Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa

淨土大經解演義

Phần 13

Chủ giảng: Lăo pháp sư Tịnh Không

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Thời gian: Ngày 5 tháng 04 năm 2010

Địa điểm: Hương Cảng Phật Đà Giáo Dục Hiệp Hội

 Giảo duyệt: Minh Tiến, Huệ Trang và Đức Phong

 

Tập 25

 

Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang hai mươi bốn, ḍng thứ năm từ dưới đếm lên, xem từ đầu.

      “Hựu Hải Đông Nguyên Hiểu sư Tông Yếu vân: - Phát Bồ Đề tâm, thị minh chánh nhân” (Lại nữa, trong bộ Tông Yếu, ngài Nguyên Hiểu xứ Hải Đông nói: “Phát Bồ Đề tâm là chỉ rơ chánh nhân”). Nguyên Hiểu đại sư là người Đại Hàn, trong phần trước, chúng tôi đă giới thiệu sơ lược. Tông Yếu là tên gọi bản chú sớ của lăo nhân gia nhằm giảng giải kinh Vô Lượng Thọ, tức là chú giải kinh Vô Lượng Thọ. Ở đây, Ngài nói “phát Bồ Đề tâm” nhằm chỉ rơ chánh nhân; các tổ sư đại đức đều nhấn mạnh tính chất trọng yếu của phát Bồ Đề tâm. Nếu chẳng phát Bồ Đề tâm, sẽ như Thiện Đạo đại sư đă nói, tới cuối cùng chẳng thể văng sanh Tịnh Độ! Do vậy, chúng ta phải coi trọng hai nguyện trong bốn mươi tám nguyện, chứ chẳng phải chỉ là một nguyện. Nhiều người coi trọng nguyện thứ mười tám, [không chú ư đến nguyện thứ mười chín]. Nguyện thứ mười tám là “mười niệm ắt văng sanh”; nguyện thứ mười chín nói “phát Bồ Đề tâm” và [hết thảy những ai] sanh về thế giới Cực Lạc đều là A Duy Việt Trí Bồ Tát, nguyện thứ mười chín giảng những điều này. Trong Yếu Giải, Ngẫu Ích đại sư đă giảng rất hay, Ngài nói có thể văng sanh hay không hoàn toàn do có tín nguyện hay không. Quư vị có ḷng tin sâu xa, nguyện thiết tha th́ sẽ văng sanh; có thể thấy sự trọng yếu của phát Bồ Đề tâm! Công phu niệm Phật sâu hay cạn sẽ giúp quư vị nâng cao phẩm vị sau khi văng sanh thế giới Cực Lạc. Nếu niệm Phật chẳng có công phu, nhưng thật sự có ḷng tin sâu đậm, nguyện thiết tha, nguyện ấy là Bồ Đề tâm, thật sự có tâm độ chúng sanh, thật sự có tâm làm Phật, khi lâm chung, một niệm hay mười niệm đều có thể văng sanh. Khai thị này vô cùng trọng yếu, chúng ta nhất quyết chớ nên xem thường!

Tiếp theo đó, sách giảng rơ Bồ Đề tâm. “Hựu vân phát Bồ Đề tâm hữu nhị” (lại nói phát Bồ Đề tâm có hai loại), điều “lại nói” ấy vẫn ở trong sách Tông Yếu.

1) Thứ nhất là “tùy sự phát tâm, phiền năo vô biên, nguyện tất đoạn chi. Thiện pháp vô lượng, nguyện tất tu chi. Chúng sanh vô biên, nguyện tất độ chi. Thử tâm quả báo, tuy tại Bồ Đề, nhi kỳ hoa báo tại ư Tịnh Độ” (phát tâm theo mặt Sự, phiền năo vô biên, nguyện đều đoạn hết; thiện pháp vô lượng, nguyện đều tu trọn; chúng sanh vô biên, nguyện đều độ hết. Tâm này tuy có quả báo là Bồ Đề, nhưng hoa báo của nó là Tịnh Độ). Điều này cũng nói rất hay, chúng ta đọc đoạn này, liền biết đó là Tứ Hoằng Thệ Nguyện: “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ, phiền năo vô tận thệ nguyện đoạn, pháp môn vô lượng thệ nguyện học, Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành”, đấy là Tứ Hoằng Thệ Nguyện. Trong đoạn [vừa trích dẫn từ sách Tông Yếu trên đây] đă nhắc tới ba nguyện, nói tới ba điều ấy. Quả báo của sự phát tâm tuy là Bồ Đề, Bồ Đề là Chánh Giác, Bồ Đề là Chánh Đẳng Chánh Giác, nhưng hoa báo thuộc về Tịnh Độ. Nói cách khác, quả báo là thành tựu vô thượng Bồ Đề tại Tịnh Độ, tới Tây Phương Cực Lạc thế giới để thành tựu nguyện cuối cùng, “Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành”, đấy là quả báo viên măn rốt ráo. “Sở dĩ nhiên giả” (nguyên nhân là), đây là trả lời câu hỏi đă nêu, “Bồ Đề tâm lượng, quảng đại vô biên, trường viễn vô hạn” (tâm lượng Bồ Đề rộng lớn vô biên, dài lâu vô hạn). Bồ Đề tâm là giác tâm viên măn trong tự tánh. Trong kinh Hoa Nghiêm, đức Thế Tôn đă dạy chúng ta: “Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng của Như Lai”, Bồ Đề tâm là trí huệ. Nói thật ra, một tức là hết thảy, hết thảy tức là một; nói đến trí huệ th́ đương nhiên đức năng và tướng hảo được bao gồm trong ấy, một tức là nhiều, nhiều tức là một. Trước hết, nói tới tâm lượng th́ tâm lượng rộng lớn vô biên là nói về không gian, chẳng có ngằn mé, không ǵ lớn mà ra ngoài được! “Trường viễn vô hạn” (dài lâu vô hạn) là nói tới thời gian. [Thời gian và không gian] đều là vô lượng, vô biên, vô tận, vô hạn. V́ thế, trong Đại Thừa thường nói một câu như sau, đó là sự thật, chẳng giả: “Tâm bao thái hư, lượng châu sa giới”, lời này là thật. Tâm Phật là như thế, mà tâm của mỗi chúng sanh chúng ta cũng đều như thế, chẳng có mảy may sai biệt nào! Nay dường như trong vô sai biệt có sai biệt, là v́ lẽ nào? Mê mất tự tánh. Do vậy, trong vô sai biệt hiện ra sai biệt. Đối với người giác ngộ, chẳng cần nói tới bậc Viên Giác, Viên Giác là Phật, Đại Giác là Bồ Tát, trong cảnh giới của họ, sai biệt chính là vô sai biệt. V́ sao? Đại Bồ Tát nhập pháp môn Bất Nhị, chúng ta có hai, ba, các Ngài không có. Chúng ta có một và nhiều, các Ngài cũng chẳng có. Chúng tôi hỏi lần nữa: “V́ sao? V́ lẽ ǵ?” Nếu chúng ta thật sự hiểu rơ, trong Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán, Hiền Thủ quốc sư đă giảng về ba thứ “châu biến” (trọn khắp), quư vị chưa hiểu rơ hay sao? Đó là cảnh giới Hoa Nghiêm viên măn. Bất luận chánh báo hay y báo, hiện thời các khoa học gia nói tất cả hết thảy hiện tượng là hiện tượng dao động, thuyết ấy rất có lư. Các khoa học gia cận đại nói trong vũ trụ thứ ǵ cũng đều không có, mà là dao động. Hiện tượng tinh thần do dao động h́nh thành, hiện tượng vật chất cũng do dao động h́nh thành, muôn h́nh muôn vẻ khác biệt là do tần số [dao động] khác nhau. Cách nói này tương ứng với những điều được giảng trong kinh Phật, tương ứng với ba thứ “châu biến”: “Châu biến pháp giới, xuất sanh vô tận”. Câu nói kế tiếp quả thật là tâm bao thái hư, lượng châu sa giới, “chứa đựng Có và Không”.

      “Cố năng cảm đắc quảng đại vô tế y báo Tịnh Độ, trường viễn vô lượng chánh báo thọ mạng” (v́ thế, có thể cảm được Tịnh Độ y báo rộng lớn không ngằn mé, chánh báo có thọ mạng dài lâu vô lượng), hai câu cuối này hay quá! “Trừ Bồ Đề tâm, vô năng đương thử” (trừ Bồ Đề tâm ra, không ǵ có thể như vậy được). Câu này có nghĩa là y báo và chánh báo trang nghiêm trọn khắp pháp giới hư không giới do đâu mà có? Cụ Hoàng nói là do Bồ Đề tâm mà có. Bồ Đề tâm là ǵ? Kiến văn giác tri. Trong tự tánh, đoạn hết tập khí vô minh sẽ trở về Thường Tịch Quang, trong ấy không có hiện tượng vật chất, mà cũng chẳng có hiện tượng tinh thần. Do vậy, có những người hỏi tôi: Nếu họ chẳng khởi tâm, không động niệm, họ c̣n có tri giác hay chăng? Họ có tri giác th́ chẳng phải là khởi tâm động niệm ư? Không khởi tâm, không động niệm, làm sao họ có tri giác được? Họ có những thứ ấy! Thật sự là chẳng có hiện tượng tinh thần và vật chất, nhưng họ có kiến văn giác tri. Kiến văn giác tri là trí huệ Bát Nhă trong tự tánh, nó bất sanh, bất diệt, v́ nó chẳng phải là vật chất, mà cũng chẳng phải là tinh thần. Vật chất và tinh thần đều là pháp sanh bởi các duyên, chúng ta nói tinh thần là ǵ? Là Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Nếu một niệm vọng động, kiến văn giác tri sẽ biến thành Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Có Thọ, Tưởng, Hành, Thức th́ từ trong Thọ, Tưởng, Hành, Thức sẽ biến hiện hiện tượng vật chất. Đó chính là những điều người ấy cảm thụ, suy nghĩ, phán đoán, nhận biết, tự nhiên biến hiện ra! V́ thế, trọn khắp pháp giới hư không giới, lục đạo chúng sanh trong hết thảy các cơi Phật, cũng có thể nói là bao gồm cả mười pháp giới, hễ chúng sanh có cảm, sẽ tự nhiên có ứng, sống động, hoạt bát, chẳng phải là chết cứng! Khi họ cảm, sẽ hiện tướng, chẳng phải do khởi tâm động niệm bèn hiện tướng, mà do cảm ứng bèn hiện tướng. Tuy hiện tướng, vẫn chẳng khởi tâm động niệm, hoàn toàn do tự tánh khởi tác dụng, chẳng thể nghĩ bàn! Chúng ta muốn lư giải nó, sẽ trật lất, quư vị chẳng thể lư giải được, v́ sao? Quư vị vận dụng tâm ư thức, nhưng tâm ư thức chẳng thể duyên tự tánh. Phải làm sao mới có thể duyên được? Buông tâm ư thức xuống, nó sẽ hiện tiền, lập tức chính là [tự tánh]. Trong pháp Đại Thừa, đấy chính là cảnh giới tối cao trong Thiền Tông hay trong bất luận tông phái nào! Hai câu cuối cùng ư nói: Trừ Bồ Đề tâm ra, không điều ǵ có thể đảm đương chuyện này! Quả thật đă nêu ra căn bản, đó là trí huệ Bát Nhă vốn sẵn có trong tự tánh. Đó là “tùy Sự” (xét theo mặt Sự) [để luận định Bồ Đề tâm].

      2) Kế đó, điều thứ hai là “thuận Lư phát tâm, tín giải chư pháp giai như huyễn mộng, phi hữu, phi vô, ly ngôn, tuyệt lự” (Thuận theo Lư để phát tâm, tin hiểu các pháp đều như huyễn mộng, chẳng phải có, chẳng phải không, ĺa ngôn ngữ, dứt suy lường). Đoạn văn này khá dài, chúng ta xem trước câu này. Trước hết, quư vị phải tin tưởng, chớ nên hoài nghi, nghi là chướng ngại lớn nhất của Bồ Tát, đó là hoài nghi. V́ sao chúng ta học Phật tu hành chẳng thể thành tựu? Nói thật ra, có mấy ai thật sự tin Phật? Tin Phật suốt một đời, nhưng đối với Phật vẫn đánh dấu hỏi: “Rốt cuộc là thật sự có Phật hay chăng?” Ai có thể chẳng có mảy may nghi hoặc nào? [Nếu chẳng có mảy may nghi hoặc nào], sẽ là chân tín; người chân tín chắc chắn sẽ y giáo phụng hành, quả báo chẳng thể nghĩ bàn! Chúng ta hoài nghi Phật, quư vị nói xem: Không tin mà vẫn cứ khăng khăng là tin; quư vị nói “hăy tin tưởng thật sự”, kẻ ấy làm không được. Do vậy, Phật pháp đúng là khó khăn! Phật pháp đúng là “biết khó, hành dễ”, cái “biết” ấy là ǵ vậy? Chẳng nghi mới là biết! Hễ có nghi, sẽ chẳng biết. Tuy biết, nhưng chẳng thấu triệt, thô trược lắm! Chân tín sẽ chân giải; v́ vậy, tín và giải liên quan với nhau. Bọn phàm phu chúng ta thật sự hiểu rơ, minh bạch, nên tin tưởng, đó là căn tánh trung hạ. Nếu chẳng hiểu rơ ràng, minh bạch, mà lại thật sự tin tưởng th́ người ấy khó có lắm, v́ sao? Người ấy có thể khăng khăng một mực tu hành, sẽ thành tựu. Cổ nhân Trung Quốc gọi hai hạng người ấy là “thượng trí, hạ ngu”, được bao nhiêu người? Thượng trí cũng chẳng nhiều, hạ ngu cũng chẳng lắm! Tuy hạ ngu chẳng thể thông hiểu, nhưng quư vị dạy họ, họ sẽ khăng khăng một mực tu tập thật sự. Bảo họ niệm Phật, họ niệm đôi ba năm liền thật sự văng sanh, tướng lành hiếm có. Họ có hiểu đạo lư trong kinh hay chăng? Chẳng hiểu! Người đồ đệ làm nghề vá nồi của lăo ḥa thượng Đế Nhàn là loại người này, khi ông ta văng sanh, lăo ḥa thượng tán thán: “Hy hữu!” Ngài tán thán sự thành tựu của ông ta: “Pháp sư giảng kinh, thuyết pháp, trụ tŕ phương trượng của các đạo tràng nơi danh sơn chẳng bằng ông, chẳng sánh bằng ông”. Lời tán thán của lăo ḥa thượng là thật, chẳng giả. Đứng mất, lại c̣n đứng suốt ba ngày, chờ pháp sư Đế Nhàn đến lo liệu hậu sự thay cho ông ta. Người b́nh thường chẳng thể làm được!

      V́ vậy, tín giải! “Chư pháp” là hết thảy các pháp do đức Phật đă nói đều như huyễn mộng, chẳng phải là thật. Thật sự tin tưởng, thật sự lư giải, đối với hết thảy các pháp, quư vị quyết định chẳng chấp trước, mà cũng quyết định chẳng phân biệt, thậm chí đối với hết thảy các pháp chẳng khởi tâm, chẳng động niệm, quư vị bèn đắc tam-muội. Hết thảy các pháp “phi hữu, phi vô”, chẳng thể nói chúng là có, mà cũng chẳng thể nói chúng là không! Quư vị nói chúng là không th́ chúng có tướng. Quư vị nói chúng là có, tướng ấy chẳng tồn tại, chỉ là một thứ tướng gần như liên tục hết sức ngắn ngủi, tạm bợ, chẳng tồn tại. Chúng ta xem phim, trước đây phim được chiếu bằng máy đèn soi, mỗi giây thay đổi hai mươi bốn tấm, từng tấm được chiếu chẳng ngừng. Mỗi giây là hai mươi bốn tấm, thời gian mỗi tấm [được chiếu lên màn bạc] là một phần hai mươi bốn giây. Quư vị c̣n chưa nghĩ kịp th́ nó đă thay đổi rồi! Pháp sanh diệt ấy có tốc độ sanh diệt quá nhanh! Di Lặc Bồ Tát bảo một cái khảy ngón tay, chẳng phải là một giây,“trong một khảy ngón tay có ba mươi hai ức trăm ngàn niệm”, làm sao quư vị có thể nói nó là có? Làm sao quư vị có thể nói nó là không? Chân tướng sự thật là “phi hữu, phi vô”. “Ly ngôn, tuyệt lự”: Quư vị không có cách nào diễn tả. Hễ quư vị nói th́ thời gian đă trôi qua rất lâu rồi, chẳng biết nó đă đi đâu mất rồi! “Lự” () là suy tưởng; quư vị cũng chẳng thể suy nghĩ. V́ thế, nói “ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt”. “Ly ngôn” là ngôn ngữ đạo đoạn, “ly niệm”“tuyệt lự”, tâm hành xứ diệt! Ngôn ngữ và tư lự đều chẳng thể thấu đạt được! Đó là chân tướng của nó.

     “Y thử tín giải, phát quảng đại tâm” (nương vào sự tín giải ấy, phát tâm rộng lớn). Sự tín giải ấy đă được diễn tả trong bốn câu trước đó: “Tín giải chư pháp, giai như huyễn mộng, phi hữu, phi vô, ly ngôn, tuyệt lự” (tin hiểu các pháp đều như huyễn mộng, chẳng phải có, chẳng phải không, ĺa ngôn ngữ, dứt suy lường); bốn câu ấy đă nêu bày chân tướng của hết thảy các pháp. “Phát quảng đại tâm” là ǵ? Chân tâm hiện tiền, quư vị đối với hết thảy các pháp cũng chẳng c̣n khởi tâm, động niệm, phân biệt, chấp trước nữa, khi ấy chính là “phát quảng đại tâm”. Quảng đại tâm là ǵ? Chính là như trong phần trước đă nói: Tâm độ chúng sanh, tâm đoạn phiền năo, tâm học pháp môn. “Tuy bất kiến hữu phiền năo, thiện pháp” (tuy chẳng thấy có phiền năo hay thiện pháp), phiền năo là bất thiện, chẳng trụ vào hai bên thiện và bất thiện, nhưng như thế nào? Tâm thái của quư vị là “nhi bất bát vô đoạn khả tu” (nhưng chẳng gạt bỏ “không có ǵ để có thể đoạn, không có ǵ để có thể tu”), quư vị vẫn rất sốt sắng đoạn ác tu thiện. Quư vị biết “không có phiền năo để đoạn”, nhưng vẫn đoạn trong ấy. Quư vị biết “cũng chẳng có thiện pháp để tu”, nhưng vẫn tu trong ấy. Đối với hai câu này, Hoàng lăo cư sĩ đă mở dấu ngoặc để chú giải, sợ chúng ta nghe không hiểu, đúng là từ bi! “Bất bát vô tức bất bài trừ chi ư, bát giả, bài dă, vô giả, trừ dă” (“Bất bát” nghĩa là chẳng bài trừ. Bát () là gạt bỏ, Vô () là trừ bỏ đi). V́ thế, câu trên đây có nghĩa là: “Tuy bất kiến phiền năo dữ thiện pháp, đản nhưng hữu khả tu dữ khả đoạn” (tuy chẳng thấy có phiền năo và thiện pháp, nhưng vẫn có cái thể tu và cái có thể đoạn), v́ sao? “Thị cố, tuy nguyện tất đoạn, tất tu, nhi bất vi ư Vô Nguyện tam-muội” (do vậy, tuy nguyện ắt đoạn, ắt tu, nhưng chẳng trái nghịch Vô Nguyện tam-muội). Vô Nguyện tam-muội là Đại Tam Không tam-muội. Chính ḿnh đă nhập cảnh giới ấy, nhưng vẫn phải tu. Đối với chính ḿnh mà nói th́ đă phá tập khí vô minh, nêu gương tốt cho chúng sanh, cũng giống như diễn tuồng, biết diễn tuồng là giả, vẫn diễn rất thật! V́ sao? Diễn cho kẻ khác coi, khiến cho kẻ khác sau khi xem sẽ bị cảm động mà giác ngộ. Đây là nói rơ chư Phật, Bồ Tát ứng hóa trên thế gian, hiện thân, hành động đều hoàn toàn nhằm giúp đỡ chúng sanh. Nếu trong cảnh giới ấy, ta chẳng mong muốn, nát thân diệt trí th́ sẽ biến thành Tiểu Thừa. Đại Thừa và Tiểu Thừa khác nhau ở chỗ này!

