậy, quư vị phải tách rời chúng, buông chúng xuống. “Nhị giả, tu tri tam chủng thuận Bồ Đề môn pháp” (Hai là cần biết ba pháp thuận Bồ Đề môn), c̣n có phương pháp tùy thuận Bồ Đề môn. Tiếp đó, sách giảng: “Hà đẳng vi tam? Y trí huệ môn, bất cầu tự lạc, viễn ly ngă tâm tham trước tự thân cố” (Ba pháp ấy là ǵ? Nương theo trí huệ môn, chẳng cầu vui sướng cho riêng ḿnh, v́ xa ĺa cái tâm chấp ngă, tham đắm thân ḿnh), đây là điều thứ nhất. Nói cách khác, quư vị cầu vui sướng cho riêng ḿnh, cầu hưởng thụ ngũ dục lục trần thế gian, chấp trước thân thể này, chấp thân tướng này là ta, không buông xuống được, sẽ chẳng thể phát Bồ Đề tâm. Bồ Đề tâm ắt phải vong ngă. Trong kinh Kim Cang, đức Phật nói bốn câu: “Vô ngă tướng, vô nhân tướng, vô chúng sanh tướng, vô thọ giả tướng”. Bồ Đề tâm sẽ phát khởi.

      Bởi lẽ, Ngă Chấp là chướng ngại nghiêm trọng nhất, khởi tâm động niệm đều nghĩ đến ḿnh, chuyện này rất phiền phức. Có thể chuyển ư niệm hay không, khởi tâm động niệm đều nghĩ tới người khác, nghĩ tới xă hội, nghĩ đến những chúng sanh khổ nạn, chúng ta làm thế nào để giúp đỡ họ? Quư vị nói ta chẳng có năng lực giúp đỡ họ, đó là giả, quư vị đă hoàn toàn sai rồi! Ta dùng năng lực ǵ? Chỉ cần ta học đàng hoàng, học theo gương tốt, nêu gương tốt là ta đă giúp xă hội, giúp đỡ hết thảy chúng sanh. Chúng sanh cầu vui sướng cho riêng ḿnh, ta không cầu, chúng sanh niệm niệm v́ chính ḿnh, ta niệm niệm v́ người khác. Làm được [những điều ấy], chẳng phải là không làm được. Điều này cần đến trí huệ, người có trí huệ sẽ làm được. Kẻ thiếu trí huệ, tự tư tự lợi, tạo tiếng tăm, lợi dưỡng, tham cầu hưởng thụ ngũ dục lục trần, chẳng ĺa khỏi tham, sân, si, mạn, người như vậy chẳng thoát khỏi lục đạo luân hồi. Dẫu niệm Phật cũng chẳng thể văng sanh, người ấy kết duyên với Phật, kết thiện duyên, nhưng đời này chẳng thể văng sanh! V́ thế, đây là điều kiện tiên quyết, trong cuộc sống hết thảy tùy duyên, trọn chẳng so đo!

      Thứ hai là “y từ bi môn”, “môn” là pháp môn, tức là phương pháp tu hành, “bạt nhất thiết chúng sanh khổ, viễn ly vô an chúng sanh tâm cố” (dẹp khổ cho hết thảy chúng sanh, xa ĺa cái tâm khiến cho chúng sanh chẳng yên ổn). Câu cuối cùng này quan trọng, chớ nên khiến cho tâm chúng sanh bất an, làm cho chúng sanh tâm bất an sẽ trái nghịch Bồ Đề tâm. Đây là “tâm dẹp khổ”, thấy chúng sanh có khổ nạn phải giúp đỡ họ. Nỗi khổ lớn nhất là ǵ? Tâm t́nh bất an, điều này rất đau khổ, vọng niệm quá nhiều, lo được, lo mất. Chúng ta thấy t́nh h́nh giống như vậy trong xă hội này có nhiều hay không? Mọi nơi đều như vậy. Nhất là trong xă hội cận đại này, giáo học luân lư, đạo đức, nhân quả đều không có, con người học ǵ? Học tham lam, biển dục vô biên! Tâm tham bành trướng, bành trướng tới cuối cùng, [sẽ như] đức Phật đă dạy trong kinh Lăng Nghiêm, tâm tham cảm ứng nước, nước biển dâng lên, nhấn ch́m toàn bộ lục địa trên mặt địa cầu. Đấy là kết quả tâm tham bành trướng tới cuối cùng. Chúng tôi ở Mỹ, thấy họ vẽ bản đồ thế giới tương lai, băng ở Nam Cực và Bắc Cực hoàn toàn tan chảy, các nhà khoa học bảo nước biển sẽ dâng lên cao hơn năm mươi mét, những ǵ có độ cao dưới năm mươi mét trong hiện thời đều bị nhấn ch́m. Các khoa học gia biết điều này, và cũng công nhận đó là chuyện rất có thể xảy ra, không có cách nào giải quyết vấn đề này. Nhiệt độ địa cầu không ngừng tăng lên. Nhiệt độ tăng lên là do sân khuể, nước biển dâng trào là do tham lam, đấy là đại tai nạn trên địa cầu. Xảy ra như thế nào? Do tham, sân, si của nhân loại trên địa cầu gây ra. Trong tâm kiêu căng, ngạo mạn, bất b́nh, tạo thành động đất, ngu si tạo thành phong tai. Có đạo lư hay chăng? Có đạo lư!

      Đạo lư giảng trong kinh Phật quá sâu, rất khó có; hiện thời các khoa học gia đă chứng tỏ, hiện thời có căn cứ khoa học. Theo Đại Thừa Phật pháp, toàn thể vũ trụ là một thể hữu cơ (organism), sống động, toàn bộ vũ trụ sống động. Nói từ chỗ nào? Phật pháp nói một vi trần, nay chúng ta gọi vi trần là nguyên tử, điện tử, hay hạt cơ bản, đấy là những vật chất nhỏ nhất. Vật chất là Sắc, sau Sắc có Thọ, Tưởng, Hành, Thức, nhà Phật gọi chúng là Ngũ Uẩn. Dẫu là một hạt cơ bản, nhỏ hơn nguyên tử và điện tử, thân thể chúng ta do một đống những hạt cơ bản tổng hợp thành, mỗi hạt cơ bản đều có Thọ, Tưởng, Hành, Thức, trong Phật pháp nói là A Lại Da. Pháp Tướng Tông nói trong vũ trụ cái ǵ cũng không có, chỉ là Thức, nên nói là Duy Thức, điều ấy là thật. Thức là ǵ? Thức do tinh thần và vật chất hỗn hợp thành. Quư vị nói tới con người chúng ta, mọi người sẽ dễ hiểu, năm thức trước của chúng ta, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân có cảm thụ, có năng lực tiếp nhận. Thức thứ sáu là tư tưởng, phân biệt; thức thứ bảy là chấp trước. A Lại Da là kư ức, giống như một cái kho kư ức. Trong những năm qua, tiến sĩ Giang Bổn Thắng của Nhật Bản phát hiện, ông ta làm thí nghiệm với nước suốt mười mấy năm, nước là khoáng vật, nhưng nước có thể thấy, nghe, hiểu được ư nghĩ con người, nó có phản ứng. Điều này chứng tỏ nước là một thể hữu cơ. Gần đây, lại có một tin tức do các đồng học hạ tải (download) [từ Internet] đưa cho tôi, tôi mới đọc một lần, một lần chưa được! Phải đọc cả mười mấy lượt, ấn tượng mới có thể khắc sâu. Họ nói nước c̣n có kư ức, kư ức là A Lại Da thức, điều này chứng tỏ: Trong hạt cơ bản có đầy đủ Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Cả vũ trụ là sống động, bất luận vật chất hiện tượng ǵ cũng đều do các hạt cơ bản hợp thành. Trong mỗi hạt cơ bản đều có đủ Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Sắc là vật chất, Thọ, Tưởng, Hành, Thức là tác dụng của nó, là tâm pháp.

      Do vậy, chúng tôi nghĩ: Thân thể này của chúng ta do bao nhiêu nguyên tử, điện tử tổng hợp thành? Nếu hỏi các khoa học gia về con số ấy, con số ấy quá lớn! Mỗi nguyên tử, mỗi hạt cơ bản đều có Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức, tổng hợp thành một cá nhân, toàn bộ cũng là cùng một Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Phân tích đến mức vi tế, vẫn là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Có Thọ, Tưởng, Hành, Thức, chúng ta khởi tâm động niệm th́ núi, sông, đại địa biết, cây cối, hoa, cỏ biết, hiện tượng tự nhiên đều biết. Chúng ta khởi lên thiện niệm, chúng nó sẽ có đáp trả tốt lành; khởi lên ác niệm, nó sẽ có đáp trả bất thiện. Hiện thời, cư dân trên địa cầu khởi lên toàn ư niệm tham, sân, si, mạn, nghi, toàn là tổn người lợi ḿnh, cho nên địa cầu có lắm tai nạn. V́ sao Tây Phương Cực Lạc thế giới tốt đẹp dường ấy? Cư dân nơi đó hằng ngày được A Di Đà Phật giáo hóa, chỉ dạy, hết thảy chư Phật, Bồ Tát đều tới đó dạy học, cho nên người nơi ấy, không ai có ác niệm, lại càng chẳng có một ai mang hành vi bất thiện. Do vậy, cơi ấy [toàn là] tin tức tốt lành, cây cối, hoa, cỏ, núi, sông, đại địa thảy đều tốt đẹp, chẳng có ǵ bất hảo, kinh Đại Thừa gọi điều này là “cảnh chuyển theo tâm”. Trong các đồng học chúng ta cũng có người thật sự lạy Phật cầu phước, hỏi khi có những tai nạn ấy th́ dùng phương pháp ǵ để hóa giải tai nạn? Nghe nói Phật, Bồ Tát chỉ có bốn chữ “giảng kinh, giáo học”. Quư vị nói xem có lư hay không? Tây Phương Cực Lạc thế giới vốn là mỗi ngày đều giảng kinh, giáo học chẳng gián đoạn.

      Mấy năm trước, chúng tôi làm thí nghiệm tại Thang Tŕ, chứng tỏ điều ǵ? Nhân dân được giáo hóa bèn tốt đẹp. Chỉ cần con người chuyển biến ư niệm, chẳng c̣n tạo ác, niệm niệm tương ứng với Tánh Đức. Tại Trung Quốc, cổ thánh tiên hiền dạy chúng ta: Có thể tương ứng với hiếu đạo, tương ứng với Ngũ Luân, tương ứng với Ngũ Thường, tương ứng với Tứ Duy, Bát Đức, giáo dục trí huệ, giáo dục từ bi, trên thế giới này tai nạn ǵ cũng đều chẳng có. C̣n bản thân quư vị th́ sao? Bệnh tật ǵ cũng chẳng có, mỗi năm tuổi cao hơn, nhưng năm nào cũng khỏe mạnh, chắc chắn không già yếu. Do nguyên nhân ǵ? Tướng chuyển theo tâm, tâm của quư vị thiện lương, đạo lư ở chỗ này. Cảnh chuyển theo tâm; đối với hoàn cảnh th́ đại hoàn cảnh là địa cầu, nếu hướng ra ngoài th́ đại hoàn cảnh là Thái Dương Hệ, Ngân Hà Hệ đều là hoàn cảnh sống của chúng ta. Ư niệm tốt đẹp th́ toàn bộ đều tốt đẹp. Ư niệm bất hảo, mọi chuyện đều xảy ra. Nếu tinh cầu chệch khỏi quỹ đạo, đúng là đại tai nạn, chẳng phải là tai nạn nhỏ nhoi. Có thể là khiến cho tinh cầu chẳng bị chệch khỏi quỹ đạo hay không? Có thể! Chỉ cần trở về luân lư, đạo đức, sẽ không xảy ra vấn đề. Những điều này đều là thật, quư vị hăy tin tưởng, phải tin tưởng lời “lăo nhân” mới được. Phật, Bồ Tát là lăo nhân, Khổng Tử, Mạnh Tử là lăo nhân, các Ngài chẳng lừa người, v́ sao? Các Ngài tiếng tăm, lợi dưỡng ǵ cũng chẳng cần. Nhất là Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện, quư vị thấy Ngài sống quá đơn giản, ba y, một bát, giữa trưa ăn một bữa, ngủ dưới gốc cây, tiếng tăm, lợi dưỡng ǵ cũng chẳng dính đến. V́ lẽ nào Ngài lừa quư vị? Chẳng có lư do nào cả! Quư vị tin tưởng, sẽ có phước, y giáo phụng hành, sẽ vượt thoát, linh tánh được nâng cao. Do vậy, ở chỗ nào cũng đều khiến cho hết thảy chúng sanh sanh tâm hoan hỷ.

      Xem tiếp điều thứ ba: “Tam giả phương tiện môn, lân mẫn nhất thiết chúng sanh tâm, viễn ly cung kính cúng dường tự thân tâm cố” (Ba là phương tiện môn, tâm thương xót hết thảy chúng sanh, tâm xa ĺa cung kính cúng dường thân ḿnh). Sau đó là một câu tổng kết, “thị danh viễn ly tam chủng Bồ Đề môn tương vi pháp” (đó gọi là xa ĺa ba pháp trái nghịch Bồ Đề môn). Người thế gian chúng ta háo danh, mong được người khác cung kính, cúng dường, chớ nên có ư niệm này! V́ sao? Trong tự tánh không có [những thứ ấy], tự tánh là thanh tịnh, chẳng nhiễm mảy trần. Quư vị có những thứ ấy, sẽ chẳng đạt được tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh không đạt được th́ tâm b́nh đẳng chẳng đạt được. Thưa quư vị, trong tựa đề kinh có nói “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác”, đó là ba cái nhân. Tâm thanh tịnh là A La Hán, tâm b́nh đẳng là Bồ Tát, giác là Phật, thành Phật. Tâm chưa đạt được thanh tịnh th́ là phàm phu, vẫn phải luân hồi trong lục đạo. Người khác hủy báng, quư vị có bực tức hay không? Quư vị nổi cáu, tâm sẽ không thanh tịnh. Người khác khen ngợi, quư vị có vui vẻ hay không? Hễ khoan khoái, tâm lại chẳng thanh tịnh rồi! Do vậy, trong thuận cảnh chẳng có tâm tham luyến, trong nghịch cảnh chẳng có tâm oán hận, tâm của quư vị mới thanh tịnh. Đó gọi là tu hành thật sự, chẳng bị cảnh giới xoay chuyển. Tu trong cuộc sống, tu trong công việc, tu trong xử sự, đăi người, tiếp vật, ai nấy đều là Phật, Bồ Tát, nơi nào cũng đều là đạo tràng của Phật, lẽ đâu quư vị chẳng thành Phật? Chắc chắn quư vị thành tựu. Trong quá khứ, chúng ta học kinh Hoa Nghiêm, Thiện Tài đồng tử thành tựu như thế nào? Thành tựu như vậy đó, phải học điều này, đúng là tuyệt diệu! Đạo tràng ở nơi đâu? Không chỗ nào chẳng phải là đạo tràng. Phật, Bồ Tát ở nơi đâu? Hết thảy chúng sanh đều là Phật, Bồ Tát, đều giúp quư vị tiến cao hơn, vấn đề là quư vị có hiểu hay không? Do vậy, trong giáo pháp Đại Thừa, tổ sư đại đức thường hỏi kẻ khác, hỏi học tṛ: “Ngươi có hiểu hay không? Nếu hiểu sẽ thành công.

      Ở đây, chúng ta cùng nhau học tập trong một thời gian rất lâu, tôi thường dùng TV, dùng màn h́nh của máy TV [làm tỷ dụ], nếu quư vị hiểu, mỗi ngày xem TV đều thành Phật. TV đă tŕnh bày điều ǵ? Không và Có chẳng hai. Màn h́nh TV là Không, cái ǵ cũng chẳng có! Băng tần TV là có, băng tần và màn h́nh không có cách nào phân chia, chẳng hai! Chúng là hai chuyện, màn h́nh là màn h́nh, sắc tướng trong màn h́nh là sắc tướng, là hai chuyện, nhưng khi mở TV th́ băng tần hiện ra sắc tướng, quư vị có thể tách rời chúng hay chăng? Chẳng tách được! “Sắc tức là Không, Không tức là Sắc. Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác Sắc”, đấy chẳng phải là Tâm Kinh ư? V́ thế, quư vị biết xem th́ biết xem là tu hành, là nhập pháp môn Bất Nhị, có thể nhập pháp môn Bất Nhị bèn thành Phật. Đừng bị cảnh giới xoay chuyển th́ quư vị mới có thể chuyển cảnh giới. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Nhược năng chuyển cảnh, tắc đồng Như Lai” (nếu có thể chuyển cảnh, sẽ giống Như Lai). Trong cuộc sống của chúng ta, từ sáng đến tối đều là cảnh giới, trong cảnh giới phải làm chủ, đừng bị cảnh giới xoay chuyển. Thuận cảnh, quư vị khởi tâm tham, sanh tâm hoan hỷ, vui thích, trật rồi! Gặp nghịch cảnh bèn sanh oán hận, sanh [ư niệm] báo thù, trật rồi! V́ sao? Phàm những ǵ có h́nh tướng đều là hư vọng, chẳng có ǵ là thật. Đức Phật nói “hiện tướng” (tướng được biến hiện) là giả, v́ sao là giả ? Nó biến hóa trong từng sát-na, vĩnh viễn chẳng ngừng. Hơn nữa, từ trước đến nay, chưa có hai hiện tướng nào tương đồng, biến đổi trong từng sát-na. Di Lặc Bồ Tát đă dạy chúng ta chân tướng sự thật: Trong một khảy ngón tay có ba mươi hai ức trăm ngàn niệm, niệm niệm thành h́nh, h́nh đều có thức. Nay chúng ta gọi cái “thành h́nh” ấy là hạt cơ bản. Trong mỗi niệm đều tạo ra hạt cơ bản; nhưng trong mỗi hạt cơ bản đều có Thọ, Tưởng, Hành, Thức, “h́nh đều có thức”! Đấy là nói cội nguồn của vạn vật trong vũ trụ. Nếu quư vị liễu giải chân tướng sự thật, sẽ tự nhiên chẳng động tâm trong hết thảy cảnh giới. Chẳng khởi tâm động niệm là cảnh giới Phật. Khởi tâm động niệm, nhưng không có phân biệt, chấp trước, đó là cảnh giới Bồ Tát. Khởi tâm động niệm, c̣n có phân biệt, nhưng chẳng chấp trước, là cảnh giới A La Hán. Nếu khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước thảy đều có, đấy cảnh giới của chúng sanh trong lục đạo.

