Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa

淨土大經解演義

Phần 15

Chủ giảng: Lăo pháp sư Tịnh Không

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Thời gian: Ngày 5 tháng 04 năm 2010

Địa điểm: Hương Cảng Phật Đà Giáo Dục Hiệp Hội

Giảo duyệt: Huệ Trang và Đức Phong

 

Tập 29

 

Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang ba mươi, ḍng thứ sáu đọc từ dưới lên.

      “Cánh hữu tấn giả, như Yếu Giải vân: Đương tri ngô nhân đại sự nhân duyên, Đồng Cư nhất quan tối nan thấu thoát” (tiến cao hơn nữa sẽ như sách Yếu Giải đă nói: “Phải nên biết, đối với đại sự nhân duyên của chúng ta, một cửa ải Đồng Cư khó vượt thoát nhất”). Trong Yếu Giải, Ngẫu Ích đại sư đă nói như thế. Đoạn văn giảng về Tông Thú này rất dài, cũng nhằm thuyết minh một chủ đề vô cùng quan trọng trong tu học Tịnh Tông, giảng về phương hướng tu học và mục tiêu của chúng ta, ắt phải hiểu rất rơ ràng, rành rẽ th́ chúng ta mới có thể thành tựu trong một đời này. Qua câu này, Ngẫu Ích đại sư đă nhắc nhở chúng ta: Cần phải biết rằng, đối với chúng ta, nói theo cách bây giờ là những kẻ phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, đó là chuyện lớn, c̣n có chuyện nào khác lớn hơn được nữa? Liễu sanh tử, thoát tam giới, thành Phật quả viên măn rốt ráo, c̣n có chuyện ǵ lớn hơn chuyện này? Trong kinh Pháp Hoa, đức Thế Tôn nói: Ngài v́ một đại sự nhân duyên mà xuất hiện trong cơi đời; nói cách khác, những chuyện khác th́ những bậc thánh hiền, hào kiệt thông minh, trí huệ trong thế gian này có thể giải quyết, chỉ riêng chuyện này là họ chẳng có cách nào, chẳng ai có thể giải quyết, nên chư Phật, Bồ Tát mới xuất hiện trong cơi đời. Nếu có ai khác có khả năng giải quyết, chư Phật, Bồ Tát chẳng cần phải chuốc lấy phiền phức! Khải thị này rất quan trọng, chúng ta phải học tập. Một ải Đồng Cư là khó nhất, [hễ vượt qua được cửa ải này th́] những cơi trên đó đều thuận tiện hơn. Đúng như ngạn ngữ thế gian đă nói: “Phàm sự khởi đầu nan” (凡事起頭難: Mọi việc khởi đầu đều khó khăn). Tu học Phật pháp là trở về tự tánh, cũng là một bước khởi đầu rất khó, khó “thấu thoát” nhất, “thấu” () là hiểu rơ, “thoát” () là giải thoát, thoát ly lục đạo luân hồi, thoát ly tam giới.