      Tiểu Thừa A La Hán kết thúc nơi cảnh giới ấy, chẳng muốn thị hiện nữa, có được hay chăng? Không được! V́ sao không được? Chưa đoạn xong tập khí vô thỉ vô minh. Quư vị hăy nghĩ xem, đấy là đạo lư ǵ? Muốn đoạn tập khí vô thỉ vô minh, quư vị phải học như Phật, Bồ Tát: Vô vi, mà không ǵ chẳng làm, không ǵ chẳng làm mà vô vi. Hai câu này chẳng phải là có cùng một ư nghĩa với câu “nhập pháp môn Bất Nhị” như đức Phật thường nói ư? Nhập pháp môn Bất Nhị mới là Đại Thừa Bồ Tát. Đối với chính ḿnh mà nói th́ mới có thể đoạn hết bốn mươi mốt phẩm tập khí vô minh. Sau khi phá vô minh, theo kinh Hoa Nghiêm, hàng Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo phá vô minh cũng là không khởi tâm, không động niệm, nhập cảnh giới ấy. Chúng ta nghĩ: Người đạt tới mức chẳng khởi tâm, không động niệm, đương nhiên chẳng có phân biệt, chấp trước, lấy đâu ra bốn mươi mốt tầng cấp! Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, há có những thứ ấy? Đă có những thứ ấy, chẳng phải là lại có phân biệt, chấp trước hay chăng? V́ thế, trong hội giảng kinh Hoa Nghiêm, chúng tôi đă nói rất minh bạch với các đồng học, có bốn mươi mốt tầng cấp Bồ Tát hay chăng? Không có! Cảnh giới Hoa Nghiêm là cảnh giới b́nh đẳng, lấy đâu ra bốn mươi mốt tầng cấp? V́ sao đức Phật nói bốn mươi mốt tầng cấp? Chính là nói tập khí khởi tâm động niệm chưa đoạn, chứ thật ra chẳng có khởi tâm động niệm! Xác thực là chẳng có! Vẫn c̣n có tập khí khởi tâm động niệm, đấy là vi tế vô minh. Vi tế vô minh rất khó đoạn, không có cách nào đoạn trừ! V́ thế, tu hành trong cảnh giới ấy được gọi là “vô công dụng đạo”, cổ nhân thường nói “chẳng thể dùng sức trong ấy!” Hễ dùng sức, toàn bộ vọng tưởng, phân biệt, chấp trước đều dấy lên!

      Trong cảnh giới ấy, nói cách khác, quư vị nói ra sao th́ phải làm như vậy. Trong quá khứ, khi tu nhân, quư vị đă từng phát nguyện độ chúng sanh, nay quư vị thành Phật, cớ sao chẳng độ chúng sanh? Quư vị nói ra sao th́ phải làm như vậy, phải thực hiện; khi ấy chính là lúc quư vị thực hiện! Tuy thực hiện, nhưng chẳng khởi tâm động niệm. Hễ chúng sanh cảm, Phật, Bồ Tát liền ứng, cảm ứng đạo giao. Chúng sanh có cảm, Phật bèn vô tâm ứng. Ngài chẳng khởi tâm động niệm, chẳng có phân biệt, chẳng có chấp trước mà ứng. Tuy ứng, vẫn là chẳng khởi tâm, không động niệm, chẳng phân biệt, chẳng chấp trước. Hiện thân là như thế, mà thuyết pháp cũng như thế. V́ vậy, Thích Ca Mâu Ni Phật nói Ngài giảng kinh bốn mươi chín năm, nhưng chẳng nói một chữ nào! Chúng ta nghe lời ấy chẳng hiểu, cớ sao chẳng nói một chữ nào? Hiện thời người ta đă ghi chép [những lời Phật dạy] thành một bộ Đại Tạng Kinh, nhưng Phật nói Ngài chẳng nói một chữ nào! Đúng là chẳng nói một chữ nào, v́ sao? Ngài chẳng khởi tâm động niệm, Ngài nói ǵ? Rất khó thấu hiểu cảnh giới ấy, nghe không hiểu! Rơ ràng là Ngài giảng kinh nhiều ngần ấy, cớ sao nói “ngay cả một chữ cũng chẳng nói?” V́ thế, đức Phật có một tỷ dụ thiện xảo, Ngài dùng chuông trống làm tỷ dụ. Quư vị gơ trống, dùng sức nện, âm thanh sẽ lớn. Gơ nhè nhẹ, âm thanh bèn nhỏ. Trống có khởi tâm động niệm hay không? Có phân biệt, chấp trước hay không? Không có! Gơ mạnh kêu to, gơ nhẹ kêu nhỏ, chẳng gơ sẽ chẳng kêu, đức Phật muốn chúng ta từ chỗ này mà lănh hội: Ngài thật sự không nói! Ngài nói là do lẽ nào? Do chúng sanh khởi tâm, động niệm, Ngài bèn tự nhiên phản ứng, Tánh Đức nơi tự tánh vốn là như vậy. Nếu không có phản ứng th́ sao? Không có phản ứng tức là chết cứng rồi. Ngài chẳng phải là chết cứng, mà là sống động, hoạt bát. V́ thế, đức Phật thuyết pháp giống như kinh Lăng Nghiêm đă nói: “Tùy chúng sanh tâm, ứng sở tri lượng”, [tức là] tùy tâm, ứng theo khả năng lănh hội [của thính chúng mà thuyết pháp].

Tiếp theo đó, “tuy nguyện giai độ vô lượng hữu t́nh, nhi bất tồn năng độ, sở độ” (tuy nguyện vô lượng hữu t́nh đều độ, nhưng chẳng có ư niệm thấy có kẻ hóa độ và người được hóa độ). Hễ có năng độ và sở độ, tức là quư vị khởi tâm động niệm. Có cái có thể hiện và cái được hiện, có người nói và pháp được nói th́ toàn bộ phân biệt, chấp trước sẽ dấy lên, quư vị là phàm phu, chẳng phải là thánh nhân. Chúng ta phải học theo thánh nhân, phải buông Năng và Sở xuống. Buông Năng và Sở xuống chính là nói “quyết định chẳng thể có chấp trước”. Trong cảnh giới, chẳng chấp trước có thân ta, chẳng chấp trước có thân người, buông tứ tướng xuống, vô ngă tướng, vô nhân tướng, vô chúng sanh tướng, vô thọ giả tướng, quư vị đạt được cái tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh khởi tác dụng hằng thuận chúng sanh, chúng sanh có chấp trước, nếu quư vị chẳng chấp trước, trong tâm họ sẽ nghĩ quư vị là dị loại, chẳng thể nào sống cùng với quư vị! Vậy th́ làm như thế nào? Phải thuận theo họ mà chấp trước, chấp trước giống hệt. Thuận theo họ chấp trước là hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức. Hằng thuận và tùy hỷ là có phân biệt, có chấp trước, nhưng công đức chẳng có phân biệt hay chấp trước. Có chấp trước là chẳng chấp trước, chẳng chấp trước là có chấp trước, quư vị nghe có hiểu hay không? Tuyệt diệu! Tuyệt diệu ở chỗ này! V́ thế, Bồ Tát ở nơi đâu cũng khiến cho hết thảy chúng sanh sanh tâm hoan hỷ, đúng là pháp hỷ sung măn. Lư này quả thật rất sâu, nghe không hiểu cũng chẳng sao, chẳng cần phải nghiên cứu, suy nghĩ nó, cứ nghe lần lượt nhiều lần. V́ thế, Thích Ca Mâu Ni Phật chẳng ngại phiền, giảng mỗi ngày, thường xuyên giảng. Nói chung, nghe măi sẽ có một ngày nào đó hoát nhiên khai ngộ. V́ sao hoát nhiên khai ngộ? Do huân tập lâu ngày! Quư vị thấy b́nh thường chính ḿnh huân tập phiền năo đă lâu, bèn sanh phiền năo; nay huân tập thánh giáo lâu ngày sẽ [có lúc] khai ngộ. V́ vậy, đừng sợ, cứ nghe cho nhiều; hiện thời thuận tiện, do [nghe măi] một đĩa CD mà có thể khai ngộ! Một đĩa CD nếu mỗi ngày nghe mười lần, nghe suốt ba năm, chắc chắn khai ngộ. Nghe một đĩa ấy suốt ba năm, tâm định rồi, quư vị đắc tam-muội, lẽ đâu chẳng khai ngộ? Chắc chắn khai ngộ! Ai nấy đều có phần, vấn đề là quư vị có chịu tin hay không? Quư vị có thể tin tưởng hay không? Quư vị có bằng ḷng làm như vậy hay không? Mấu chốt ở chỗ này! Chỉ cần bằng ḷng, Đại Thừa chẳng khó!

      “Như thị phát tâm, công đức vô biên. Thiết sử chư Phật cùng kiếp diễn thuyết bỉ chư công đức, do bất năng tận” (Phát tâm như thế, công đức vô biên. Giả sử chư Phật trọn hết một kiếp diễn nói công đức ấy, vẫn chẳng thể nói trọn). Lời này là thật, quư vị có thể chiếu theo những điều vừa nói trên đây để phát tâm, chúng sẽ giúp cho quư vị khai ngộ, giúp quư vị minh tâm kiến tánh. Công đức ấy quá to! Tiếp theo đó là một câu nói [yêu cầu hành nhân hăy] quên hết: “Cố năng tùy thuận ư Không, Vô Tướng, như kinh ngôn” (V́ thế, có thể tùy thuận Không, Vô Tướng, như kinh dạy), đấy là điều được nói trong kinh Kim Cang, “như thị diệt độ vô lượng chúng sanh, thật vô chúng sanh đắc diệt độ giả” (diệt độ vô lượng chúng sanh như thế, nhưng thật ra chẳng có chúng sanh nào được diệt độ). Câu này trích từ kinh Kim Cang. Trong thế gian, chư Phật, Bồ Tát diệt độ vô lượng chúng sanh, “diệt” là giúp chúng sanh diệt phiền năo, giúp chúng sanh đoạn phiền năo, giúp chúng sanh chứng Bồ Đề. Tuy giúp đỡ họ, chẳng chấp tướng. Chúng sanh chấp tướng, chứ Phật, Bồ Tát chẳng chấp tướng như thế. Các Ngài có thể tùy thuận Không, Vô Tướng. Vô Nguyện tam-muội như đă nói trong phần trước được gọi là Đại Tam Không tam-muội, tức là Không, Vô Tướng, Vô Nguyện. Nói cách khác, trong cuộc sống hằng ngày, trong lúc mặc áo, ăn cơm, đều tương ứng với Không, Vô Tướng, Vô Nguyện. Trong khi làm việc cũng tương ứng, trong đăi người tiếp vật cũng tương ứng, tương ứng với Đại Tam Không tam-muội, tương ứng với Kim Cang Bát Nhă. Các Ngài không ǵ chẳng làm, làm rất tích cực; tuy rất tích cực, chẳng để lại dấu vết nào. Đó là ǵ? Nói cách khác, làm mà không làm, không làm mà làm; làm và không làm là một, chẳng hai, thật sự nhập pháp môn Bất Nhị. V́ thế, đấy là công đức chân thật, vô biên công đức, hết thảy chư Phật diễn nói các công đức ấy bất tận, v́ sao? Công đức ấy xứng tánh, đạo lư ở chỗ này!

      Chúng ta xem đoạn tiếp theo. Trong đoạn Tông Thú này, lăo cư sĩ cũng nói rất nhiều, phân lượng rất lớn. “Hựu Quán Kinh vân, dục sanh bỉ quốc giả, đương tu tam phước” (lại nữa, Quán Kinh nói: “Muốn sanh về cơi ấy, hăy nên tu ba thứ phước”). Đối với phần [kinh văn] trích dẫn ở chỗ này, do cụ đang giảng về phát Bồ Đề tâm, nên chỉ trích dẫn điều thứ ba: “Tam giả, phát Bồ Đề tâm, thâm tín nhân quả, độc tụng Đại Thừa, khuyến tấn hành giả” (ba là phát Bồ Đề tâm, tin sâu nhân quả, đọc tụng Đại Thừa, khuyến khích hành giả). Phía trước c̣n có hai điều, ở đây, chúng tôi tiện dịp nói luôn: “Nhất giả, hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát, tu Thập Thiện Nghiệp” (một là hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng, từ tâm chẳng giết, tu Thập Thiện Nghiệp). Quư vị phải biết điều đầu tiên là ǵ? Là căn bản, cơ sở của Bồ Đề tâm. Không có điều thứ nhất, sẽ chẳng có điều thứ hai; không có điều thứ hai, sẽ không có điều thứ ba. Nay chúng ta nói tới phát Bồ Đề tâm, chúng ta thật sự làm, cớ sao làm chẳng giống, chẳng xuất hiện thành quả, do nguyên nhân nào? Thiếu căn bản, bỏ sót cơ sở. Nhiều kẻ xuất gia đến trao đổi với tôi, họ bàn ǵ tôi cũng chẳng nói năng ǵ hết. Vun bồi căn bản rất khẩn yếu, nhưng họ trọn chẳng nghĩ đến căn bản, làm sao quư vị có thể thành tựu được? Căn bản chính là bốn câu ấy, có thể làm được bốn câu trong điều thứ nhất này hay không? Hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, có thể làm được hay không? Thực hiện hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng bằng Đệ Tử Quy. Khi mọi điều trong Đệ Tử Quy đều làm được, quư vị sẽ có căn bản này! Căn bản ấy cạn hay sâu, mạnh hay yếu, trong ấy c̣n có rất nhiều mức độ! Từ tâm chẳng giết là giáo dục nhân quả. Tu Thập Thiện Nghiệp là căn bản của Phật pháp. Trong kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo, đức Phật đă giảng rất rơ ràng về pháp nhân thiên; đời sau quư vị biết dùng thân người ra sao, sanh lên trời như thế nào. Thanh Văn Bồ Đề, Duyên Giác Bồ Đề, cho đến Vô Thượng Bồ Đề, đều lấy Thập Thiện làm căn bản. Tách rời Thập Thiện, đời sau quư vị sẽ chẳng được làm thân người, đừng mong tiến lên cao! Tiến lên thiên đạo, Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật đều đừng mong tưởng, v́ ngay cả thân người mà quư vị c̣n chưa đạt được! Thật đấy, chẳng giả đâu! Do vậy, tại Trung Quốc, văn hóa truyền thống của Trung Quốc là Nho, Thích, Đạo ba nhà, thiếu một cũng không được! Ba cội rễ của Nho, Thích, Đạo ở ngay trong câu này. Căn bản của Nho gia là Đệ Tử Quy, căn bản của Đạo gia là Thái Thượng Cảm Ứng Thiên và Văn Xương Đế Quân Âm Chất Văn, căn bản của Phật pháp là kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo; hàng xuất gia c̣n phải vun bồi một căn bản nữa là Sa Di Luật Nghi, đó là căn bản của hàng xuất gia. Căn cơ không có th́ làm sao có thể thành tựu? Chúng ta học Phật chớ nên lừa người, lừa người là có tội đấy!    

Thật sự vun bồi ba thứ căn bản ấy, quư vị học Phật có thể tu thành Bồ Tát, tu thành Phật, tu Đạo có thể thành thần, thành tiên, học Nho có thể thành thánh, thành hiền, quyết định có thành tựu. Nếu cả ba căn bản này đều không có, quư vị chẳng thể nào thành tựu điều ǵ! Vun bồi ba thứ căn bản từ chỗ nào? Vun bồi từ Đệ Tử Quy, giống như ba tầng lầu, Đệ Tử Quy là tầng lầu thứ nhất, Cảm Ứng Thiên là tầng lầu thứ hai, Thập Thiện Nghiệp là tầng lầu thứ ba. Ba căn bản ấy trọng yếu hơn bất cứ thứ ǵ khác! Học Phật là học từ nơi đâu? Học từ nơi đây! Vào thời cổ, những căn bản này được vun bồi từ thuở bé, thông thường là Nho và Đạo, từ văn hóa truyền thống của Trung Quốc, quư vị có thể nh́n ra. Thực thể vật chất trong văn hóa truyền thống của Trung Quốc gồm ba thứ kiến trúc:

- Từ đường nhằm dạy điều ǵ? Dạy về Hiếu, hiếu thảo cha mẹ, tôn trọng thầy, Xuân Thu tế tổ. B́nh thường, từ đường là trường học. Các trường tư thục đều dùng từ đường làm địa điểm dạy học. Tư thục là gia học, nói theo cách bây giờ, tư thục là trường học của con em trong gia tộc. Lúc b́nh thường, từ đường chẳng có hoạt động, trừ Xuân Thu tế tự ra, chẳng có hoạt động nào; cho nên lợi dụng nơi chốn ấy để học hành. V́ thế, nó là giáo dục luân lư và đạo đức.

- Thứ hai là Khổng Miếu. Khổng Miếu cũng là hàng năm tế Khổng Tử một lần; đó là hoạt động của nơi ấy, chứ b́nh thường cũng chẳng có chuyện ǵ. V́ thế, những người đọc sách tại địa phương bèn lợi dụng nơi chốn này để kết xă. Quư vị đọc Du Tịnh Ư Công Ngộ Táo Thần Kư thấy nói đến Văn Xương Xă[1], họ lợi dụng nơi ấy để kết xă, nhằm học tập giáo dục đạo đức, tức là giáo dục đạo đức của cổ thánh tiên hiền, lợi dụng nơi chốn này.

- Thứ ba là miếu Thành Hoàng. Nói chung, miếu Thành Hoàng đều thuộc về Đạo gia hay Đạo giáo, dạy ǵ? Giáo dục nhân quả. Sự giáo học ở nơi ấy đánh động con người mạnh mẽ nhất. Khiến con người xúc động nhất chính là Thập Vương Điện, Thập Điện Diêm Vương nhằm biểu thị pháp. Xưa kia, Diêm Vương Điện quá nửa là tượng đắp, nhằm thuyết minh Địa Ngục Biến Tướng Đồ, căn cứ theo Ngọc Lịch Bảo Sao[2]; [đó là] giáo dục nhân quả.

      Trẻ nhỏ từ bé đă được huân tập từ ba thứ ấy, cho nên căn cội được vun bồi vững vàng; sau này, khi tiếp xúc Phật pháp sẽ hết sức dễ dàng. Đối với họ, Thập Thiện Nghiệp Đạo chẳng khó khăn tí nào! Căn bản tốt đẹp mà! V́ thế, kẻ tại gia học Phật, đối với Thập Thiện Nghiệp, Tam Quy, Ngũ Giới, chẳng có tí vấn đề nào! Thật sự làm được; người xuất gia học Phật thật sự có căn bản. Thế hệ hiện tại của chúng ta phiền quá! Ba căn bản Nho, Thích, Đạo đều không có. Nếu chúng ta không có, chúng ta có hành được Thập Thiện Nghiệp hay chăng? Không được. Trong kinh Phật Tạng, đức Phật đă nói, kinh Phật Tạng là một bộ kinh, chẳng phải là Đại Tạng Kinh, phân lượng không nhiều lắm. Trong kinh Phật Tạng, đức Phật nói: “Phật tử, bất tiên học Tiểu Thừa, hậu học Đại Thừa, phi Phật đệ tử” (Phật tử mà trước hết chẳng học Tiểu Thừa rồi sau đó mới học Đại Thừa, chẳng phải là đệ tử Phật). Thích Ca Mâu Ni Phật nói lời ấy: Quư vị chẳng học Tiểu Thừa rồi sau đấy học Đại Thừa, đức Phật chẳng chấp nhận quư vị! Phật giáo truyền sang Trung Quốc rất hoàn chỉnh. Quư vị thấy Tứ A Hàm trong Đại Tạng Kinh là kinh Tiểu Thừa, Kinh, Luật, Luận của Tiểu Thừa. Vào thời Tùy - Đường, có hai tông là Thành Thật Tông và Câu Xá Tông; hai tông ấy là Tiểu Thừa, phải học hai tông ấy trước, trước hết là học Tiểu Thừa. Học xong Tiểu Thừa rồi mới học Đại Thừa. Thích Ca Mâu Ni Phật dạy chúng ta điều này, thời cổ luôn là như vậy. Nhưng kể từ giữa đời Đường trở đi, Phật giáo Trung Quốc chẳng học Tiểu Thừa, tại gia lẫn xuất gia đều không học, vậy th́ có học Đại Thừa được hay không? Trung Quốc dùng Nho và Đạo để thay thế Tiểu Thừa. V́ thế, người học Phật chẳng ai không đọc Tứ Thư, Ngũ Kinh, tối thiểu cũng đọc Lăo Trang, dùng những thứ ấy làm cơ sở, rồi mới học Đại Thừa bèn rất có hiệu quả, chẳng kém Tiểu Thừa. Đây là một đặc sắc của Phật giáo Trung Quốc, cần phải biết: Do dùng Nho và Đạo làm cơ sở, nên Nho, Thích và Đạo dung hợp thành một Thể.