      Chúng ta làm thế nào để nâng cao cảnh giới? Từ lục đạo phàm phu nâng lên A La Hán, tâm thanh tịnh; nâng lên tới Bồ Tát, tâm b́nh đẳng; nâng lên tới Phật, đại triệt đại ngộ, giác rồi! Đấy là học Phật, những ǵ quư vị đạt được [trong học Phật] là vĩnh hằng. Đấy là thật, chẳng giả. Nếu là giả th́ lời Thích Ca Mâu Ni Phật là giả, làm sao có thể lưu truyền hơn hai ngàn năm trăm năm? Đức Thế Tôn nói rất cặn kẽ, pháp vận của Ngài là một vạn hai ngàn năm, hiện thời vẫn chưa đến ba ngàn năm, sau này c̣n có chín ngàn năm nữa. Do vậy, đối với [những dự báo về] ngày tận thế, thế giới sẽ không có ngày tận thế, địa cầu sẽ tồn tại; nhưng con người có thể tồn tại hay không? Điều này cũng rất khó nói! Địa cầu sẽ tồn tại, con người sẽ chẳng hoàn toàn bị tiêu diệt trên thế giới này, [nhân loại hoàn toàn diệt vong] là chuyện chẳng thể xảy ra. Tuy trên thế giới có tai nạn, một phần nhân loại bị chết, nhưng vẫn c̣n có một phần tồn tại trên thế gian này. Dẫu cho pháp của Thích Ca Mâu Ni Phật bị diệt, kinh Pháp Diệt Tận đă nói rất rơ ràng, thế giới này vẫn tồn tại. Khi pháp vận của Thích Ca Mâu Ni Phật chẳng c̣n, Địa Tạng Vương Bồ Tát sẽ thay Phật giáo hóa chúng sanh. Dùng phương pháp ǵ để giáo hóa? Dạy về hiếu. Địa Tạng Bồ Tát là hiếu tử, kinh Địa Tạng giảng về “hiếu thân, tôn sư” (hiếu thảo cha mẹ, tôn kính thầy). Hai điều ấy có thể cứu chúng sanh, giúp chúng sanh ĺa khổ được vui, hiếu thân tôn sư! Măi cho đến khi vị Phật kế tiếp xuất thế, vị Phật thứ năm là Di Lặc Bồ Tát tới thế gian này làm Phật, khi ấy, Phật pháp lại hưng vượng. Do vậy, thế giới này là liên tục, chẳng bị tiêu mất. Hiện tại, trên thế gian này rất nhiều người kẻ nói tới ngày tận thế, nhưng chẳng phải là ngày diệt vong, thế giới có tai nạn là thật. Do vậy, phải học kinh giáo. Ở đây, trong kinh giáo, quả thật không chỉ là triết học tối cao, khi tôi học Phật, tiên sinh Phương Đông Mỹ giới thiệu, kinh Phật là triết học tối cao. Chúng tôi học lâu như thế, tôi học Phật tới năm nay là năm mươi chín năm, sang năm là sáu mươi năm, vừa đúng một giáp, tôi phát hiện trong kinh Phật không chỉ có triết học cao cấp, mà c̣n có khoa học cao cấp. Khoa học lẫn triết học hiện đại đều chẳng thể sánh bằng kinh Phật. Hết sức đáng tiếc, những khoa học gia, triết học gia không có cách nào tiếp xúc Phật pháp, v́ sao chẳng tiếp xúc? Do có những ngộ nhận to lớn, ngỡ Phật giáo là tôn giáo, mê tín, chẳng muốn tiếp xúc. Tổn thất ấy rất lớn, nếu họ tiếp xúc, tôi tin tưởng sự nghiên cứu của họ sẽ được nâng cao trên một mức độ lớn. Quư vị nói xem: Hiện thời đă phát hiện, khoa học gia cho biết, nước có kư ức, nếu khoa học thật sự chứng thực điều này, Vật Lư Học hiện đại phải thay đổi quan điểm hoàn toàn. Quư vị thấy: Đối với sự phát hiện ấy, từ ba ngàn năm trước, trong kinh Phật, Thích Ca Mâu Ni Phật đă giảng rất tỉ mỉ, nay quư vị mới phát hiện, chậm trễ ba ngàn năm!

      Đối với ba thứ vi phạm này, chúng ta phải biết: Viễn ly, điều thứ nhất là “viễn ly ngă tâm tham trước tự thân” (xa ĺa tâm chấp ngă, tham đắm thân ḿnh), thứ hai là “viễn ly vô an chúng sanh tâm” (xa ĺa cái tâm khiến cho chúng sanh chẳng an ổn), thứ ba là “viễn ly cung kính cúng dường tự thân tâm” (xa ĺa cái tâm cung kính, cúng dường thân ḿnh). Đó là điều kiện căn bản của niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Nếu chúng ta phạm những điều ấy, tới khi lâm chung chẳng thể văng sanh, cũng chớ nên trách pháp môn chẳng linh, trật rồi! Hăy trách chính ḿnh, chính quư vị khởi tâm động niệm chẳng tương ứng. Tiếp theo là nói về thuận Bồ Đề môn. “Thuận Bồ Đề môn giả, Bồ Tát viễn ly như thị tam chủng Bồ Đề môn tương vi pháp, tức đắc tam chủng tùy thuận Bồ Đề môn pháp” (Thuận Bồ Đề môn là Bồ Tát xa ĺa ba món trái nghịch Bồ Đề môn như thế, sẽ đắc ba môn tùy thuận Bồ Đề). Tiếp đó, cũng nói: “Hà đẳng vi tam?” (Những ǵ là ba), thứ nhất là “vô nhiễm thanh tịnh tâm”. Tâm thanh tịnh chẳng ô nhiễm, tâm ô nhiễm sẽ chẳng thanh tịnh. Thứ ǵ ô nhiễm? Chúng tôi nói thô thiển một chút, tôi chẳng dùng kinh Phật, v́ kinh Phật quá sâu, cũng chẳng dễ hiểu; nhưng kinh Phật mới thật sự hữu dụng, v́ những ǵ kinh nói chính là tiêu chuẩn. Tôi nói tiêu chuẩn thấp hơn [tiêu chuẩn trong] kinh Phật một chút, tôi thường nói mười sáu chữ “buông xuống tự tư tự lợi, buông xuống tiếng tăm lợi dưỡng, buông xuống ngũ dục lục trần, buông xuống tham, sân, si, mạn”. Đấy là cảnh giới ǵ? Đến cửa ngơ nhà Phật, nhưng chưa vào cửa. Phải biết là: Đấy là đă đến cửa. Đă đến cửa, phải nâng cao [cảnh giới] hơn nữa là vào cửa th́ ba thứ thuận Bồ Đề tâm này quư vị sẽ có thể làm được. Do vậy, tôi nói tới “tiền phương tiện”, nay chúng ta mỗi ngày đều phải làm, phải luyện tập, phải nỗ lực. Tích cực thực hiện, khởi tâm động niệm đừng nghĩ tới chính ḿnh, khi khởi tâm động niệm hăy nghĩ đến người khác. Tôi thường dạy người khác hăy nghĩ tới hai chuyện: Chánh pháp của Thích Ca Như Lai tồn tại lâu dài, chúng ta phải báo ân Phật. Thứ hai là phải nghĩ đến chúng sanh khổ nạn, chúng ta nên làm như thế nào để giúp đỡ họ. Để giúp đỡ họ, Phật, Bồ Tát nói “giảng kinh giáo học chính là giúp đỡ họ”, thật sự giúp đỡ.

      Từ chỗ này, chúng ta thấu hiểu thật sâu: Giáo dục tôn giáo rất quan trọng. Kinh điển của mỗi tôn giáo đúng là quư báu, trong ấy, giảng những ǵ? Không ǵ chẳng phải là luân lư, đạo đức, nhân quả, triết học, khoa học, hết thảy đều giảng về nội dung này, chỉ cần chúng ta cùng nhau học tập, sẽ hiểu rơ. Thời cổ, giao thông chẳng thuận tiện, chẳng cần nói xa xôi ǵ, ngay trong thời kỳ Kháng Chiến, tức lúc Đệ Nhị Thế Chiến, nước Trung Hoa vẫn rất lạc hậu. Khi ấy, rất lạc hậu, giao thông rất bất tiện, lữ hành đều là bộ hành, không có xe cộ. Lữ hành th́ phương tiện giao thông thuận tiện nhất là thuyền nhỏ, thuyền mành, thuyền buồm. Trong tám năm Kháng Chiến, tôi đi mười tỉnh, gần như cũng đi hai vạn dặm đường, chỉ đi bằng hai chân. Truyền thông không có; do vậy, bao nhiêu người ở một thôn trang, ngay cả một ṭa thành cũng chưa hề vào, đến già chết vẫn chưa lui tới. Hoàn cảnh xă hội là như vậy, chẳng giống như hiện thời. Hiện thời, giao thông thuận tiện, mở đường cao tốc, xe cộ nhiều, thông tin phát triển, trên khắp thế giới, một chút chuyện xảy ra ở đâu, cả thế giới biết ngay lập tức. Do đức Phật ở trong xă hội đóng kín trước đây, nên kinh Phật nói: “Nên dùng thân ǵ để hóa độ bèn hiện thân ấy”. Trong các sắc dân bất đồng, văn hóa bất đồng, khu vực bất đồng, Phật hiện thân thuyết pháp, hiện các thân khác nhau, thật ra là một chuyện. Xă hội hiện tại biến đổi, cả địa cầu biến thành làng địa cầu, thật vậy! Quư vị đi giáp ṿng địa cầu mất hai ngày, t́nh trạng như vậy đó! Trong t́nh trạng ấy, chư Phật, Bồ Tát, hết thảy các vị thần, trong quá khứ truyền giáo tại các địa phương, nay cũng phải dung hội thành nhất thể. Nếu không, sẽ kèn cựa, phân biệt, chấp trước. V́ thế, tôn giáo phải đoàn kết, phải biến thành một nhà. Ta biết trong tôn giáo nói đến một chân thần. Trong quá khứ, một vị chân thần có vô lượng vô biên hóa thân, phân thân, nay địa cầu biến thành một nhà, các phân thân ấy cũng phải biến thành một thân th́ mới chẳng đến nỗi nẩy sanh đối lập, mâu thuẫn, xung đột, xă hội sẽ an định. Đây là một đại công tác cần kíp bức thiết trong lúc này, nhất định phải thực hiện tốt, phải nỗ lực thực hiện công tác giáo dục tôn giáo. Cũng như phải giáo dục luân lư, luân lư là nói tới những mối quan hệ: Quan hệ giữa con người với nhau, quan hệ giữa con người và hoàn cảnh tự nhiên. Đạo đức là làm thế nào để giữ ǵn tốt đẹp những mối quan hệ ấy; đấy là đạo đức. Nhân quả càng quan trọng hơn, thiện nhân, thiện quả, ác nhân, ác báo, chẳng giả tí nào. Ngoài ra, có một số ít người trong Phật pháp gọi là người thượng căn, hoặc thượng thượng căn mong mỏi nâng cao cảnh giới, trong tôn giáo có khoa học, có triết học, giúp họ nâng cao hơn.

      “Vô nhiễm thanh tịnh tâm, bất vị tự thân cầu an lạc cố” (tâm vô nhiễm thanh tịnh, chẳng nhằm cầu an lạc cho bản thân). Thưa các đồng học, chẳng cầu an lạc cho chính ḿnh, sẽ là chân an lạc. Cầu an lạc cho tự thân sẽ thật sự có phiền năo. Thật đấy, chẳng giả đâu! V́ sao? Có ngă th́ có phiền năo, có tham, sân, si, mạn; chẳng v́ chính ḿnh, vô ngă sẽ chẳng có phiền năo. Đây là một cửa ải trong Phật pháp. Chúng ta không có cách nào làm được vô ngă, v́ thế, tôi dạy người khác thực hiện bằng cách buông tự tư tự lợi xuống. Vẫn có Ngă, nhưng ta buông tự tư tự lợi xuống, khởi tâm động niệm nghĩ tới người khác, chẳng nghĩ tới chính ḿnh. Ta chưa buông xuống, phải buông xuống th́ mới thật sự nhập Phật pháp. Do vậy, tôi nói tôi chỉ dẫn người khác đến cửa ngơ! “Bồ Đề thị vô nhiễm thanh tịnh xứ, nhược vị tự thân cầu lạc, tức vi Bồ Đề môn. Thị cố, vô nhiễm thanh tịnh tâm thị thuận Bồ Đề môn” (Bồ Đề là chỗ vô nhiễm thanh tịnh. Nếu v́ chính ḿnh mà cầu an vui, tức là trái nghịch Bồ Đề môn. V́ thế, tâm vô nhiễm thanh tịnh là thuận Bồ Đề môn). Bồ Đề là trí huệ chân thật, vô vi Pháp Thân, Văng Sanh Luận nói như vậy! Câu này có ư nghĩa hoàn toàn giống với một câu do Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật nói bằng cách khác: “Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng của Như Lai”. Như Lai là tự tánh, trong tự tánh của hết thảy chúng sanh có trí huệ viên măn; v́ sao trí huệ ấy chẳng tỏ lộ? V́ hiện thời tâm chúng ta có ô nhiễm, nên nó không thể tỏ lộ được! Nếu tâm thanh tịnh, trí huệ sẽ tỏ lộ. Bồ Đề là trí huệ; chỉ cần quư vị không có ô nhiễm, trí huệ sẽ lộ ra. Trong tự tánh vốn có trí huệ, chẳng phải do học được, mà cũng không do tu thành, trong tự tánh vốn sẵn có. Không chỉ có trí huệ, mà c̣n có đức năng, tướng hảo, thứ ǵ cũng trọn đủ, thứ ǵ quư vị cũng chẳng cần phải cầu! Chỉ cần trừ sạch những chướng ngại, thảy đều buông xuống, toàn bộ trí huệ, đức năng, tướng hảo của quư vị hiện tiền, có h́nh dạng ra sao? Quư vị thấy thế giới Cực Lạc và thế giới Hoa Tạng là như vậy đó! Đâu cần phải cực nhọc dường ấy? Ở nơi đây cuộc sống khổ quá. Tới Tây Phương Cực Lạc thế giới, quư vị chẳng cần vàng, bạc, của cải; v́ sao? Người ta dùng vàng ṛng để lót đất, quư vị cần vàng để làm ǵ? Trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, châu báu là vật liệu xây dựng nhà cửa, dựng nhà, lát tường. Trong thế gian này, mọi người thấy châu báu rất hiếm lạ, v́ sao? Quá ít! Sang bên ấy, [châu báu] quá nhiều, lấy chẳng hết, dùng chẳng cạn, quư vị cần chúng để làm ǵ? Nói theo thế giới này, quư nhất chính là ǵ? Là không khí, con người thiếu không khí trong năm phút sẽ chẳng thể sống sót. Ai tham không khí? Có ai tích cóp không khí như bảo bối? Không khí c̣n quan trọng hơn vàng, bạc, châu báu. Trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, tài nguyên quá phong phú, sau khi tiếp xúc, thứ ǵ cũng chẳng màng. Quư vị c̣n cảm thấy những thứ ấy thừa thăi, phiền phức, cần chúng để làm ǵ! Do vậy, tâm thanh tịnh sanh ra trí huệ.     

Thứ hai, “an thanh tịnh tâm”. An ổn tương ứng với tâm thanh tịnh, tâm an, thân an, cũng phải giúp cho hết thảy chúng sanh thân tâm yên ổn. Chúng ta nghĩ tới chính ḿnh, mà cũng phải nghĩ tới người khác, chính chúng ta mong đạt được th́ cũng phải giúp người khác đạt được. An như thế nào? Buông xuống liền yên ổn. Nếu quư vị chẳng buông xuống, thân tâm vĩnh viễn chẳng thể yên ổn. Buông ngũ dục lục trần xuống, đấy là bên ngoài, cảnh giới bên ngoài phải buông xuống, bên trong phải buông tham, sân, si, mạn xuống, tâm liền yên ổn. Sống trong thế gian này, hết thảy tùy duyên, chẳng phan duyên, thứ ǵ cũng đều tốt, chẳng có ǵ bất hảo, quư vị sống vui sướng lắm, tự tại lắm! Đức Phật dạy chúng ta tùy duyên, đừng phan duyên; phan duyên là chính ḿnh nghĩ nhất định phải như thế nào đó, như vậy th́ quư vị sẽ bị khổ. Hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức, sẽ có vui sướng. “Vị bạt nhất thiết chúng sanh khổ cố” (v́ dẹp khổ cho hết thảy chúng sanh), giúp hết thảy chúng sanh ĺa khổ được vui, nêu gương cho người khác thấy, thân hành, thân phải làm được [rồi mới] ngôn giáo. Do vậy, chúng ta thấy bậc đại thánh đại hiền xưa nay trong ngoài nước, các Ngài đă chọn nghề nghiệp ǵ trong một đời? Dạy học, dạy chữ. Thời cổ, người đọc sách bèn theo đuổi sự nghiệp dạy học. Nếu đỗ đạt, họ sẽ ra làm quan. Thi không đậu, sẽ theo nghề dạy học. Thuở ấy, tuy dạy học rất thanh bần, gọi là “cùng tú tài” (tú tài nghèo túng), hết sức vất vả, điều kiện sinh hoạt vật chất rất tệ, nhưng địa vị xă hội rất cao. V́ sao? Người ấy chăm sóc thế hệ kế tiếp, tận lực tiến hành, những ǵ được nói trong Đệ Tử Quy hiện thời, người ấy đều làm được. Cảm Ứng Thiên người ấy thực hiện được. Quư vị thấy những ǵ Liễu Phàm Tứ Huấn đă nói, quư vị đều hiểu. Người ấy thật sự làm được, nêu gương rất tốt trong xă hội, biết đủ, thường an vui, tạo thành một phong khí rất tốt đẹp trong xă hội. Con người không có tâm tham, xă hội sẽ yên ổn, nơi ấy sẽ chẳng có tai nạn. Do vậy, tuy những người ấy thoạt nh́n chẳng có ǵ nổi bật, nhưng đă cống hiến rất lớn đối với xă hội. Nghề thứ hai được xă hội tôn trọng là thầy thuốc. Ở Trung Quốc, vào thuở trước, một là dạy học, được gọi là Phu Tử, thời cổ gọi họ là Phu Tử, tức là thầy; thứ hai là thầy thuốc, thầy lang, được mọi người tôn trọng. Thầy lang giúp đỡ bệnh nhân chẳng đ̣i hỏi tiền bạc, ông ta là người cứu mạng, làm sao có thể đ̣i tiền? Bệnh chữa lành rồi, tùy theo gia cảnh mà quư vị tặng một chút lễ vật báo đáp, chứ thầy lang chẳng thể chủ động đ̣i hỏi. Gia cảnh quư vị khá hơn sẽ tặng nhiều hơn một chút; hoàn cảnh khó khăn, tặng ít một chút. Nếu thật sự rất khó khăn, ngay cả thuốc men thầy lang đều biếu không. Do vậy, [thầy lang] được mọi người tôn kính. Không giống như hiện thời, hiện nay chỉ mong cầu lợi lộc. Tôi nghe nói ở bệnh viện, bệnh nhân bệnh nặng vẫn ở ngoài cửa, lúc không có tiền sẽ chẳng được chữa trị, quá khác biệt so với y đạo thời cổ! Hiện nay có y mà chẳng có đạo; trước đây là có y, có đạo. Hiện nay c̣n có một chuyện, nghe nói kẻ làm thầy mở lớp dạy thêm để kiếm rất nhiều tiền. Dạy trong nhà trường, giữ lại phân nửa chẳng giảng, giữ lại kiến thức để ép các ngươi nhất định phải đi học thêm với ta, ta sẽ giảng bổ sung phân nửa c̣n lại; đó là muốn kiếm tiền, mở “tiệm dạy chữ!” Do vậy, lẽ nào thế gian này chẳng có tai nạn? Ngay cả hai hạng người này mà c̣n chẳng giữ vững [phẩm chất], đều bị ô nhiễm nghiêm trọng. Trước kia, hai hạng người này chẳng bị ô nhiễm, thật sự thanh tịnh, được người ta tôn kính.