      Tiếp theo đó, cụ Niệm Tổ viết: “Cái dĩ Đồng Cư độ chi phàm phu” (bởi lẽ, phàm phu trong cơi Đồng Cư), tức là lục đạo phàm phu, “tu đoạn tận Kiến Tư nhị Hoặc, phương đắc Lậu Tận Thông, thỉ tiệt sanh tử lưu, xuất Đồng Cư, nhi thăng Phương Tiện Hữu Dư độ, thử danh thụ xuất tam giới, kỳ sự thậm nan dă” (phải đoạn hai thứ Hoặc là Kiến Hoặc và Tư Hoặc, mới đắc Lậu Tận Thông, cắt đứt ḍng chảy sanh tử, thoát khỏi Đồng Cư, vượt lên cơi Phương Tiện Hữu Dư. Đó gọi là “vượt khỏi tam giới theo chiều dọc”, chuyện này rất khó). Do đâu mà có phàm phu trong lục đạo? Nay chúng ta cũng hiểu rơ: Lục đạo là cảnh giới do Kiến Tư phiền năo biến hiện. Cách nh́n sai lầm, cách nghĩ sai lầm; Kiến Hoặc là cách nh́n sai lầm, Tư Hoặc là cách nghĩ sai lầm, cũng có nghĩa là quư vị nh́n sai, nghĩ trật đối với chân tướng của vũ trụ và nhân sinh. Do vậy, biến hiện cảnh giới sai lầm; cảnh giới sai lầm là lục đạo luân hồi. Đấy là cơi Phàm Thánh Đồng Cư, trong đó có cả thánh lẫn phàm, đă được giới thiệu trong phần trước. Phải đoạn hai loại đại phiền năo này, hai loại phiền năo lớn này đều là vô lượng vô biên. Nhằm thuận tiện dạy bảo, đức Phật đă quy nạp lại, quy nạp Kiến Hoặc thành tám mươi tám phẩm, quy nạp Tư Hoặc thành tám mươi mốt phẩm, chia ra thành chín địa, mỗi địa gồm chín phẩm, chín lần chín thành tám mươi mốt phẩm, đều phải đoạn tận [tám mươi mốt phẩm ấy] th́ mới có thể cắt đứt ḍng sanh tử, tức là đoạn luân hồi sanh tử trong lục đạo, lục đạo chẳng c̣n nữa. Do vậy, lục đạo là giả, chẳng thật. Quư vị đă đoạn Kiến Tư phiền năo, sẽ chẳng có lục đạo. Kẻ chưa đoạn Kiến Tư phiền năo, vẫn ở trong lục đạo. Cộng nghiệp và biệt nghiệp khác nhau! Kiến Tư phiền năo nhiều như thế, nên để thuận tiện dạy học, đức Phật đă quy nạp Kiến Tư phiền năo thành năm loại lớn để nói cho tiện. Kiến giải sai lầm th́ điều đầu tiên là hiểu lầm thân thể là chính ḿnh. Đó là sai lầm đầu tiên; v́ thế, thứ đầu tiên phải phá trong Kiến Hoặc là Thân Kiến, thật sự giác ngộ thân chẳng phải là chính ḿnh. Thân là ǵ? Thân là cái ta có, chẳng phải là ta. Rốt cuộc trong Phật pháp có nói đến Ngă hay chăng? Có! Có Chân Ngă. Quư vị thấy trong Đại Bát Niết Bàn của Như Lai có bốn tịnh đức, tức là có bốn thứ chân thật, đó là Thường, Lạc, Ngă, Tịnh, bốn tịnh đức này thật sự có. Thường là ǵ? Vĩnh hằng, bất sanh, bất diệt, chẳng có biến hóa; đó là Chân Thường. Chân Lạc là ǵ? Hai bên khổ và vui đều không có, đó là Chân Lạc. Khổ và Lạc là tương đối, tương đối sẽ chẳng vĩnh hằng. V́ thế, đức Phật dạy chúng ta: Ngay cả sự vui trên thế gian này phải từ bỏ, trong ấy có đạo lư, nó là giả, chẳng thật. Nếu thật th́ có bỏ cũng bỏ chẳng được! Hễ có sanh th́ có diệt; phàm những ǵ có sanh và có diệt đều gọi là pháp sanh diệt, đều là chẳng thật.