      Tại Trung Quốc, trong xă hội, trên h́nh thức vẫn có Nho, Thích, Đạo, trên thực tế, Nho, Thích, Đạo đă dung hợp thành nhất thể. Kẻ học Đạo cũng đọc kinh Phật, cũng đọc Tứ Thư, Ngũ kinh; học Nho cũng học Đạo, mà cũng học Phật rất phổ biến. Nhất là những kinh như kinh Kim Cang, kinh Hoa Nghiêm, kinh Địa Tạng đă biến thành những công khóa rất phổ biến, Nho cũng học, mà Đạo cũng học. Tới thời cận đại, sau khi nhà Thanh sụp đổ, xă hội Trung Quốc ở măi trong t́nh trạng hỗn loạn, bất an; tiếp đó [Trung Hoa] bị người Nhật Bản xâm lược, tám năm Kháng Chiến. Chúng ta coi nhẹ những thứ truyền thống này! Hiện thời, đúng như đức Phật đă giảng trong kinh Vô Lượng Thọ: “Tổ tiên bất thiện, bất thức đạo đức, vô hữu ngữ giả, thù vô quái dă” (Tổ tiên chẳng lành, chẳng biết đạo đức, không có ai nói [cho biết], nên cũng chẳng có ǵ là lạ). Chúng ta chẳng thể trách cha mẹ, cũng chẳng thể trách phụ mẫu, cũng không có thể trách móc ông bà, chỉ có thể trách chúng ta sanh trong hoàn cảnh này. Hoàn cảnh chẳng tốt đẹp, chúng ta ra đời trong hoàn cảnh ấy. Chúng ta phải biết: Trong ấy, có rất nhiều nhân tố, chẳng phải là họ cố ư sơ sót, mà là do t́nh thế gây nên. Làm thế nào đây? Phải bù đắp, phải bổ túc cơ sở giáo dục ấy. Thật sự bỏ ra thời gian một hai năm để vun bồi căn bản. Vun bồi căn bản thật sự tốt đẹp th́ bất luận tu ǵ cũng đều có thành tựu, điều này rất trọng yếu. V́ thế, điều đầu tiên trong Tịnh Nghiệp Tam Phước là nói về ba căn bản của Nho, Thích, Đạo. Có những căn bản ấy mới có thể học Phật.

V́ thế, điều thứ hai là học Phật, học Phật từ chỗ nào? “Thọ tŕ Tam Quy, cụ túc chúng giới, bất phạm oai nghi” (thọ tŕ Tam Quy, đầy đủ các giới, chẳng phạm oai nghi), tới lúc này mới nhập Phật môn. Quư vị vừa mở kinh Phật ra, [bèn thấy] “thiện nam tử, thiện nữ nhân”, v́ sao? Họ trọn đủ điều lành đầu tiên, cũng có nghĩa là người ấy thật sự thực hiện “hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát, tu Thập Thiện Nghiệp”, người ấy thật sự làm được. Do người ấy có điều kiện này, nên mới có thể tiếp nhận Tam Quy Ngũ Giới trong Phật môn, khi xuất gia sẽ tiếp nhận Sa Di Giới và hai mươi bốn món oai nghi trong mười giới điều của Sa Di

      Có cơ sở như vậy th́ mới có thể đạt tới điều thứ ba. Điều thứ ba là Đại Thừa, điều thứ hai là Tiểu Thừa, chẳng trái nghịch thứ tự. Đạt đến điều thứ ba là Đại Thừa Bồ Tát. Điều thứ nhất của Đại Thừa Bồ Tát là “phát Bồ Đề tâm, thâm tín nhân quả”. Nhân quả ở đây chẳng phải là nhân quả Tiểu Thừa, hay nhân quả thế gian; nhân quả thế gian đă học trong điều thứ nhất [của Tam Phước]. Nhân quả ở đây là ǵ? Niệm Phật là nhân, thành Phật là quả, nói về pháp môn Tịnh Độ, niệm Phật thành Phật! Chẳng phải là nói tới nhân quả thông thường. Cách nói này rất thấu triệt, chúng ta chớ nên không biết! Pháp môn này dạy quư vị niệm Phật, đối với nhân quả này, quư vị phải tin tưởng, tin sâu, nguyện thiết, không ai chẳng văng sanh. “Độc tụng Đại Thừa”, “độc” () là đối trước cuốn kinh để niệm. Tụng () là rời khỏi bản kinh, đọc thuộc ḷng; quư vị niệm rất thuộc sẽ có thể đọc thuộc ḷng. Đó là ǵ? Thâm nhập một môn, huân tu lâu dài, quư vị sẽ có thể thành Phật! Đại Thừa là nói đến ǵ? Nói theo nghĩa rộng sẽ là kinh Đại Thừa. Giảng theo nghĩa hẹp là Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh, tức là bộ kinh này, quư vị chắc chắn thành Phật, văng sanh thành Phật. [Kinh này] phù hợp thế kỷ hiện đại này nhất. Hiện thời, khoa học kỹ thuật tiến bộ, kiến thức bùng nổ, con người chuộng đơn giản. Đơn giản nhất là bộ kinh này, mà bộ kinh Vô Lượng Thọ này có thể bao gồm hết thảy các kinh do Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói trong bốn mươi chín năm, thật đấy, chẳng giả đâu! Trong phần trước, tôi đă thưa cùng quư vị, đúng là “một tức là hết thảy”, chẳng sót một điều nào. V́ thế, bộ kinh này vô cùng thù thắng, thập phương chư Phật tán thán. Tôi giảng kinh suốt năm mươi hai năm, theo kinh nghiệm của tôi, giảng bất luận kinh nào đều chẳng có pháp duyên thù thắng như giảng kinh Vô Lượng Thọ. Nếu quư vị nghe kinh, chú tâm suy nghĩ quan sát, sẽ có thể quan sát thấy giảng bộ kinh này pháp duyên vô cùng thù thắng, bất luận ở nơi nào, v́ sao? Chư Phật hộ niệm, long thiên thiện thần ủng hộ. Chúng ta mắt thịt chẳng thấy chúng sanh đông đảo! Cũng có những kẻ được Hoa Lục gọi là “có công năng đặc dị”, trong Phật pháp gọi là Thiên Nhăn Thông, có thể thấy các chúng sanh ấy, họ biết đạo tràng này thính chúng rất đông! V́ thế, đọc bộ kinh này, giảng bộ kinh này, học tập bộ kinh này, cảm ứng thù thắng khôn sánh. “Khuyến tấn hành giả” là giáo hóa chúng sanh, đọc tụng Đại Thừa là tự hành, tức là chính ḿnh nương theo kinh giáo tu hành, tự hành, hóa tha, “khuyến” là khuyên người khác.

      “Hựu viết” (lại nói), điều nói thêm này cũng trích từ Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh. “Nhược hữu chúng sanh nguyện sanh bỉ quốc, phát tam chủng tâm, tức tiện văng sanh” (Nếu có chúng sanh nguyện sanh về cơi ấy, phát ra ba thứ tâm sẽ liền văng sanh). Đây là phát Bồ Đề tâm, v́ sao Bồ Đề tâm lại có ba thứ? Trong giáo pháp Đại Thừa thường nói tới nhất tâm, ba tâm ở đâu ra? Ba tâm là nhất tâm, nhất tâm là tam tâm, Phật pháp nói tới Thể, Tướng, Dụng. Ở đây, nói tới “tam tâm” tức là có Thể và Dụng, Dụng được chia thành hai: Tự Thụ Dụng và Tha Thụ Dụng. Ta dùng tâm ǵ để đối đăi chính ḿnh, dùng tâm ǵ để đối xử với người. Quán Kinh dạy: “Nhất giả chí thành tâm, nhị giả thâm tâm, tam giả hồi hướng phát nguyện tâm. Cụ tam tâm giả, tất sanh bỉ quốc” (một là chí thành tâm, hai là thâm tâm, ba là hồi hướng phát nguyện tâm; trọn đủ ba tâm ấy, ắt sanh về cơi kia). Quư vị thấy ở đây, Thể của Bồ Đề tâm là chí thành tâm. Thành () là ǵ? Giảng chữ này như thế nào? Trong bút kư đọc sách, tiên sinh Tăng Quốc Phiên đă định nghĩa rất hay, tương ứng với Giáo pháp Đại Thừa, ông ta nói: “Nhất niệm bất sanh, thị vị Thành” (Một niệm chẳng sanh th́ gọi là Thành). Khởi tâm động niệm sẽ chẳng có Thành! Không khởi tâm, không động niệm, tâm ấy là thành tâm, chí thành là Thành đến tột bậc. Tiên sinh Tăng Quốc Phiên cũng là một người học Phật, tôi nghĩ định nghĩa của ông ta [dựa theo những] điều được nói trong kinh Đại Thừa. Ai có chí thành tâm? Thưa quư vị, Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo. Trong mười pháp giới không có, chúng ta biết giai tầng cao nhất trong mười pháp giới là Phật, [tứ thánh trong] mười pháp giới là Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, và Phật, nhưng vị Phật ấy vẫn dùng A Lại Da. A Lại Da là ǵ? A Lại Da là khởi tâm động niệm. Ngài không có phân biệt và chấp trước, nhưng có khởi tâm động niệm; v́ thế, Ngài là vọng tâm, chưa phải là chân tâm. Hễ phát tâm này, thưa quư vị, quư vị là Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo, quư vị bèn thành Phật, chân tâm mà! Dùng chân tâm là Phật, dùng vọng tâm là mười pháp giới. Tứ thánh pháp giới trong mười pháp giới dùng vọng tâm chánh đáng, v́ luôn luôn tiếp nhận giáo huấn của Phật, Bồ Tát, luôn y giáo tu hành, nên sử dụng vọng tâm chánh đáng. Lục đạo dùng vọng tâm tà vạy, chẳng chánh; Kiến Tư phiền năo trong lục đạo chướng ngại họ. V́ vậy, trong tứ thánh có phân biệt, nhưng không có chấp trước, có Trần Sa phiền năo, nhưng không có Kiến Tư phiền năo, thoát ly lục đạo luân hồi. Chí thành tâm chẳng dễ dàng!

      “Hai là thâm tâm”, thâm tâm là Tự Thụ Dụng; đối với cuộc sống, công việc, đăi người, tiếp vật của chính ḿnh, phải dùng tâm nào? Dùng thâm tâm. Thâm tâm là ǵ? Chúng ta dùng năm chữ “thanh tịnh b́nh đẳng giác” trong tựa đề của kinh này. Hơn hai mươi năm trước, tôi giảng kinh này tại Mỹ, khi tôi giảng Bồ Đề tâm theo cách như vậy, mọi người dễ hiểu. Tôi thêm một chữ Chánh vào Giác, thành Chánh Giác. Tôi dùng mười chữ, chân thành là chí thành tâm, chân thành; thâm tâm là thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác; c̣n Tha Thụ Dụng th́ sao? Tha Thụ Dụng là tâm từ bi, ở đây nói là “hồi hướng phát nguyện tâm”. Đem hết thảy công đức do chính ḿnh đă tu, đă học, hồi hướng cho pháp giới chúng sanh, phát nguyện cầu sanh thế giới Cực Lạc, từ bi tới cùng cực. Đấy là nhiếp hết thảy chúng sanh văng sanh Phật quốc, từ bi tới cùng cực! Chưa văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới th́ tâm từ bi chẳng viên măn, v́ sao? Đời sau họ vẫn phải luân hồi trong lục đạo! Đời này, quư vị yêu thương, che chở họ, giúp đỡ họ ra sao đi nữa, đời sau họ vẫn phải luân hồi. Đức Phật giúp đỡ chúng sanh bèn giúp đến tột cùng, thật sự giúp kẻ khác về đến nhà, chẳng thể làm nửa vời, trong một đời phải đạt tới viên măn, quư vị nhất định phải khuyên dạy kẻ ấy niệm Phật sanh Tịnh Độ. Chính quư vị nhất định phải là một tấm gương vô cùng tốt đẹp, khiến cho kẻ ấy sau khi trông thấy sẽ thật sự sanh tâm cảm động, thật sự có thể buông xuống vạn duyên, văng sanh thế giới Cực Lạc, thân cận A Di Đà Phật, tới thế giới Cực Lạc thành tựu hết thảy Phật pháp. Nơi ấy là một ngôi trường tốt đẹp; sanh về thế giới Cực Lạc sẽ vô lượng thọ, có thời gian [lâu dài] ấy! T́m chẳng ra nơi chốn nào học Phật tốt hơn thế giới Cực Lạc, mười phương chư Phật tán thán. Quư vị thấy ngay cả Tỳ Lô Giá Na Phật trong thế giới Liên Hoa Tạng cũng tán dương Văn Thù và Phổ Hiền đă dẫn bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ sang Tây Phương Cực Lạc thế giới, học tập A Di Đà Phật, tuyệt diệu! Chúng ta thấy rơ chân tướng sự thật này, nghĩ thông suốt, sau đấy sẽ khăng khăng một mực quy tâm Tịnh Độ, chẳng làm điều ǵ khác nữa!

      Trong các buổi giảng, trong quá khứ, tôi đă thưa với quư vị nhiều lần, thầy Lư ban cho tôi bản mi chú bộ kinh này. Sau khi tôi đọc xong, sanh tâm đại hoan hỷ. Khi ấy, tôi đang giảng kinh Hoa Nghiêm, chẳng muốn giảng nữa. Giảng kinh Hoa Nghiêm được phân nửa, bộ Bát Thập Hoa Nghiêm giảng được phân nửa, bộ Tứ Thập Hoa Nghiêm giảng được phân nửa, tôi không muốn giảng, đă nghĩ sẽ phát tâm chuyên giảng bộ kinh này. Trước sau tôi đă giảng kinh này mười lượt, lần này là lần thứ mười một, chuyên tu Tịnh Độ. V́ sao sau này lại giảng kinh Hoa Nghiêm? Tôi thưa với quư vị, là do ba người khải thỉnh, pháp sư Khai Tâm ở Đài Loan, lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ ở Bắc Kinh, Hàn Quán Trưởng của Hoa Tạng Đồ Thư Quán hai hôm trước khi văng sanh, ngă bệnh nằm trong bệnh viện, đă khẩn thiết yêu cầu, mong tôi giảng kinh Hoa Nghiêm viên măn. Do trước đây giảng không có các thiết bị, tôi giảng Hoa Nghiêm lần đầu tiên không chỉ chẳng thâu h́nh, mà ngay cả thâu âm cũng không có. Bà ta hy vọng tôi có thể giảng cặn kẽ từ đầu một lượt, khi ấy vẫn là dùng băng video, lưu lại cho người đời sau tham khảo. Tôi thấy bà ta bệnh rất nặng, nhằm an ủi bà ta bèn đáp ứng; đấy là nhân duyên giảng kinh Hoa Nghiêm lần thứ hai. Tôi di dân sang Tân Gia Ba, ở Tân Gia Ba gần bốn năm, cư sĩ Lư Mộc Nguyên biết chuyện này, đă thay mặt ba vị đại đức ấy chính thức khải thỉnh. V́ vậy, kinh Hoa Nghiêm được khai giảng tại Tân Gia Ba Cư Sĩ Lâm. Chúng tôi giảng hơn bốn ngàn giờ, giảng được bao nhiêu? Đại khái là giảng một phần năm kinh Bát Thập Hoa Nghiêm, giảng rất tỉ mỉ, mọi người rất hoan hỷ. Kinh này là Trung Bổn Hoa Nghiêm, xét đến tiến độ (tốc độ tiến triển) học tập của chúng ta lần này ở nơi đây, ngày hôm nay là ngày thứ hai mươi lăm, chúng ta học đến trang hai mươi lăm, hai giờ học được một trang, e rằng bản Đại Kinh Giải của lăo nhân gia cũng gần một ngàn trang, như vậy là một ngàn lần, [tức là] một ngàn lần hai giờ. Phương pháp học tập này có thụ dụng, càng cặn kẽ, càng hoan hỷ, đúng là pháp hỷ sung măn, chúng tôi vẫn muốn tăng nhanh tiến độ hơn một chút. V́ thế, đối với ba thứ tâm này, chúng tôi dùng văn tự đơn giản dễ hiểu nhất để mọi người xem đến sẽ rất dễ hiểu. Chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác, từ bi, phải thật sự phát những tâm ấy. Dùng những tâm ấy cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, quyết định được văng sanh. Đầy đủ ba tâm, ắt sanh về cơi ấy!

“Phát thử tam tâm, diệc tức phát Bồ Đề tâm dă. Hựu Mật Tông tối trọng phát đại Bồ Đề tâm” (Phát ba tâm ấy, cũng chính là phát Bồ Đề tâm. Lại nữa, Mật Tông coi trọng phát đại Bồ Đề tâm nhất). Hoàng lăo cư sĩ từng tham Thiền, học Mật, cụ là Kim Cang Thượng Sư trong Mật Tông, Hiển Mật viên dung, thông Tông, thông Giáo, là một vị trưởng giả đại đức hiếm có. “Kỳ giáo điển Bồ Đề Tâm Nghĩa vân: Bồ Đề chi tâm, thành Phật chi bổn, đại sự nhân duyên mạc quá ư thử” (Giáo điển Bồ Đề Tâm Nghĩa của họ có nói: “Tâm Bồ Đề là cội rễ thành Phật, đại sự nhân duyên không có ǵ hơn điều này”), mười sáu chữ ấy nói lên tánh trọng yếu của Bồ Đề tâm. Bồ Đề là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Hán có nghĩa là Giác, “tâm Bồ Đề là giác tâm” tức là như trong tựa đề kinh đă nói “thanh tịnh b́nh đẳng giác”. Tôi thường thưa tŕnh cùng quư vị, mà cũng nhắc nhở mọi người, tâm thanh tịnh là A La Hán, tâm b́nh đẳng là Bồ Tát, giác tâm là Phật, đức Phật đă giác ngộ, giác do đâu mà có? Giác do b́nh đẳng mà có, b́nh đẳng là tam-muội. Tŕ giới sẽ có thể đắc thanh tịnh tâm, nhân Giới đắc Định, Định là tam-muội. Đắc tam-muội, tâm b́nh đẳng hiện tiền, định tới một mức độ nhất định sẽ tự nhiên khai ngộ. Giác là khai ngộ, đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, đó là căn bản để thành Phật, là đại sự nhân duyên không ǵ hơn được! Đó là nói rơ chúng ta học Phật th́ học Phật là một đại sự nhân duyên, v́ sao? Trở về tự tánh. Chúng sanh mê mất tự tánh, đọa lạc trong mười pháp giới, đọa lạc trong lục đạo luân hồi, khởi tâm động niệm, ngôn ngữ và tạo tác hoàn toàn trái nghịch Tánh Đức, cho nên chịu khổ chịu nạn. Nói theo giáo nghĩa Đại Thừa, tai nạn do đâu mà có? Tâm hạnh bất thiện. V́ sao? Học đă nhiều năm như vậy, tâm quư vị đều hiểu khá rơ ràng: “Hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng”. Kiên định thiện tâm, thiện nguyện, hoàn cảnh cư trụ của chúng ta sẽ biến thành đại địa cứng chắc, sẽ chẳng có tai nạn, động đất, đất đá truồi! Hôm trước, chúng tôi xem một bản tin, tôi c̣n xem h́nh chụp, dường như ở Đài Loan bị núi lở, cả ngọn núi sụp xuống, cây cối mọc trên núi vẫn c̣n nguyên, ở chính giữa, đột nhiên mặt đất sụp nát, trước nay chưa hề thấy hiện tượng này, chẳng hề thấy! Nói theo Phật pháp, đấy là cái nhân ǵ? Tâm hạnh của chúng ta bất thiện cảm vời đại địa lỏng lẻo, lay động, chẳng ổn định. Có đúng hay không? Đúng vậy!