      V́ thế, xă hội động loạn, tai nạn liên tiếp xảy ra, là có đạo lư, có nguyên nhân, chúng ta phải nên t́m ra những nguyên nhân ấy, làm thế nào để tiêu trừ những nguyên nhân đó, thế gian này sẽ được an định. Hết thảy đều phải thực hiện từ chính ḿnh. Cổ thánh tiên hiền dạy chúng ta: “Hành hữu bất đắc, phản cầu chư kỷ” (làm không được th́ phải quay lại xét ḿnh), không nên cầu người khác. Cầu người khác, tuyệt đối sẽ làm không được, quư vị sẽ thất vọng, phải làm từ chính ḿnh. Chính ḿnh nghiêm túc thực hiện, sẽ có hiệu quả, thật sự làm sẽ có hiệu quả. Từ bản thân chúng ta sẽ ảnh hưởng cả nhà, từ một nhà ảnh hưởng tới thân thích, bè bạn, láng giềng, làng xóm. Tại Úc, chúng tôi thành lập một Tịnh Tông học viện rất nhỏ, quy mô rất nhỏ, mười năm rồi. Qua mười năm, thành tựu sơ bộ là ảnh hưởng đến thành phố. Thành phố ấy có mười vạn người, là một thành phố nhỏ, phong khí của thành phố nhỏ ấy tốt hẳn lên. Mỗi ngày đều làm, làm mười năm. Năm nay, chúng tôi đă nghĩ muốn thực hiện đa nguyên văn hóa, đoàn kết tôn giáo. Cách làm ra sao? Làm từ nhà của chúng tôi. Chúng tôi là Phật giáo, tôi mời mục sư Cơ Đốc Giáo, linh mục Thiên Chúa giáo, thầy cả[3] đạo Hồi, chính thức mời họ làm giáo sư, mời họ giảng cho chúng ta nghe kinh Cổ Lan (Koran)[4], giảng Tân Cựu Ước. Tôi c̣n mời một trưởng lăo Do Thái Giáo, ông ta nhận lời, tôi mời ông ta giảng sáu trăm điều giới luật của đạo Do Thái. Chúng ta học kinh điển Phật giáo và cũng học kinh điển của tôn giáo khác, như thế sẽ hóa giải sự hiểu lầm, chẳng có đối lập, chẳng có xung đột, đó là biện pháp căn bản để hóa giải xung đột. Tôi tin tưởng học viện của chúng ta tiến hành một đôi ba năm, chúng ta học tốt đẹp, tôi tin các tôn giáo khác sẽ bị cảm động. Chúng ta học những thứ của họ, những thứ của họ chúng ta đều biết, nhưng họ không biết Phật giáo; binh pháp nói: “Tri kỷ tri bỉ, bách chiến bách thắng” (biết ḿnh, biết người, trăm trận trăm thắng). Tôi tin tưởng trong tương lai họ đều phải học tập như vậy. Phong khí này khởi lên, tốt lắm, các tôn giáo trên thế giới là một nhà, hóa giải xung đột, giúp ích cho xă hội yên ổn, thế giới ḥa b́nh rất lớn. Do vậy, cơ sở tôn giáo, tự viện am đường Phật giáo, những giáo đường của các tôn giáo khác, mỗi ngày đều phải giảng kinh, giảng đạo, mỗi ngày các đồng tu cùng nhau học tập, cùng nhau chia sẻ tâm đắc, phong khí trở nên tốt đẹp! Hiện nay, chúng ta dùng phương tiện truyền thông, dùng Internet, dùng vệ tinh truyền bá ra ngoài, để các đồng học hữu duyên trên thế giới cùng nhau chia sẻ. Ai là người hữu duyên? Chịu mở TV lên nghe đều là người có duyên.

      Thứ ba là “lạc thanh tịnh tâm”, chữ cũng có thể đọc là Nhạo, nó có hai âm đọc, nó có hai cách đọc:

- Đọc là Nhạo, có nghĩa là yêu thích.

- Đọc là Lạc, có nghĩa là vui sướng.

“Dục linh nhất thiết chúng sanh đắc đại Bồ Đề cố, nhiếp thủ chúng sanh sanh bỉ quốc độ cố. Bồ Đề thị tất cánh thường lạc xứ, nhược bất linh nhất thiết chúng sanh đắc tất cánh thường lạc giả, tắc vi Bồ Đề môn” (v́ muốn làm cho hết thảy chúng sanh đắc đại Bồ Đề, nhiếp thủ chúng sanh sanh về cơi ấy. Bồ Đề là chỗ thường vui rốt ráo. Nếu chẳng làm cho hết thảy chúng sanh được thường lạc rốt ráo, tức là trái nghịch Bồ Đề môn). Phải có cái tâm này, ưa thích, vui vẻ, mong mỏi hết thảy chúng sanh ĺa khổ được vui, ĺa khổ rốt ráo, được vui rốt ráo. Ĺa khổ rốt ráo là hết thảy các đau khổ đều xa ĺa, vĩnh viễn chẳng c̣n nữa! Tâm ấy to lớn, đó là tâm của Phật, Bồ Tát; tâm Phật, Bồ Tát phổ độ hết thảy chúng sanh. Quư vị ở trong lục đạo, dẫu chỉ dạy quư vị, giúp quư vị nỗ lực tu thiện, quư vị sanh lên trời [vẫn chưa phải là ĺa khổ được vui rốt ráo]. Thiện có lớn hay nhỏ khác nhau. Trong Tứ Huấn dành cho gia đ́nh, tiên sinh Liễu Phàm đă giảng thiện có tám thứ, giảng rất tỉ mỉ. Quả báo khác nhau, có [điều thiện khiến cho người hành] được phú quư trong nhân gian, có người hưởng thiện quả trong Dục Giới, Dục Giới có sáu tầng trời[5], phước báo khác nhau. Lên cao hơn c̣n có Sắc Giới Thiên, c̣n có Vô Sắc Giới Thiên, hưởng phước trời, nhân gian chẳng có cách ǵ so sánh được. Có phải là rốt ráo hay không? Không phải là rốt ráo, v́ sao? [Chúng sanh] trong lục đạo đều có thọ mạng. Thọ mạng dài nhất chính là Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Thiên thuộc Vô Sắc Giới Thiên, đức Phật dạy: Người nơi ấy thọ mạng dài tám vạn đại kiếp. Một đại kiếp là một lần thế giới thành, trụ, hoại, không, thời gian dài như thế đó! Thọ mạng tính bằng con số thiên văn như vậy. Tám vạn đại kiếp là [thời gian] tinh hệ, tức Thái Dương Hệ này thành, trụ, hoại, không tám vạn lần, nhưng đến lần thứ tám vạn th́ sao? Đến lúc ấy, quư vị sẽ đọa lạc, chẳng thoát khỏi luân hồi, nghiệp bất thiện lại hiện tiền, chẳng biết sẽ đọa vào đâu. Do vậy, chẳng phải là rốt ráo!

      Thật sự có thể giúp quư vị vượt thoát lục đạo luân hồi là sanh vào tứ thánh pháp giới, tứ thánh pháp giới là Tịnh Độ, thọ mạng rất dài, nhưng chưa thể kiến tánh. Chưa thể trở về tự tánh, vẫn đau khổ! Nhưng người ấy hoàn toàn chẳng có những nỗi khổ trong lục đạo, hoàn toàn chẳng có tam khổ hay bát khổ. Vẫn chưa thể nói là người ấy được an vui rốt ráo, an vui rốt ráo nhất định phải là giúp người ấy thành Phật, cũng là giúp cho người ấy đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh th́ mới thật sự giải quyết vấn đề; nhưng chuyện này há phải là chuyện dễ dàng ư? Pháp môn Tịnh Tông thù thắng [ở chỗ] quư vị có thể thành tựu trong một đời, chẳng cần nâng cao lên từng tầng một, [tiến từ từ từng bậc] khổ lắm, phiền phức lắm! Ngay trong một đời này, từ trong loài người bèn vượt thoát, chẳng cần phải trải qua sáu tầng trời Dục Giới, mười tám tầng trời Sắc Giới, chẳng cần thiết! Từ trong nhân gian thoát ra, đó là “hoành siêu” (vượt thoát theo chiều ngang), có thể thành tựu trong một đời. Đấy là nói chư Phật, Bồ Tát “dục linh nhất thiết chúng sanh đắc đại Bồ Đề cố, nhiếp thủ chúng sanh sanh bỉ quốc độ” (v́ muốn làm cho hết thảy chúng sanh đắc đại Bồ Đề, nhiếp thủ chúng sanh sanh về cơi ấy), “cơi ấy” chính là Tây Phương Cực Lạc thế giới. Quư vị thấy Thích Ca Mâu Ni Phật là như vậy, suốt đời giảng kinh, thuyết pháp bốn mươi chín năm, nói rất nhiều kinh, nói rất nhiều lư luận, rất nhiều phương pháp, v́ sao? Chúng sanh căn tánh khác nhau. Giống như ăn món ǵ đó, khẩu vị [mỗi người] khác nhau, có người thích ăn ngọt, có kẻ ưa ăn cay. Đức Phật đại khai phương tiện môn, quư vị mong điều ǵ, Ngài bèn giúp quư vị điều ấy, thật sự khó có! Nhưng môn rốt ráo chính môn [niệm Phật] này sẽ giúp cho quư vị đạt được sự vui rốt ráo.

      Thuở tại thế, đức Thế Tôn nhiều lần tuyên giảng bộ kinh này, quư vị bèn hiểu rơ đạo lư này. Chẳng phải là giảng một lần! Đọc các bản dịch, [chúng ta thấy rơ] tối thiểu Ngài giảng ba lần. V́ sao? Nếu là một lần, nguyên bản là một bộ kinh, dẫu được dịch rất nhiều lượt, nhất định là đại đồng tiểu dị, chẳng sai biệt rất lớn, nhưng năm bản dịch kinh này sai khác quá lớn; do vậy, cổ đại đức phán đoán tối thiểu là giảng ba lần. Chúng ta biết tại Trung Quốc, bộ kinh này được phiên dịch nhiều nhất, có tất cả mười hai bản dịch, nhưng bảy bản bị thất truyền, t́m không được. Trong [mục lục của] Đại Tạng Kinh có ghi chép, có ghi tựa đề kinh, tuy có ghi chép, nhưng sách th́ t́m không được. Nếu t́m được, c̣n có thể là thấy những chỗ khác nhau, sai biệt rất lớn so với năm bản dịch trong hiện tại, [đủ để chứng tỏ] không phải chỉ có ba lần [tuyên giảng]. V́ sao? Chúng ta hiểu ư nghĩa này sẽ thấu hiểu: Đức Phật nhiếp thủ chúng sanh, mà cũng là giúp A Di Đà Phật chiêu sinh (chọn học tṛ). A Di Đà Phật giống như một vị hiệu trưởng, trường học được lập bên cơi kia (cơi Cực Lạc), mười phương chư Phật đều thay A Di Đà Phật chiêu sinh: Nếu muốn thật sự thành tựu viên măn trong một đời, hăy đến nơi ấy. V́ thế, Tây Phương Cực Lạc thế giới là trường học, thiết bị của người ta rất tốt, hết thảy đều tề chỉnh, hoàn bị. Quư vị chẳng thể tới đó rồi [ở ĺ nơi đó] chẳng đi, đâu ra thể thống ǵ! Đó là trường học, chẳng phải là nhà của quư vị. Nếu quư vị nghĩ đó là quê nhà của ḿnh, sau khi đến được đó, sẽ vĩnh viễn chẳng rời khỏi, có ư niệm ấy sẽ chẳng đến được, cơi ấy chẳng thâu nhận quư vị! Nhất định là đến học, sau khi học xong, phải vào mười pháp giới, vào trong lục đạo của hết thảy các cơi Phật trọn khắp pháp giới hư không giới để giúp chúng sanh, đến đó dạy học. Ở bên đó (cơi Cực Lạc) là bồi dưỡng, huấn luyện, nhất định bồi dưỡng, huấn luyện quư vị chứng đắc vô thượng Bồ Đề, đó cũng là Phật quả rốt ráo. Sau đấy, quư vị mới rời khỏi, đến các nơi giáo hóa chúng sanh. Khi ấy, quư vị thật sự t́m được nhà, nhà ở nơi đâu? Trọn khắp pháp giới hư không giới là nhà của chính ḿnh. Tất cả hết thảy chúng sanh và chính ḿnh là một Thể, quư vị sẽ tự nhiên giúp những chúng sanh mê hoặc, điên đảo trở về tự tánh.

      Trở về tự tánh, có ảnh hưởng đến chính ḿnh hay chăng? Thưa quư vị, chẳng hề ảnh hưởng mảy may, v́ sao? Người ấy thật sự giác ngộ, chẳng bị ô nhiễm. Ngày nay, chúng ta bị ảnh hưởng là do công phu chẳng đủ, cảnh giới hiện tiền bèn chẳng chống đỡ được! Quư vị nói giáo dục luân lư, giáo dục đạo đức khá lắm, nhưng gặp phải danh vọng cao sang, lợi lộc trọng hậu, sẽ cầm ḷng không được, biết rơ mà vẫn cố phạm, vẫn khởi tâm tham. Chẳng dễ dàng! Thật sự giác ngộ, biết những thứ ấy là giả! Danh vọng cao sang, bảo quư vị làm Tổng Thống, có muốn làm hay không? Chẳng làm! Thời cổ, bảo quư vị làm hoàng đế, bèn trốn cho thật xa. V́ sao? V́ hiểu nhân quả, biết địa vị ấy chẳng dễ làm! Nếu làm chẳng tốt, trong tương lai sẽ bị ác báo, quư vị giữ chức vị này nhất định phải làm tốt. Làm tốt cũng chẳng có công, v́ sao? Quư vị phải làm những chuyện cần nên làm; nếu làm không tốt, nhất định bị đọa lạc, chẳng phải là chuyện dễ dàng! Lợi lộc trọng hậu, quư vị có phước báo lớn dường ấy hay chăng? Nếu quư vị chẳng có phước báo ấy, hễ của cải đưa đến th́ [đồng thời] tai nạn cũng xảy đến, do không có phước to như vậy! Phước do quư vị tu trong kiếp trước, chính ḿnh nhất định phải hiểu điều này, [điều ǵ chính ḿnh] chẳng đáng nên đạt được th́ nhất định chẳng cầu; người ta cho quư vị, quư vị cũng đừng cần tới. Cho quư vị tức là họa hại [đưa đến], quư vị có dám muốn hay chăng? Có trí huệ, hiểu nhân quả th́ tiếng tăm, lợi dưỡng bày ra trước mặt vẫn như như bất động, chẳng khởi tâm động niệm, đó là đúng!

      Gần đây, có một đồng học tặng cho một quyển sách, trong ấy nói Khải Tát (Caesar) xứ La Mă phái một đạo quân hơn mười vạn người xâm lược Trung Quốc. Quư vị thấy từ La Mă, thuở ấy, theo đường bộ có kỵ binh, nhưng chẳng phải là mười vạn người đều cưỡi ngựa. V́ vậy, họ thay phiên nhau cưỡi ngựa, phân nửa đi bộ, c̣n phân nửa kia cưỡi ngựa. Quư vị nghĩ xem: Từ La Mă tới Trung Quốc, c̣n phải xuyên qua rừng rậm, c̣n phải băng qua đại sa mạc, quư vị nói xem gian khổ chừng nào! V́ vậy, mười vạn người đến Trung Quốc, gần như là bệnh tật hay chết, quá nửa chẳng c̣n, đánh vài trận cũng chết không ít người. Do vậy, đến Trung Quốc, quân số chẳng đông, cuối cùng toàn bộ đoàn quân bị thất trận, đều chết ở tỉnh Cam Túc, Trung Quốc. Cuốn sách ấy kể câu chuyện này. Linh hồn những người ấy chẳng tiêu tan, đoàn quân ấy vẫn c̣n, đó là quỷ, không phải là người, khổ chẳng thể nói nổi, khổ chết được! Họ gặp Bồ Tát, Bồ Tát thương xót bọn họ, mỗi mồng Một, ngày Rằm đều cho họ ăn, bố thí họ. Ngài bảo họ: “Trung Quốc chẳng phải là chỗ của quư vị, đến làm ǵ?” Câu này có ư nghĩa rất quan trọng! Trong mạng quư vị không có cuộc đất này, nhưng quư vị đến nơi này, nên toàn quân bị diệt, [đất này] chẳng phải của quư vị mà! Điều này nói rơ: Dùng thủ đoạn chiến tranh để chiếm được, vẫn là do trong mạng quư vị sẵn có, quư vị nói có phải là oan uổng hay không? Tôi lập tức nghĩ đến chuyện người Nhật xâm lược Trung Quốc, đánh nhau tám năm, cuối cùng đầu hàng. Trung Quốc chẳng phải của họ, họ chẳng có phước báo ấy! Mới hiểu cổ nhân nói: “Nhất ẩm, nhất trác, mạc phi tiền định” (một miếng ăn, một hớp uống, không ǵ chẳng do định sẵn). Nếu trong mạng không có, dùng phương pháp ǵ quư vị cũng đều chẳng đoạt được, đều chẳng đạt được. Trong mạng có, quư vị chẳng cần phương pháp nào, mà đến lúc, nó sẽ được đưa tới. Cầu ǵ? Không cần cầu, tâm định rồi, hăy khéo tu đức. Quư vị thật sự mong cầu, cầu của cải, cầu công danh, cầu phú quư, “Phật thị môn trung, hữu cầu tất ứng” (trong cửa nhà Phật, có cầu ắt ứng) Phật dạy chúng ta cách cầu như thế nào? Bố thí. Quư vị mong có được của cải, hăy tu Tài Bố Thí, càng thí càng nhiều. Quư vị muốn được thông minh, trí huệ, hăy tu Pháp Bố Thí. Quư vị mong khỏe mạnh, trường thọ, hăy tu Vô Úy Bố Thí.

      Thuở tôi c̣n trẻ, vận mạng rất khổ. Thầy bói xem tướng nói cái kho tài sản [trong mạng tôi] rỗng tuếch, mạng ǵ vậy? Gọi là “số ăn mày”, bần tiện đến tột bậc, “tiện” () là không có địa vị, bần () là không có tài sản. Học Phật, được biết Chương Gia đại sư. Chương Gia đại sư dạy tôi tu, đời quá khứ chẳng tu, hiện tại tu vẫn kịp! Khi đó, tôi hai mươi mấy tuổi, cách tu ra sao? Tu ba thứ bố thí. Tôi thưa với lăo nhân gia: “Con không có tiền”. Khi đó, một tháng chỉ kiếm được mấy chục đồng, gắng gượng sống qua ngày, lấy tiền đâu để bố thí? Ngài hỏi tôi: “Một cắc có hay không?” “Một cắc th́ có thể được ạ!” “Một đồng có được hay chăng?” “Vẫn miễn cưỡng th́ cũng được”. “Anh hăy bỏ ra một cắc, một đồng để bố thí, thật sự làm”. Tôi thật sự nghe lời, từ đây bắt đầu tích cực tu, thật sự có hiệu quả; về sau, thâu nhập mỗi năm một tốt hơn, tốt hơn th́ sao? Đều đem bố thí để thay đổi vận mạng trong một đời. [Theo tướng số], tôi chỉ thọ bốn mươi lăm tuổi, đến năm nay tôi tám mươi tư tuổi, sống lâu [hơn số mạng] bốn mươi năm, tôi cũng chẳng ưa thích tí nào. Sống lâu để làm ǵ? Để thay chúng sanh làm việc nhiều hơn. Chẳng v́ chính ḿnh, sống rất tự tại, sống rất hạnh phúc; nếu v́ chính ḿnh th́ đă sớm hết đời rồi. Tôi có hai vị đồng học, cùng tuổi, vận mạng giống nhau, cùng tuổi, cũng đều xuất gia, [nhưng họ] chẳng phát tâm độ chúng sanh. Tôi được thầy dạy phát cái tâm ấy. Chương Gia đại sư dạy, thầy Lư thành tựu. Năm bốn mươi lăm tuổi, tôi nhớ kỹ vào khoảng tháng Hai hay tháng Ba, pháp sư Pháp Dung ra đi; tháng Năm, thầy Minh Diễn mất, tháng Bảy tôi ngă bệnh, tôi biết vận hạn đă tới rồi. Tôi cũng chẳng cầu trường thọ, niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, niệm một tháng, hết bệnh; sau đấy chẳng c̣n đổ bệnh nữa. Thật đấy, chẳng giả, “trong cửa Phật, có cầu ắt ứng”, cầu đúng lư, đúng pháp, không có ai chẳng có cảm ứng như thế. Hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng ta học tập tới chỗ này.

 

Tập 24

 

Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang thứ hai mươi bốn, ḍng thứ tư, chúng ta xem từ câu đầu tiên.