      Thân thể có sanh, có diệt, linh tánh bất sanh, bất diệt, linh tánh là chính ḿnh. Huệ Năng đại sư kiến tánh, đă t́m được linh tánh, linh tánh là như thế nào? Đầu tiên là thanh tịnh, “nào ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh”, chưa từng bị ô nhiễm. Dẫu đọa lạc trong ngạ quỷ hay trong địa ngục, vẫn chẳng bị ô nhiễm. Đức Phật cũng thường nói tới ô nhiễm, cái bị ô nhiễm là ǵ? A Lại Da bị ô nhiễm, bản thân A Lại Da cũng là pháp sanh diệt; do vậy, nó chẳng thật. Nó là từ chân khởi vọng, biến thành vọng. Đó là điều thứ nhất [trong Kiến Hoặc], là cội nguồn của hết thảy các biến hóa chẳng chân thật. Trong các tôn giáo thường nói tới Tạo Vật Chủ (Tạo Hóa), ai là Tạo Vật Chủ? A Lại Da là Tạo Vật Chủ, pháp Đại Thừa giảng điều này rất rơ ràng. Sách Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán cũng cho biết: Nhất niệm bất giác, từ trong tự tánh biến hiện A Lại Da. A Lại Da có ba tế tướng: Nghiệp tướng, chuyển tướng, cảnh giới tướng; nói theo danh từ khoa học hiện thời là năng lượng, thông tin, và vật chất, [những điều này] có cùng một ư nghĩa với A Lại Da. Năng lượng là nghiệp tướng của A Lại Da, thông tin là chuyển tướng của A Lại Da, vật chất là cảnh giới tướng của A Lại Da. Trừ những thứ này ra, trọn khắp pháp giới, hư không giới, chẳng có một pháp nào để có thể được! Tất cả hết thảy trang nghiêm nơi y báo và chánh báo đều từ nó biến hiện ra, nên gọi là “duy thức sở biến”. Nó là năng biến (chủ thể có khả năng biến), hết thảy các pháp là sở biến (cái được biến hiện). Đă có thể biến th́ nhất định phải có “cái có thể sanh” (năng sanh). Nếu không có năng sanh, nó sẽ biến ǵ? Tự tánh năng sanh, năng hiện; A Lại Da là năng biến, sở biến. Phật pháp giảng rất rơ ràng, thấu triệt. Trong Phật pháp, A Lại Da c̣n được gọi bằng danh từ “thần thức”, thần thức là ǵ? Người thế gian chúng ta gọi [“thần thức”] là “linh hồn”, cũng có người gọi nó là “linh tánh”, [gọi bằng danh từ nào cũng] đều được! Nếu nó giác ngộ th́ gọi là linh tánh, khi nó mê th́ gọi là linh hồn. Linh tánh và linh hồn là cùng một chuyện, là một thứ, là chính ḿnh, c̣n thân thể chẳng phải là chính ḿnh. Trong Phật pháp nói linh hồn, “vong linh” được nhắc tới trong sự siêu độ chính là linh hồn, nó không thoát khỏi tam giới, mà cũng chẳng thoát khỏi lục đạo luân hồi. Nếu có thể đoạn hết Kiến Tư, sẽ vượt thoát lục đạo luân hồi, chẳng gọi là “linh hồn” nữa, mà gọi là “linh tánh”, v́ sao? Nó đă giác ngộ. Chẳng giác sẽ chẳng thể thoát khỏi luân hồi; hễ giác ngộ bèn vượt thoát. V́ vậy, A La Hán được gọi là Chánh Giác. Người thế gian cũng giác ngộ, khoa học gia giác ngộ, triết học gia giác ngộ, nhà tôn giáo cũng giác ngộ, chẳng thể nói họ không giác ngộ. Tuy giác ngộ, nhưng Phật chẳng nói họ là Chánh Giác theo tiêu chuẩn của Chánh trong Phật pháp. Phải tuân theo tiêu chuẩn nào th́ mới được gọi là Giác? Chẳng có Kiến Tư phiền năo th́ là Chánh Giác. Nếu c̣n có Kiến Tư phiền năo sẽ là tà giác, chẳng gọi là Chánh Giác. Kiến phiền năo là sai lầm về mặt kiến giải, quư vị c̣n có Thân Kiến, Biên Kiến, Kiến Thủ Kiến, Giới Thủ Kiến, Tà Kiến, dẫu giác ngộ to tát cách mấy cũng chẳng thể gọi là Chánh Giác! Quư vị c̣n có những Tư Hoặc như tham, sân, si, mạn, nghi, tức là đă suy nghĩ sai lầm. Đức Phật quy nạp vô lượng vô biên Kiến Tư phiền năo thành mười điều, Kiến Hoặc gồm năm điều, Tư Hoặc gồm năm điều. Chỉ cần có những thứ ấy, sẽ không thể gọi là Chánh Giác. Chánh Giác chẳng có cả mười thứ ấy, chẳng dễ dàng! Nhưng mười điều ấy chẳng phải là không thể đoạn, v́ sao? Chúng chẳng thật, trong tự tánh không có những thứ ấy!

      Phật, Bồ Tát dạy chúng ta, những ǵ có sẵn trong tự tánh th́ nhất định phải bảo tŕ, vĩnh viễn bảo tŕ; những ǵ trong tự tánh không có, hăy buông xuống ngay lập tức. Thật sự chịu buông xuống, sẽ chứng quả, sẽ thành Chánh Giác. Thành Chánh Giác là chứng quả A La Hán. Thành Chánh Đẳng Chánh Giác là chứng quả vị Bồ Tát, thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác là thành Phật. Trong kinh giáo Đại Thừa, đức Phật thường giảng những điều này, thời thời khắc khắc nhắc nhở chúng ta, khởi đầu bằng đoạn Kiến Hoặc và Tư Hoặc th́ mới có thể đắc Lậu Tận Thông. Lậu Tận Thông là ǵ? Lậu () là Kiến Tư phiền năo, chữ Lậu là tỷ dụ. Ví như một chén trà, dưới đáy có lỗ thủng, bị hỏng rồi, đựng nước, nước sẽ bị rịn ra. Cũng giống như Pháp Tánh của chúng ta, hoặc nói là tự tánh hay bổn tánh đều được, đều có cùng một ư nghĩa, [trong bổn tánh] hễ có Kiến Tư phiền năo, sẽ giống như tự tánh có thiếu sót, vô lượng vô biên công đức đều bị ṛ rỉ. Lậu Tận là chẳng c̣n ṛ rỉ, “chẳng ṛ rỉ” sẽ thông suốt. “Thông” (thần thông) ấy chính là loại cuối cùng trong sáu món thần thông, A La Hán mới đắc Lậu Tận Thông. Tam quả thánh nhân A Na Hàm chỉ đắc năm thứ thần thông trước đó, tức Thiên Nhăn, Thiên Nhĩ, Tha Tâm, Túc Mạng, Thần Túc. Thần Túc là phi hành biến hóa. Bộ tiểu thuyết Tây Du Kư của Trung Quốc có nói Tôn Ngộ Không có bảy mươi hai phép biến hóa, quá nhỏ, quá ư nhỏ bé! So với hắn (Tôn Ngộ Không), [thần thông của] A La Hán to hơn rất nhiều, Ngài có thể biến hóa [tùy ư], bởi lẽ, A La Hán mới có trọn đủ Lục Thông, cuối cùng đắc Lậu Tận, vĩnh viễn thoát khỏi lục đạo. V́ sao? Chẳng có nhân trong lục đạo, đương nhiên chẳng thể thấy các hiện tượng trong lục đạo. Lục đạo giống như nằm mộng, quư vị tỉnh giấc mộng, cảnh giới trong mộng hoàn toàn không c̣n nữa! Cảnh giới ấy không có, xuất hiện cảnh giới ǵ? Xuất hiện cơi Phương Tiện Hữu Dư, tiến cao hơn. Cơi Phương Tiện Hữu Dư là tứ thánh pháp giới, tức là Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật trong mười pháp giới, gồm bốn tầng cấp khác nhau!