      Nay ta suy nghĩ, có mấy ai định tâm? Tâm đều chẳng định, có thể nói là “tâm hoảng, ư loạn”, đại chúng trong xă hội hiện thời đều là như vậy, chẳng có cảm giác an toàn. Không giống như người thuở trước, trước đây ḷng người an định, tâm họ an định ở nơi đâu? Định tại luân lư, đạo đức. Bởi lẽ giáo dục thuở trước nhằm dạy vun bồi vững vàng căn bản, dạy quư vị định tại hiếu đễ, định tại Ngũ Luân, định tại Ngũ Thường, định tại Tứ Duy, Bát Đức, suốt đời khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo tác, cuộc sống đều tốt đẹp, làm việc cũng tốt đẹp, đăi người tiếp vật luôn có thường quy (quy củ thường hằng), chẳng vượt quy củ, nên tâm họ định. Hiện thời chẳng c̣n nữa, hiện thời tâm bất định, không có cảm giác an toàn, nên đại địa lỏng lẻo, đại địa cũng chẳng định, giải thích chuyện này theo giáo pháp Đại Thừa sẽ thấy thông suốt. Nếu chúng ta chẳng thể nghiêm túc học tập giáo huấn của thánh hiền ḥng định cái tâm, những chuyện này (thiên tai) sẽ thường xuyên nẩy sanh, càng ngày càng nhiều, phiền toái lắm! Có ngăn ngừa, cũng chẳng thể ngăn ngừa xiết! Quư vị thấy trong hai năm qua, số lần động đất nhiều hơn quá khứ quá lớn. Xét trên toàn thế giới, mỗi tháng đều có vài lần, chẳng cố định ở một nơi nào cả! Số lần xảy ra càng ngày càng nhiều, tai hại ngày càng nghiêm trọng. Hăy nhớ “hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng”, đức Phật nói câu này quá hay! Tâm chúng ta suy tưởng chuyện ǵ? Phải thường nghĩ đến giáo huấn, luân lư, đạo đức của tổ tông, thường nghĩ đến giáo huấn của Phật. Đức Phật bảo chúng ta hăy “phát Bồ Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm”, tâm định chắc nơi thế giới Cực Lạc, tâm định chắc nơi A Di Đà Phật. Tâm chúng ta đă định, núi, sông, đại địa cũng được củng cố theo, sẽ chẳng xuất hiện vấn đề. Do vậy, phải định chắc nơi phát Bồ Đề tâm. Chúng ta vẫn chưa thể thực hiện tâm chân thành, v́ sao? Nếu làm được, quư vị sẽ vượt thoát mười pháp giới, thành Phật rồi! Nhưng chúng ta phải hết sức nghiêm túc học tập tâm thanh tịnh, tâm b́nh đẳng, học trong cuộc sống hằng ngày.

Phần trước đă giảng rất hay, Văng Sanh Luận dạy chúng ta học vô nhiễm thanh tịnh tâm. Biết những ǵ là ô nhiễm, chúng ta xa ĺa ô nhiễm. Phải nhớ: Tự tư tự lợi là ô nhiễm, tiếng tăm, lợi dưỡng là ô nhiễm, hưởng thụ ngũ dục lục trần là ô nhiễm, tham, sân, si, mạn là ô nhiễm. Ô nhiễm nhiều quá, rất nhiều! Quư vị phải có huệ nhăn, thấy rơ rệt, phân định rơ ràng, xa ĺa hết thảy ô nhiễm, trở về tâm thanh tịnh. Sau khi đạt được tâm thanh tịnh, lại tiến thêm bước nữa là tu tâm b́nh đẳng, tâm b́nh đẳng học từ nơi đâu? Học từ khiêm ty, tôi chẳng nói khiêm hư, mà là khiêm ty. Ngay cả kinh Mân Côi của Thiên Chúa giáo, đoạn thứ nhất dạy con người hăy học theo đức khiêm ty của Đức Mẹ Maria. Tại Trung Quốc, câu đầu tiên trong sách Lễ Kư là “Khúc Lễ viết: Vô bất kính” (Khúc Lễ nói: “Không ǵ chẳng kính”). Theo Lễ Kư, tinh thần của lễ là ǵ? Tự nhún ḿnh, đề cao người khác, chính ḿnh khiêm ty, tôn trọng người khác, đó là lễ, là căn bản của lễ. Quyết định chẳng ngạo nghễ, ngă mạn! Ngạo nghễ, ngă mạn sẽ cảm vời ǵ? Động đất. Chúng ta bèn hiểu: Nếu chúng ta tự nhún ḿnh, tôn trọng người khác, nơi chúng ta ở sẽ chẳng bị động đất. Chúng ta phải tin tưởng Phật và lời đức Phật nói, nếu không tin sẽ chẳng có cách nào hết! Nhất định phải tin tưởng, quyết định chớ hoài nghi, sẽ phát sanh hiệu quả. Nếu quư vị có kiến thức giống như những người b́nh phàm: “Phật là mê tín, không có căn cứ khoa học” sẽ rắc rối to! Tai nạn hiện tiền, nhưng quư vị như thế nào? Chẳng tin tưởng!

      Chúng ta đọc đoạn tiếp theo: “Hựu Bồ Đề Tâm Luận vân: Thử Bồ Đề tâm, năng bao tàng nhất thiết chư Phật công đức pháp cố. Nhược tu chứng xuất hiện, tắc vi nhất thiết đạo sư. Nhược quy bổn, tắc thị Mật Nghiêm độ, bất khởi ư tọa, năng thành nhất thiết Phật sự” (Lại nữa, Bồ Đề Tâm Luận nói: “Tâm Bồ Đề này có thể chứa đựng pháp công đức của hết thảy chư Phật. Nếu tu chứng xuất hiện, sẽ là đạo sư của hết thảy. Nếu trở về gốc sẽ là cơi Mật Nghiêm, chẳng rời khỏi ṭa mà có thể thành tựu hết thảy Phật sự”). Đây là một đoạn trích từ Bồ Đề Tâm Luận, từ đây cho đến cuối đều là những điều được nói trong Bồ Đề Tâm Luận. Bồ Đề tâm có thể “bao tàng” (Bao () là bao dung, Tàng () là chứa đựng) pháp công đức của hết thảy chư Phật, có nghĩa là tự tánh vốn sẵn đủ hết thảy trí huệ và đức tướng, có thể sanh ra vạn pháp, câu này có ư nghĩa như vậy đó. [Bồ Đề Tâm Luận đă] hiển thị vạn pháp từ đâu sanh ra? Sanh từ Bồ Đề tâm, đúng hay không? Đúng vậy! Ư nghĩa này quá sâu. Thể của tự tánh là Bồ Đề tâm, tự tánh có thể sanh ra vạn pháp. Huệ Năng đại sư kiến tánh đă nói năm câu để h́nh dung Bồ Đề tâm, Ngài nói: “Hà kỳ tự tánh, bổn tự thanh tịnh” (nào ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh), chân tâm của chúng ta vĩnh viễn thanh tịnh, chưa hề bị ô nhiễm. Ô nhiễm là A Lại Da [bị ô nhiễm], nó là vọng tâm, chẳng phải là chân tâm; trước nay chân tâm chưa hề bị ô nhiễm! Bất sanh, bất diệt, “bổn bất sanh diệt” (vốn chẳng sanh diệt), “bổn tự cụ túc” (vốn tự trọn đủ), trong câu này có rất nhiều ư, vốn tự trọn đủ th́ điều thứ nhất là ǵ? Trí huệ là bậc nhất, tức là như trong kinh Hoa Nghiêm đức Phật đă nói: “Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng của Như Lai”, trí huệ là bậc nhất. Trí huệ là ǵ? Trí huệ là Bồ Đề tâm, giác tâm, Bổn Giác. Khởi Tín Luận giảng: “Bổn Giác vốn có, bất giác vốn không”, bất giác là A Lại Da, là vọng tâm. Bất giác vốn không, Bổn Giác vốn có. Giác tâm là Bồ Đề tâm, giác tâm trọn đủ vô lượng đức năng, vô lượng tướng hảo; nên nó có thể sanh ra vạn pháp. Gặp duyên bèn hiện vạn pháp, duyên ấy là ǵ? Nhất niệm động, nay chúng ta nói là “dao động”, một niệm vô cùng vi tế ấy dao động!

      Sự dao động ấy không có nhân, sau khi dao động bèn có nhân, có quả; chỉ có cái đầu tiên [là không có nhân], nên gọi là “vô thỉ vô minh”, thứ ấy không có nhân! Nếu quư vị muốn truy cứu cái nhân của nó, tức là dấy lên phân biệt, khởi lên chấp trước, quư vị sẽ càng mê sâu hơn, trật rồi! Sự dao động thứ nhất chẳng có nhân. Đức Phật giảng rất hay, v́ sao không có nhân? Vô thỉ, không có khởi đầu, vô thỉ đương nhiên sẽ chẳng diệt. Hễ có khởi đầu sẽ có kết thúc, nó chẳng có khởi đầu! V́ thế, câu nói này đă nói toạc ư nghĩa, đă không có bắt đầu th́ quư vị chẳng cần phải hỏi, chẳng cần phải nghĩ tới nó. V́ thế, chẳng thể nghĩ bàn! Hễ quư vị vừa nghĩ hoặc nói bèn trật lất rồi, mà cũng chẳng biết trật đến đâu nữa! Lời này nói thật hay! Đấy là ngôn ngữ thiện xảo. Nó có thể chứa đựng, vốn ẩn chứa sẵn; câu nói thứ ba của Huệ Năng đại sư, tức câu “nào ngờ tự tánh vốn tự trọn đủ” mang ư nghĩa này! Ở đây nói “pháp công đức của hết thảy chư Phật”, nó chính là “trí huệ và đức tướng” như trong kinh Hoa Nghiêm đă nói. Trong tựa đề kinh này, trí huệ là “Đại Thừa”, đức là “Vô Lượng Thọ”, tướng là “trang nghiêm”, toàn bộ được bao gồm trong tựa đề kinh. Thế giới Cực Lạc là cái được hiện, “nhược tu chứng xuất hiện, tắc vi nhất thiết đạo sư” (nếu tu chứng xuất hiện, sẽ là đạo sư của hết thảy), A Di Đà Phật tu chứng xuất hiện, chúng ta thấy Ngài năm kiếp tu hành, đă tu thành công! Thế giới Cực Lạc bèn xuất hiện, thế giới Cực Lạc vẫn sanh từ tâm tưởng, có thật, chẳng giả! Ngẫu Ích đại sư có một ngoại hiệu là Tây Hữu Đạo Nhân, Tây là Tây Phương, [ngoại hiệu ấy] nghĩa là ǵ? Tây Phương có thật! Ngài chứng minh với mọi người, cơi Tây Phương có thật, nên tự xưng là Tây Hữu Đạo Nhân. A Di Đà Phật tu chứng xuất hiện, bèn xuất hiện Tây Phương Cực Lạc thế giới, Ngài trở thành đạo sư của hết thảy đại chúng văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Đạo Sư là Phật, chỉ dạy đại chúng tu hành chứng quả. Tu hành trong thế giới Cực Lạc vẫn là tiến lên cao hơn từng cấp một, nhưng tốc độ nhanh chóng, chẳng giống như các thế giới phương khác, thời gian tu hành rất dài, v́ sao? Chướng duyên quá nhiều, chướng ngại quá nhiều, hoàn cảnh tu hành chẳng tốt đẹp, thọ mạng ngắn ngủi, c̣n chưa thành công mà thọ mạng đă hết rồi! Chuyển thế trở lại, tối thiểu bỏ phí thời gian mười mấy, hai mươi năm, hễ lầm lỡ bèn bị thoái chuyển, thoái chuyển với một mức độ lớn!

Người trong Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng có sanh tử, vô lượng thọ. Hơn nữa, họ chẳng lăng phí, bỏ lỡ thời gian một phút, một giây nào! Đấy là do bổn nguyện và oai thần của A Di Đà Phật gia tŕ, niệm niệm đều tiến bộ. Hoàn cảnh tu học ấy t́m đâu ra? Trong các cơi Phật ở mười phương đều chẳng có! “Nhược quy bổn, tắc thị Mật Nghiêm độ” (nếu trở về gốc, sẽ là cơi Mật Nghiêm). Mật là ǵ? Chẳng phải là bí mật. Nếu bí mật chẳng thể nói với ai th́ chưa hề là chuyện tốt. “Mật” () trong Phật pháp là “thâm mật”, tức là Lư quá sâu, Lư và Sự vô cùng sâu mầu. “Nghiêm” () là trang nghiêm. Cơi Mật Nghiêm là ǵ? Chính là Tây Phương Cực Lạc thế giới, thế giới Hoa Tạng. Nói rộng, cơi Thật Báo Trang Nghiêm của hết thảy chư Phật đều là cơi Mật Nghiêm; nhằm phân biệt với mười pháp giới, các cơi thuộc mười pháp giới chẳng kiên cố như vậy. Cơi Mật Nghiêm vĩnh viễn chẳng có tai biến. Nó được thành tựu như thế nào? Chúng ta phải nhớ: Bồ Đề tâm thành tựu. Chúng tôi nhắc lại câu này một lượt, mọi người sẽ khắc sâu ấn tượng, “chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác, từ bi”. Quư vị có thể làm được mười chữ ấy, sẽ “tu chứng xuất hiện, làm đạo sư của hết thảy”, sẽ thấy A Di Đà Phật, v́ sao? Chính quư vị là A Di Đà Phật, thấy thế giới Cực Lạc, cơi Mật Nghiêm là thế giới Cực Lạc. Thân là thân kim cang bất hoại, tức chánh báo; cơi nước là y báo, trang nghiêm khôn sánh! Tây Phương Cực Lạc thế giới được gọi là [cơi do] thất bảo thành tựu, “thất” chẳng phải là con số, mà nhằm biểu thị sự viên măn. “Thất” phải hiểu như thế nào? Đông, Nam, Tây, Bắc, trên, dưới, chính giữa, dùng ư nghĩa này, đó là ư nghĩa viên măn. Nói cách khác, do vô lượng vô biên trân bảo hợp thành. Đó là ǵ? Ḷng tin kiên định thành tựu. Chúng sanh trong thế gian này mê mất tự tánh, hiện thời, chúng sanh mang tâm ǵ nặng nhất? Tâm nghi nặng nhất! V́ thế, hết thảy đều lỏng lẻo, phiền phức bèn xảy ra. Đối với chuyện ǵ cũng đều hoài nghi, chuyện này thật sự phiền phức, chẳng phải giả! Thứ ǵ cũng đều hoài nghi, nghiêm trọng nhất là hoài nghi thánh giáo, hoài nghi giáo huấn của tổ tông. Ngạn ngữ Trung Quốc có câu: “Bất thính lăo nhân ngôn, ngật khuy tại nhăn tiền” (chẳng nghe lời người già, thua thiệt ngay trước mắt). Tổ tông yêu thương, quan tâm người đời sau, chẳng lừa gạt quư vị. Phật, Bồ Tát yêu thương, quan tâm chúng sanh, cũng chẳng lừa gạt quư vị. Quư vị không tin, sẽ chẳng có phước báo. Hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng ta học tập tới chỗ này!

 

Tập 26

 

Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang hai mươi lăm, hàng thứ tư từ dưới đếm lên, xem từ chữ cuối cùng.

      “Hựu Tán Bồ Đề Tâm viết: Nhược nhân cầu Phật huệ, thông đạt Bồ Đề tâm, phụ mẫu sở sanh thân, tốc chứng Đại Giác vị” (Lại nữa, bài Tán Bồ Đề Tâm có đoạn: “Nếu ai cầu Phật huệ, thông đạt Bồ Đề tâm, từ thân cha mẹ sanh, mau chứng ngôi Đại Giác”). Trong những điều được giảng bởi bốn câu kệ này, câu đầu tiên nói về sự học Phật, các đồng học chúng ta phải chú ư, học Phật là học ǵ? Là cầu Phật huệ; Phật huệ ở đâu? Phật huệ vốn sẵn có. Tuy sẵn có, nhưng chúng ta mê mất. Cầu Phật huệ là t́m lại trí huệ Bát Nhă sẵn có trong tự tánh, đó gọi là “học Phật”, thật sự học Phật! Trong Đại Kinh thời thời khắc khắc nhắc nhở chúng ta một câu mà đức Phật đă nói rất nhiều lần: “Một tức là hết thảy, hết thảy tức là một”, t́m được Phật huệ th́ toàn bộ vô lượng công đức trong tự tánh đều t́m được. Đức Phật thường nhắc tới trí huệ và đức tướng, ở đây chỉ nói đại lược những điều chánh yếu, chứ nói chi tiết sẽ chẳng thể nói trọn! Vô lượng vô biên trí huệ và đức tướng toàn bộ đều t́m lại được, đó là thật sự học Phật. Quan trọng nhất trong việc cầu Phật huệ là phát Bồ Đề tâm. Ở đây, “thông”“đạt” đều mang ư nghĩa “phát”. “Thông” là thông suốt, trôi chảy, chẳng có chướng ngại, “đạt” là đạt đến. Bồ Đề tâm là ǵ? Ngày hôm qua, tôi đă thưa cùng quư vị, “chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác, từ bi” viên măn! Nay chúng ta t́m lại [Bồ Đề tâm] như thế nào? Thứ nhất, tâm chúng ta chẳng chân thành! V́ sao nói tâm chúng ta chẳng chân thành? Tâm chúng ta có chấp trước, có phân biệt, có vọng tưởng. Tiên sinh Tăng Quốc Phiên đă định nghĩa chữ Thành là “nhất niệm bất sanh thị vị Thành” (một niệm chẳng sanh gọi là Thành). Ta có một niệm sẽ chẳng thành, [định nghĩa ấy có cùng] một ư nghĩa với lời đức Phật giảng trong kinh giáo. Nếu nói thông thường rất đơn giản, th́ không khởi tâm, không động niệm sẽ là chân tâm, khởi tâm động niệm là vọng tâm.