“Thuận Bồ Đề môn giả, Bồ Tát viễn ly như thị tam chủng Bồ Đề môn tương vi pháp, tức đắc tam chủng tùy thuận Bồ Đề môn pháp” (Thuận Bồ Đề môn: Bồ Tát xa ĺa ba pháp trái nghịch Bồ Đề như thế, liền đắc ba pháp tùy thuận Bồ Đề môn). Phía trước câu này sót một chữ, tức chữ “nhị”, v́ trong đoạn thứ nhất thuộc phần trước đă ghi: “Tiên tu ly tam chủng dữ Bồ Đề môn tương vi pháp” (trước hết, cần phải ĺa ba pháp trái nghịch Bồ Đề môn) đă nói xong. Ở chỗ này sẽ giảng về “thuận Bồ Đề môn”; thuận Bồ Đề môn cũng có ba điều, tiếp đó, sách viết: “Hà đẳng vi tam: Nhất giả, vô nhiễm thanh tịnh tâm, bất vị tự thân cầu an lạc cố. Bồ Đề thị vô nhiễm thanh tịnh xứ, nhược vị tự thân cầu lạc, tức vi Bồ Đề môn, thị cố vô nhiễm thanh tịnh tâm thị thuận Bồ Đề môn” (Những ǵ là ba? Một là tâm vô nhiễm thanh tịnh, chẳng cầu an lạc cho chính ḿnh. Bồ Đề là chỗ vô nhiễm thanh tịnh. Nếu cầu vui sướng cho bản thân chính là trái nghịch Bồ Đề môn. V́ thế, tâm vô nhiễm thanh tịnh là Bồ Đề môn). Đề mục của đoạn lớn này là Nhất Kinh Tông Thú, nếu nói theo cách bây giờ, sẽ là y theo nguyên tắc chỉ đạo tu học tối cao của bộ kinh này. Nguyên tắc chỉ đạo này đă được nêu chung trong phần trước: “Phát Bồ Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm”, đấy là nguyên tắc chỉ đạo tu học tối cao trong Tịnh Tông. Ở đây, v́ chúng ta nói chi tiết: Đắc thanh tịnh tâm như thế nào? Đặc biệt là trong tựa đề của bộ kinh này, nửa sau nói “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác”, nêu ra cương lĩnh tu hành. Có Tông, đó là tông chỉ, tức tông chỉ tu học của bộ kinh này. “Thú” là quả, ta chiếu theo phương pháp này để tu, trong tương lai sẽ đắc quả báo ra sao. Cái quả nằm ngay trong nửa trước của tựa đề kinh. Quư vị đạt được điều ǵ? Đạt được “Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm”, quư vị thấy quả báo này thù thắng lắm! Trong kinh Hoa Nghiêm, Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói: “Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng Như Lai”, ai nấy đều có, vốn sẵn có. Do vậy, giáo pháp Đại Thừa thường nói: “Hết thảy chúng sanh vốn là Phật” .

      Nhất định phải hiểu rơ ư nghĩa này của đức Phật, chẳng phải là mê tín. Phật là tiếng Ấn Độ, người Ấn Độ gọi là Phật, người Trung Quốc gọi là thánh nhân. Do vậy, Phật và thánh nhân có cùng một ư nghĩa. Chữ “thánh nhân” của Trung Quốc nên giảng như thế nào? Thánh () là thông đạt, hiểu rơ chân tướng của vũ trụ nhân sinh, đó là “thánh”. Chữ Phật trong tiếng Ấn Độ nghĩa là Giác, cũng là hoàn toàn giác ngộ, hiểu rơ chân tướng của nhân sinh và vũ trụ; đúng là có cùng một ư nghĩa. Phật giáo truyền tới Trung Quốc, chữ này được dịch âm. Nói thật ra là có thể dùng chữ Thánh của tiếng Hán để dịch. Có những [đoạn kinh văn] trong Phật pháp, [gọi Phật] là Đại Thánh, điều này rất thích hợp với khẩu vị của người Hoa, Đại Thánh Thích Ca Mâu Ni. V́ thế, quư vị hiểu rơ văn tự, sẽ chẳng nói Phật giáo là mê tín. Quư vị chẳng hiểu ư nghĩa, tưởng Phật là thần, Bồ Tát là thần, La Hán là thần, hoàn toàn sai lầm! Trong Phật giáo, Phật, Bồ Tát, A La Hán là những danh xưng học vị: Phật là tối cao, người Trung Quốc gọi là Thánh. Cấp thấp hơn thánh nhân là hiền nhân, cấp thấp nhất là quân tử. Trong Phật pháp cũng có ba đẳng cấp, tối cao là Phật Đà, thứ nh́ là Bồ Tát, kém hơn nữa là A La Hán. Ba danh xưng học vị, chớ nên không hiểu rơ!

      Sự giáo học của Phật nhằm mục tiêu cuối cùng, tột bậc là dạy chúng ta trở về tự tánh, v́ sao? Tự tánh viên măn. Tổ tiên dạy chúng ta: Bổn tánh vốn lành, Phật gọi là tự tánh, c̣n gọi là bổn tánh. Hai câu đầu tiên trong Tam Tự Kinh là: “Nhân chi sơ, tánh bổn thiện” (tánh con người thoạt đầu vốn lành), quư vị làm thế nào để trở về bổn thiện th́ sự giáo học này sẽ đạt được! V́ sao chẳng thấy bổn thiện? V́ quư vị có tập tánh bất thiện. Tam Tự Kinh nói rất rơ ràng: “Tánh tương cận, tập tương viễn” (Tánh th́ gần giống nhau, do được giáo dục mà trở thành khác xa). Tánh của mọi người đều như nhau, đều là chí thiện. Thiện ấy chẳng phải là thiện trong thiện ác, phải hiểu rơ: Thiện ấy là danh từ nhằm ca ngợi nó quá hoàn mỹ, chẳng có một chút khiếm khuyết nào. Trong tự tánh có vô lượng trí huệ, vô lượng đức năng, vô lượng tướng hảo, nay chúng ta nói tới tướng hảo là nói tới phước báo, vô lượng phước báo mà chính quư vị vốn có, v́ sao mất đi? Nay ở trong thế gian này, chúng ta thấy trí huệ bất b́nh đẳng, đức hạnh cũng chẳng b́nh đẳng, phước báo cũng không b́nh đẳng, do duyên cớ nào? Do nghiệp chướng của chính quư vị có dầy hay mỏng khác nhau. Nghiệp chướng dầy, thông minh, trí huệ kém sút; nghiệp chướng mỏng, thông minh trí huệ hơn một chút. Do vậy, trí huệ và đức tướng đều như nhau, nhưng v́ phiền năo có dày, mỏng, cạn, sâu khác nhau, cho nên lộ ra chẳng giống nhau.

      Giáo học của Phật Đà chẳng có ǵ khác, nhằm dạy chúng ta xa ĺa tập khí phiền năo, buông xuống, thảy đều buông xuống, quư vị sẽ thành Phật, sẽ hoàn toàn khôi phục. Phiền năo tập khí vô lượng vô biên, Thích Ca Mâu Ni Phật quy nạp thành ba loại lớn, nhằm mục đích dễ nói hơn, dễ giảng hơn trong khi dạy học. Mỗi loại đều là vô lượng vô biên, chẳng thể tính đếm được:

- Loại thứ nhất gọi là Vô Minh phiền năo, kinh Hoa Nghiêm gọi loại này là vọng tưởng, c̣n trong giáo pháp Đại Thừa gọi nó là Vô Minh phiền năo; đây là một loại.

- Loại thứ hai là Trần Sa phiền năo. Trần Sa là tỷ dụ các phiền năo ấy nhiều như bụi, cát; trong kinh Hoa Nghiêm, chúng được gọi là phân biệt. V́ thế, phân biệt là phiền năo, tức Trần Sa phiền năo.

- Loại lớn thứ ba gọi là Kiến Tư phiền năo. Kiến là kiến giải của quư vị sai lầm, Tư là tư tưởng, quư vị nghĩ trật rồi, nghĩ sai chân tướng sự thật rồi, thấy sai rồi. Điều này gọi là Kiến Tư phiền năo. Kinh Hoa Nghiêm gọi loại này là chấp trước, chấp trước là Kiến Tư phiền năo.

Quư vị có thể buông chấp trước xuống, sẽ chứng quả A La Hán, được gọi là bậc A La Hán, đă đạt được học vị thứ nhất, chẳng chấp trước hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian. Nếu tiến hơn một bước nữa, không chỉ chẳng chấp trước, mà phân biệt cũng không có, quư vị là Bồ Tát, đạt được học vị thứ hai. Học vị tối cao là lục căn đối với cảnh giới lục trần chẳng khởi tâm, không động niệm, đấy là chẳng có Vô Minh phiền năo. Vô Minh phiền năo là khởi tâm động niệm; chẳng khởi tâm, không động niệm, quư vị sẽ thành Phật, đạt được học vị tối cao. Đó là ba danh xưng học vị.

      Do vậy, các đồng học nhất định phải biết, hiện nay Phật giáo biến thành tôn giáo, chúng ta đều là tội nhân đối với Thích Ca Mâu Ni Phật, cớ sao hai ngàn năm trăm năm sau khi lăo nhân gia [nhập diệt], giáo học đă biến thành tôn giáo? Chúng ta phải biết: Chúng ta chẳng trọn hết trách nhiệm. Thuở tại thế, Thích Ca Mâu Ni Phật chẳng dính líu ǵ đến tôn giáo, mười chín tuổi cầu học, tham học, ba mươi tuổi khai ngộ. Khổng lăo phu tử cũng thế, mười lăm tuổi dốc chí học hành, ba mươi tuổi hoàn tất. Thánh nhân Đông Phương và Tây Phương có rất nhiều chỗ tương đồng; nhưng sau khi khai ngộ, đức Thế Tôn liền giáo học, suốt đời làm công tác này. Thân hành, ngôn giáo, Ngài thật sự làm được, làm được toàn bộ những điều Ngài đă giảng. Nếu Ngài làm không được, sẽ chẳng nói; hễ nói ra, đều thật sự làm được, nêu gương tốt cho mọi người chúng ta. Dạy bao lâu? Dạy suốt cả đời, bảy mươi chín tuổi viên tịch. V́ thế, trong kinh giáo, thường thấy ghi: “Giảng kinh hơn ba trăm hội, thuyết pháp bốn mươi chín năm”. Từ ba mươi tuổi bắt đầu, đến bảy mươi chín tuổi [viên tịch], sống một ngày bèn dạy một ngày, vui thích dạy dỗ chẳng mệt mỏi. Nói theo cách bây giờ, Ngài mang thân phận ǵ? [Giáo dục] đa nguyên văn hóa! Có thể nói là đa nguyên, v́ Ngài chẳng phân biệt quốc gia, tôn giáo, tín ngưỡng, cũng chẳng phân chia dân tộc, là một nhà giáo dục xă hội đa nguyên văn hóa, thật sự mang thân phận ấy. Chính Ngài th́ sao? Chính Phật là một người thực hiện nghĩa vụ công tác giáo dục xă hội đa nguyên, chẳng lấy học phí, cuộc sống rất đơn giản, trưa ăn một bữa, ngủ dưới cội cây, ăn cơm từ chỗ nào? Khất thực, đúng là “nhất bát thiên gia phạn” (một bát cơm ngàn nhà), lời này là sự thật, chẳng giả. Quư vị mở kinh điển ra xem, sẽ thấy: Các vị thường tùy đệ tử của Phật, tức là những người thường theo Ngài chẳng rời, đức Phật tới nơi đâu, họ theo tới đó, một ngàn hai trăm năm mươi lăm người, mỗi người đều ra ngoài khất thực, tức là một ngàn hai trăm mấy cái bát. Khất thực chẳng phải là ta xin được bèn ăn, chẳng phải vậy! Trở về đổ dồn cơm vào với nhau, sau đấy, chia ra ăn. Do vậy, cơm trong bát của mỗi người đều là do xin từ ngàn nhà về. Chúng ta liễu giải chân tướng sự thật này, biến Phật giáo thành tôn giáo là do lũ học tṛ đời sau chúng ta đại bất hiếu, cớ sao biến Phật giáo thành ra nông nỗi này? Là học tṛ thật sự của đức Phật, phải khôi phục diện mạo vốn có, diện mục vốn có của Phật giáo là giáo học.

      Phật giáo truyền tới Trung Quốc là do hai vị đại đức Ma Đằng và Trúc Pháp Lan đến Trung Quốc. Thuở ấy, Hán Minh Đế bái họ làm thầy; do vậy, họ biến thành quốc sư. Họ vốn đều là khất thực, đều ngủ dưới cội cây, nay làm thầy hoàng thượng; tại Trung Quốc, nếu thầy của hoàng thượng ra ngoài khất thực, đến ngủ dưới cội cây, người ta sẽ chửi bới hoàng đế chết mất! Ngươi làm hoàng đế kiểu ǵ? Làm sao có thể khiến cho thầy nhà ngươi sống như vậy được! Do vậy, sau khi đến Trung Quốc, họ đành bỏ truyền thống xưa ấy, quư vị thấy: Hằng thuận chúng sanh, tùy thuận tập quán của dân Trung Quốc. Hoàng thượng cũng ban cho họ cung điện, dựng chùa (tự), “tự” là ǵ? Quư vị phải biết: Tự () là cơ cấu làm việc của chính phủ, là một cấp hành chánh trực thuộc hoàng đế cai quản, đó là Tự. Quư vị tới thăm Cố Cung. Trong Cố Cung có rất nhiều tấm biển, như Hồng Lô Tự, Thái Thường Tự, đấy đều là các đơn vị cấp dưới của hoàng đế, do hoàng đế trực tiếp quản trị, gọi là Cửu Tự. Trưởng quan của chín tự gọi là Khanh, Tam Công Cửu Khanh; Tam Công[6] là cố vấn của hoàng thượng, địa vị rất cao, Cửu Khanh là thủ trưởng đơn vị ở dưới họ một cấp. Đơn vị dưới Tể Tướng một cấp là Bộ. Thủ trưởng của Bộ gọi là Thượng Thư. Thượng Thư là Bộ Trưởng. Thị Lang là Thứ Trưởng. Do vậy, cơ cấu dưới hoàng thượng một cấp sẽ cao hơn Tể Tướng một bậc. Cấp dưới của Tể Tướng gọi là Thượng Thư, c̣n họ (những người đứng đầu cửu tự) gọi là Khanh, tức Tam Công Cửu Khanh. Cơ cấu làm việc của Phật giáo cũng gọi là Tự, do hoàng thượng trực tiếp nắm giữ. Do vậy, Trung Quốc vào thời ấy trở thành có hai bộ giáo dục: Bộ giáo dục dưới quyền Tể Tướng là bộ Lễ, sắp theo thứ tự thuận, bộ Lễ đứng đầu, đây là [quy chế] do tổ tiên Trung Quốc truyền lại. Bất luận là gia đ́nh hay quốc gia, đều xếp giáo dục lên đầu. “Kiến quốc, quân dân, giáo học vi tiên” (xây dựng đất nước, cai trị nhân dân, giáo dục làm đầu). Quư vị thành lập một chính quyền, “quân” là người lănh đạo, lănh đạo nhân dân, coi điều ǵ là bậc nhất? Giáo dục bậc nhất. V́ thế, bộ Lễ là bộ thứ nhất. Khi Tể Tướng có việc chẳng thể coi sóc chính sự, Thượng Thư bộ Lễ sẽ thay mặt, quư vị thấy địa vị của ông ta rất cao! Nh́n vào chế độ thời cổ của Trung Quốc, bất luận là gia đ́nh hay quốc gia, đều xếp giáo dục vào bậc nhất; nói cách khác, hết thảy đều nhằm phục vụ giáo dục. Do vậy, quốc gia mấy ngàn năm ổn định, đạo lư ở chỗ này!

      Dạy những ǵ? Giáo dục vun bồi căn bản, giáo dục cơ sở trong ba năm đầu. Trẻ nhỏ từ lúc sanh ra cho đến ba tuổi là giáo dục vun bồi căn bản, do mẹ dạy. Vai tṛ người thầy đầu tiên của đứa trẻ do mẹ nó đảm nhận, dạy ǵ? Nay tôi nói với mọi người: Đấy chính là Đệ Tử Quy. Đệ Tử Quy chẳng phải là dạy trẻ nhỏ đọc, mà là cha mẹ [làm gương] cho con thấy. Trẻ nhỏ vừa sanh ra, mở mắt ra nó có thể thấy, tai nó có thể nghe, nó đă đang học tập. Quư vị thấy từ lúc sanh ra cho đến ba tuổi, nó học một ngàn ngày. Trong một ngàn ngày ấy, trong sự giáo dục trước đây, điều được hết sức coi trọng là hết thảy những thứ phản diện chẳng để cho trẻ nhỏ thấy, nghe, hay tiếp xúc, hết thảy những ǵ nó được tiếp xúc đều là chính diện. Cha mẹ trước mặt con luôn lịch sự, từ tốn. Do vậy, cổ ngạn ngữ Trung Quốc có câu: “Tam tuế khán bát thập”, [ư nói] ba tuổi vun bồi căn bản, tám mươi tuổi sẽ chẳng biến đổi. Sự giáo dục này nhằm vun bồi cội sâu rễ vững. Sách Đại Học có câu: “Cách vật, trí tri, thành ư, chánh tâm”, bồi dưỡng lúc nào? Bồi dưỡng trong ba năm một ngàn ngày ấy, vun bồi cội rễ thật tốt! Sau này, nó đi học, thầy giáo là sự tiếp tục của gia giáo, kéo dài gia giáo. Thầy giáo phải nêu gương cho học tṛ thấy, thầy thay thế bậc trưởng thượng trong gia đ́nh. Bậc trưởng thượng làm như thế, thầy cũng làm như thế, ḷng tin của trẻ đă được đặt vững rồi. V́ thế, trước kia, giáo dục của Trung Quốc thành công như thế đó!

Kiểu giáo dục ấy đến khi nào chẳng c̣n nữa? Sau khi Dân Quốc thành lập, quan niệm giáo dục ấy c̣n được kéo dài hai mươi năm, sau năm Dân Quốc thứ hai mươi (1931) bèn chẳng c̣n nữa! Nó bị triệt để tiêu diệt sau thời chiến tranh Trung Nhật, sau tám năm kháng chiến, hoàn toàn chẳng c̣n nữa. Do vậy, tôi thường nói: Chúng ta và Nhật Bản đánh nhau tám năm, người bị tử thương, tổn thất sanh mạng, tài sản là chuyện nhỏ, bé nhỏ không đáng kể; tổn thất lớn nhất gia đ́nh truyền thống và nền gia giáo truyền thống bị mất đi, tổn thất quá lớn. Đối với sự tổn thất này, nếu chúng ta không có tâm cảnh giác cao độ để khôi phục ngay lập tức, dân tộc sẽ bị diệt vong. Trong bốn nền văn minh cổ[7] trên thế giới, ba nền văn minh khác không có điều này (gia đ́nh truyền thống và nền gia giáo truyền thống), chỉ riêng Trung Quốc có. Nếu Trung Quốc vứt bỏ truyền thống này, cổ văn minh của Trung Quốc sẽ tiêu mất! Tôi tin rằng chưa đầy ba mươi năm, Trung Quốc sẽ chẳng c̣n ǵ hết! Nền giáo dục ấy bị mất đi là chuyện đáng buồn nhất của nhân loại trên toàn thế giới, không riêng ǵ Trung Quốc bị tổn thất mà cả thế giới đều bị tổn thất. Thập niên 70, ông Thang Ân Tỷ (Arnold J. Toynbee) thường nói, ông này là một nhà sử học người Anh, ông ta nói: “Giải quyết vấn đề xă hội trong thế kỷ hai mươi mốt, chỉ có học thuyết Khổng Mạnh của Trung Quốc và Đại Thừa Phật pháp”. [Điều này do] người khác nói, chẳng phải do tôi nói, nói thật sự có lư. Ngày nay, chúng ta khôi phục nền giáo dục của đức Phật bằng cách nào? Phật giáo là giáo dục, chẳng phải là tôn giáo. Làm thế nào để khôi phục truyền thống giáo dục Nho gia và Đạo gia Trung Quốc? Truyền thống Trung Quốc chắc chắn chẳng tách ĺa Nho, Thích, Đạo. Nho, Thích, Đạo trên h́nh thức th́ có, trên thực tế đă chẳng c̣n nh́n thấy nữa! Người học Nho cũng học Đạo và Phật, người học Phật cũng học Nho và học Đạo, môn nào cũng đều thông, thứ ǵ cũng đều hiểu. Đây là một nhận thức căn bản đối với văn hóa truyền thống mà chúng ta phải hiểu rơ, phải minh bạch.