      Nếu tiến cao hơn nữa, c̣n phải đoạn phiền năo, quư vị thấy đoạn hết Kiến Tư phiền năo, c̣n có Trần Sa phiền năo. Trần Sa phiền năo do đâu mà có? Do phân biệt mà có. Tâm phân biệt khởi lên vô lượng, vô biên, vô tận, vô số tác dụng; đức Phật dùng Trần Sa làm tỷ dụ, [phiền năo] nhiều như trần sa (cát bụi). Thật đấy, chẳng giả! Những thứ ấy vẫn là hư vọng, trong tự tánh thanh tịnh tâm không có phiền năo. Nếu có những thứ ấy, B́nh Đẳng Tánh Trí sẽ bị chướng ngại. Có Trần Sa phiền năo, quư vị sẽ chẳng b́nh đẳng. Tự tánh là b́nh đẳng, tự tánh là pháp môn Bất Nhị chân chánh. Bất Nhị là Nhất, Nhất mới là b́nh đẳng, Nhị sẽ không b́nh đẳng. Do vậy, có thể buông phân biệt xuống, đối với hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian chẳng c̣n phân biệt nữa, các pháp thế gian lẫn xuất thế gian đều trở về tự tánh, một pháp giới mà! Khi đạt đến một pháp giới, duyên chín muồi, đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, buông khởi tâm động niệm xuống, sáu căn tiếp xúc cảnh giới bên ngoài thật sự chẳng khởi tâm, chẳng động niệm. Cảnh giới bên ngoài là ǵ? Trọn chẳng phải là vô tri. Vô tri là vô minh, quư vị vẫn chưa giác ngộ. Trí huệ Bát Nhă hiện tiền, không ǵ chẳng biết, không ǵ chẳng thể. Trí huệ, đức năng dùng để làm ǵ? Dùng để phổ độ chúng sanh. Tuy phổ độ chúng sanh, vẫn chẳng khởi tâm động niệm y như cũ. Chẳng khởi tâm, không động niệm, nên có thể độ hết thảy chúng sanh trong trọn khắp pháp giới, hư không giới, người ấy thành Phật, chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Trong kinh Đại Thừa, đức Phật thường nhắc nhở, chỉ dạy chúng ta điều này. Do vậy, phải chiếu theo thứ tự thuận ấy để tiến cao hơn từng bước. Trong tứ thánh pháp giới, từ Thanh Văn tiến lên Bích Chi Phật, từ Bích Chi Phật tiến lên Bồ Tát, từ Bồ Tát tiến lên Phật, tức là Tương Tự Phật. Lại tiến lên cao hơn bước nữa th́ mới là một vị Phật thật sự, thoát ĺa mười pháp giới. Biết mười pháp giới cũng chẳng thật, mười pháp giới vẫn là mộng cảnh. Giác ngộ điều này, chẳng thấy mười pháp giới nữa, đă tỉnh rồi. Do điều này có thể biết: Lục đạo là cảnh trong giấc mộng!