      V́ sao có vọng tâm? Đức Phật nói rất hay: “Nhất niệm bất giác nhi hữu vô minh” (một niệm bất giác bèn có vô minh). Một niệm bất giác là vô minh, gọi là vô thỉ vô minh. Vô thỉ chẳng phải là quá khứ quá lâu chẳng thể t́m được bèn gọi là vô thỉ, chẳng phải là ư nghĩa ấy! Thưa quư vị, vô thỉ là chẳng có khởi đầu, đúng vậy, nó là nhất niệm ngay trong lúc này! Di Lặc Bồ Tát đă nói, trong một giây, hiện thời chúng ta dùng giây làm đơn vị, nếu một giây khảy ngón tay năm lần, sẽ có một ngàn sáu trăm triệu niệm, một niệm trong ấy gọi là “nhất niệm bất giác”. Chẳng phải là chúng ta tưởng tượng mà nói ra; chúng ta tưởng tượng th́ sẽ chẳng biết có bao nhiêu niệm, mỗi vọng tưởng đều dùng con số “triệu” để tính toán, một niệm ngắn nhất trong một cái khảy ngón tay, nhưng một cái khảy ngón tay đă trải qua ba trăm hai mươi triệu [niệm], đức Phật nói tới cái niệm ấy, niệm ấy vô thỉ. Niệm niệm đều vô thỉ; do vậy, niệm niệm cũng chẳng diệt, bất sanh, bất diệt, thật vậy! Quư vị chẳng t́m được sự sanh diệt của nó; v́ thế, đối với vấn đề này, chúng ta thường hiểu nó là sanh diệt đồng thời, tốc độ quá nhanh! Không chỉ chẳng có cách nào diễn tả bằng ngôn ngữ, mà ngay cả thức thứ sáu của chúng ta cũng chẳng nắm bắt được [sự sanh diệt ấy]. Thức thứ sáu phân biệt nhanh lẹ nhất mà vẫn chẳng nắm bắt được! V́ sao đức Phật biết được ư niệm vi tế như thế là nhất niệm bất giác? Đức Phật dạy: Từ Bát Địa Bồ Tát trở lên đều biết! Chúng ta bèn hiểu Bát Địa Bồ Tát có công phu định lực ra sao, quư vị tu Thiền Định đến Bát Địa sẽ thấy. Tâm phải thanh tịnh dường ấy mới có thể cảm nhận được sự sanh diệt trong dao động vô cùng vi tế ấy, khởi lên và diệt mất có cùng ư nghĩa với sanh diệt. V́ thế, Bát Địa Bồ Tát thấy được, Cửu Địa thấy được, Thập Địa thấy được, Đẳng Giác thấy được, Diệu Giác thấy được, rất nhiều người thấy, chẳng phải chỉ một. V́ vậy, Bồ Đề là giác ngay trong một niệm hiện tiền, vô minh là một niệm mê ngay trong hiện tiền. Một niệm giác sẽ bất động; Huệ Năng đại sư đă nói rất hay: “Nào ngờ tự tánh vốn chẳng lay động”, đó là một niệm giác. Một niệm mê là vọng động, là chuyển động. Vô minh là tướng động, cho nên Nghiệp Tướng của A Lại Da là vô minh, tức vô thỉ vô minh.

      V́ vậy, chúng ta cầu Phật huệ, nhất định phải phát Bồ Đề tâm. Hiện tại, tâm chúng ta chẳng thành thật, chúng ta hiểu rơ điều này, đúng là chẳng chân thành. Chúng ta phải học theo đức Phật, học theo Pháp Thân Bồ Tát, sử dụng chân tâm, dùng thành ư, phải bắt đầu ngay từ bây giờ, chớ nên chờ đợi! Hễ chờ đợi là xong luôn, phải thực hiện ngay trong hiện tiền, xử sự, đăi người, tiếp vật, sinh sống, làm việc đều dùng cái tâm chân thành. Mọi người nghĩ trong xă hội này, nếu dùng cái tâm chân thành sẽ rất thiệt tḥi, người khác lừa gạt quư vị, nhưng quư vị chẳng lừa người khác [sẽ bị thiệt tḥi]. Quư vị phải giác ngộ, kẻ khác lừa ta, ta cũng lừa hắn, [như vậy chính là] người khác tạo nghiệp lục đạo, ta cũng tạo nghiệp lục đạo, người khác tạo nghiệp tam đồ, ta cũng tạo nghiệp tam đồ, chẳng phải là ư nghĩa ấy hay sao? Nếu quư vị muốn thoát ly tam đồ, thoát ly mười pháp giới, hăy học theo Phật, Bồ Tát hành chân thật, chẳng giả. Điều này rất trọng yếu, đó là giác ngộ! Quư vị nhất niệm giác, sẽ chẳng theo sóng đuổi sóng, chẳng tạo nghiệp trong biển khổ lục đạo, chẳng tạo nữa, sử dụng tâm chân thành. Tâm chân thành xét theo Tự Thụ Dụng là tâm thanh tịnh, quả thật chẳng c̣n nhiễm dơ nữa, điều này cần phải có công phu. V́ sao? Trong thế gian này, đặc biệt là trong xă hội hiện tiền, ngũ dục lục trần luôn dụ dỗ, mê hoặc quư vị, tài, sắc, tiếng tăm, ăn uống, ngủ nghỉ, thứ ǵ cũng đều dụ dỗ, mê hoặc, mà quư vị có thể chẳng bị lay động th́ mới đắc tâm thanh tịnh. Nếu quư vị bị chúng lay động, tâm thanh tịnh sẽ mất đi ngay lập tức, Bồ Đề sẽ chẳng thông suốt, con đường ấy chẳng thông suốt. Tâm thanh tịnh th́ con đường ấy sẽ thông suốt. Sau khi đắc tâm thanh tịnh, nếu c̣n có thể tiến thêm bước nữa, đắc tâm b́nh đẳng, b́nh đẳng là Phật tâm. [Phật nói ở đây chính là địa vị] Phật trong mười pháp giới, Phật tâm. Tiến cao hơn bước nữa là vị Phật thật sự, chẳng phải là giả Phật, Bồ Đề tâm bèn thông suốt, đạt tới viên măn.

      Do vậy, biết tâm b́nh đẳng gần với Bồ Đề tâm nhất. Quư vị xem tựa đề kinh này, sau “thanh tịnh, b́nh đẳng” là “giác”, b́nh đẳng mới có thể giác, bất b́nh đẳng sẽ chẳng giác. Phải triệt để diệt sạch tập khí ngạo mạn th́ mới b́nh đẳng. Từ chỗ này, quư vị có thể hiểu rơ v́ sao phải học khiêm ty? V́ sao ta phải khiêm ty đối với người khác, khiêm ty đối với hết thảy chúng sanh? Vốn là để thông với Bồ Đề tâm. Mảy may tập khí kiêu mạn nào sẽ đều chướng ngại Bồ Đề tâm, chẳng thông suốt. Quư vị nói xem: Khiêm ty có ích cho ai? Có đại lợi ích cho chính ḿnh! Chẳng phải là đối với người khác, mà sự thật là thông suốt Bồ Đề tâm của chính ḿnh! Quư vị nói xem chuyện này có trọng yếu lắm hay chăng? Thông đạt Bồ Đề tâm phải thực hiện bằng khiêm ty; khiêm ty đối với người khác, khiêm ty đối với hết thảy động vật, đối với muỗi, trùng, kiến đều khiêm ty, chúng ta gọi chúng nó là “Bồ Tát kiến, Bồ Tát muỗi”, cung kính từ nội tâm đối với chúng nó, chúng nó sẽ cảm nhận được! Hiện thời, kể như chúng ta đă hiểu rơ, học sách Hoàn Nguyên Quán, chúng ta biết mỗi vi trần, mỗi sợi lông, hay nói theo thuật ngữ khoa học hiện tại, mỗi tế bào, mỗi hạt (hạt cơ bản), đều do Ngũ Uẩn Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức hiện ra. Nói cách khác, nó có thể tích, tuy rất nhỏ, nhục nhăn của chúng ta chẳng thể thấy được! Nó có Thọ, Tưởng, Hành, Thức, những thứ này là A Lại Da, nó có thể biến hiện vạn pháp, hết thảy vạn pháp đều do những hạt cơ bản này hợp thành. Có khoa học gia nói những hạt cơ bản này là một hiện tượng dao động. Chẳng sai! Quả thật là hiện tượng dao động, một niệm bất giác là dao động, từ dao động mà có, nói chẳng sai tí nào! Hễ chẳng động bèn chẳng có, Ngũ Uẩn chẳng có! V́ thế, Bát Nhă hiện tiền, chiếu kiến Ngũ Uẩn đều Không; nay chúng ta biết Ngũ Uẩn là hạt cơ bản, nhỏ hơn tế bào!

Thật sự có thể thông đạt th́ “phụ mẫu sở sanh thân, tốc chứng Đại Giác vị” (thân do cha mẹ sanh, mau chứng ngôi Đại Giác), hai câu này nói đến sự chứng đắc Phật quả viên măn rốt ráo trong một đời. Chỉ cần quư vị dùng Bồ Đề tâm, chắc chắn có thể chứng đắc. Pháp môn Tịnh Tông này bảo đảm quư vị thành tựu trong một đời, chẳng thể nghĩ bàn! V́ thế, thật sự tu hành, công phu chân thật, trong cuộc sống chẳng c̣n khởi tâm động niệm nữa. Trong công việc, trong đăi người, tiếp vật, trong hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian, chẳng khởi tâm, không động niệm, bèn thành Phật viên măn! Chuyện này chưa thể làm được! Chưa thể không khởi tâm, không động niệm, khó quá! Chẳng phải là người tầm thường [mà ḥng làm được]; Phật pháp nói [người có thể làm được như vậy] là bậc thượng thượng căn. Thích Ca Mâu Ni Phật đă thị hiện [như thế]. Tại Trung Quốc, vào đời Đường, Huệ Năng đại sư cũng biểu diễn, bậc thượng thượng căn đấy! Kẻ căn cơ trung hạ, tập khí phiền năo nặng nề huân tu từ vô thỉ kiếp. Chúng ta gặp duyên, đối với chuyện một người có thể tu hành thành tựu trong một đời hay không, Thiện Đạo đại sư đă nói một câu rất hay: “Tổng tại ngộ duyên bất đồng” (nói chung là do gặp duyên sai khác). Duyên là cơ hội! Nếu quư vị gặp được cơ duyên tốt đẹp, sẽ có thể thành tựu, sẽ quay đầu trong một đời này! Gặp gỡ thánh giáo, gặp Đại Thừa, gặp Tịnh Độ, duyên đấy! Gặp gỡ thiện tri thức tốt lành, tức là gặp thầy, thiện hữu và đồng học tốt lành, gặp hoàn cảnh tu học tốt đẹp, thật sự khó! Quả thật chẳng dễ dàng! Những điều ấy quư vị đều gặp, chắc chắn sẽ thành tựu trong một đời này, duyên trọn đủ, thiện căn trọn đủ, phước đức trọn đủ. Thiện căn là có thể tin, có thể hiểu; phước đức là thật sự làm. Vậy th́ quư vị sẽ nhanh chóng chứng địa vị Đại Giác.

      Đọc tiếp đoạn kế đó: “Hựu chư kinh chi vương Hoa Nghiêm kinh vân: Vong thất Bồ Đề tâm, tu chư thiện pháp, thị danh ma nghiệp” (Lại nữa, vua của các kinh là kinh Hoa Nghiêm có dạy: “Tu các pháp lành mà quên mất Bồ Đề tâm th́ gọi là ma nghiệp”). Kinh Hoa Nghiêm nói như thế, chúng ta đọc qua, nhưng tu hành bèn quên tuốt Bồ Đề tâm, thật sự quên mất ư? Thật sự! Thậm chí quư vị học tập kinh giáo, giảng kinh, thuyết pháp trên giảng đài, quên sạch Bồ Đề tâm. Cớ sao quên sạch? Chẳng phải là tâm chân thành, vẫn xen tạp tiếng tăm, lợi dưỡng, vẫn xen tạp tự tư tự lợi, quên sạch Bồ Đề tâm, quên sạch sành sanh! Nói cách khác, hễ c̣n có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, sẽ chẳng có Bồ Đề tâm! Đó là ǵ? Đó là tâm lục đạo chúng sanh, là tâm luân hồi. Tâm luân hồi giảng kinh cũng là nghiệp luân hồi, bất quá nó là thiện nghiệp trong nghiệp luân hồi, quả báo trong tương lai là tam thiện đạo, không thoát khỏi lục đạo luân hồi, [v́ vậy, nói nó] là ma nghiệp! Do đó, tu hết thảy các thiện pháp, tu Phật pháp, đều gọi là ma nghiệp, là phước báo trong lục đạo. Quư vị tu đến Sắc Giới Thiên, tu tới Vô Sắc Giới Thiên, vẫn chưa được! Tuổi thọ trong Vô Sắc Giới Thiên đă hết, vẫn phải đọa lạc, ngạn ngữ bảo là “trèo cao, ngă đau”. Trèo tới Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Thiên, sau khi đă chết, trong kinh đức Phật thường dạy, thường là đọa xuống A Tỳ địa ngục. V́ sao? Tín tâm của người ấy dao động! Người ấy lầm tưởng Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Thiên là Đại Bát Niết Bàn do chư Phật đă chứng đắc, ngỡ là đạt tới cảnh giới ấy th́ chính ḿnh đă chứng đắc Đại Bát Niết Bàn, bất sanh, bất diệt! Tới khi công phu định lực mất đi, thọ mạng như trong kinh đă nói cũng chính là công phu định lực của vị trời ấy, công phu định lực của vị ấy tồn tại tám vạn đại kiếp. Khi đă hết tám vạn đại kiếp, Định mất đi, khi mất đi, vị ấy bèn nghĩ: “Trước kia, chư Phật, Bồ Tát đă dối gạt ta, chứng đắc Đại Niết Bàn sẽ chẳng sanh, chẳng diệt. Cớ sao nay phiền năo của ta lại hiện hành?” Do một niệm ấy bèn tạo tội nghiệp A Tỳ địa ngục, hủy báng thánh hiền, báng Phật, báng Pháp, báng Tăng, do tội nghiệp ấy bèn đọa địa ngục, quư vị nói có đáng sợ lắm hay không? Vị ấy chẳng biết chính ḿnh lầm lỗi, lại đổ thừa Tam Bảo. “Phát tâm chi yếu, bất ngôn khả dụ” (Tầm trọng yếu của phát tâm, chẳng thể dùng lời lẽ nào tỷ dụ được), chúng ta nhất định phải nhớ lời này!

Chúng ta lại xem đoạn kế tiếp: “Nguyên Hiểu sư đẳng” (các vị như ngài Nguyên Hiểu), vị này đă nói trong phần trước, “dĩ phát Bồ Đề tâm vi chánh nhân, niệm Phật vi trợ nhân” (các vị như sư Nguyên Hiểu cho rằng: Phát Bồ Đề tâm là chánh nhân, niệm Phật là trợ nhân). Trong Yếu Giải, Ngẫu Ích đại sư đă tuân theo ư nghĩa này! Trong bản Yếu Giải chú giải kinh Di Đà của Ngẫu Ích đại sư, [Ngài đă nói] “có thể văng sanh hay không là do tín nguyện có hay không quyết định”. Quư vị thấy [tín nguyện là phát Bồ Đề tâm] là chánh nhân, c̣n công phu niệm Phật sâu hay cạn sẽ quyết định phẩm vị cao hay thấp sau khi văng sanh Cực Lạc. Có thể văng sanh hay không do tín nguyện quyết định; phẩm vị cao thấp do công phu niệm Phật của quư vị [quyết định]. Ngẫu Ích đại sư cũng giảng cùng một ư nghĩa với các vị như ngài Nguyên Hiểu. “Ngă quốc Thiện Đạo, Linh Chi dữ Nhật Bản Tịnh Tông chư gia, tắc dĩ tŕ danh vi Chánh Hạnh, phát tâm vi Trợ Hạnh” (Các vị như Thiện Đạo, Linh Chi của nước ta và các vị trong Tịnh Tông Nhật Bản coi tŕ danh là Chánh Hạnh, phát tâm là Trợ Hạnh). Đấy là “người nhân thấy là nhân, người trí thấy là trí”, các vị tổ sư đại đức có quan điểm khác nhau, có những vị nghĩ tŕ danh niệm Phật là Chánh Hạnh, phát Bồ Đề tâm là Trợ Hạnh, Chánh và Trợ phải cùng tu. Có Chánh mà chẳng có Trợ, sẽ chẳng thể thành công. Có Trợ mà chẳng có Chánh, cũng chẳng thể thành công. Do vậy, Liên Tŕ đại sư dung hội; trong Di Đà Kinh Sớ Sao, Liên Tŕ đại sư đă “ḥa hội chi viết: Hoàn dĩ tŕ danh vi Chánh Hạnh, phục dĩ tŕ danh vi phát Bồ Đề tâm” (bèn nói dung ḥa, tổng hợp rằng: “Vẫn lấy tŕ danh làm Chánh Hạnh, lại coi tŕ danh là phát Bồ Đề tâm”). Thật sự tŕ danh là phát Bồ Đề tâm, v́ sao? Trong ấy có đạo lư, tŕ danh niệm Phật đến nhất tâm bất loạn chẳng phải là Bồ Đề tâm ư? Tŕ danh chưa đạt tới nhất tâm bất loạn sẽ chẳng phải là Bồ Đề tâm, chư vị phải biết điều này! Bồ Đề tâm là tâm thanh tịnh, là tâm b́nh đẳng. Ta niệm một câu A Di Đà Phật này, niệm suốt ngày từ sáng đến tối, trong tâm là A Di Đà Phật, miệng là A Di Đà Phật, toàn bộ những thứ khác đều buông xuống, đó là Bồ Đề tâm. Nếu ta niệm A Di Đà Phật, cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, nhưng chẳng buông những thứ khác xuống, để chúng xen tạp vào đó, sẽ chẳng phải là Bồ Đề tâm. Các thuyết đều có lư, Liên Tŕ đại sư muốn dung hội, đấy là “một là hết thảy, hết thảy là một”, pháp môn Bất Nhị, Bồ Đề tâm và tŕ danh là một, không hai. Thật sự tŕ danh niệm Phật, quả thật đă viên măn Bồ Đề tâm. Nếu không, cớ sao khi người ấy văng sanh lại có thể có tướng lành tốt đẹp ngần ấy, biết trước lúc mất, ra đi rất tiêu sái, rất tự tại? Do Bồ Đề tâm! Trong Sớ Sao, Liên Tŕ đại sư đă nói: “Tắc song thủ lưỡng gia nhi ḥa hội kỳ nghĩa dă” (dùng cả hai thuyết để dung hội ư nghĩa).

      “Kim sùng” (nay tôi đề cao), hiện thời, chúng ta tôn trọng, “phát Bồ Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm vi bổn kinh chi Tông” (phát Bồ Đề tâm, một mực chuyên niệm là Tông của kinh này). Đấy là ghép chung phát tâm và tŕ danh lại thành tông chỉ và nguyên tắc chỉ đạo tu học trong kinh này. Nói cách khác, Tông ấy là [Tông của] bản kinh bậc nhất trong Tịnh Độ Tông, mà tám chữ “phát Bồ Đề tâm, luôn luôn chuyên niệm” cũng là nguyên tắc chỉ đạo tối cao trong tu Tịnh Độ “Chánh thị song thủ lưỡng gia” (tức là lấy ư kiến của cả hai học phái), “lưỡng gia” là hai phái, tức hai học phái xưa nay, thu nhận chủ trương của hai học phái. “Phục hựu nhiếp quy danh hiệu, chánh dữ Liên Tŕ đại sư chi ư tương khế” (lại c̣n nhiếp về danh hiệu, thật sự khế hợp với ư của Liên Tŕ đại sư). Phát tâm văng sanh, đương nhiên phẩm vị văng sanh càng cao càng hay! Càng cao, càng hay! Đấy là do tŕ danh, sốt sắng, thật thà niệm Phật, phẩm vị bèn cao. Chúng ta phải hiểu rơ ràng, minh bạch những ư nghĩa này, sẽ rất hữu ích đối với sự tu học của chính ḿnh. “Thả thử bát tự, triển chi tắc vi Triệt Ngộ thiền sư chi giáo” (Vả nữa, tám chữ ấy khai triển sẽ thành lời dạy của thiền sư Triệt Ngộ), khai triển tám chữ ấy sẽ thành bốn câu nói của Triệt Ngộ đại sư: “Chân vị sanh tử, phát Bồ Đề tâm, dĩ thâm tín nguyện, tŕ Phật danh hiệu” (thật sự v́ sanh tử, phát tâm Bồ Đề, dùng tín nguyện sâu, tŕ danh hiệu Phật), thiền sư Triệt Ngộ nói như thế. Lăo nhân gia niệm Phật văng sanh Tịnh Độ, là bậc đại đức trong nhà Thiền, quay đầu niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Chúng ta phải ghi nhớ mười sáu chữ ấy, thật sự v́ sanh tử, không tạo nghiệp sanh tử luân hồi nữa, sanh tử luân hồi khổ chẳng thể nói được! Sau khi ta thoát ly lục đạo, sẽ thành tựu trong thế giới Cực Lạc; nói thật ra, chẳng thành tựu cũng được! Vừa đến thế giới Cực Lạc, ngay lập tức tới mười phương thế giới hóa độ chúng sanh cũng được. V́ sao? Bổn nguyện và oai thần của Phật Di Đà gia tŕ quư vị, tuy quư vị là phàm phu, nhưng trí huệ và đức năng bằng với Thất Địa Bồ Tát, quư vị là A Duy Việt Trí Bồ Tát, chỉ cần thấy A Di Đà Phật, sẽ được đăi ngộ như A Duy Việt Trí Bồ Tát, quư vị bèn đạt được. V́ thế, quư vị chứng đắc A Duy Việt Trí đương nhiên là rất tốt, phổ độ chúng sanh; [c̣n nếu] chưa chứng đắc, nhưng quư vị có tâm đại từ bi, thấy chúng sanh quá khổ, cũng được, quư vị ứng hóa trong lục đạo. A Di Đà Phật và chư đại Bồ Tát sẽ thường chiếu cố quư vị. Thật sự chứng đắc A Duy Việt Trí trong thế giới Cực Lạc, A Duy Việt Trí viên chứng ba món Bất Thoái, chính là hàng Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo như trong kinh Hoa Nghiêm [đă giảng]. Người ấy ứng hóa trong lục đạo có bị mê hay không? Người ấy sẽ chẳng mê, v́ sao? Đă kiến tánh, minh tâm kiến tánh th́ làm sao có thể bị thoái chuyển cho được? Chẳng có lẽ nào! Bồ Tát như thế nào sẽ mê? Trong mười pháp giới, [tức là] Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật trong mười pháp giới, tứ thánh pháp giới ứng hóa trong lục đạo sẽ bị mê khi cách ấm, chứ Pháp Thân Bồ Tát chẳng bị. Hàng Bồ Tát trong mười pháp giới chỉ có Vị Bất Thoái, nhưng Hạnh bị thoái chuyển, Niệm chẳng cần phải nói nữa; họ chỉ có Vị Bất Thoái. Đạt được minh tâm kiến tánh, thoát ly mười pháp giới, chứng đắc Sơ Trụ của Viên Giáo, hay Sơ Địa trong Biệt Giáo, sẽ chẳng thoái chuyển. Trong địa vị ấy, chư Phật Như Lai vẫn gia tŕ người ấy, tăng tấn trí huệ và đạo lực cho người ấy, giúp đỡ người ấy, người ấy sẽ thành tựu công đức giáo hóa chúng sanh trong ấy.