      Hiện thời, muốn khôi phục, chẳng cần phải dựng chùa miếu, đó là [cách làm] trong thời đại đế vương trước kia, không cần tạo dựng h́nh thức ấy. Hiện thời, những chùa miếu ấy là cổ tích, là nơi để văn cảnh du lịch, có đặc tính hấp dẫn lịch sử, chuyện ấy tốt lắm, nhưng chẳng thể dạy học. Cần xây dựng trong hiện thời là trường học. Trước kia, tôi thường gặp cụ Triệu Phác Sơ[8], hầu như hàng năm tôi đều về thăm cụ. Tôi đề nghị với cụ, hiện tại giao thông thuận tiện, truyền thông phát triển, Phật giáo Trung Quốc là mười tông phái, mười tông phái đều khôi phục, mỗi tông phái thành lập một đạo tràng, giống như viện đại học tại ngoại quốc, t́m một cuộc đất thuận lợi để xây dựng, thành lập viện đại học, chia thành hai bộ phận: Một bộ phận là Giải môn, bộ phân kia là Hành môn. Về danh xưng, lăo cư sĩ Hạ Liên Cư đă từng đề nghị, đề nghị ấy hết sức hay! Bộ phận tu hành gọi là Học Hội, chúng ta là Tịnh Độ Tông th́ Tịnh Tông Học Hội là bộ phận tu hành, c̣n bộ phận nghiên cứu lư luận và kinh điển được gọi là Tịnh Tông Học Viện. Đối với Thiên Thai Tông th́ là Thiên Thai Học Hội và Thiên Thai Học Viện. Đấy là danh xưng được hiện đại hóa, mọi người vừa nh́n vào liền liễu giải, đó là đúng. Hoa Nghiêm Học Viện, Hoa Nghiêm Học Hội, danh xưng ấy khiến cho người ta chẳng mê hoặc tí nào. Đấy là một đề nghị hết sức hay! Nếu chúng ta thật sự hiểu, thật sự làm, có như vậy th́ mới có thể phục hưng văn hóa truyền thống Trung Quốc, tối thiểu Trung Quốc sẽ có một ngàn năm hưng thịnh xuất hiện, ngàn năm thịnh vượng và ổn định lâu dài. Trung Quốc hưng thịnh, nhất định sẽ hướng dẫn thế giới tiến đến ḥa b́nh, yên định, quư vị nói xem chuyện này có vĩ đại lắm hay không? Rất có ư nghĩa!

      Trong thời kỳ Mạt Pháp, trong giáo pháp Đại Thừa, kinh Vô Lượng Thọ thù thắng khôn sánh. Chúng tôi vừa nói đến đề kinh, quư vị thấy cái tâm thanh tịnh và quả báo đạt được do tâm thanh tịnh, tâm thanh tịnh là nhân, quả là trang nghiêm, trang nghiêm là đẹp đẽ, tốt lành. Tâm b́nh đẳng là định, là tam-muội, quả báo là vô lượng thọ, đó là đức. Sau đó là giác, giác chứ không mê, quả báo là Đại Thừa. Đại Thừa là trí huệ, kinh Hoa Nghiêm nói: Tự tánh vốn trọn đủ đức tướng Bát Nhă. Đức là vô lượng thọ, tướng là trang nghiêm, trí huệ Bát Nhă là Đại Thừa, [những nhân và quả này] đều được đặt trong tựa đề kinh, tu nhân, chứng quả, đấy là Tông Thú của kinh này. Nay điều đầu tiên được dạy trong kinh này là: Vô nhiễm là tâm thanh tịnh. Nhiễm là ô nhiễm; nay tâm chúng ta chẳng thanh tịnh, v́ sao? Có chấp trước, có phân biệt, có phải như vậy hay không? Nói chẳng tận. Nói đơn giản th́ chấp trước cái thân là ta, đó là ô nhiễm. Quư vị c̣n có Thân Kiến, đó là cái ải đầu tiên, chấp trước thân là ta. Đức Phật nói thân này chẳng phải là ta. Thân là ǵ? Thân là “ngă sở”, tức là cái mà ta có. Giống như y phục, y phục là cái ta có, chẳng phải là ta, mọi người hiểu điều này dễ dàng. Y phục dơ bẩn th́ thay bộ khác. Cùng một đạo lư, thân chẳng phải là ta, thân là cái mà ta có, sử dụng vài chục năm, giống như một cỗ máy, chẳng sử dụng ngon lành nữa th́ đổi lấy cái mới, đổi lấy một thân thể mới. Đó là đúng!

      Người thật sự có công phu, các khoa học gia hiện thời bảo: Tế bào của con người, tức tế bào trong thân thể, cứ bảy năm là một chu kỳ, mỗi ngày chúng đều thay đổi. Sau bảy năm, những tế bào cũ đều chẳng c̣n, đổi mới toàn bộ. Nếu chúng ta hỏi, v́ sao nó càng thay đổi càng tệ? Lăo hóa, chứ không phải là tệ đi. Càng thay đổi càng chẳng được lanh lợi, sáng suốt, v́ sao chẳng đổi thành một cỗ máy mới? Nếu đổi thành cỗ máy mới, quư vị sẽ trường sanh bất lăo, v́ sao lại càng thay đổi càng kém cỏi? Quư vị suy nghĩ đạo lư này sẽ hiểu: Thuở nhỏ ngây thơ, từ mười tuổi đến hai mươi tuổi, từ bảy tuổi tới mười bốn tuổi, hai mươi mốt tuổi, mỗi lúc thay đổi, gần như đều là đổi mới, không có ǵ sai khác, thật là tốt. Sau hai mươi tuổi, cứ mỗi bảy năm sau chẳng bằng bảy năm trước đó, v́ sao? V́ tự tư tự lợi dấy lên, v́ vọng niệm dấy lên, chạy theo dục vọng, tham, sân, si, mạn, thôi rồi, càng thay đổi càng kém cỏi hơn, càng già hơn, chấp trước càng nghiêm trọng, càng kém hơn, đạo lư là như thế đó. Tế bào trên thân thể thay đổi, nghe theo lệnh của ai? Nghe theo ư niệm của chúng ta. Do vậy, nếu quư vị thật sự đắc thanh tịnh tâm, sự thay đổi toàn là tốt đẹp. Cũng có nghĩa là quư vị chẳng có tướng già yếu. Nếu quư vị đắc tâm b́nh đẳng, khi thay đổi sẽ gần giống như đổi mới. Chúng ta nói: “Bồ Tát niên niên thập bát” (Bồ Tát mỗi năm đều là mười tám). Bồ Tát thay đổi thân tướng, do có tâm b́nh đẳng, các Ngài không chỉ thanh tịnh, mà c̣n đạt đến b́nh đẳng, thanh tịnh là tâm A La Hán, b́nh đẳng là tâm Bồ Tát. Giác là đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, đó là tâm Phật. V́ thế, “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác” là ba giai đoạn, họ hiểu được. Phàm nhân chúng ta lo được, lo mất, tham lam không chán, nên càng thay đổi càng tệ, năm sáu chục tuổi đă suy, hoàn toàn không biết đến chân tướng sự thật nên mới sanh ra hậu quả như thế.

      Quư vị thấy Bồ Tát dạy chúng ta, chúng ta tu Tịnh Độ, mục tiêu cuối cùng là cầu sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới. Cầu sanh về thế giới Cực Lạc, điều kiện khẩn yếu thứ nhất, chư vị phải ghi nhớ, trong kinh thường nói: “Tâm tịnh, ắt cơi Phật tịnh”. Tâm địa quư vị chẳng thanh tịnh, suốt ngày từ sáng đến tối niệm A Di Đà Phật, mỗi ngày niệm mấy chục vạn tiếng, chẳng nhất định có thể văng sanh. V́ sao? Tâm không thanh tịnh. Tới thế giới Cực Lạc để làm ǵ? Hưởng thụ! Thế giới Cực Lạc tốt đẹp quá, ta đến đó hưởng phước, do ư niệm này sẽ chẳng thể văng sanh, do quan niệm ấy hoàn toàn trái nghịch thế giới Cực Lạc! Cần biết: Thế giới Cực Lạc là trường học, quư vị cũng chẳng thể coi trường học là nhà ḿnh. Bước vào trường, chẳng nghĩ sẽ rời khỏi, chẳng thể được! Sau khi tốt nghiệp, nhất định phải rời khỏi, nơi ấy là chỗ bồi dưỡng, huấn luyện quư vị thành Phật, quư vị đến học [chứ không phải đến để hưởng phước]! Sau khi thành Phật, phải rời khỏi. Rời khỏi để đến đâu? Đến mười phương thế giới giáo hóa chúng sanh, chẳng thể quyến luyến măi nơi ấy. Quư vị có một động cơ như vậy, không chỉ A Di Đà Phật chẳng tiếp dẫn quư vị, mà cư dân trong thế giới Cực Lạc cũng phản đối quư vị, làm sao quư vị đến được? Do vậy, điều kiện đầu tiên là tâm vô nhiễm, thanh tịnh.

Đă nhiều năm qua, tôi thường khuyên mọi người, chúng ta học Phật điều đầu tiên là học thanh tịnh. Tôi nêu ra mười sáu chữ, buông tự tư tự lợi xuống, buông tiếng tăm, lợi dưỡng xuống, buông ngũ dục lục trần xuống, buông tham, sân, si, mạn xuống! Thật sự làm được mười sáu chữ này, có nhập môn hay không? Thưa quư vị, chưa nhập môn! Tôi nói rất minh bạch, chớ nên hiểu lầm lời tôi nói, tôi đă dẫn quư vị đến cửa ngơ, đưa tới cửa ngơ. Nhập môn th́ sao? Phải thỏa điều kiện nêu trong kinh Phật, [tức là] phải buông Thân Kiến xuống. Cái thân này thật sự chẳng phải là ta, đừng v́ thân này tạo nghiệp nữa. Đó là đúng! Quư vị mới có thể hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức, quyết định chẳng v́ thân này nữa, thân bỏ đi. Điều thứ hai là phải buông Biên Kiến xuống. Nói đơn giản, Biên Kiến là đối lập. Chẳng c̣n đối lập với người khác, người khác đối lập với ta, nhưng ta chẳng đối lập với họ. “Biên” () là nhị biên (二邊), không chỉ chẳng đối lập với hết thảy mọi người, mà với hết thảy động thực vật cũng chẳng đối lập. Đối với núi, sông, đại địa cũng chẳng đối lập, đối với hiện tượng tự nhiên cũng không đối lập, ư niệm đối lập chẳng có. Quư vị phải hiểu: Buông ư niệm đối lập xuống, đó là cảnh giới ǵ? Khắp pháp giới hư không giới và chính ḿnh là nhất thể, nhất thể chẳng đối lập, đối lập chẳng phải là nhất thể. Trong đối lập nẩy sanh phiền năo, căn nguyên của tất cả hết thảy phiền năo do đây sanh ra. Do vậy, phải buông nó xuống! Lại c̣n phải buông thành kiến xuống, người Trung Quốc hay nói: “Người nào đó có thành kiến rất sâu”. Phật pháp chia “thành kiến” thành hai loại lớn: Một là thành kiến nơi nhân. Hai là thành kiến nơi quả. Chẳng có thành kiến, con người đạt đến mức không có thành kiến, sẽ xử sự, đăi người, tiếp vật thuận buồm xuôi gió, v́ sao? Chính ḿnh chẳng có ư nghĩ ǵ, người khác đều tốt, nhưng quư vị có trí huệ, có thể phán đoán. Người khác đề ra điều ǵ tốt đẹp, quư vị nhất định phục tùng, nhất định tùy thuận. Người khác nêu ra thứ ǵ bất thiện, quư vị có thể uốn nắn, khuyên lơn kẻ ấy; nếu nhận thấy kẻ ấy chẳng thể lư giải, chẳng thể tiếp nhận, bèn cười cho qua. Tận hết sức tránh né hậu quả, tức hậu quả của cái nhân bất thiện ấy, đó là đúng, vĩnh viễn vui sướng. Đấy mới là thật sự nhập môn, nhập pháp môn của Phật.

      Nhập Phật môn: Trong Tiểu Thừa [nhập môn] là đă chứng quả Tu Đà Hoàn, tức Sơ Quả của Tiểu Thừa. Trong Đại Thừa, như kinh Hoa Nghiêm đă giảng, [nhập môn] thuộc địa vị Sơ Tín trong hàng Thập Tín Bồ Tát của Viên Giáo. Thập Tín là Tiểu Học, quư vị đă vào học lớp Một Tiểu Học. Tôi nói mười sáu chữ để dẫn quư vị đến cửa lớp Một, quư vị sử dụng tiêu chuẩn ấy của Phật sẽ vào lớp. Hễ vào rồi, tuy rất thấp, địa vị rất thấp, nhưng quư vị cũng rất lỗi lạc, được gọi là thánh nhân, tiểu thánh, một vị thánh nhỏ nhoi. Tuy là thánh nhân nhỏ nhoi, chưa thoát khỏi lục đạo luân hồi, nhưng chắc chắn chẳng đọa trong tam ác đạo, quư vị được bảo đảm, sanh trong cơi trời hay nhân gian bảy lần, chắc chắn chứng A La Hán, cũng có nghĩa là: Địa vị của quư vị ngày được nâng cao hơn, sẽ chẳng thoái chuyển. Trong ba thứ Bất Thoái, quư vị chứng đắc Vị Bất Thoái, tiến bộ mỗi ngày. Quư vị là một vị Bồ Tát nhỏ. Trong kinh Kim Cang, đức Phật đă nói rất hay: Đức Phật căn dặn hàng đại Bồ Tát phải thường chăm nom hàng tiểu Bồ Tát. Tiểu Bồ Tát định lực chẳng đủ, có khi vẫn phạm tội lỗi, cho nên bậc đại Bồ Tát thường chiếu cố quư vị. Đầu tiên là quyết định chẳng cầu an lạc cho chính ḿnh, nơi nào có tai nạn, quư vị đừng nên tránh né, mà hăy vội vă tới đó, tận tâm tận lực giúp đỡ họ.

      Hiện thời, trên địa cầu này có tai nạn, đức Phật dùng phương pháp ǵ để giúp họ? Giáo học! Phải biết: Giảng kinh, giáo học là phương thuốc bí truyền để hóa giải tai nạn. Quư vị phải dạy họ v́ tánh họ vốn lành, quư vị phải hiểu đạo lư này, bất thiện là tập tánh. Giảng rơ ràng, giảng minh bạch, họ sẽ buông bất thiện xuống, t́m lại bổn thiện, đó là thành công, đă đạt được mục đích giáo dục. Người dẫu hư hỏng cách mấy, kẻ Ngũ Nghịch, Thập Ác vẫn có bổn thiện, chỉ là nhất thời hồ đồ làm quấy, quư vị tha thứ, khéo dạy dỗ kẻ ấy, dạy kẻ ấy quay đầu; chớ nên bỏ mặc! Bỏ mặc kẻ ấy tức là quư vị giáo dục thất bại.

      Ở nước ngoài, tôi không muốn dạy học trong nhà trường, tôi rất thích chuyện tṛ với những vị giáo sư lâu năm, mở những cuộc tọa đàm cùng họ. Tôi bảo họ, Trung Quốc từ xưa coi trọng giáo dục nhất. Người Hoa có trí huệ và phương tiện thiện xảo trong giáo học, dạy học có hiệu quả, trên thế giới quả thật rất ít ai có thể sánh với Trung Quốc về điều này! Điều đầu tiên trong giáo dục Trung Quốc là khẳng định “con người tánh vốn lành”, dạy học chẳng có ǵ khác, ngoài việc làm cho người ấy từ tập tánh trở về bổn tánh. Nếu nói “đứa học tṛ này quá hư hỏng, chẳng thể dạy được, phải khai trừ nó”, tức là dạy dỗ thất bại. Quư vị phải biến học tṛ hư hỏng thành học tṛ ngoan hiền, quư vị mới giáo dục thành công. Chẳng thể dạy, khai trừ, tức là tṛ chẳng có khuyết điểm, mà là chính quư vị có khuyết điểm: Thiếu năng lực, thiếu đức hạnh, chẳng thể cảm hóa nó. Đó là quư vị thất bại, chẳng phải học tṛ, học tṛ chẳng có khuyết điểm! Trong các cuộc tọa đàm, tôi thường nói với các giáo sư về chuyện này, họ nghe xong, cũng gật đầu, cũng cảm thấy tôi nói rất có lư. Những điều này chẳng phải do tôi nói, mà do cổ thánh tiên hiền đă nói. Dạy chẳng thành công, hăy trách chính ḿnh! Cổ nhân Trung Quốc nói: “Hành hữu bất đắc, phản cầu chư kỷ” (làm không được, hăy xét lại ḿnh), quư vị mới có thể giải quyết vấn đề. Quư vị muốn đem trách nhiệm đổ lên đối phương, trật rồi, hoàn toàn trật rồi! Trung Quốc từ xưa tới nay giáo học thành công, không có ǵ khác, chỉ là hai câu nói ấy. Cha mẹ dạy con cái không nên thân, chẳng phải là con cái bất hảo, mà do chính ḿnh chẳng trọn hết trách nhiệm, chẳng dạy kỹ lưỡng. Thầy dạy học tṛ, dạy chẳng nên người, khi đó, thầy phản tỉnh: Chẳng phải là lỗi của học tṛ! Do vậy, tu dưỡng đức hạnh của chính ḿnh, nâng cao cảnh giới của chính ḿnh, tự nhiên sẽ có thể cảm hóa thế hệ kế tiếp.

      Trung Quốc mấy ngàn năm ổn định nhờ vào gia đ́nh. V́ thế, chỗ tuyệt diệu của dân tộc Trung Hoa là: Một là biết giáo dục, hai là gia. Gia là ǵ? Thực hiện giáo dục triệt để. “Gia” ở Trung Quốc là “đại gia đ́nh”. Trước thời Kháng Chiến, chúng tôi sống ở nông thôn, [sống trong] đại gia đ́nh. Thôn này là Vương thôn, tức là Vương gia (gia tộc họ Vương), là người một nhà. Kia là Uyển thôn, Uyển thôn là một nhà, là thân thích của chúng ta. Anh em mười mấy người chẳng sống tách riêng. Trong một nhà, số người có hơn hai trăm người, [tức là nhà ấy] đă suy. Khi hưng vượng, hơn ba trăm người. Do vậy, nhà có gia đạo, có gia quy. Đệ Tử Quy là quy củ chung trong gia quy, ắt phải tuân thủ. Trừ điều này ra, sở học của mỗi nhà khác nhau, kinh doanh những sự nghiệp khác nhau. Họ c̣n quy củ đặc biệt, đều chép trong gia phả. Trị gia có quy củ, giống như chính phủ, có chế độ, có pháp luật, chẳng thể trái nghịch. Do vậy, từ nhỏ, trẻ đă được dạy đại công vô tư. Nếu có tư tâm, một gia đ́nh to như thế sẽ bị nó phá hoại, nát cửa, tan nhà. Từ nhỏ không có tư tâm, quư vị sống trong thế gian này v́ điều ǵ? V́ gia đ́nh, vinh tông diệu tổ, vẻ vang ḍng họ, cả đời người ấy có mục tiêu. Quư vị thấy hiện thời rất nhiều học tṛ nhỏ tự sát, v́ sao? Nó chẳng biết sống v́ lẽ ǵ! Không có phương hướng, không có mục tiêu, cuộc sống tinh thần khổ lắm! Trước đây, bất luận theo đuổi nghề nghiệp ǵ, bất luận tới nơi nào, gia đ́nh quư vị là hậu thuẫn, gia đ́nh là người ủng hộ quư vị trung thực nhất. Khi quư vị gặp khó khăn, cả nhà sẽ chiếu cố quư vị. Do vậy, thuở c̣n thơ, gia học là tư thục, tư thục là trường học dạy con em trong gia đ́nh. Chỉ cần chịu học hành, nhất định sẽ có người thành tựu quư vị, gia đ́nh giúp đỡ quư vị. Lúc già, gia đ́nh là nơi dưỡng lăo, cáo lăo hoàn hương, hưởng niềm vui thiên luân. Quư vị thấy con cháu của chính ḿnh, những đứa cháu chắt, kể ra mấy chục đứa quây quần quanh quư vị, vui sướng lắm! Hiện thời, gia đ́nh chẳng c̣n nữa, thật sự đáng thương, thật đáng thương, đặc biệt là tuổi già, cô đơn. Đối với sự nghiệp dưỡng lăo trong xă hội này, tôi đă thấy rất nhiều, đến mỗi nơi, chuyện tôi rất quan tâm là coi xem sự nghiệp phước lợi dành cho người già, coi t́nh h́nh phạm tội của thanh thiếu niên nơi ấy. Đấy là vấn đề lo nghĩ, đau đầu nhất của chính phủ mỗi quốc gia trên thế giới, nhưng về căn bản, tại Trung Quốc, trong thời cổ đại, vấn đề ấy chẳng tồn tại! Quư vị kiểm trong hai mươi lăm bộ sử của Trung Quốc, có triều đại nào nói tới vấn đề dưỡng già, nuôi trẻ? Chẳng nhắc tới, gia tộc thay [chính quyền lo liệu], thực hiện tốt đẹp, đều dạy trẻ tốt đẹp, chăm lo người già chu đáo. V́ thế, ai nấy là người tốt, mọi chuyện đều là chuyện tốt.