Thực sự tỉnh giấc mộng mười pháp giới, sau khi tỉnh lại, trước mắt người ấy là cảnh giới ǵ? Là cơi Thật Báo Trang Nghiêm của chư Phật, Bồ Tát, c̣n gọi là Nhất Chân pháp giới. Trong cơi Thật Báo có tướng, v́ người trong cơi Thật Báo đều đă chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác phải biết điều này; nhưng họ c̣n có giai tầng địa vị v́ c̣n có tập khí vô minh vô thỉ chưa đoạn! Chẳng có cách nào đoạn tập khí. Mỗi cá nhân mang theo tập khí dầy hay mỏng khác nhau. Tập khí nặng nề là Thập Trụ, Thập Hạnh; tập khí nhẹ hơn là Thập Hồi Hướng, Thập Địa; nhẹ hơn tí nữa là Đẳng Giác. Chẳng có tập khí sẽ là địa vị Diệu Giác. Tuy nói là bốn mươi mốt địa vị, thật ra, kinh Hoa Nghiêm đă nói rất hay: “Một tức hết thảy, hết thảy chính là một”. Nói tới Sơ Trụ Bồ Tát, Sơ Trụ Bồ Tát là “nhất”, “hết thảy” là ǵ? Bốn mươi hai địa vị. Trí huệ, công đức, đạo lực của bốn mươi mốt địa vị khác phơi bày, hiển lộ viên măn trong địa vị này, chẳng có mảy may sai biệt nào. Bởi lẽ, cơi Thật Báo thật sự là một thế giới b́nh đẳng, chẳng có thứ ǵ bất b́nh đẳng. Đoạn sạch tập khí vô thỉ vô minh, lúc ấy mới có thể trở lại Thường Tịch Quang. Thường Tịch Quang là tự tánh, [trở về Thường Tịch Quang là] trở về tự tánh. Trong tự tánh, trí huệ, đức tướng viên măn hết thảy đều hiện tiền. Khi nào sẽ hiện tiền? Chúng sanh có cảm, sẽ tự nhiên hiện tiền. V́ người ấy hiện tiền chẳng khởi tâm động niệm; khởi tâm động niệm c̣n không có, lấy đâu ra phân biệt, chấp trước! Do chuyện này, tiến lên từng bước một khó khăn lắm, quá ư khó khăn!

“Kim thử văng sanh pháp môn, năi xả Đồng Cư uế, nhi sanh Đồng Cư tịnh, đắc sanh Cực Lạc, tức đoạn sanh tử, cố danh hoành xuất tam giới” (nay pháp môn văng sanh này, bỏ cơi Đồng Cư uế để sanh vào cơi Đồng Cư Tịnh, được sanh vào Cực Lạc, liền đoạn sanh tử, nên gọi là ra khỏi tam giới theo chiều ngang). Tịnh Độ mầu nhiệm ở chỗ này! Quư vị thấy chúng ta văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới vẫn ở trong cơi Đồng Cư. Trong phần trước, đă nói rất rơ ràng: Cơi Đồng Cư trong Tây Phương Cực Lạc thế giới là Tịnh Độ, cơi Đồng Cư trong thế giới này là uế độ. Đều là Đồng Cư, nhưng thật sự [thánh và phàm] chẳng ở cùng! Do nguyên nhân nào? Giáo dục! Trong thế giới Cực Lạc, A Di Đà Phật thực hiện giáo dục thành công. Trong thế giới này, Thích Ca Mâu Ni Phật giáo dục chẳng thành công ư? Đúng vậy! Rốt cuộc vấn đề ở chỗ nào? Chẳng do Phật, trong kinh giáo thường nói: “Phật Phật đạo đồng, pháp môn b́nh đẳng, chẳng có cao thấp”. Bất đồng ở chỗ nào? Bất đồng ở chỗ căn tánh của chúng sanh khác nhau, chúng ta chớ nên không biết điều này. Người văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, đúng như trong kinh điển đă nói, nhiều thiện căn, lắm phước đức, lắm nhân duyên, đó là thiện căn, phước đức, nhân duyên tích lũy từ vô lượng kiếp [đến nay] đă viên măn, nên mới có thể văng sanh. Viên măn sẽ có thể chẳng văng sanh hay chăng? Không thể nào! V́ chỉ cần quư vị viên măn th́ viên măn là cảm, Phật, Bồ Tát liền biết, sẽ tự nhiên ứng, sự cảm ấy gọi là “minh cảm” (冥感: cảm ngấm ngầm). Quư vị chẳng dấy lên ư niệm cầu các Ngài, nhưng chính các Ngài tự đến, v́ duyên của quư vị đă chín muồi, Phật bèn đến giúp đỡ quư vị sanh về thế giới Cực Lạc. Tới thế giới Cực Lạc, phẩm vị cũng do chính ḿnh cảm được, chẳng phải do A Di Đà Phật an bài cho quư vị, phải biết điều này. Do vậy, chúng ta hiểu rơ đạo lư này, liễu giải chân tướng sự thật, biết phải nên tu theo cách nào. Ta đến thế giới Cực Lạc nâng cao phẩm vị của chính ḿnh, học theo A La Hán chẳng chấp trước, học Bồ Tát chẳng phân biệt, tận tâm tận lực học tập. Học tập nơi đâu? Học tập trong cuộc sống, công việc, học tập, xử sự, đăi người, tiếp vật, thảy đều phải học tập, bất luận thuận cảnh hay nghịch cảnh, nhất định phải học theo năm mươi ba lần tham học của Thiện Tài đồng tử. Cảnh giới ǵ cũng đều có thể tiếp cận, tiếp xúc, vấn đề là quư vị phải hiểu, hiểu điều ǵ? Ta luyện tập trong cảnh giới, đó là tu hành, tu hành thật sự! Học chẳng chấp trước, chẳng phân biệt, không khởi tâm, không động niệm, thật sự tu! Không câu nệ nghi thức, khởi tác dụng to lớn chẳng ngăn ngại. Sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới liền đoạn sanh tử, lục đạo luân hồi sanh tử chẳng c̣n nữa, đấy là chỗ thù thắng của Đồng Cư Tịnh Độ; v́ thế, gọi là “hoành xuất tam giới”.