      Tiếp theo đó là rút gọn lại, phần trên là triển khai, [sẽ thành] bốn câu nói của Triệt Ngộ đại sư. “Ước chi, tắc vi Ngẫu Ích đại sư sở xướng chi tín nguyện tŕ danh” (rút gọn lại sẽ chính là “tín nguyện tŕ danh” như Ngẫu Ích đại sư đề xướng). Ngẫu Ích đại sư nói bốn chữ ấy, đơn giản! Bốn chữ ấy được lăo pháp sư Ấn Công, tức Ấn Quang đại sư là vị tổ sư thứ mười ba của Tịnh Tông chúng ta, thọ tŕ suốt đời! Quư vị đọc Văn Sao thấy Ngài thường dạy người khác tín nguyện tŕ danh, cầu sanh Tịnh Độ. Lăo nhân gia, truyền tâm, truyền pháp gồm mười sáu chữ: “Đôn luân, tận phận, nhàn tà, tồn thành, tín nguyện tŕ danh, cầu sanh Tịnh Độ” (vẹn hết luân thường, trọn hết bổn phận, dứt ḷng tà, giữ ḷng thành, tín nguyện tŕ danh, cầu sanh Tịnh Độ). Suốt đời tổ Ấn Quang hành tŕ mười sáu chữ ấy, mười sáu chữ ấy nói rất thấu triệt. “Di Đà Yếu Giải dĩ ‘tín nguyện tŕ danh’ vi Tông” (sách Di Đà Yếu Giải lấy “tín nguyện tŕ danh” làm Tông). Trong phần Minh Tông Luận Dụng của sách A Di Đà Kinh Yếu Giải, Ngẫu Ích đại sư đă dùng “tín nguyện tŕ danh” làm Tông, v́ kinh Di Đà và kinh này là cùng một bộ, Đại Bổn và Tiểu Bổn, nên nguyên tắc chỉ đạo tương đồng. Tiếp theo đó: “Tịnh vân: Tín nguyện tŕ danh vi nhất kinh yếu chỉ” (Lại c̣n nói, tín nguyện tŕ danh là ư chỉ chánh yếu của bộ kinh). Những câu này đều do Ngẫu Ích đại sư nói. “Tín nguyện vi huệ hạnh, tŕ danh vi hành hạnh, đắc sanh dữ phủ, toàn do tín nguyện chi hữu vô; phẩm vị cao hạ, toàn do tŕ danh thâm thiển” (Tín nguyện là huệ hạnh, tŕ danh là hành hạnh, được văng sanh hay không toàn là do có tín nguyện hay không? Phẩm vị cao hay thấp toàn là do tŕ danh sâu hay cạn). Hai câu này nói rất tuyệt! Đấy là nguyên tắc chỉ đạo tu học tối cao trong Tịnh Tông. “Cố huệ hạnh vi tiền đạo, hành hạnh vi chánh tu” (do vậy, huệ hạnh để dẫn đường, hành hạnh là hạnh chánh yếu phải tu tập). Tín nguyện th́ như trong khi giảng giải kinh Di Đà, chúng tôi đă giảng câu: “Chẳng thể dùng chút ít thiện căn, phước đức, nhân duyên để được sanh về cơi ấy”. Thiện căn là ǵ? Thiện căn là có thể tin, có thể hiểu, đấy là thiện căn. Phước đức là ǵ? Phước đức là có thể niệm, quư vị thật sự hành, thật sự tŕ danh. Nhân duyên là hoàn cảnh trợ duyên bên ngoài, quư vị gặp gỡ pháp môn này, gặp những thiện tri thức tu học pháp môn này, họ giúp đỡ quư vị, đấy là ngoại duyên. Trọn đủ ba món thiện căn, phước đức, nhân duyên này, quyết định được văng sanh. Ba món ấy, thiếu một món nào, cũng đều chẳng được! Quư vị có phước đức, có nhân duyên, nhưng thiếu thiện căn, gặp [pháp môn này] sẽ như thế nào? Chẳng tin tưởng, mà cũng không có cách nào lư giải; v́ thế, ư nguyện niệm Phật cầu văng sanh chẳng dấy lên. Nếu không có phước đức, quư vị có thể tin và hiểu, nhưng không hành được, chẳng chống nổi tiếng tăm lợi dưỡng trước mắt dụ dỗ, mê hoặc. Chẳng phải là quư vị không hiểu, nhưng sức dụ dỗ, mê hoặc quá mạnh, biết rơ mà vẫn cố phạm, kẻ như vậy rất nhiều, chẳng phải là không đông đảo! V́ vậy, tổ Ấn Quang suốt đời đề xướng giáo dục nhân quả, hết sức có lư! Hiểu nhân quả là ǵ? Hiểu nhân quả, [sẽ biết] vấn đề sanh tử đúng là chuyện lớn! Đời đời kiếp kiếp mê hoặc, điên đảo làm chuyện ấy, kết bao nhiêu oan nghiệp với hết thảy chúng sanh. Thật sự hiểu rơ ràng, minh bạch, hiểu rành rẽ đạo lư và chân tướng sự thật của nhân quả, thật sự giác ngộ, sẽ không làm nữa, hạ quyết tâm chẳng làm nữa, trong đời này ta nhất định phải thoát lục đạo, ra khỏi mười pháp giới. Đó là sức mạnh của nhân quả, vậy th́ quư vị thật sự làm. Thật sự làm là đại phước đức, vô lượng phước đức. Hành hạnh là chánh tu, niệm niệm chẳng ĺa A Di Đà Phật, nhất niệm tương ứng nhất niệm Phật, niệm niệm tương ứng niệm niệm Phật, tương ứng với A Di Đà Phật. “Như mục túc tịnh vận” (như mắt và chân cùng vận dụng), đây là nói tỷ dụ, dễ hiểu, ta thấy đường, ta liền bước một bước.

      Lại nói: “Thâm tín phát nguyện, tức Vô Thượng Bồ Đề. Hợp thử tín nguyện, đích vi Tịnh Độ chỉ nam, do thử nhi chấp tŕ danh hiệu, năi vi Chánh Hạnh” (Tin sâu, phát nguyện, tức là Vô Thượng Bồ Đề. Hợp tín và nguyện lại, sẽ đích xác là kim chỉ nam cho Tịnh Độ. Do những điều ấy, chấp tŕ danh hiệu, chính là Chánh Hạnh). Ngẫu Ích đại sư nói mấy câu này rất hay! Trong Chánh Hạnh c̣n có điều kiện, phải niệm như thế nào? Trong câu Phật hiệu ấy trọn đủ “thâm tín, phát nguyện, phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ”. Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành; nếu đă thành Phật đạo, quư vị hăy nghĩ xem, độ chúng sanh, đoạn phiền năo, học pháp môn chẳng phải đều gộp trong ấy hay sao? Bốn câu Tứ Hoằng Thệ Nguyện, mỗi câu sau sâu hơn câu trước. Hễ có điều thứ nhất, ắt có điều thứ hai. Có điều thứ hai, nhất định phải có điều thứ nhất. Có điều cuối cùng th́ ba điều trước đó nhất định phải trọn đủ; v́ thế, nó là viên măn. Do vậy, “tin sâu, phát nguyện” là vô thượng Bồ Đề. “Hợp thử tín nguyện” là chỉ nam của Tịnh Độ, nương theo đó chấp tŕ danh hiệu là Chánh Hạnh. Ngẫu Ích đại sư nói: Đầy đủ những điều kiện này mới là Chánh Hạnh thật sự. “Đại Bổn A Di Đà Kinh” là kinh Vô Lượng Thọ, “diệc dĩ phát Bồ Đề nguyện vi yếu, chánh dữ thử đồng” (cũng coi phát Bồ Đề nguyện là trọng yếu, hoàn toàn tương đồng với điều này). Trong bốn mươi tám nguyện, nguyện thứ mười tám là chấp tŕ danh hiệu, nguyện thứ mười chín là “phát Bồ Đề tâm” và “văng sanh Tịnh Độ đều là A Duy Việt Trí Bồ Tát”. Câu này cũng nhằm nói tới nguyện thứ mười chín. “Khả kiến tín nguyện tŕ danh dữ phát Bồ Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm, chánh thị đồng chỉ” (có thể thấy tín nguyện tŕ danh và phát Bồ Đề tâm, một bề chuyên niệm, đúng là cùng một tông chỉ), có cùng một tông chỉ! Ngẫu Ích đại sư nói bốn chữ, kinh Vô Lượng Thọ nói tám chữ, nhưng có cùng một ư nghĩa, chỉ thú hoàn toàn tương đồng. “Ngẫu Ích đại sư dĩ tín nguyện tŕ danh vi Tiểu Bổn chi Tông. Đại Tiểu lưỡng bổn, tông chỉ ưng đồng. Cố kim viết” (Ngẫu Ích đại sư coi “tín nguyện tŕ danh” là Tông của Tiểu Bổn. Tông chỉ của hai bản Đại và Tiểu phải giống nhau, nên nay nói), nay chúng ta đang học tập kinh Vô Lượng Thọ, “phát Bồ Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm, vi Đại Bổn chi Tông. Chánh thị tuân phụng Ngẫu Ích đại sư chi thùy giáo dă” (phát Bồ Đề tâm, một bề chuyên niệm là Tông của Đại Bổn, đấy chính là tuân phụng lời dạy của Ngẫu Ích đại sư vậy), hoàn toàn tương ứng với lời dạy của Ngẫu Ích đại sư.

      Đoạn tiếp theo lại giải thích “nhất hướng chuyên niệm”. “Nhất Hướng nhị tự chữ hữu sổ nghĩa” (hai chữ Nhất Hướng có mấy nghĩa), trong ấy có mấy ư nghĩa:

- Thứ nhất, “triều hướng nhất phương tiền tấn” (hướng theo một phương để tiến lên), “nhất phương” là Tây Phương, mục đích là thế giới Cực Lạc, chữ Nhất Hướng có ư nghĩa thứ nhất như vậy.

- Thứ hai, “thiên hướng nhất biên” (ngả theo một bên), quyết định chẳng lấy Đông, Nam, Bắc, chuyên lấy Tây Phương, cũng chẳng lấy phía trên, hay phía dưới, riêng lấy Tây Phương, cũng là cùng một ư nghĩa với “triều hướng nhất phương” trong đoạn trên.

- Thứ ba là “nhất vị” (một vị).

- Thứ tư là “tổng thị” (luôn là).

- Thứ năm là “nhất đoạn thời gian” (một khoảng thời gian). Ư nghĩa thứ năm là “nhất đoạn thời gian” cũng nói rất hay, tức là nói khoảng thời gian hiện tiền này, chẳng nói tới quá khứ, mà cũng không nói tới tương lai. Trong khoảng thời gian hiện tiền này, chúng ta nhất định phải hoàn thành, phải đạt mục đích. “Tổng thị” nghĩa là khởi tâm động niệm luôn là A Di Đà Phật, quyết định chẳng có tạp niệm. “Nhất vị”“tổng thị” mang ư nghĩa này.

“Cố tri nhất hướng chuyên niệm A Di Đà Phật, tức chuyên hằng y chỉ tŕ danh niệm Phật pháp môn chi nghĩa dă” (nên biết một bề chuyên niệm A Di Đà Phật chính là ư nghĩa chuyên luôn luôn y chỉ pháp môn tŕ danh niệm Phật), trọng yếu lắm! Chúng ta hăy nên buông xuống vạn duyên. Không chỉ buông xuống vạn duyên, mà ngay cả Phật pháp cũng buông xuống. Liên Tŕ đại sư đă nêu gương cho chúng ta, lăo nhân gia nói: “Tam Tạng thập nhị bộ, nhượng cấp biệt nhân ngộ” (Tam Tạng mười hai bộ, nhường cho người khác ngộ), Ngài không làm nữa! “Bát vạn tứ thiên hạnh, nhiêu dữ biệt nhân hành” (tám vạn bốn ngàn hạnh, dành cho kẻ khác hành). Quư vị thích học pháp môn ấy th́ học, lăo nhân gia cung kính tán thán. Chính Ngài th́ sao? Chính Ngài chuyên niệm Di Đà, thật sự chuyên.

Có một năm, do [thuở trước] Ngài trụ tại Hàng Châu, tôi đến thăm đạo tràng của Ngài; hiện thời nơi ấy mở quán trà, quả thật, chúng tôi thấy như vậy rất khó chịu! Trong Đại Hùng Bảo Điện, toàn bộ tượng Phật chẳng c̣n nữa, biến thành quán trà, đạo tràng của tổ sư đấy nhé! Đại điện chùa ấy có tên là Thần Vận Điện; v́ thế, chúng tôi nghĩ đến [chuyện ấy] cũng rất khó chịu! Có một năm, Hàng Châu bị hạn hán vô cùng nghiêm trọng, quan Thái Thú, thuở ấy là Thái Thú, hiện thời là Thị Trưởng, đến cầu xin lăo ḥa thượng: “Mong lăo ḥa thượng hăy phát tâm từ bi cầu mưa dứt hạn hán”. Trong Phật môn, quư vị thấy bản Đại Khóa Tụng có nghi thức cầu mưa, đó là cầu long vương. Liên Tŕ đại sư bảo mọi người: “Ta không biết nghi quy ấy, ta chỉ biết niệm Phật. Chúng ta cùng nhau niệm Phật là được rồi”. Ngài dẫn cả đống người, gơ mơ niệm A Di Đà Phật, bước trên bờ ruộng, quả thật, Ngài đi tới đâu, mưa tuôn tới đó, thật sự linh ứng! Dùng một câu A Di Đà Phật, nghi thức ǵ cũng đều chẳng có, hễ thành ắt linh mà! Trong truyện kư của Liên Tŕ đại sư có chép câu chuyện như thế. Một câu A Di Đà Phật vô cùng hữu dụng, chỉ cần thành tâm, thành ư, chắc chắn chẳng hoài nghi, nhất định chẳng xen tạp, sẽ có cảm ứng. Liên Tŕ đại sư dùng câu Phật hiệu A Di Đà Phật để cầu mưa, bèn cầu được!

      Hiện thời, h́nh như là năm trước, tại huyện Khánh Vân, tỉnh Sơn Đông, cư sĩ Tề Tố B́nh dựng chùa ở nơi ấy, tức Kim Sơn Tự. Lúc ấy, ở nơi đó, bốn trăm mẫu ruộng tiểu mạch (lúa ḿ) sắp thu hoạch, bỗng nhiên bị nạn châu chấu. Chuyện này phiền lắm, tiểu mạch sẽ bị châu chấu ăn sạch. Nông dân vùng phụ cận bảo bà ta phải phun thuốc sát trùng. Tề cư sĩ gọi điện thoại hỏi tôi, phun thuốc sát trùng là sát sanh! Tôi nói: “Bà hăy suy nghĩ xem nên xử lư ra sao!” Cuối cùng, bà ta nghĩ thông suốt, chẳng sát sanh, trọn chẳng phun thuốc sát trùng, thà đem hơn bốn trăm mẫu tiểu mạch để cho châu chấu ăn, cúng dường chúng nó, cũng chẳng sát hại chúng nó. Dấy lên ư niệm ấy, bà ta dẫn một đám người vào ruộng lúa mạch niệm A Di Đà Phật, đi nhiễu quanh ruộng niệm Phật. Trời tuôn một trận mưa nhỏ, sau khi một trận gió quét qua, chẳng c̣n một con trùng gây hại nào! Những nông dân vùng phụ cận rất kinh ngạc, v́ sao không có? Thật vậy! Chẳng t́m được con nào, bội thu! Nếu bà ta phun thuốc trừ sâu, sẽ kết oán cùng những chúng sanh ấy, phiền phức to lớn. Bà ta đă phát tâm từ bi, một con châu chấu nhỏ cũng chẳng giết. Bà ta cũng không nghĩ chúng nó sẽ rời đi, kết quả là những con tiểu trùng ấy thật sự chẳng c̣n, bà ta kể cho tôi nghe chuyện này. Tuần trước, quư vị thấy cư sĩ Lưu Tố Vân ở Đông Bắc, mười một năm trước bị hồng ban lang sang (systemic lupus erythematosus) hết sức nghiêm trọng. Bác sĩ bảo bà ta hăy chuẩn bị tâm lư v́ có thể chết bất cứ lúc nào. Bà ta mắc chứng hồng ban lang sang nghiêm trọng, những người mắc bệnh nhẹ hơn bà ta đều chết cả rồi, c̣n bà ta một mực tin tưởng niệm “A Di Đà Phật”, tin tưởng A Di Đà Phật là đại y vương, A Di Đà Phật nhất định trị lành bệnh cho bà ta, do nhất niệm ấy mà niệm A Di Đà Phật, bệnh ấy thật sự lành. Đến nay là mười một năm rồi, bà ta báo cáo với chúng ta ở nơi đây, nói suốt mười mấy giờ, nói thật hay! Năm nay, bà ta sáu mươi sáu tuổi, giảng cho chúng ta ở đây mỗi ngày hai tiếng. Sau khi giảng xong, Hướng Tiểu Lỵ ở Thâm Quyến mời bà ta sang đó, giảng hai ngày tại đạo tràng của bà Hướng, mỗi ngày giảng tám tiếng, diễn giảng sáu tiếng, hai tiếng trả lời câu hỏi, chẳng có vẻ mệt mỏi. Phát Bồ Đề tâm, một mực chuyên niệm, oai lực chẳng thể nghĩ bàn!