      Trong các nghề nghiệp của Trung Quốc cổ đại, người ta ưa thích nghề nghiệp ǵ nhất? Thưa quư vị, làm quan, v́ sao? Đăi ngộ rất tốt, lại có địa vị xă hội, lại không có chuyện ǵ làm, không có những hồ sơ phải giải quyết, không có kẻ phạm tội, không có chuyện phạm tội. Chúng ta thấy những tác phẩm văn học, văn chương, thi từ, ca phú thuộc phần Tập trong Tứ Khố Toàn Thư do ai soạn? Đều do những kẻ làm quan, chẳng có chuyện ǵ làm, hằng ngày ở nhà đọc sách, học khá lại có chức vụ, du sơn, ngoạn thủy. Chúng ta thấy trong những tác phẩm văn học, thấy rất nhiều trường hợp [các quan chức] bái phỏng các đạo trưởng, thăm viếng ḥa thượng, họ có thời gian, chẳng giống như hiện thời! Hiện thời, trong ba trăm sáu mươi nghề, làm quan vất vả nhất! Thời cổ, ngay cả hoàng đế cũng thong dong, khoanh tay cai trị, chẳng làm ǵ mà thiên hạ hưởng thái b́nh, do đâu mà được như vậy? Thực hiện giáo dục tốt đẹp, sự bồi dưỡng trong gia đ́nh tốt đẹp, nên gia tề, quốc trị, thiên hạ b́nh. Chỉ cần gia đ́nh đă ổn định, gia đ́nh tốt đẹp, xă hội sẽ chẳng có vấn đề ǵ. Nếu không, sẽ có chuyện phạm tội nẩy sanh, hoàn toàn cậy vào giáo dục! Quư vị thấy tổ tiên trí huệ lắm, trong mấy ngàn năm xếp giáo dục vào vị trí thứ nhất, tất cả những tổ chức hành chánh không ǵ chẳng nhằm giáo dục. Giáo dục là then chốt, quốc thái dân an, có thể thu được hiệu quả tốt đẹp ngần ấy. Giáo dục Phật giáo chú trọng nhất là chuyện nâng cao, tức là nâng cao linh tánh của chính ḿnh.

      V́ thế, điều đầu tiên, bất luận là tại gia học Phật hay xuất gia học Phật, đều phải ghi nhớ “chẳng cầu an lạc cho bản thân”. Cầu an lạc cho bản thân, dẫu đạt được an lạc, vẫn có những tác dụng phụ rất phiền phức, tác dụng phụ sẽ dẫn đến bệnh tật, tai nạn. Con người sống trong thế gian là v́ chúng sanh, Thích Ca Mâu Ni Phật đă nêu gương cho chúng ta: V́ hết thảy chúng sanh giáo học. Lợi ích lớn nhất, công đức thù thắng nhất là giáo học: “Học vi nhân sư, hành vi thế phạm” (học làm thầy người, hành vi làm khuôn mẫu cho cơi đời). V́ thế, “vô nhiễm thanh tịnh tâm”, hễ làm được điều đầu tiên là vô nhiễm th́ tâm thanh tịnh mới có thể đạt được. Chỉ cần có ô nhiễm, chúng ta nói tới ô nhiễm về mặt tinh thần hay vật chất, thảy đều rời khỏi, quyết định chẳng bị tiêm nhiễm. Hiện thời, ô nhiễm phổ biến nhất, nghiêm trọng nhất là ǵ? TV, Internet hại chết người! Tại Trung Quốc, tôi không rơ lắm, nhưng ở ngoại quốc, đặc biệt là tôi ở nước Mỹ mười mấy năm, học tṛ lớp Một Tiểu Học đă dùng computer. Ngoài bài tập ra, trẻ c̣n tiếp nhận tin tức từ Internet. Do vậy, quư vị thấy nó bị ô nhiễm từ nhỏ, ô nhiễm biến thành thói quen, cả đời chẳng bỏ được, quay lại không được, đáng sợ lắm!

      Thầy tôi là tiên sinh Phương Đông Mỹ, xưa kia, có lần tôi đến nhà thầy, lúc ấy, chạm mặt ba quan chức thuộc bộ Giáo Dục, địa vị cũng rất cao đến phỏng vấn lăo nhân gia, nói tới chuyện phục hưng văn hóa truyền thống, hỏi cụ dùng phương pháp ǵ để có thể phục hưng văn hóa truyền thống của Trung Quốc? Cụ nghe hỏi xong, thái độ hết sức nghiêm túc, im lặng cả năm phút. Mọi người chúng tôi hết sức chú ư, chăm chú nghe cụ giáo huấn. Năm phút sau, cụ nói, phương pháp th́ có. Thứ nhất, thuở ấy tại Đài Loan có ba đài TV, là Đài Thị, Trung Thị và Hoa Thị, ba đài truyền h́nh, hăy đóng cửa đài truyền h́nh. Thứ hai là phải đóng cửa tất cả đài phát thanh, nhật báo, tạp chí đều phải đ́nh bản! Ba viên chức nghe xong [thốt lên]: “Thầy ơi! Chuyện ấy không làm được đâu!” [Thầy trả lời]: “Những thứ ấy phá hư văn hóa truyền thống Trung Quốc, nếu quư vị chẳng xóa bỏ chúng, làm sao phục hưng [văn hóa truyền thống] được!” Cụ nói rất có lư. Do vậy, ta học Phật, tuy họ không đóng cửa, họ có quyền phát sóng, nhưng ta cũng có quyền không tiếp nhận. Gần như năm mươi năm tôi chẳng coi TV, chẳng đọc nhật báo, chẳng xem tạp chí, chẳng nghe radio. Mỗi ngày tôi đọc kinh, đọc những tác phẩm của thánh hiền. V́ thế, người khác hỏi tôi, đối với tôi, thiên hạ thái b́nh, chẳng có chuyện ǵ! Quư vị có chuyện, chứ tôi chẳng có ǵ. V́ thế, chỉ cần chúng ta chịu xa ĺa, liền đạt được cái tâm thanh tịnh. Chúng tôi sống mỗi ngày vui vẻ, thanh tịnh lắm! Tâm thanh tịnh sanh trí huệ, trí huệ có thể giải quyết vấn đề, chẳng để lại hậu quả! Tri thức không được, tri thức giải quyết vấn đề, nhưng sau đó để lại hậu quả. Hơn nữa, tri thức giải quyết vấn đề cục hạn, chẳng viên măn, chúng ta chớ nên không biết điều này!

      Thuở trước, tôi diễn giảng, trao đổi với các sinh viên và giáo sư thuộc khoa Hán Học của đại học Kiếm Kiều (Cambridge) và đại học Luân Đôn của Anh. Tôi rất bội phục những người ngoại quốc ấy, họ trẻ tuổi, nói tiếng Phổ Thông rất khá. Nói giọng Bắc Kinh rất chuẩn, có thể đọc văn chương Văn Ngôn, có thể xem cổ thư Trung Quốc, chẳng thể không bội phục. Người trẻ tuổi hai mươi mấy tuổi, học giỏi như thế, nghiên cứu Hán học, nghiên cứu Nho, Thích, Đạo, dùng kinh điển Nho, Thích, Đạo để viết luận văn tiến sĩ. Tôi từng hỏi họ: Ông Thang Ân Tỷ đă nói: “Để giải quyết vấn đề xă hội của thế kỷ hai mươi mốt, phải cần tới học thuyết Khổng Mạnh của Trung Quốc và Đại Thừa Phật pháp”. Tôi nói hiện nay các vị đều học tập học thuyết Khổng Mạnh và Đại Thừa Phật pháp, những thứ ấy có thể thật sự giải quyết vấn đề hay chăng? Tôi hỏi họ, họ nh́n tôi cười, chẳng trả lời. Sau đấy, tôi hỏi tiếp: “Ông Thang Ân Tỷ nói sai rồi hay sao? Quư vị có nghĩ ông ta nói sai hay không?” Họ cũng không đáp. Cuối cùng, tôi bảo họ: Ông Thang Ân Tỷ nói chẳng sai, nhưng nhiều người đọc rồi hiểu sai ư. Nhắc tới học thuyết Khổng Mạnh của Trung Quốc, chắc chắn quư vị nghĩ đến Tứ Thư, Ngũ Kinh, mười ba kinh, chính là những thứ họ đang học tập, trong số đó có sinh viên dùng sách Mạnh Tử để viết luận văn (thesis, luận án), c̣n có một sinh viên dùng kinh Vô Lượng Thọ để viết luận văn. Tôi hỏi anh ta: “Kinh Vô Lượng Thọ có chín phiên bản khác nhau, anh dùng bản nào?” Anh ta dùng bản hội tập của Hạ Liên Cư, khó có!

      Ta nói rất nhiều người đọc rồi hiểu sai, v́ sao? Tứ Thư, Ngũ Kinh, mười ba kinh là hoa quả của Nho gia, đương nhiên quư vị thấy ngay. Vừa nhắc tới Đại Thừa Phật pháp, nhất định quư vị nghĩ đến những bộ đại kinh, đại luận như Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Bát Nhă, có thể giải quyết vấn đề hay chăng? Chẳng thể giải quyết. Quư vị không nói, để tôi nói với quư vị. Đấy là hoa quả, nhưng quư vị phải nghĩ hoa quả do đâu mà có? Do cây sanh ra, cây do đâu mà có? Cây do rễ sanh ra. Ông Thang Ân Tỷ chẳng nói sai, nhưng quư vị phải t́m cội rễ. Cội rễ là ǵ? Cội rễ của Nho gia là Đệ Tử Quy, cội rễ của Đạo gia là Cảm Ứng Thiên, cội rễ của Phật pháp là Thập Thiện Nghiệp; ba thứ này quư vị đều coi rẻ, nghĩ chúng quá nông cạn, quá thấp, nhưng đó là cội rễ. Nếu quư vị vứt bỏ cội rễ, lấy đâu ra cành, lá, hoa, quả? Do vậy, quư vị nghiên cứu [kinh điển Nho gia và kinh luận Đại Thừa] chẳng thấu triệt. Tôi nói hiện thời quư vị đang làm ǵ? Ở nơi đây, trong nhà trường, quư vị dạy và học về Nho Học, Phật học, Đạo học. Tôi nói tôi và quư vị khác nhau, trong tương lai quư vị có thể đạt được học vị Tiến Sĩ, có thể thành một chuyên gia về Hán học của Âu Châu, có thể là một giáo sư nổi tiếng, nhưng quư vị chẳng thể nào sung sướng, tự tại như tôi được, do nguyên nhân ǵ? Tôi học trái ngược với quư vị. Hiện thời, người ngoại quốc viết chữ từ bên trái sang bên phải, quư vị thấy những ǵ quư vị học được là Phật học, c̣n tôi tương phản, học Phật! Quư vị học Đạo học, Nho học, Phật học, c̣n tôi là học Nho, học Đạo, học Phật, khác nhau! Học Nho là học giống như Khổng Mạnh, họ là gương mẫu, tiêu chuẩn cho chúng ta, phải mong bằng họ. Học Phật là phải giống như Thích Ca Mâu Ni Phật, học Đạo phải giống như Lăo Trang, như vậy th́ mới kể là có thành tựu, mới là trí huệ, có thể thật sự giải quyết vấn đề. Bởi lẽ, Phật học, Đạo học, Nho học là tri thức, học Phật, học Nho, học Đạo là trí huệ. Lời ông Thang Ân Tỷ nói chẳng sai, nhưng rất nhiều người giải thích sai lầm.

      Buổi học ấy chỉ một giờ, tuy thời gian chẳng dài, nhưng soi sáng cho họ rất nhiều. Bởi lẽ, ba món căn bản ấy trọng yếu, là cội rễ của Trung Quốc, trước đây, do người mẹ vun bồi căn cội này cho rễ sâu cội chắc. Nho gia là giáo dục luân lư, đạo đức, Đạo gia nhằm giáo dục nhân quả, Phật pháp là giáo dục trí huệ. Quư vị thiếu căn bản này, dụng công cách nào, học tập cách nào, đều vô dụng! Quư vị học chẳng giống! Nói cách khác, trong cuộc sống quư vị có vấn đề, trong công tác có vấn đề, quư vị đều chẳng thể giải quyết! Nếu quư vị thật sự học Nho, học Đạo, học Phật, vấn đề ǵ cũng đều có thể giải quyết. Quư vị mới thật sự giống như Phu Tử đă nói: “Học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ?” (học rồi luyện tập, cũng chẳng vui ư?), pháp hỷ sung măn, nhà Phật nói “thường sanh tâm hoan hỷ”. Một người mỗi ngày đều vui vẻ, làm sao chẳng khỏe mạnh cho được! Mỗi ngày đều lo âu, sẽ đổ bệnh, chẳng phải là dáng vẻ khỏe mạnh được! Tướng trạng khoẻ mạnh là mỗi ngày đều vui sướng. Nho, Thích, Đạo đều là như vậy. V́ thế, chúng ta phải nhận biết rơ ràng, phải nghiêm túc học tập.

      Tiếp đó, điều thứ hai là: “An thanh tịnh tâm, vị bạt nhất thiết chúng sanh khổ cố” (Tâm an, thanh tịnh, v́ dẹp khổ cho hết thảy chúng sanh). Đó là cứu khổ, cứu khổ, cứu nạn, dùng phương pháp ǵ? Mục đích ǵ? Khiến cho hết thảy chúng sanh được b́nh an. Quư vị thấy trong xă hội hiện tại, ḷng người bất an, không định được, chẳng tĩnh được, mỗi cá nhân đều có phiền năo khá nghiêm trọng, làm như thế nào đây? Chúng ta biết ô nhiễm quá nghiêm trọng, do những ǵ tạo thành? Nói thật ra, do TV tạo thành, do Internet tạo thành. Internet và TV là đại ma vương, rất đáng sợ! Trong quá khứ, thầy Phương bảo tôi những thứ này có thể hủy diệt một quốc gia, hủy diệt dân tộc, quư vị chớ nên không cẩn thận đối với nó. Thầy nói trong tương lai nước Mỹ bị diệt vong th́ nhân tố đầu tiên là TV. Khi ấy, thầy đă cảnh cáo chính phủ Đài Loan phải cẩn thận. Lúc đó, Đài Loan vừa mới khởi đầu, nếu đi theo nếp sống của Mỹ sẽ bị hủy diệt trong tương lai. TV hủy diệt thế hệ kế tiếp, hủy diệt những kẻ trẻ tuổi, TV dạy ǵ vậy? Bạo lực, t́nh dục, giết, trộm, dâm, dối, học từ nhỏ, kinh khủng quá! Hoàn toàn trái nghịch Tánh Đức; nhưng người trong xă hội và những kẻ chịu trách nhiệm trong chính phủ hoàn toàn chẳng có ư thức về vấn đề nghiêm trọng này.

      Khi tôi phỏng vấn tại Mă Lai, vị Thủ Tướng trước kia là Mă Cáp Địch (Mahathir Bin Mohamad) cũng từng bàn với tôi về vấn đề này, ông ta nói vấn đề này hết sức nghiêm trọng. Nhất là sau khi kỹ thuật mă hóa (digitalized) ra đời, quư vị thấy một con chip nhỏ ngần ấy, một con chip lớn bằng móng tay mà chứa đựng thông tin nhiều ngần ấy, nhưng hiện thời những thông tin ấy đều chẳng tốt, đều là bất thiện, đều làm hỏng con người, vấn đề này nghiêm trọng lắm! Ông ta c̣n t́m người nhắn tôi, mong trong lần phỏng vấn thứ hai sẽ thảo luận với ông ta về vấn đề này trong một thời gian dài; đấy cũng là một người hữu tâm. Con người hiện thời một mực mê muội truy cầu danh lợi, tranh danh trục lợi, đạt được ǵ? Dẫu có đạt được, khổ chẳng thể nói nổi, lo được, lo mất. Khi chưa đạt được th́ mong đạt được; khi đă đạt được, lại sợ mất đi, làm sao an tâm cho được? Không thể nào an, tâm không thanh tịnh sẽ không an, con người như vậy sống khổ sở quá! V́ thế, Phật, thánh nhân dạy chúng ta phương pháp: Chúng ta muốn cứu xă hội, thế giới, và địa cầu này th́ dùng phương pháp ǵ? Giảng kinh, giáo học, vẫn là câu nói cũ rích này! Càng nghĩ, càng thấy có lư. Quư vị giảng kinh, giáo học, nhằm đánh thức giác tánh của con người, đánh thức bổn thiện, chỉ cần người ấy giác ngộ, quay đầu, tâm người ấy sẽ định, trí huệ mở mang. Đối với những thứ hư giả, tiếng tăm, lợi dưỡng là giả, tiền tài dẫu nhiều đến mấy, chẳng phải là quư vị vẫn ngày ăn ba bữa, đêm ngủ [chỉ nằm một chỗ dài rộng] sáu thước ư! Nếu liễu giải chân tướng sự thật, quư vị truy cầu những thứ ấy để làm ǵ? Khổ chẳng thể nói nổi! Áo cơm đầy đủ là được rồi. Mỗi ngày có thể ăn no, quần áo mặc ấm, có một căn nhà nhỏ để đụt mưa, tránh gió, quư vị nói có phải là sung sướng lắm hay không? Nhà to, mỗi ngày phải tốn không ít thời gian để quét tước, dọn dẹp!