      “Nhi văng sanh chi nhân, bất đăi đoạn thử Kiến Tư nhị Hoặc, đản năng phát Bồ Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm, tiện mông Phật nguyện minh gia, quyết đắc văng sanh Tịnh Độ, kỳ sự chí dị, cố danh Dị Hành Đạo” (Nhưng người văng sanh chẳng đợi đoạn Kiến Hoặc và Tư Hoặc, chỉ cần phát Bồ Đề tâm, một bề chuyên niệm, sẽ được Phật ngấm ngầm gia hộ, quyết được văng sanh Tịnh Độ. Chuyện này dễ dàng nhất, nên gọi là Đạo Dễ Hành). Được bổn nguyện của A Di Đà Phật gia tŕ, quư vị nhất định được văng sanh. Cụ Niệm Tổ nói: “Như thị phương tiện trực tiệt” (phương tiện thẳng thừng, gọn gàng như vậy), “phương” () là phương pháp, “tiện” (便) là tiện nghi (便宜), có nghĩa là phương pháp thích hợp nhất giúp cho quư vị thành tựu trong một đời, thẳng thừng, nhanh chóng, chẳng có mảy may ṿng vo nào! “Thù thắng hy hữu”: Trong tám vạn bốn ngàn pháp môn, chẳng t́m được [pháp môn nào khác] dễ dàng như vậy! Cũng có thể nói phương tiện này dễ dàng, ổn thỏa, thích đáng, thẳng thừng, nhanh chóng, trực nhập (tiến nhập trực tiếp), do nguyên nhân nào? Đều do bổn nguyện và oai thần của A Di Đà Phật gia tŕ. “Năi thập phương thế giới chi sở vô. Cố tri Cực Lạc Đồng Cư, thắng ư thập phương Phật độ” (mười phương thế giới đều chẳng có [cơi nào giống như vậy]. V́ thế, biết cơi Đồng Cư trong Cực Lạc vượt trỗi mười phương cơi Phật). Không chỉ vượt trỗi cơi Đồng Cư hiện thời của Thích Ca Mâu Ni Phật, mà đối với các cơi Phàm Thánh Đồng Cư của mười phương chư Phật Như Lai, sự tịnh - uế trong ấy khác biệt rất lớn; có thể nói: Chỉ có một ḿnh Tây Phương Cực Lạc thế giới là cơi thuần tịnh, vô uế.