      Tiếp theo đó, sách viết: “Nhất hướng chuyên niệm, bổn ư Di Đà bổn nguyện đệ thập bát, thập niệm tất sanh chi đại nguyện” (Một mực chuyên niệm vốn là nguyện thứ mười tám trong bổn nguyện Di Đà, tức là đại nguyện mười niệm ắt được văng sanh). Câu này nói tới nguyện thứ mười tám, câu này (tức câu “nhất hướng chuyên niệm”) phát xuất từ nguyện thứ mười tám. “Di Đà nhân trung phát thập niệm tất sanh đại nguyện” (trong lúc tu nhân, đức Di Đà đă phát ra đại nguyện “mười niệm ắt được văng sanh”), đó là nói tới lúc lâm chung, nói về hạng người nào? Suốt đời chẳng nghe Phật pháp, chẳng có tín ngưỡng tôn giáo, khi lâm chung, đầu óc tỉnh táo, chẳng mê hoặc tí nào, gặp gỡ thiện hữu, gặp một người niệm Phật, khuyên người ấy niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, vừa nghe liền tin tưởng, vừa nghe liền bằng ḷng, thật sự làm, A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, mười tiếng bèn văng sanh. Mười tiếng ấy là tịnh niệm tiếp nối, chẳng hoài nghi, chẳng xen tạp, chẳng gián đoạn, mười tiếng! Đó là bổn nguyện của A Di Đà Phật. Ngẫu Ích đại sư cũng dựa vào nguyện này mà bảo: “Có thể văng sanh hay không được quyết định bởi có tín nguyện hay không?” Người ấy thật sự tin, nguyện thiết tha, tŕ danh niệm Phật, tịnh niệm tiếp nối, bất quá thời gian rất ngắn mà có thể thành công, là do tương ứng với bổn nguyện của A Di Đà Phật. “Cố hành nhân phát Bồ Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm, tất đắc văng sanh Tịnh Độ, viên chứng Bất Thoái chi diệu quả” (cho nên hành nhân phát Bồ Đề tâm, một mực chuyên niệm, ắt được văng sanh Tịnh Độ, chứng trọn vẹn diệu quả Bất Thoái). Viên chứng ba thứ Bất Thoái: Vị Bất Thoái, Hạnh Bất Thoái, Niệm Bất Thoái.

“Kinh trung thượng bối, trung bối, cập hạ bối văng sanh chi nhân, giai do ư phát Bồ Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm A Di Đà Phật, nhi văng sanh Cực Lạc Tịnh Độ. Cái dĩ quả giác nhân tâm, cứu cánh phương tiện, toàn hiển Di Đà Nhất Thừa nguyện hải, lục tự hồng danh, bất khả tư nghị chi oai thần công đức” (Người văng sanh thuộc bậc thượng, bậc trung và bậc hạ trong kinh đều do phát Bồ Đề tâm, một mực chuyên niệm A Di Đà Phật mà văng sanh Cực Lạc Tịnh Độ. Ấy là v́ dùng quả giác để làm cái tâm tu nhân, phương tiện rốt ráo, hiển lộ toàn vẹn biển nguyện Nhất Thừa của Phật Di Đà. Sáu chữ hồng danh có oai thần và công đức chẳng thể nghĩ bàn). Qua những câu này, cụ Hoàng Niệm Tổ đă buốt ḷng rát miệng khuyên dạy chúng ta, chúng ta đă trọn đủ duyên, chỉ e thiện căn và phước đức c̣n thiếu kém đôi chút. Thiếu kém đôi chút chẳng sao, trong một đời này, chúng ta có thể bổ khuyết. Nói gần gũi hơn tí nữa th́ hiện nay ta bù đắp cho đủ, nguyện vọng cầu văng sanh sẽ được thỏa. Nếu chẳng bù đắp cho đủ, cả đời này rất có thể sẽ lỡ làng! Trong t́nh h́nh giống như thế, bản thân chúng ta hăy nên khẳng định đời đời kiếp kiếp trong quá khứ, chúng ta đă từng nhiều lần gặp gỡ [pháp môn này], v́ sao chẳng văng sanh? Là v́ chẳng bù đắp cho đủ tín nguyện bị khiếm khuyết đôi chút, cho nên vẫn phải lưu chuyển theo nghiệp.

Ta ưa thích pháp môn này, nhưng pháp môn nọ rất trọng yếu, vẫn tu tập [thêm pháp môn ấy], chẳng giống như cổ đại đức. Cổ đại đức phải đạt được Tịnh Độ trước rồi mới học thêm pháp khác. Giống như Giao Quang đại sư, Ngài đă chứng đắc Tịnh Độ, khi lâm chung, A Di Đà Phật tới tiếp dẫn, Ngài đă đạt được, [tức là đă] đạt được [Tịnh Độ], nhưng Ngài nghĩ chú giải kinh Lăng Nghiêm có vấn đề, những chú giải của cổ đại đức chưa phải là ư nghĩa của Phật, nên xin A Di Đà Phật cho hoăn lại để con viết xong xuôi bộ chú giải này. A Di Đà Phật chấp thuận. Quư vị thấy Ngài đă nắm chắc Tịnh Độ, cũng có nghĩa là đối với sự văng sanh của chính ḿnh chẳng c̣n bị trở ngại, có thể tự tại trụ trong thế gian này một thời gian dài hay ngắn: Muốn đi sớm một ngày bèn được, có thể đi. Muốn giúp đỡ chúng sanh, ở lại mấy năm cũng chẳng trở ngại, do có công phu ấy bèn được!

Nếu không có công phu ấy, chúng ta phải nhớ: Chúng ta coi thế giới Cực Lạc là đại sự hàng đầu, v́ sao? Tới thế giới Cực Lạc bèn thành Phật. Tổ sư đại đức bảo chúng ta: “Đản đắc kiến Di Đà, hà sầu bất khai ngộ” (chỉ thấy Phật Di Đà, lo chi chẳng khai ngộ), “ngộ” ấy là đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật, chẳng phải là ngộ tầm thường! Sau khi thật sự triệt ngộ, sẽ giống như Phật, thực hiện nguyện thứ nhất trong Tứ Hoằng Thệ Nguyện, “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”, quư vị có thể thật sự làm được, đối với chính ḿnh, độ chúng sanh chẳng bị trở ngại mảy may nào. Chúng sanh có cảm, quư vị bèn có ứng, cảm ứng đạo giao trọn chẳng trái thời!

Từ sách Hoàn Nguyên Quán, chúng ta thấy ư niệm ấy dấy lên sẽ trọn khắp pháp giới, ư niệm cảm của chúng ta sẽ trọn khắp pháp giới. Phật, Bồ Tát trọn pháp giới hư không giới, những vị Bồ Tát ấy là Pháp Thân Bồ Tát, sẽ lập tức ứng. Có khi chúng ta cầu mà chẳng có ứng, có phải là chẳng linh hay chăng? Chẳng phải. Lúc tôi mới học Phật đă có những nghi vấn ấy, Chương Gia đại sư giải thích: Chẳng phải là không có ứng. Có ứng, nhưng quư vị chẳng cảm nhận được, do nguyên nhân nào? Chính quư vị có nghiệp chướng. Chúng ta cảm, ví như làn sóng của chúng ta gởi tới Phật, Bồ Tát, Phật, Bồ Tát có sự hồi ứng; khi sự hồi ứng trở về bên ta, do ta có nghiệp chướng, nên chính ḿnh chẳng cảm nhận được! Hễ nghiệp chướng tiêu trừ, sẽ có ứng vô cùng rơ rệt. “Trong cửa nhà Phật, có cầu ắt ứng”, Sự Lư cảm ứng cũng rất sâu, đức Phật dạy có bốn thứ.

V́ vậy, học Phật, niệm Phật cũng là tiêu nghiệp chướng. Kinh dạy niệm A Di Đà Phật một tiếng, tiêu trừ trọng tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử, mới biết công đức niệm Phật chẳng thể nghĩ bàn. Cổ đại đức thường nói: “Niệm kinh chẳng bằng niệm chú, niệm chú chẳng bằng niệm Phật”. V́ sao chúng ta niệm Phật chẳng tiêu nghiệp chướng? Tâm chúng ta không thanh tịnh, chưa đoạn nghi lự, cho nên có hoài nghi, xen tạp, lại c̣n thường xuyên gián đoạn. V́ thế, Phật, Bồ Tát ứng, chúng ta rất khó cảm nhận. Hiểu rơ chân tướng sự thật này, sau đấy, chúng ta mới biết sám trừ nghiệp chướng là một đại sự rất trọng yếu. Sám hối nghiệp chướng; sám hối bằng cách nào? Vẫn là một câu cũ rích: “Buông xuống!” Đừng chứa trong ḷng những thứ tạp nhạp, tâm địa khôi phục thanh tịnh, sám trừ nghiệp chướng.

Nghiệp chướng chẳng trừ, tâm quư vị làm sao có thể thanh tịnh được? Đời trước, đời này, tập khí nghiệp chướng, “đời trước” là tập khí, thảy đều phải buông xuống. Nói cách khác, chớ nên nghĩ tới nữa! [Những chuyện ấy] không chỉ là chuyện quá khứ, mà c̣n là chuyện đă qua lâu rồi, phải nhớ kỹ lời Phật dạy: “Phàm những ǵ có h́nh tướng đều là hư vọng”. Đă là hư vọng, quư vị nghĩ tới nó để làm ǵ? Quư vị nhớ tới nó để làm ǵ? Quư vị nghĩ tới nó sẽ lại tạo nghiệp. Quư vị nhớ tới nó cũng tạo nghiệp! Thân khẩu chẳng tạo nghiệp, nhưng ư tạo nghiệp. Ư nghiệp chẳng ngừng! Thân khẩu tạo nghiệp c̣n có lúc gián đoạn, khi ngủ, thân khẩu chẳng tạo nghiệp, nhưng ư vẫn tạo nghiệp, ư niệm của quư vị chẳng ngừng. Nói cách khác, quư vị vẫn đúng là “trong tâm vướng mắc quá nhiều, không bỏ xuống được”. Hiện thời phải biết: Nếu muốn liễu sanh tử, nếu muốn vĩnh viễn thoát ly lục đạo luân hồi, hăy hết sức hâm mộ Phật, Bồ Tát, mong mỏi ta cũng có thể làm Phật, Bồ Tát, quư vị sẽ thật sự buông xuống. Quư vị chẳng thể làm Phật là v́ chưa buông xuống; hễ buông xuống sẽ làm được!

      Pháp môn này là do A Di Đà Phật dùng tâm quả giác làm phương tiện rốt ráo dạy bảo chúng ta, chẳng giống các pháp môn thông thường. Pháp môn thông thường là lấy cái tâm tu nhân để cầu sự giác ngộ nơi quả địa. V́ thế, những pháp môn ấy theo từng giai đoạn, tiến lên cao hơn theo từng giai đoạn một, từ Thập Tín tới Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, Diệu Giác. Tiến lên cao như thế, dùng cái tâm tu nhân để chứng quả giác. Pháp môn này chẳng giống như vậy, mà là quả giác. Danh hiệu A Di Đà Phật là quả giác, lấy quả giác tâm làm nhân địa tâm (cái tâm trong lúc tu nhân), nhân và quả chẳng hai. Cho nên chúng ta niệm câu “đức hiệu” A Di Đà Phật này sẽ thành A Di Đà Phật. Chỗ y cứ thật sự là dựa trên căn cứ nào? Tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ, dựa trên điều này! Tây Phương Tịnh Độ của A Di Đà Phật do đâu mà có? Do tự tánh sanh ra, hiện ra! Nay chúng ta dùng tự tánh để niệm Phật, cho nên vượt khỏi những tầng lớp ấy, chẳng cần đến bốn mươi mốt tầng cấp, đốn siêu, thành tựu.

“Toàn hiển Di Đà Nhất Thừa nguyện hải, lục tự hồng danh, bất khả tư nghị chi oai thần, công đức” (Hiển lộ trọn vẹn biển nguyện Nhất Thừa của Phật Di Đà, sáu chữ hồng danh có oai thần và công đức chẳng thể nghĩ bàn), tôi vừa mới nói ư nghĩa này. Chúng ta phải thật sự tin vào những Lư Sự này; v́ thế, pháp môn này gọi là “pháp khó tin”, quư vị không tin, người khác không tin, đó là hiện tượng b́nh thường. Nếu không, làm sao có thể gọi là “pháp khó tin?” Bồ Tát khó tin, Thanh Văn, Duyên Giác khó tin. Có lúc phàm phu lại tin tưởng; vậy th́ phàm phu vượt trỗi Thanh Văn, Bồ Tát hay chăng? Đương nhiên chẳng thể vượt trỗi được! V́ sao phàm phu có thể tin? Trong đời quá khứ, đă từng học pháp môn này; trong A Lại Da Thức có chủng tử Tịnh Độ, đời này gặp gỡ, khiến cho chủng tử trong quá khứ hiện hành. Nếu chẳng có nhân ấy, sẽ chẳng thể nào [tin tưởng]. Bất luận sơ học gian nan ra sao, học mười năm, hai mươi năm, ba mươi năm, năm mươi năm, sẽ thật sự tin, đó là ǵ? Chủng tử trong A Lại Da Thức hiện hành. Nếu đă học tập từ những kiếp lâu xa, chủng tử sẽ gieo rất sâu trong A Lại Da Thức. Duyên thù thắng, có bạn lành, có thuận cảnh giúp đỡ quư vị, chủng tử trong đời quá khứ nhất định sẽ hiện hành, cho nên tiếp nhận. Có khi tới lúc lâm chung, sự tiếp nhận ấy mới tỏ lộ, nhưng hễ tiếp nhận là được rồi, lâm chung mười niệm bèn văng sanh. Người ấy văng sanh trong phẩm vị nào? Nói [nhất quyết] là Hạ Hạ phẩm th́ cũng rất khó nói, Hạ Hạ phẩm là đa số, nhưng cũng có người là Thượng Thượng phẩm, [tuy là] thiểu số. Điều này liên quan đến sự tu học trong đời quá khứ, tuyệt đối chẳng phải là thành tựu trong một đời này!

      “Hựu nhất hướng chuyên niệm giả, cổ vân: Thượng tận h́nh thọ, hạ chí thập niệm. Thượng tận h́nh thọ giả, chỉ tùng phát tâm niệm Phật chi nhật, chung thân niệm Phật” (lại nữa, đối với chuyện một bề niệm Phật, cổ nhân nói: “Bậc thượng là suốt đời, bậc hạ là chỉ mười niệm”. Bậc thượng thọ tŕ suốt đời là kể từ ngày phát tâm niệm Phật, bèn suốt đời niệm Phật). Kể từ khi hiểu rơ ràng, minh bạch Tịnh Tông, bèn hoàn toàn tiếp nhận, bắt đầu thật thà niệm Phật, hễ sống một ngày bèn niệm một ngày, đó gọi là “tận h́nh thọ”. “Trực chí mạng chung chi tối hậu nhất niệm, thử năi kỳ thượng giả. Kỳ hạ giả, vị năng cập thử, hoặc nhân chướng trọng, hoặc dĩ sự phồn, vị hạ đa niệm” (Măi cho đến một niệm cuối cùng lúc lâm chung, đó là bậc thượng. C̣n bậc hạ th́ chưa được như vậy, hoặc v́ chướng nặng, hoặc do lắm việc, chẳnh rảnh rỗi để niệm nhiều), đây là nói tới phước đức. Chư vị nhất định phải hiểu phước đức thật sự là ǵ? Niệm Phật là phước đức thật sự. Quư vị suốt ngày từ sáng đến tối Phật hiệu chẳng dứt, đó là người đại phước đức! V́ sao nói là người đại phước đức? Văng sanh Cực Lạc thế giới chẳng phải là phước đức tuyệt diệu ư? Chẳng phải là đại phước đức th́ làm sao quư vị có thể văng sanh? Suốt ngày từ sáng đến tối niệm câu Phật hiệu này, quư vị càng niệm, phẩm vị càng cao! Như trong Thập Lục Quán Kinh đă nói, trong tương lai quư vị văng sanh, hoa sen càng ngày càng to! Các thứ trong thế giới Cực Lạc đều giống nhau, chỉ có hoa sen khác biệt, v́ sao? Công phu niệm Phật của mỗi cá nhân khác nhau, nên hoa sen lớn hay nhỏ khác nhau, ánh sáng và màu sắc của mỗi hoa sen khác biệt. Do vậy, người trong thế giới Cực Lạc thấy rất rơ ràng, người trong hoa sen ấy c̣n chưa sanh về, nhưng đă thấy hoa sen trước, [tức là] thấy hoa sen trong ao bảy báu, thấy hoa ấy, [liền biết] công phu niệm Phật của người ấy khá lắm, hay công phu niệm Phật của người ấy dở hơn một chút, họ đều có thể thấy rơ ràng từ nơi ấy. Hoa sen to, ánh sáng và màu sắc tốt đẹp, chắc chắn người ấy đến Tây Phương Cực Lạc thế giới thành Phật rất nhanh, vận dụng công phu sâu xa mà!

      Trong kinh, đức Phật dạy: Tu hành một ngày trong thế giới Sa Bà bằng tu hành một trăm năm trong Tây Phương Cực Lạc thế giới. Thế giới này khá lắm, giúp cho chúng ta thành tựu rất nhanh, c̣n sang Tây Phương Cực Lạc thế giới, thành tựu thong thả, ở nơi đây rất nhanh. Cái hay của thế giới Tây Phương là thọ mạng dài, vô lượng thọ, chẳng bị mê khi cách ấm, thành tựu trong một đời. Thế gian này sóng gió quá lớn, thoạt ch́m, thoạt nổi đời đời kiếp kiếp, cho nên khổ nhiều, vui ít. Nhưng nếu tu hành th́ nơi đây đúng là tu hành tốt đẹp, thời thời, khắc khắc, từng phút, từng giây đều khảo nghiệm công phu của quư vị. Quyết định chẳng sanh phiền năo, trong thuận cảnh chẳng tham luyến, phải đoạn cái tâm [tham luyến] ấy, trong nghịch cảnh chẳng oán hận. Nói cách khác, trong thuận cảnh hay nghịch cảnh, bất luận hoàn cảnh nhân sự (quan hệ giữa con người với nhau), hay hoàn cảnh vật chất, tu ǵ? Tu thanh tịnh, b́nh đẳng. Giác chẳng cần nhắc tới, hễ thanh tịnh b́nh đẳng sẽ tự nhiên giác. Đạo lư này tương ứng với “chuyển thức thành trí” của Pháp Tướng Tông.

Tướng Tông nói “chuyển thức thành trí” là “lục, thất nhân thượng chuyển. Ngũ, bát quả thượng chuyển” (chuyển thức thứ sáu và thứ bảy trong khi tu nhân; chuyển năm thức trước và thức thứ tám nơi quả). Chuyển thức thứ sáu, tức Ư Thức, thành Diệu Quán Sát Trí, đó là tâm thanh tịnh. Chuyển thức thứ bảy thành B́nh Đẳng Tánh Trí, tức là thức thứ bảy chẳng c̣n phân biệt, b́nh đẳng sẽ hiện tiền. Giác là chuyển nơi quả. Do vậy, chúng ta phải coi trọng tu thanh tịnh và b́nh đẳng; nghĩa là thức thứ sáu và thức thứ bảy đă chuyển, thức thứ tám và năm thức trước sẽ chuyển theo. Chúng ta dùng phương pháp ǵ để chuyển? Dùng một câu Phật hiệu này! Trong thuận cảnh mới có một tí tham niệm dấy lên, bèn A Di Đà Phật, chuyển niệm ấy thành A Di Đà Phật. Trong nghịch cảnh mới có một tí oán hận, bèn A Di Đà Phật, chuyển toàn bộ thành A Di Đà Phật. Cách này tuyệt diệu! V́ thế, tổ sư đại đức thường nói “ám hợp đạo diệu” (thầm hợp đạo mầu), chẳng thấy chuyển, nhưng thật sự chuyển biến. Câu Phật hiệu này câu nọ tiếp câu kia chẳng để gián đoạn, trong mỗi tiếng Phật hiệu chẳng hoài nghi, chẳng xen tạp, công phu thuần thục!