      Tôi ở Mỹ rất nhiều năm, những đồng học bên ấy làm ăn khá lắm, mua một căn nhà to. Thứ Sáu và thứ Bảy không đi làm, họ ở nhà làm ǵ? Dùng thời gian cả ngày để dọn dẹp nhà cửa. Nếu quư vị không dọn dẹp, cảnh sát sẽ thay quư vị dọn dẹp, phạt tiền quư vị. Đó là người làm đầy tớ cho nhà cửa, quư vị phải hầu hạ nó. Quư vị mua một căn nhà nhỏ khỏe hơn, tốn một hai tiếng đồng hồ đă dọn dẹp sạch sẽ, ngăn nắp, mới có thời gian rảnh rỗi để hưởng thụ. Người Hoa biết sống, người đọc sách thật sự, bậc cao nhân, dựng một túp lều tranh nhỏ ở nông thôn, thoải mái cùng cực. Tôi nhớ thuở bé sống ở nông thôn, ở trong căn nhà tranh, vách đất, tôi rất lưu luyến. Căn nhà ấy quư vị thấy chẳng vừa mắt, nhà tranh, Đông ấm, Hè mát, rất thoải mái, tường rất dầy. Tường gần như dầy đến hai ba thước, đắp bằng đất, lợp bằng cỏ tranh rất dầy. Quả thật Đông ấm, Hè mát! Mùa Đông khí lạnh chẳng lọt vào được, sống rất thoải mái. Nhà đúc bằng bê tông cốt sắt nh́n đẹp đẽ, nhưng thật sự chẳng có ích cho con người như lều tranh của Trung Quốc. Con người sống nơi ấy tâm địa thanh tịnh, trường thọ. Con người hiện thời nói là từ trường khác nhau. Hiện thời, một ṭa cao ốc bao nhiêu người ở? Từ trường rất hỗn loạn, rất phức tạp. Ở nông thôn, gần bên túp lều tranh không có ai, rất xa mới có nhà người khác, làm sao giống nhau cho được? Giúp đỡ người khác bằng thân hành, ngôn giáo, chúng ta dùng thân ḿnh tận lực thực hiện, thật sự thực hiện giáo huấn của cổ thánh tiên hiền trong công việc, trong xử sự, đăi người, tiếp vật. Học vấn thật sự là đem những đạo lư trong kinh điển biến thành tư tưởng và kiến giải của chính ḿnh, cảnh giới ấy sẽ được nâng cao!

      Vấn đề trong hiện tại là v́ giao thông thuận tiện, thông tin phát triển, địa cầu đúng là thôn địa cầu, đi ṿng quanh trái đất mất hai ngày, tôi đi mất ba ngày. Tôi đi một lần, ngày đầu tiên, từ Bắc Kinh bay tới Ba Lê, ở Ba Lê ngồi xe lửa sang Anh. Ngày thứ hai, từ Anh bay tới Nữu Ước. Ngày thứ ba, từ Nữu Ước bay về Bắc Kinh. Thôn địa cầu mà! Con người trước kia không có cách nào tưởng tượng chuyện này. Truyền thông phát triển, bất luận nơi đâu xảy ra chuyện ǵ, qua TV, radio lập tức biết ngay. Không gian sống của chúng ta khác với trước kia, đương nhiên nhu cầu tri thức khác nhau! Do vậy, chẳng thể không quan tâm đến thế giới này, thế giới này có tương quan mật thiết với chúng ta, nhưng những thứ thông tin rác rưởi quá nhiều. Nếu quư vị xem, tiếp xúc [những thứ ấy], phải lăng phí bao nhiêu tinh thần? Do vậy, tôi đều buông xuống hết; nhưng tôi cũng có “đường ống”, [tức là] có những đồng học hảo tâm, đối với những sự kiện trọng đại, họ bèn hạ tải từ Internet, đưa cho tôi xem, đại khái đôi ba ngày tôi đọc chừng hai ba trang. Những sự kiện trọng đại được nói trên Internet tôi đều biết, đó là những thứ tất yếu, không xem những thứ chẳng tất yếu, toàn bộ chẳng tiếp xúc, tận hết sức giữ ǵn cái tâm thanh tịnh, giữ cho tâm an định, chúng ta mới có năng lực giúp đỡ hết thảy chúng sanh khổ nạn. Giảng kinh, giáo học là cùng nhau chia sẻ trí huệ của Nho, Thích, Đạo.

      Thứ ba là “lạc thanh tịnh tâm”, chữ đọc là Nhạo, nghĩa là ưa thích, nếu đọc là Lạc sẽ là vui sướng. Quư vị thấy hết thảy đều giảng về cái tâm thanh tịnh; thứ nhất là “vô nhiễm”, thứ hai là “an”, thứ ba là “lạc”, “dục linh nhất thiết chúng sanh đắc đại Bồ Đề cố” (v́ muốn làm cho hết thảy chúng sanh đắc đại Bồ Đề). Đối với Lạc th́ phải ban cho họ chân lạc; nếu sau khi vui mà c̣n có tác dụng phụ sẽ chẳng phải là Lạc, chẳng phải là chân lạc. Do vậy, Phật pháp từ bi cứu thế. Hai chữ “từ tế” (từ bi cứu giúp) nói đến chân thật rốt ráo sẽ là Đại Thừa Phật pháp. Có phải là ban cho quư vị của cải hay chăng? Không phải! Có phải là ban cho quư vị địa vị hay chăng? Không phải! Có phải là ban cho quư vị sự vinh diệu hay chăng? Cũng không phải, mà là giúp quư vị phá mê khai ngộ. V́ sao? Khổ do mê mà có, quư vị chẳng liễu giải chân tướng sự thật, cũng có nghĩa là quư vị nghĩ sai, thấy sai, làm sai, nên chuốc lấy quả báo bất thiện, đó là khổ. Nếu quư vị tỉnh ngộ, giác ngộ, tư tưởng và kiến giải của quư vị chính xác, lời nói và việc làm chính xác, sẽ cảm được thiện quả, thật sự sung sướng. Ĺa khổ được vui là quả báo, phá mê khai ngộ là nhân. Phật, Bồ Tát giúp hết thảy chúng sanh phá mê khai ngộ, tự nhiên phải đạt đến ĺa khổ, được vui, giáo học mà! Trong giáo học, quan trọng nhất là chính ḿnh phải nêu gương tốt; nếu lời nói chẳng đi đôi với việc làm, người khác chẳng tin tưởng quư vị: “Ngươi là đồ giả, chẳng thật!” Chẳng hạn như đối với ba căn bản của giáo dục, những năm qua, tôi luôn hết sức nhấn mạnh, khuyên mọi người chúng ta phải học bù đắp những môn ấy. Những môn ấy từ nhỏ chúng ta chưa học, cha mẹ cũng chẳng học, ông bà cũng chẳng học, nay chúng ta học bù những môn ấy, đương nhiên khá khó khăn, nhưng biết những môn ấy trọng yếu, nghiêm túc học tập, học bù những môn ấy cũng chẳng khó khăn, thật sự chịu làm, hai năm sẽ nhất định học bù xong xuôi. Hai năm ấy nhằm vun bồi căn bản, hăy c̣n kịp!

      Nếu muốn giúp đỡ người khác, giáo hóa chúng sanh, hăy học theo Khổng Tử, học theo Phật Thích Ca, c̣n phải học bù một môn nữa là văn chương Văn Ngôn. Văn chương Văn Ngôn là trí huệ chân thật của tổ tiên Trung Quốc, chẳng ǵ có thể sánh bằng. Tổ tiên biết ngôn ngữ sẽ biến đổi theo thời đại, nếu văn nói và văn viết giống như nhau, người mấy trăm năm sau đọc đến, sẽ chẳng hiểu văn chương hiện thời. Do vậy, phát minh một phương pháp: Tách rời văn viết và văn nói, bất luận ngôn ngữ biến đổi ra sao, văn viết chẳng thay đổi! Phương pháp hay lắm, cả thế giới t́m không ra nước thứ hai nào. Hai ngàn năm trăm năm trước Khổng Tử viết sách, nay chúng ta có thể đọc hiểu, giống như đối diện tṛ chuyện, đây là một chuyện tuyệt diệu! Do vậy, chúng ta phải bổ sung văn chương Văn Ngôn vào khóa tŕnh. Học văn chương Văn Ngôn như thế nào? Chẳng khó khăn chút nào cả! Văn chương Văn Ngôn phải cậy vào học thuộc. V́ thế, trong quá khứ, thầy Lư dạy chúng tôi: “Các anh có thể học thuộc năm mươi bài cổ văn”, khi ấy, tài liệu dạy học được chọn từ bộ Cổ Văn Quán Chỉ, “có thể thuộc năm mươi bài sẽ có năng lực đọc văn chương Văn Ngôn, nắm vững văn chương Văn Ngôn”. Đại Tạng Kinh được viết bằng Văn Ngôn, Tứ Khố Toàn Thư viết bằng Văn Ngôn, quư vị nắm được cái ch́a khóa này, cổ nhân lưu lại những kho báu, quư vị đều có thể thụ dụng. Nếu có thể thuộc một trăm bài, quư vị sẽ có năng lực viết Văn Ngôn. Nếu chúng ta mỗi tuần học một bài, thuộc một bài rồi mới học bài khác, [học thuộc] một trăm bài cũng không tới hai năm. Hai năm, nắm được ch́a khóa, đối với những kho báu do tổ tông lưu lại, quư vị sẽ có phần. Nếu quư vị chẳng chịu làm [sẽ rất uổng], những thứ ấy hiện thời đều có. Kỹ thuật ấn loát tiến bộ, in Tứ Khố Toàn Thư chẳng khó. Năm ngoái, h́nh như là năm trước đó, tôi đặt Thương Vụ Ấn Thư Quán in một trăm bộ Tứ Khố Toàn Thư, đại khái tháng Năm, tháng Sáu năm nay sẽ in xong, giao toàn bộ cho tôi. Tôi đặt in một trăm bộ, dự tính tặng cho những trường có nhu cầu trong nước! Tốn thời gian hai năm, quư vị nắm được ch́a khóa, có thể duyệt đọc. Kinh là học vấn, Sử là kinh nghiệm; có học vấn, có kinh nghiệm lịch sử, quư vị sẽ có năng lực trị quốc, b́nh thiên hạ, có thể giải quyết vấn đề, thật sự đem lại “thân tâm khỏe mạnh, gia đ́nh hạnh phúc, sự nghiệp thuận lợi, xă hội hài ḥa, thiên hạ thái b́nh” cho chúng sanh, thật sự làm được, chẳng phải là mơ tưởng viễn vông, mà là thật sự có thể thực hiện được! Do vậy, ông Thang Ân Tỷ có thể nói ra câu ấy, tôi rất bội phục ông ta. Đây là một người ngoại quốc, nghiên cứu văn hóa sử thế giới, là một nhà lịch sử triết học, nói rất hay. Do vậy, người thật sự giác ngộ trong thế gian đại từ, đại bi, đại nguyện, đại lực, gần như đều theo đuổi giáo học, chọn lựa nghề nghiệp này hết sức có lư. Họ chẳng làm nghề nào khác, mà làm nghề này; làm nghề nghiệp này đúng là cứu thế, cứu dân.

      Trong Phật pháp, tâm vui thanh tịnh v́ muốn làm cho hết thảy chúng sanh đắc đại Bồ Đề. Đại Bồ Đề: Trí huệ viên măn trong tự tánh gọi là đại Bồ Đề, giúp đỡ hết thảy chúng sanh trở về tự tánh. Trí huệ Bát Nhă viên măn trong tự tánh hiện tiền, đó gọi là “đắc đại Bồ Đề”. Chuyện này rất khó, tuy trong tự tánh vốn có, nhưng quư vị cần phải buông khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước xuống; nói rất dễ, làm thật khó! Có thể chẳng chấp trước hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian là tiểu trí huệ, nhưng trí huệ ấy là thật, chẳng giả, tiểu trí huệ! Lại buông phân biệt xuống, bèn là Bồ Tát, gọi là đại trí huệ. Cuối cùng có thể không khởi tâm, không động niệm, trí huệ viên măn, đó là trí huệ của Phật, đúng là chúng ta chẳng dễ ǵ làm được. “Khởi tâm động niệm”, câu này chúng ta chẳng dễ ǵ liễu giải. Tới khi bản thân chúng tôi học kinh Hoa Nghiêm, học bộ Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán của Hiền Thủ quốc sư mới liễu giải khái niệm này đôi chút. Thật sự khó! Ngay cả nhập pháp môn đă quá khó! Quư vị thấy nhập môn, phải buông xuống Ngă Chấp, phải buông Biên Kiến, Kiến Thủ Kiến, Giới Thủ Kiến xuống, rất khó khăn! Do vậy, trong Đại Thừa có pháp môn đặc biệt là “nhiếp thủ chúng sanh sanh bỉ quốc độ cố” (nhiếp thủ chúng sanh sanh về cơi Phật ấy). “Bỉ quốc độ” là thế giới của Tây Phương A Di Đà Phật. Trong các vị Phật Như Lai, A Di Đà Phật giống như một vị đă phát đại tâm thành lập một ngôi trường. Tây Phương Cực Lạc thế giới là đại học Phật giáo, là một đại học đa nguyên văn hóa. Tôi chẳng học Phật, tôi học Cơ Đốc giáo có thể văng sanh hay không? Tôi học đạo Hồi có thể văng sanh hay không? Thưa quư vị, thảy đều có thể văng sanh, tuyệt diệu! Văng sanh chỉ là lúc lâm chung, đối với Tây Phương Cực Lạc thế giới tin tưởng, phát nguyện, ta tin tưởng, ta phát nguyện cầu sanh thế giới Cực Lạc, ta tu Cơ Đốc Giáo, hay tu đạo Hồi, đem công đức tu hành hồi hướng Tây Phương Cực Lạc thế giới, thảy đều có thể văng sanh, môn này lớn lắm! Bất luận quư vị học pháp môn nào [cũng đều có thể văng sanh], v́ sao? Quư vị luôn tu thiện, tích đức, đem công đức ấy hồi hướng Tây Phương Cực Lạc thế giới, đều có thể nâng cao phẩm vị của quư vị. Nhà Phật không có quan niệm môn hộ; nếu có kiến giải về môn hộ, chẳng phải là đối lập ư? Vừa mở đầu đă bảo quư vị buông đối lập xuống, nhận biết cả vũ trụ và chính ḿnh là nhất thể, ta và A Di Đà Phật là nhất thể. Trong kinh Phật chẳng nói “tin tưởng, ngưỡng mộ các tôn giáo khác sẽ bị loại trừ!” Không có! Không có câu ấy! Quư vị đọc kinh giáo Đại Thừa sẽ phát hiện trong ấy có rất nhiều vị Bà-la môn, đó là [tín đồ] Bà La Môn giáo, c̣n có rất nhiều ngoại đạo, họ đều là tín đồ của các tôn giáo khác, nhưng đều là học tṛ của Phật. Do vậy, đức Phật tiến hành giáo dục, chẳng phải là [truyền bá] tôn giáo, chẳng đối lập với các tôn giáo khác. Tôn giáo nào đến học cũng đều hoan nghênh, đều thành tựu giống hệt như nhau, đều văng sanh như nhau, tới thế giới Cực Lạc thành Phật, đạt được học vị tối cao trong giáo dục Phật giáo. Sau khi đạt được, người ấy vẫn là Bà La Môn giáo, hay vẫn là Cơ Đốc Giáo, chẳng thay đổi tôn giáo, biến thành bậc thánh nhân trong tôn giáo của người ấy. Đấy là chân thật nghĩa trong giáo pháp Đại Thừa.

      Trong những năm qua, đă mười năm rồi, từ năm 1999 bắt đầu, trọn cả mười năm, chúng ta tiếp xúc nhiều tôn giáo, đề xướng tôn giáo trên thế giới là một nhà. Tôi học tập kinh điển của tôn giáo khác, tôi cũng đă từng giảng Thánh Kinh, giảng Cổ Lan Kinh, họ cũng rất hoan nghênh. Tôi giảng kinh Mân Côi đọc trong khóa lễ sáng tối của đạo Thiên Chúa, DVD [thâu bài giảng] về kinh Mân Côi được lưu thông trong tôn giáo của họ. Trong sự cảm nhận của chúng tôi, tất cả giáo chủ các tôn giáo, nói theo Phật pháp, đều là hóa thân của Phật. Trong Phổ Môn Phẩm có nói: “Nên dùng thân ǵ để độ, bèn hiện thân ấy”. Nên dùng thân Cơ Đốc (Christ) để độ, bèn hiện thành Cơ Đốc; nên hiện thân thầy cả đạo Hồi (Akhoond) để đắc độ, bèn hiện thân thầy cả đạo Hồi. Trong nhiều năm qua, cách nghĩ này của tôi được rất nhiều tôn giáo tán đồng, trước kia, tôi cứ tưởng c̣n phải mất một thời gian dài biện luận, kết quả là chẳng cần, đă nhiều năm như thế chưa hề gặp phải tranh căi lần nào, đều có thể tán đồng. Do vậy, tôn giáo có thể đoàn kết .

      Tôn giáo nhất định phải giảng học, phải giáo dục. Tôn giáo không có giáo dục th́ chỉ có h́nh thức, sẽ biến thành mê tín, nhất định phải có giáo học. Thật sự, những giáo chủ sáng lập tôn giáo đều là nhà giáo dục xă hội, lại c̣n là đa nguyên. Thời gian dạy học của Thích Ca Phật dài nhất: Bốn mươi chín năm. Gia Tô (Jesus) bị kẻ khác hại chết, dạy học ba năm; Mục Hăn Mặc Đức (Mohamed) dạy học hai mươi bảy năm. Chúng ta chú tâm quan sát, lúc họ tại thế đều là giảng kinh, giáo học. Hơn nữa, nh́n vào nội dung, đặt vững cơ sở giáo dục, giáo dục khắp thế gian, không ǵ chẳng phải là luân lư, đạo đức, nhân quả. V́ sao? Ba thứ giáo dục ấy có thể đem lại lợi ích thiết thân cho đại chúng trong xă hội, chúng ta thường nói là thân tâm khỏe mạnh, gia đ́nh hạnh phúc, sự nghiệp thuận lợi, xă hội hài ḥa, thiên hạ thái b́nh, ba món giáo dục ấy có thể làm được. Một số ít những kẻ căn cơ thượng thượng lại nâng cao lên, trong kinh điển có giáo dục triết học, giáo dục khoa học, giảng rơ chân tướng của vũ trụ nhân sinh, giảng hết sức hay, Phật pháp có thể thuyết giảng chuyện này viên măn. Đấy là A Di Đà Phật kiến lập một ngôi trường, giúp quư vị giành được học vị tối cao. Người Trung Quốc gọi đức Phật là “thánh nhân”. Nếu chúng ta dùng cách xưng hô quen thuộc của Trung Quốc, chúng ta gọi Khổng Tử là Chí Thánh Tiên Sư, th́ chúng ta có thể gọi Thích Ca Mâu Ni Phật theo cách xưng hô như vậy, tức là Chí Thánh Bổn Sư. Phật môn gọi Thích Ca Mâu Ni Phật là Bổn Sư, [nghĩa là] vị thầy căn bản, vị thầy lập giáo. Chí Thánh là Phật, Chí Thánh Bổn Sư, mọi người sẽ chẳng nẩy sanh hiểu lầm.

      Bồ Tát là hiền nhân, đại hiền. Đại hiền Văn Thù Sư Lợi, đại hiền Quán Thế Âm, đại hiền Địa Tạng Vương. Rất nhiều người tưởng Phật, Bồ Tát, A La Hán là thần, đều là quỷ thần, sự hiểu lầm ấy rất lớn! Chúng ta là đệ tử Phật chẳng giảng rơ ràng, giảng minh bạch, khiến cho đại chúng trong xă hội nẩy sanh hiểu lầm to lớn như thế rất đáng tiếc. V́ thế, Ngài kiến lập thế giới ấy, thế giới ấy do nguyện lực tạo thành, đại nguyện tuyệt diệu. Điều này có căn cứ lư luận từ kinh giáo Đại Thừa, đức Phật nói: “Hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng”, sự biến hóa trong cả vũ trụ có quan hệ hết sức mật thiết với tâm tưởng của chúng ta. Do vậy, nếu tư tưởng của mỗi cá nhân chúng ta thuần chánh, tâm thái tốt lành, quư vị sẽ khỏe mạnh, trường thọ, chẳng sanh bệnh tật ǵ! Tật bệnh do đâu mà có? Lời đức Phật nói giống như những điều đă giảng trong Trung Y, cùng một đạo lư, tức là tâm thái của quư vị nẩy sanh vấn đề. Trong Phật pháp nói tới Tam Độc tham, sân, si, đấy là căn nguyên của tất cả hết thảy bệnh tật. Trong tâm quư vị có ba thứ ấy, cho nên bản thân quư vị có cái nhân bệnh tật. Tôi thường nói thêm hai thứ là ngạo mạn và hoài nghi. Hoài nghi thánh hiền, hoài nghi chính ḿnh, tôi gọi [năm điều ấy] Ngũ Độc; đức Phật giảng Tam Độc là tham, sân, si, tôi thêm vào hai cái nữa, thành tham, sân, si, mạn, nghi, Ngũ Độc. Quư vị có năm thứ độc này, bên ngoài có vi khuẩn cảm nhiễm, quư vị rất dễ nhiễm bệnh. Nếu bên trong chẳng có tham, sân, si, mạn, nghi, dẫu vi khuẩn gây bệnh bên ngoài nghiêm trọng cách mấy, vẫn chẳng thể nhiễm bệnh cho quư vị. V́ thế, [điều ấy được] gọi là sức miễn dịch, quư vị sẽ không bị bệnh. Quư vị ra vào khu vực đang xảy ra nạn ôn dịch nghiêm trọng chẳng sao cả, đạo lư ở chỗ này!