Lại đọc đoạn kế tiếp: “Hựu đới nghiệp văng sanh, nhưng thuộc phàm phu, đản vô thoái chuyển, nhất sanh thành Phật, cố văng sanh Đồng Cư, diệc tức viên sanh tứ độ dă” (Lại nữa, đới nghiệp văng sanh tuy vẫn thuộc phàm phu, nhưng chẳng thoái chuyển, thành Phật trong một đời, nên văng sanh Đồng Cư cũng chính là sanh về bốn cơi trọn vẹn). Điều này vô cùng trọng yếu! Chúng ta niệm Phật văng sanh thế giới Cực Lạc, chính ḿnh nhất định phải biết ta vẫn là phàm phu; nhưng như thế nào? Sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới sẽ chẳng thoái chuyển, không chỉ là Vị Bất Thoái, mà đồng thời chứng đắc Hạnh Bất Thoái và Niệm Bất Thoái trong cơi Đồng Cư; điều này giống như Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo và Sơ Địa Bồ Tát trong Biệt Giáo. Sanh về cơi Phàm Thánh Đồng Cư thuộc địa vị ǵ? Hạ hạ phẩm văng sanh. Quư vị có chứng đắc quả vị Bồ Tát hay không? Không! Chưa chứng đắc, nhưng ngang cấp! Chúng tôi thường nói: “Sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, quư vị đă hưởng thụ sự đăi ngộ trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm”. V́ [địa vị] thấp nhất trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm là Sơ Trụ Bồ Tát, tức Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo, đến Tây Phương Cực Lạc thế giới được bổn nguyện và oai thần của A Di Đà Phật gia tŕ, quư vị sẽ “giai tác A Duy Việt Trí Bồ Tát” (đều là Bất Thoái Chuyển Bồ Tát). V́ thế, văng sanh Đồng Cư giống như đă viên măn đạt được bốn cơi, một tức là nhiều, nhiều tức là một. Cơi Phương Tiện, cơi Đồng Cư, cơi Thật Báo, cơi Thường Tịch Quang [của Cực Lạc] đều dung hợp một chỗ, chẳng tách rời, sanh về một là sanh về hết thảy, như Quán Âm, Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền đều ở trong cơi Thật Báo. Trong bốn cơi Tịnh Độ của Thích Ca Mâu Ni Phật nơi thế gian này, chúng ta chẳng thấy hàng Bồ Tát trong cơi Thật Báo, chúng ta cũng chẳng thấy được Bồ Tát và Thanh Văn trong cơi Phương Tiện! Nhưng quư vị văng sanh thế giới Cực Lạc sẽ khác hẳn, trong cơi ấy không có chướng ngại. Nay chúng ta gọi [sự chướng ngại ấy] là “chiều không gian” (không gian duy thứ, spatial dimension). Bên cơi kia không có chiều không gian. V́ vậy, hằng ngày gặp mặt đại Bồ Tát. Chư Phật Như Lai thường đến thế giới Cực Lạc giúp A Di Đà Phật giáo hóa chúng sanh, quư vị mỗi ngày đều được tiếp xúc. Những vị đại thánh đại hiền là bạn bè, giúp quư vị tiến cao hơn, đến nơi nào khác để t́m được pháp duyên thù thắng ấy? Thật rơ ràng, thật minh bạch, quư vị đối với Tây Phương Tịnh Độ khắng khít một mực, chẳng có ư niệm thứ hai, trong đời này ta nhất định phải đến đó, không đến không được! Tín nguyện kiên định!

      Lại xem tiếp đoạn kế đó: “Phương Tiện Hữu Dư độ, nhược nhân niệm Phật công thâm” (Cơi Phương Tiện Hữu Dư, nếu người niệm Phật công hạnh sâu xa), công phu niệm Phật sâu dầy. “Dĩ ly tạp loạn chi tâm, chuyên niệm nhất cú danh hiệu, tâm khẩu tương ứng, tự tự phân minh” (Dùng cái tâm ĺa tạp loạn, chuyên niệm một câu danh hiệu này, tâm và miệng tương ứng, từng chữ phân minh). Ở chỗ này, chuyên niệm một câu danh hiệu, tâm và miệng tương ứng, từng chữ phân minh, đấy là công phu thành phiến, đó là điều kiện phải hội đủ để văng sanh cơi Đồng Cư.