      Tiếp đó, sách viết: “Tắc ư mỗi nhật hành Thập Niệm pháp, diệc phù ư nhất hướng chuyên niệm” (Dù mỗi ngày hành pháp Thập Niệm, cũng phù hợp [tông chỉ] một mực chuyên niệm). Pháp Thập Niệm do tổ sư đại đức nói với kẻ gặp lúc công việc bận bịu, nhiều việc quá, không có thời gian để niệm Phật, cũng chẳng có thời gian để tụng niệm công khóa sáng tối, quư vị bèn dùng cách Thập Niệm. Buổi sáng thức dậy, sau khi rửa mặt, súc miệng, hướng về tượng Phật, nếu không có tượng Phật, hăy ngoảnh mặt về phương Tây, cứ hết một hơi là một niệm. Một niệm chẳng câu nệ nhiều hay ít, [cứ niệm] một hơi A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, hết một hơi là một niệm. Niệm mười hơi, suốt đời chẳng gián đoạn, cũng gọi là “nhất hướng chuyên niệm”. Khi tôi ở Tân Gia Ba, tôi dạy các đồng học một cách Thập Niệm khác, [tức là] thập thanh Phật hiệu. Dùng pháp Thập Niệm này, so về mặt thời gian càng dễ làm hơn. A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, niệm mười câu như vậy, mỗi ngày niệm chín lần. Buổi sáng thức dậy, rửa mặt, súc miệng, niệm một lần; buổi tối trước khi ngủ niệm một lần. Đó là hai lần. Mỗi ngày khi ăn ba bữa cơm đều niệm Phật hiệu mười câu rồi mới ăn, đó là ba lần. Do vậy, ta có năm lần rồi! Quư vị buổi sáng đi làm, buổi chiều tan sở, trước khi làm việc, ngồi nơi bàn giấy niệm mười câu rồi mới làm, khi tan sở, sau khi làm xong công việc, niệm Phật hiệu mười câu rồi mới rời khỏi chỗ. Buổi sáng, buổi chiều thành bốn lần, tổng cộng chín lần. Niệm đâu nghĩ tại đó, tuy rất đơn giản, thời gian chỉ một phút là xong, nhưng hết sức có hiệu quả. V́ sao? Thời thời khắc khắc quư vị đều nghĩ tới Phật. Dùng cách này làm “định khóa” (công khóa nhất định), những khi khác là “tán khóa”. Tán khóa là khi nào quư vị nghĩ đến, bèn niệm khi đó; c̣n cách này mỗi ngày chín lần, mỗi lần niệm mười câu Phật hiệu, lấy nó làm định khóa, thật sự chẳng tốn thời gian, chẳng lỡ làng công việc. Pháp môn này quả thật vô cùng thuận tiện, phù hợp với “nhất hướng chuyên niệm”.

      “Cánh hạ tắc như Quán Kinh sở thuyết ác nghịch chi nhân, lâm dục mạng chung, đắc linh thánh giáo, chí tâm hối cải, thập niệm xưng danh, diệc đắc văng sanh, cố vân thập niệm tất sanh dă” (thấp hơn nữa là như Quán Kinh nói kẻ ác nghịch lúc sắp mất mạng, được nghe thánh giáo, chí tâm hối cải, xưng danh mười tiếng, cũng được văng sanh, nên nói là “mười niệm ắt văng sanh”). Điều này được nói trong kinh Quán Vô Lượng Thọ. Kinh nói kẻ tội nghiệp Thập Ác, Ngũ Nghịch sẽ đọa A Tỳ địa ngục, đại ác chẳng thể tha, kẻ ấy khi lâm chung, nếu gặp được một người niệm Phật khuyên nên niệm Phật, bèn chân tâm hối cải. Có thể chân tâm hối cải là do thiện căn trong đời quá khứ hiện tiền, cả đời này chẳng tu điều lành nào. Kẻ Thập Ác, Ngũ Nghịch, lâm chung quay đầu, thật sự hối cải, niệm A Di Đà Phật mười tiếng bèn tắt hơi, vẫn có thể văng sanh. Đây là điều được nói trong nguyện thứ mười tám trong bốn mươi tám nguyện của A Di Đà Phật, pháp môn này quá thù thắng. Tiếp đó, lăo cư sĩ bảo chúng ta: “Hành giả ưng tri” (hành giả hăy nên biết), hành giả là người niệm Phật, nhất định phải biết. “Nhất hướng chuyên niệm chỉ tùng sơ phát tâm niệm Phật, nhất trực đáo lâm chung tối hậu nhất niệm” (“một mực chuyên niệm” nghĩa là kể từ lúc mới phát tâm niệm Phật thẳng tới một niệm cuối cùng lúc lâm chung), đó gọi là nhất hướng chuyên niệm. “Nhi kỳ quan kiện thật tại tối hậu” (nhưng mấu chốt quả thật là lúc cuối cùng), quan trọng nhất là lúc quư vị sắp mất, một niệm cuối cùng là A Di Đà Phật th́ quư vị mới có thể văng sanh. Một niệm cuối cùng khi lâm chung phải là A Di Đà Phật! Do vậy, trợ niệm rất trọng yếu, trọng yếu ở chỗ nào? Trợ niệm là do sợ người ấy trong một niệm cuối cùng sẽ quên sạch, chúng ta dùng phương pháp này để nhắc nhở, khiến cho một niệm cuối cùng của người ấy là A Di Đà Phật, người ấy sẽ chắc chắn văng sanh. Chẳng cần biết công phu niệm Phật suốt đời của người ấy ra sao, một niệm cuối cùng rất trọng yếu. Đối với một niệm cuối cùng, người ta thường chẳng thể nắm chắc, nếu tập khí phiền năo dấy lên hiện hành, sẽ bỏ lỡ cơ hội này. Niệm Phật suốt đời, tới một niệm cuối cùng, trong ḷng có vướng mắc th́ hỏng rồi! Những chuyện như vậy chúng tôi đă đích thân trông thấy!

Tiếp đó là nêu tỷ dụ: “Như thượng thuyết ác nghịch chi nhân” (kẻ ác nghịch như vừa mới nói trên đây), đó là kẻ Ngũ Nghịch, Thập Ác. “Thập thanh niệm Phật”, kẻ ấy chỉ niệm mười tiếng. “Đệ nhất thanh thị sơ niệm, đệ thập thanh tắc mạng chung” (Tiếng thứ nhất là niệm đầu tiên, tiếng thứ mười bèn mạng chung), vẫn coi như là “tùng sơ phát tâm trực chí mạng chung quân tại tŕ danh” (từ sơ phát tâm cho đến khi mạng chung đều luôn tŕ danh). Người ấy phước báo quá to, cả đời làm ác, lâm chung gặp được bạn lành, vẫn văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Vốn phải đọa lạc A Tỳ địa ngục, quư vị thấy: Đă đưa kẻ đó từ A Tỳ địa ngục đến thế giới Cực Lạc làm Phật. Bởi lẽ, người ấy phù hợp tông chỉ “nhất hướng niệm Phật”, quá thù thắng! Chúng ta chớ nên không hiểu điều này. Chuyện này là có, rất khó có, rất hy hữu; nhưng người niệm Phật chúng ta nhất thiết chớ nên có tâm lư cầu may: Hiện thời, ta làm một ít chuyện xấu vẫn chẳng sao; khi lâm chung, ta c̣n có cách, ta vẫn trở tay kịp, [nghĩ như vậy] là sai rồi! Khởi lên ư niệm ấy chính là ác niệm khôn sánh, toan kiếm kẽ hở trong bổn nguyện của A Di Đà Phật. Đấy là điều quá đáng ghét, chắc chắn chẳng thể nào chấp nhận được! Do vậy, chúng ta chớ nên không biết chuyện này. Con người phải thật thà, phải thành khẩn, chớ nên có một ác niệm. Có ác niệm tức là bất hảo mất rồi!

      “Phản chi, như hữu nhân niệm Phật sổ thập niên, hoặc ư tối hậu giai đoạn, khinh thị tŕ danh nhi cải hành tha pháp, hoặc ư lâm chung bất hân Cực Lạc nhi luyến thế gian, vị năng niệm Phật, thị tắc bất danh nhất hướng chuyên niệm” (ngược lại, như có kẻ niệm Phật mấy chục năm, nhưng trong giai đoạn cuối cùng, lại coi thường pháp tŕ danh, đổi sang tu phép khác, hoặc lúc lâm chung chẳng ưa thích Cực Lạc, luyến tiếc thế gian, chưa thể niệm Phật, sẽ chẳng thể gọi là “một mực chuyên niệm”). Chuyện này chúng tôi cũng thấy rất nhiều, có thật; không chỉ có, mà c̣n rất nhiều! Tới lúc lâm chung, người ấy lưu luyến thế giới này, lưu luyến lớn nhất là t́nh cảm đối với người thân, [đó là] tập khí nặng nhất. V́ vậy, trong sách Sức Chung Tu Tri, cổ đại đức đă bảo: Nhằm tiễn người ấy đi văng sanh, khi tiễn người ấy sắp văng sanh trong chốc lát, tốt nhất là đừng để người ấy thấy mặt người nhà, quyến thuộc, con cái, v́ sao? Trông thấy sẽ động tâm, hễ động tâm sẽ hỏng chuyện! V́ thế, hăy để cho bạn bè trong nhà Phật, đồng tu niệm Phật tới chăm sóc người ấy, tiễn người ấy văng sanh. Sau khi người ấy văng sanh, người nhà, quyến thuộc mới có thể tiến vào. Hơn nữa, thường là tám tiếng đồng hồ sau khi [người ấy đă tắt hơi], người nhà, quyến thuộc mới được bước vào, v́ sợ nhiễu loạn trong khi thần thức người ấy đang rời khỏi [thân xác]. Người thật sự văng sanh, hễ tắt hơi bèn ra đi, văng sanh nhanh chóng. Có người nhờ vào trợ niệm, tuy tắt hơi, nhưng hoàn toàn chẳng đi, linh hồn vẫn c̣n quanh quẩn bên thân thể, lúc ấy công đức niệm Phật vô cùng thù thắng, khiến cho người ấy nghe mỗi âm thanh đều là Phật hiệu, cuối cùng cũng theo Phật hiệu ra đi th́ tốt lắm! Phải biết: Niệm Phật đưa [thần thức của người đă mất] đi văng sanh rất nhiều. Đúng là có nhiều người văng sanh nhờ vào trợ niệm. V́ thế, trợ niệm phải đúng pháp. Nếu chẳng đúng pháp sẽ phiền phức rất lớn!

      Chúng ta xem đoạn kế tiếp: “Hoặc nghi niệm Phật hà dĩ hữu như thị công đức” (hoặc nghi niệm Phật, niệm Phật làm sao có công đức như thế cho được). Nghi là một căn bản phiền năo. Căn bản phiền năo gồm sáu món, sau tham, sân, si, mạn là nghi, cuối cùng là ác kiến. Ác kiến là Tư Hoặc, gồm Thân Kiến, Biên Kiến, Kiến Thủ Kiến, Giới Thủ Kiến, Tà Kiến, gọi gộp chung là Ác Kiến. Nghi là chướng ngại lớn nhất của Bồ Tát, Bồ Tát chẳng thể khai ngộ, chẳng thể kiến tánh, người niệm Phật chẳng thể văng sanh đều do phạm phải chữ [Nghi] này. Đấy chẳng phải là chân tín, do ḷng tin không kiên định. Chẳng phải là nói quư vị chẳng có tín tâm, mà là nói [quư vị chưa có ḷng] tin một trăm phần trăm chẳng nghi ngờ! Tín tâm chín mươi chín phần trăm, vẫn c̣n có một phần nghi, một phần nghi ấy sẽ là chướng ngại nghiêm trọng, chướng ngại quư vị chẳng thể thành tựu, quư vị nói chuyện này có phiền phức hay chăng? Trong quá khứ, chúng tôi nghe thầy giảng, [cảm thấy] rất khó lư giải, thầy đă nêu một thí dụ. Thầy nói thí dụ như cái chén trà này đựng đề hồ, cả một chén đề hồ đầy ắp, đề hồ là thức uống ngon nhất. Trong ấy có một giọt độc dược; do một giọt như vậy, cả chén đề hồ đều biến thành độc dược, quư vị uống một hớp sẽ phải tử vong. Điều này nói ǵ vậy? Quư vị có ḷng tin chín mươi chín phần trăm, một phần trăm là nghi, đó là một giọt độc dược phá hoại chín mươi chín phần trăm tín tâm của quư vị. Tỷ dụ hay lắm! Khiến cho chúng ta thật sự có thể đề cao cảnh giác, chớ nên hoài nghi kinh giáo, chớ nên hoài nghi Phật, Bồ Tát, chớ nên hoài nghi thiện căn, phước đức, nhân duyên của chính ḿnh. Có một tí hoài nghi sẽ chướng ngại chính ḿnh thành tựu! Chân tín, quư vị thấy kinh nói đến chân tín nguyện, chân tín, thiết nguyện (ḷng tin chân thật, nguyện thiết tha), công đức ấy vô cùng thù thắng.

      “Nhân năng niệm sở niệm, giai thị Thật Tướng cố” (v́ năng niệm và sở niệm đều là Thật Tướng), cụ Niệm Tổ giải thích v́ sao niệm Phật có công đức thù thắng như thế? Năng niệm là giác tâm, sở niệm là quả Phật (vị Phật đă chứng quả), nhân quả tương ứng. Giác tâm chẳng mê là Thật Tướng, quả Phật cũng là Thật Tướng; v́ thế, công đức chẳng thể nghĩ bàn. Người niệm Phật lâm chung, kẻ Ngũ Nghịch, Thập Ác lâm chung niệm Phật mười niệm đều văng sanh, từ A Tỳ địa ngục bèn thành Phật, vượt thoát lục đạo, vượt thoát mười pháp giới, tới thế giới Cực Lạc làm A Duy Việt Trí Bồ Tát, đều là Thật Tướng. “Di Đà Yếu Giải vân: Quang tắc hoành biến thập phương, thọ tắc thụ cùng tam tế. Hoành thụ giao triệt, giai Pháp Giới Thể. Cử thử thể tác Di Đà thân độ, diệc tức cử thử thể tác Di Đà danh hiệu. Thị cố Di Đà danh hiệu tức chúng sanh Bổn Giác Lư tánh. Tŕ danh tức Thỉ Giác hợp Bổn, Thỉ Bổn bất nhị, sanh Phật bất nhị. Cố nhất niệm tương ứng nhất niệm Phật, niệm niệm tương ứng niệm niệm Phật dă” (Sách Di Đà Yếu Giải viết: “Quang theo chiều ngang trọn khắp mười phương, Thọ theo chiều dọc tột cùng ba đời. Ngang và dọc xen nhau thấu triệt, đều là Pháp Giới Thể. Nêu lên cái Thể ấy để làm thân và cơi nước của Phật Di Đà; mà cũng lấy cái Thể ấy tạo thành danh hiệu Di Đà. V́ thế, danh hiệu Di Đà chính là Bổn Giác Lư tánh của chúng sanh. Tŕ danh là Thỉ Giác hợp với Bổn Giác. Thỉ Giác và Bổn Giác chẳng hai. Chúng sanh và Phật chẳng hai. V́ thế, một niệm tương ứng một niệm Phật, niệm niệm tương ứng niệm niệm Phật”). Chuyện này Phật, Bồ Tát, tổ sư đại đức đă giảng thấu triệt. Quang chiếu trọn mười phương, tượng trưng không gian. Thọ là quá khứ, hiện tại, tương lai, đại biểu thời gian; nay chúng ta gọi là “thời - không”. “Hoành thụ giao triệt”, Hoành (chiều ngang) là không gian, Thụ (chiều dọc) là thời gian. Thời gian và không gian đều vô lượng, vô tận, chẳng có ngằn mé. Đấy là Pháp Giới Thể, đấy là công đức viên măn trong tự tánh; kinh Hoa Nghiêm nói đến Thể, Tướng, Dụng. Nêu lên cái Thể ấy để làm Di Đà thân, [thân ấy] tức là Pháp Tánh thân, Tây Phương Tịnh Độ là Pháp Tánh Độ, chẳng rời khỏi tự tánh. Lấy cái Thể ấy làm danh hiệu Di Đà, tức là danh hiệu của Pháp Tánh. V́ thế, danh hiệu này là Bổn Giác Lư tánh của hết thảy chúng sanh, tức là đức hiệu của tự tánh vốn sẵn trọn đủ. Dùng danh hiệu rất sâu này để kêu gọi tự tánh của chúng ta quay trở về.

      Trong Mật giáo có nói “tam mật tương ứng”, nhưng trong Tịnh Tông cũng phải nói tới tam mật tương ứng. Câu danh hiệu này chẳng khác ǵ mật chú trong Mật Tông, nó là tiếng Phạn. A Di Đà Phật là phiên âm. Nó là tự tánh, v́ thế, quư vị phải hiểu ư nghĩa này. A nghĩa là Vô, Di Đà nghĩa là Lượng, Phật nghĩa là Giác. Quư vị nghĩ tới Giác, nhất định sẽ nghĩ đến Giác - Chánh - Tịnh. Chữ Giác trong tựa đề kinh này là ǵ? “Chánh” là b́nh đẳng, b́nh đẳng th́ mới Chánh; trước đó là Thanh Tịnh, Giác - Chánh - Tịnh, Thanh Tịnh là Tịnh, B́nh Đẳng là Chánh, Giác. Vô lượng giác, vô lượng b́nh đẳng, thanh tịnh, thời thời khắc khắc nhắc nhở chính ḿnh, tự nhiên tất cả hết thảy ô nhiễm đều chẳng c̣n, quư vị trở về Giác - Chánh - Tịnh, trở về Thanh Tịnh B́nh Đẳng bèn tịnh. Thỉ Giác hợp với Bổn Giác. Thỉ Giác và Bổn Giác chẳng hai. Chúng sanh và Phật chẳng hai, chúng sanh bèn thành Phật. Đó là “nhất niệm tương ứng nhất niệm Phật, niệm niệm tương ứng niệm niệm Phật”. Tương ứng bằng cách nào? Từ chỗ này, chúng ta mới biết được tin tức. Đấy cũng là như chúng tôi thường nhắc nhở đồng học, tương ứng như thế nào? Niệm niệm tương ứng với “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác”; nhân đă tương ứng, quả bèn tương ứng. Nơi nhân là Thỉ Giác, là chúng sanh; nơi quả là Bổn Giác, là Phật. Nơi quả là ǵ? Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm là tương ứng. Có nhân, nhất định có quả. Do vậy, từ tựa đề kinh này, quư vị nh́n vào nửa phần sau và nửa phần trước sẽ thấy: Thỉ Giác và Bổn Giác chẳng hai, chúng sanh và Phật chẳng hai. Nhất niệm tương ứng nhất niệm Phật, niệm niệm tương ứng niệm niệm Phật. Pháp môn thù thắng như vậy t́m đâu ra? Trừ Tịnh Tông ra, sẽ chẳng t́m được! Thù thắng, hy hữu, khó gặp khôn sánh! V́ vậy, chúng ta phải quư trọng, phải thật sự tu tập!

      Ở đây, nhân tiện, tôi báo một tin cùng mọi người, tối nay, tôi đáp máy bay sang Úc, ngày mai là mồng Một sẽ tới nơi, mồng Một lên núi, chẳng thể giảng kinh. Ngày mốt là mồng Hai, chúng tôi sẽ bắt đầu giảng tiếp. Từ Internet, quư vị sẽ có thể thu được [bài giảng]. Tuy rời khỏi [nơi đây] hai mươi mấy ngày, nhưng chúng ta vẫn cùng nhau giảng kinh, học tập chẳng gián đoạn. Được rồi! Cảm ơn mọi người.

Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa

Phần 13 hết

 



[1] Văn Xương Xă là một đoàn thể quy tụ những người cùng chí hướng muốn thực hiện những điều khuyên dạy trong bài Âm Chất Văn của Văn Xương Đế Quân.

[2] Ngọc Lịch Bảo Sao là thiện thư của Đạo Giáo, tương truyền do một người tu hành là Đạm Si đạo nhân vào cơi Âm, chứng kiến Thập Điện Diêm Vương xử án, ghi chép lại. Sách c̣n chép những lời khuyên dạy của các vị thần chưởng quản âm phủ. Nội dung có tác dụng khuyến thiện rất mạnh, nên sách này cũng được Phật môn Trung Hoa coi trọng.