      Đă có ngũ độc, mà nếu quư vị c̣n có năm thứ duyên th́ hết sức dễ bị nhiễm bệnh. Năm thứ bệnh duyên là ǵ? Oán hận! Quư vị có oán khí, có hờn giận, có phiền năo. Oán, hận, năo, nộ, phiền, là duyên, tức là duyên gây nhiễm bệnh. Có nhân, có duyên, lẽ đâu quư vị chẳng ngă bệnh? Nếu quư vị hiểu đạo lư này, buông ngũ độc xuống, năm thứ tâm thái chẳng tốt đẹp cũng buông xuống, bất luận trong hoàn cảnh nào, ta không có oán mà cũng chẳng có hận, đối với thuận cảnh chẳng khởi tham luyến, đối với nghịch cảnh chẳng oán hận, vĩnh viễn giữ cho chính ḿnh thanh tịnh, b́nh đẳng, quư vị sẽ trăm bệnh chẳng sanh! Dẫu bị bệnh, không cần trị liệu, tự ḿnh lành bệnh, v́ sao? Chúng ta hiểu: Phân tích mỗi tế bào trên toàn thân th́ tế bào đều do nguyên tử, hạt cơ bản [hợp thành]. Những hạt cơ bản, nguyên tử ấy mang bệnh, v́ lẽ ǵ? Do quư vị có ngũ độc, nên mới bị nhiễm bệnh, những tế bào ấy biến thành tế bào nhiễm bệnh. Nếu quư vị giác ngộ, hiểu rơ, buông những phiền năo tập khí xuống, những tế bào mang bệnh sẽ lập tức khôi phục b́nh thường. Khôi phục b́nh thường, chẳng phải là khỏe mạnh ư? Do vậy, lư luận trong cách trị bệnh của Trung Y rất cao sâu, người ngoại quốc chẳng biết. Bệnh có thể chữa lành, bảy phần cậy vào tâm thái, thuốc men chỉ hữu dụng ba phần. Khi tâm thái tốt, ba phần thuốc chẳng cần dùng đến. Nếu tâm thái của quư vị bất hảo, thường có ưu lự, thường có phiền năo, thường có tham, sân, si, mạn, bệnh ấy cũng rất khó chữa lành, dẫu thầy thuốc giỏi cũng đành bó tay chịu phép! Do vậy, hiểu đạo lư này, đấy chính là đạo dưỡng sanh, chính ḿnh có thể chẳng bị bệnh tật, dẫu mỗi năm tuổi cao hơn, nhưng sức khỏe chẳng bị tổn hại tí nào, cũng chẳng dễ dàng lăo hóa, đấy là ǵ? Tâm thái tốt đẹp. Đấy là Phật pháp mang đến lợi ích chân thật hiện tiền cho chúng ta.

      Người thuộc lớp tuổi trung niên trở lên, mọi người chú trọng sức khỏe, sức khỏe phải nhờ vào thuốc bổ là giả, những thứ ấy đều rất đáng sợ, v́ sao? Chúng có tác dụng phụ, chẳng phải là thứ tốt lành. Thứ tốt đẹp là tâm thái của quư vị. Hăy điều chỉnh tâm thái, đoạn ác, tu thiện. V́ thế, ăn chay là đạo dưỡng sanh tốt nhất. Tôi học Phật chưa đầy nửa năm bèn chọn cách ăn chay, tôi chẳng phải là mê tín. V́ trước khi học Phật, lúc tôi c̣n học trong trường, tức lúc học Trung Học tại Nam Kinh, quê tôi ở An Huy, tôi một ḿnh ở Nam Kinh, ở nhà người bạn học họ Trần, Nhĩ Đông Trần[9], Trần Trí, về sau anh ta học Y, tôi ở trong nhà anh ta h́nh như hai học kỳ, tức một năm. Gia đ́nh anh ta là đa nguyên văn hóa, bà nội niệm Phật, trong nhà có tiểu Phật đường, niệm Phật, thắp nhang. Mẹ anh ta là tín đồ Cơ Đốc, cha là tín đồ đạo Hồi. Do vậy, tôi ở đấy một năm, đối với Cơ Đốc Giáo và đạo Hồi đều hiểu đôi chút, thường nghe các vị lăo nhân giảng giải. Hơn nữa, tôi rất thích đạo Hồi, đạo Hồi nói tới Ngũ Công[10], Ngũ Điển. Ngũ Điển là Ngũ Luân của Nho gia. V́ thế, đạo Hồi của Trung Quốc và văn hóa truyền thống Trung Quốc đă dung hợp thành một khối, vô cùng ôn ḥa. Sau này, tôi ở ngoại quốc, có một phái đạo Hồi tại Trảo Oa (Java) thuộc Ấn Ni (Indonesia) do Trịnh Ḥa[11] truyền qua, nên trong phái ấy có dấu ấn văn hóa Trung Quốc, vô cùng ôn ḥa. Trịnh Ḥa là tín đồ đạo Hồi, chủ nhân của ông ta là hoàng đế Vĩnh Lạc (Minh Thành Tổ), [nhà vua] là một Phật tử kiền thành, cho nên Trịnh Ḥa cũng quy y Phật giáo, ông ta cũng truyền đạo Hồi. Một chi phái đạo Hồi ở Tô Môn Đáp Lạp (Sumatra) của Ấn Ni do Trung Đông truyền qua, so ra mạnh mẽ, hung hăn, khác hẳn phái đạo Hồi tại Trảo Oa. V́ thế, vùng Nam Dương chịu ảnh hưởng rất lớn từ Trịnh Ḥa măi cho đến hiện thời đă sáu trăm năm mà vẫn c̣n thấy những hiệu quả ấy.

      Khi ấy, tôi biết ăn uống trong đạo Hồi được t́m hiểu kỹ hơn b́nh thường. Người b́nh thường chúng ta chỉ biết vệ sinh, sinh là sinh lư, ăn uống nhằm bảo vệ sinh lư ấy, đó là vệ sinh. Đạo Hồi không chỉ biết vệ sinh, mà c̣n biết vệ tánh, tánh là ǵ? Tánh t́nh. Chúng ta tánh t́nh ôn nhu có liên quan tới ăn uống. Do vậy, phàm những động vật hay thực vật có tánh t́nh bất hảo họ cũng không ăn. Năm ấy, tôi hiểu được một đạo lư như thế. Sau này, tiếp xúc Phật pháp, Phật pháp chọn lựa cách ăn chay, giảng ba điều: Phật giáo không chỉ biết vệ tánh, mà c̣n biết vệ tâm, “tâm” là tâm từ bi. Do vậy, ẩm thực trong nhà Phật là vệ sinh, vệ tánh, vệ tâm, đây là đạo dưỡng sanh rất viên măn, tôi vừa tiếp xúc bèn tiếp nhận. Tôi ăn chay đến năm nay là năm mươi chín năm, sang năm tṛn một giáp, khỏe mạnh, suốt đời chẳng bị bệnh. Tôi tham gia nhiều hội nghị quốc tế, người ta hỏi tôi nhiều nhất là: “Pháp sư! Thầy dùng phương pháp dưỡng sanh nào?” Tôi bảo họ: “Ăn chay, tâm thanh tịnh. Tôi chẳng có đạo dưỡng sanh nào khác!” Chỉ là ăn chay, tâm thanh tịnh. Tận hết sức tránh né ô nhiễm bên ngoài, ô nhiễm vật chất, ô nhiễm tinh thần, tận hết sức tránh né, mỗi ngày thân cận cổ thánh tiên hiền, đấy là t́nh trạng sinh hoạt mỗi ngày của tôi. Họ thấy thân thể tôi khỏe khoắn đều rất hâm mộ. Đấy là v́ người khác thuyết pháp, tuy họ không hiểu Phật giáo, cũng không mong học Phật, thấy thân thể tôi khỏe mạnh, mong học theo tôi. Tôi sẽ dạy họ một chiêu, vô cùng hữu hiệu. Lớn nhất là A Di Đà Phật đă kiến lập một đạo tràng tu hành cho chúng ta là thế giới Cực Lạc. Thế giới ấy vô cùng viên măn. Trong bộ kinh này, giới thiệu Tây Phương Cực Lạc thế giới, giới thiệu lịch sử và trạng huống trong cơi ấy, trạng huống sinh hoạt, giới thiệu thành quả giáo học bên ấy. Đương nhiên phương pháp tốt nhất là di dân sang Tây Phương Cực Lạc thế giới, thân cận A Di Đà Phật, nơi ấy là chốn đạt được thường lạc rốt ráo.

      “Bồ Đề thị tất cánh thường lạc xứ” (Bồ Đề là chỗ thường lạc rốt ráo), quư vị phải ghi nhớ, Bồ Đề là tiếng Ấn Độ, dịch sang nghĩa tiếng Hán là giác ngộ, thật sự giác ngộ là chốn thường lạc rốt ráo. Trái lại, mê mà chẳng giác chính là thật sự thường khổ, lục đạo luân hồi do mê hoặc, điên đảo tạo thành, là một cơn ác mộng. Giác ngộ là quư vị tỉnh lại. “Nhược bất linh nhất thiết chúng sanh đắc tất cánh thường lạc giả, tắc vi Bồ Đề môn” (nếu chẳng làm cho hết thảy chúng sanh được rốt ráo thường lạc sẽ là trái nghịch môn Bồ Đề). Câu này nói rất hay, đối với hết thảy chúng sanh, nếu chính ḿnh đă đạt được, mà chẳng giúp cho người khác đạt được, đấy chính là trái phạm Bồ Đề. Chính chúng ta đă đạt được, bèn có nghĩa vụ giúp cho hết thảy chúng sanh đều đạt được. Chính chúng ta hướng tới thế giới Cực Lạc, sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, th́ phải giúp hết thảy chúng sanh đều đến thế giới Cực Lạc. Nơi ấy có hoàn cảnh khác nơi đây, con người bên ấy là hóa sanh, chẳng phải là thai sanh, nên chẳng có sanh khổ. Người bên ấy vô lượng thọ, Đối với vô lượng thọ, nay chúng ta biết: Tâm thái của quư vị giữ được mức b́nh thường nhất định, thân thể sẽ chẳng dấy lên biến hóa, gọi là thân Kim Cang bất hoại. Thân Kim Cang bất hoại chẳng hiếm lạ chút nào! Quư vị hiểu rơ đạo lư này, có căn cứ lư luận, chỉ cần quư vị có thể không khởi tâm, không động niệm, chẳng phân biệt, chẳng chấp trước, tế bào trong thân thể quư vị sẽ chẳng biến đổi, vĩnh viễn giữ được sự b́nh thường. Nếu quư vị có phiền năo, không được rồi, nó sẽ dấy lên biến hóa; có tham, sân, si, nó bèn biến hóa to lớn. V́ thế, chẳng khởi tâm, không động niệm, vĩnh viễn giữ ǵn b́nh thường. Ở bên Tây Phương Cực Lạc thế giới, A Di Đà Phật gia tŕ quư vị, mỗi ngày chỉ dạy bên ấy, hướng dẫn quư vị, quư vị sẽ chẳng khởi tâm động niệm, muôn h́nh muôn vẻ trong vũ trụ, tánh, tướng, sự, lư, nhân, quả đều giảng thấu triệt cho quư vị. Quư vị đều minh bạch rồi, chẳng c̣n khởi tâm động niệm nữa, thế giới Cực Lạc h́nh thành như vậy đó, là một pḥng học tốt. “Cố linh nhất tâm chuyên chí, nguyện sanh bỉ quốc, dục sử tảo hội vô thượng Bồ Đề dă” (v́ thế, khiến cho nhất tâm chuyên chí, nguyện sanh sang cơi kia, khiến cho mau đắc vô thượng Bồ Đề). “Hội” () là quư vị đạt được, chứng đắc, chữ Hội có ư nghĩa này. Hôm nay hết thời gian rồi, chúng ta học tập tới đây.

Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa

Phần 12 hết

 



[1] Giáp Cốt Văn, nói đầy đủ là Quy Giáp Thú Cốt Văn (văn tự trên mai rùa, xương thú vật), chủ yếu chỉ những ghi chép, lời bói toán được khắc trên yếm rùa, mai rùa, xương thú thời Ân Thương. Đây là h́nh thức văn tự sớm nhất của Trung Quốc, là thủy tổ của chữ Hán hiện thời. Giáp Cốt Văn được phát hiện tại di chỉ Ân Khư (An Dương, Hà Nam).

[2] Hư tuế: Ta thường gọi là “tuổi ta”, tức là tính luôn năm sinh là một tuổi, chứ không đợi đến ngày sinh nhật năm sau.

[3] Nguyên văn là A Hoanh (阿訇), đây là phiên âm của chữ Akhoond (Akhund, Akhwand), một từ ngữ có gốc từ tiếng Ba Tư, thường sử dụng tại Iran, A Phú Hăn, Azerbaijan và trong cộng đồng Hồi tộc (Dungans) tại Trung Hoa. Akhoond tương ứng với chữ Imam trong tiếng Ả Rập. Akhoond giữ vai tṛ hướng dẫn cầu nguyện, cử hành nghi lễ tôn giáo, dạy học trong các trường Hồi giáo. Điều đáng ngạc nhiên là hiện thời tại Iran, quê hương của từ ngữ Akhoond, từ Akhoond được coi như một từ ngữ mang nặng tính chất xúc phạm để chỉ những giáo sĩ đạo đức giả, kém cỏi, dốt nát, bại hoại!

[4] Koran (Quran, Qur’an, Alcoran, al-Qur’ān) là kinh thánh của đạo Hồi, được coi là lời dạy trực tiếp từ Thượng Đế được thiên sứ Jibril (Gabriel) truyền cho tiên tri Mahomed trong ṿng hai mươi ba năm kể từ năm 610 trước Công Nguyên khi Mohamed tṛn 40 tuổi. Koran được biên tập bởi Caliph Abu Bakr một thời gian ngắn sau khi Mohamed chết. Truyền thống đạo Hồi tin Mohamed được trao truyền kinh Koran tại hang Hira trong vùng núi hoang.

[5] Sáu tầng trời trong Dục Giới là Tứ Vương Thiên, Đao Lợi Thiên, Diễm Ma Thiên, Đâu Suất Thiên, Hóa Tự Tại Thiên, Tha Hóa Tự Tại Thiên.

[6] Tam Công là ba chức quan phù tá tối cao của nhà vua, được thiết lập từ đời Châu, gồm Thái Sư, Thái Phó, Thái Bảo. Đến đời Hán, Tam Công là Thừa Tướng (về sau đổi thành Đại Tư Đồ), Thái Úy, Ngự Sử Đại Phu (về sau đổi thành Đại Tư Không). Nhà Hậu Hán gọi Thái Úy, Tư Đồ, Tư Không là Tam Công. Đến đời Tống Huy Tông, lại đổi Tam Công thành Thái Sư, Thái Phó, Thái Bảo. Về sau, với sự h́nh thành lục bộ và vai tṛ ngày càng lớn của Tể Tướng, Tam Công chỉ c̣n là chức quan danh dự tặng cho các vị cố vấn cao cấp.

[7] Bốn nền văn minh cổ nổi tiếng nhất và sớm nhất trên thế giới là Cổ Ai Cập, văn minh lưu vực Lưỡng Hà (Mesopotamia), Cổ Ấn Độ và Cổ Trung Quốc. Đây là khái niệm do Lương Khải Siêu đưa ra trong bài xă luận Nhị Thập Thế Kỷ Thái B́nh Dương Ca. Nếu theo quan điểm Tây Phương th́ văn minh cổ không chỉ gồm bốn quốc gia này mà c̣n phải kể văn minh Babylon, văn minh Cổ Hy La (Hy Lạp - La Mă), văn minh của thổ dân châu Mỹ v.v...

[8] Triệu Phác Sơ (1907-2000) là một nhân vật đặc biệt của Trung Quốc, ông là một nhà hoạt động xă hội, lănh tụ tôn giáo, thi nhân, chuyên gia thư pháp, đồng thời là một cư sĩ Phật giáo hữu danh. Ông quê ở huyện Thái Hồ, tỉnh An Huy, từng đảm nhiệm chức vụ Hội Trưởng Hội Phật Giáo Trung Quốc, kiêm chủ tịch hội nhà văn Trung Quốc, Hội Trưởng Danh Dự của hội Hồng Thập Tự Trung Quốc.

[9] Họ Trần () đọc theo âm Quan Thoại là Chén, nhưng đồng thời các họ (Thẩm), (Trầm), cũng có cùng âm đọc, nên ḥa thượng nói rơ là Nhĩ Đông Trần (để người ghi lại văn tự đừng chép sai), tức là bộ Phụ ghép với chữ Đông. Do bộ Phụ viết tắt có h́nh dáng giống như cái tai nên nói là Nhĩ Đông Trần.

[10] Ngũ Công (Arkān-al-Islām) chính là năm tín điều căn bản của tín đồ đạo Hồi, bao gồm:

1. Tín niệm (Shahada), tức chỉ tin vào một Chúa là Allah và chấp nhập Mohamed là tiên tri của Chúa Allah.

2. Cầu nguyện (Salat): Thực hành năm thời cầu nguyện mỗi ngày: b́nh minh, hoàng hôn, giữa ngọ, giữa chiều, tối.

3. Trai giới (Sawm): Tức mùa chay Ramadan. Trong mùa chay, tín đồ Hồi giáo nhịn ăn từ lúc mặt trời mọc cho đến khi mặt trời lặn, hoàn toàn kiêng ăn uống, rượu chè, hút thuốc, kiêng quan hệ xác thịt từ lúc mặt trời mọc đến mặt trời lặn trong suốt tháng Ramadan. Chỉ có trẻ con, người già, người bị bệnh tật, có thai hay đang cho con bú mới được miễn trai giới trong tháng Ramadan.

4. Bố thí (Zakat): Trích 2,5% thu nhập của ḿnh để giúp người nghèo khó. Khi cho mượn tiền, không được lấy tiền lời. V́ thế, có những kẻ lách luật bằng cách cho vay nợ, rồi đ̣i hỏi người mượn phải tặng quà để tỏ ḷng “biết ơn”. Cái gọi là “tặng quà” ấy thật ra là tiền lời.

5. Hành hương (Haji): Mỗi tín đồ được khuyến khích hành hương ít nhất một lần trong đời đến thánh địa Mecca trong tháng Dhu al-Hijjah theo lịch Hồi giáo, tức tháng Mười Hai trong lịch Hồi Giáo.

[11] Thái giám Trịnh Ḥa là thái giám thân tín của Minh Thành Tổ, vốn có tên thật là Mă Tam Bảo, theo đạo Hồi. Tổ tiên từ Bukhara (thuộc Uzbekistan hiện thời) di cư đến Vân Nam, Trung Hoa. Khi quân Minh chiếm Vân Nam đă bắt được ông khi c̣n là một cậu bé con, bèn đem hoạn, đưa vào cung hầu hạ hoàng tử Châu Lệ (Minh Thành Tổ). Châu Lệ đă đổi tên ông thành Trịnh Ḥa. Trong chính sách “viễn giao, cận công” (xa th́ ngoại giao, gần th́ đánh) của nhà Minh, ông đă được vua sai hướng dẫn thương thuyền đi khắp Đông Nam Á kết giao, phô trương thanh thế.