Lại xem tiếp: “Tâm bất ly Phật, Phật bất ly tâm, niệm niệm tương tục, vô hữu gián đoạn, như thị niệm Phật, danh Sự nhất tâm” (tâm chẳng ĺa Phật, Phật chẳng ĺa tâm, niệm niệm tiếp nối, chẳng gián đoạn. Niệm Phật như thế gọi là Sự nhất tâm). Kiến Tư phiền năo đă đoạn; tiếp đó nói: “Nhược đạt thử cảnh giới”, quư vị đạt tới cảnh giới ấy, “tuy bất cầu đoạn Hoặc, nhi Kiến Tư phiền năo tự nhiên đoạn lạc” (tuy chẳng cầu đoạn Hoặc, mà Kiến Tư phiền năo tự nhiên đoạn rớt). V́ thế, Kiến Tư phiền năo là phiền phức, cần phải đoạn. Càng muốn đoạn, càng chẳng đoạn được, v́ sao? Ư niệm “muốn đoạn” chính là chấp trước kiên cố, mà Kiến Tư phiền năo cũng là chấp trước, chấp trước chẳng thể đoạn chấp trước! Vậy th́ làm sao? Không quan tâm tới nó là được rồi! Chỉ cần thật sự nắm vững cương lănh tu học như kinh đă dạy: “Phát Bồ Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm” sẽ thành công. Chuyện ǵ khác cũng đều chẳng mong tưởng, Kiến Tư phiền năo sẽ tự nhiên đoạn. Chẳng cần nghĩ ta phải làm như thế nào để đoạn sạch Ngă Chấp, phá trừ Thân Kiến, phá sạch Biên Kiến, đừng bận ḷng v́ những chuyện ấy! Niệm niệm chỉ nghĩ đến chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác, từ bi, đấy là Bồ Đề tâm. Ở trong ấy, không có chấp trước, phân biệt, vọng tưởng. Chúng ta biến đổi sức chú ư, hăy chuyên chú nơi nhất tâm, chuyên chú nơi “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác”, chuyên chú cầu sanh Tịnh Độ, thân cận Di Đà, đó là đúng, chẳng sai một tí nào! Những thứ khác đều chẳng cần nghĩ tới, chẳng nghĩ tới chẳng phải là buông xuống ư? Trong cuộc sống hằng ngày, niệm niệm chẳng quên “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác”, chân tu! Trong cuộc sống, đừng bị ô nhiễm bởi cuộc sống; trong công việc, đừng bị ô nhiễm bởi công việc, trong xử sự đăi người tiếp vật, cũng không bị hoàn cảnh nhân sự (quan hệ giữa con người với nhau) ô nhiễm, cũng không bị hoàn cảnh vật chất ô nhiễm, thật sự tu hành. Lúc đó mới có thể khế nhập “Lư Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại” của kinh Hoa Nghiêm , như vậy th́ quư vị văng sanh Tịnh Độ, chẳng ở trong cơi Phương Tiện Hữu Dư, mà là trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm. Tổ sư đại đức thường khám nghiệm học tṛ: “Ngươi có hiểu hay không?” Vấn đề thật sự là chính ḿnh có hiểu hay không? Luôn luôn giác, chỗ nào cũng giác.

      Lại xem tiếp đoạn dưới: “Thật Báo Trang Nghiêm độ. Nhược ức Phật, niệm Phật, lịch lịch phân minh, hành, trụ, tọa, ngọa, duy thử nhất niệm, vô đệ nhị niệm” (Cơi Thật Báo Trang Nghiêm: Nếu nhớ Phật, niệm Phật, rành mạch, phân minh, đi, đứng, nằm, ngồi, chỉ có một niệm này, không có niệm thứ hai). Mấy câu này nói về công phu thành phiến, công phu thành phiến sẽ có thể văng sanh. Nói thật ra, chúng ta mong đời này làm được một bước, sanh về nơi đâu? Sanh về cơi Đồng Cư. Tiếp đó là: “Bất vị tham, sân, phiền năo chư niệm chi sở tạp loạn, thị danh Sự nhất tâm” (Chẳng bị các niệm tham, sân, phiền năo làm loạn th́ gọi là Sự nhất tâm). Đó là buông Kiến Tư phiền năo xuống. Trong đoạn trước đă nói, trong tâm không có Thân Kiến, Biên Kiến, Kiến Thủ, Giới Thủ, Tà Kiến, không có! Tham, sân, si, mạn, nghi cũng không có, đấy là Sự nhất tâm, sanh về cơi Phương Tiện Hữu Dư trong thế giới Cực Lạc. “Sự thượng tức đắc, Lư thượng vị triệt, thuộc Định môn nhiếp, vị hữu Huệ cố” (Đă đắc về mặt Sự, nhưng chưa thấu triệt Lư, thuộc về Định môn, do chưa có Huệ). Ở đây dùng Giới, Định, Huệ để giảng, do đây có thể biết: Sanh về cơi Đồng Cư là thuộc vào Giới môn. Đức Phật dạy chúng ta tŕ giới niệm Phật, giới ấy rất thanh tịnh, mọi giới đều giữ được, điều này khẩn yếu lắm! Nay chúng tôi nói là “vun bồi ba căn bản”, ba căn bản ấy là Giới, vun bồi vững bền ba căn ấy là được rồi, v́ sao? Quư vị là “thiện nam tử, thiện nữ nhân” như trong kinh đă nói, quư vị có phần! Quư vị là thiện nam tử, thiện nữ nhân văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, Phật nhất định đến tiếp dẫn quư vị, phải hiểu đạo lư này! Dẫu niệm Phật tốt đẹp, niệm nhiều cách mấy đi nữa, cổ nhân nói niệm đến mức độ nào? “Gió thổi chẳng lọt, mưa tạt không ướt”, niệm đạt tới công phu như vậy, nhưng nếu không có Giới, quư vị vẫn chẳng thể văng sanh, v́ sao? Quư vị chẳng phải là thiện nam tử, thiện nữ nhân! Công phu ấy có phải là phí uổng hay chăng? Chẳng phí uổng! Công phu ấy sẽ là thiện căn cho đời sau, chứ đời này chưa văng sanh được! Khi nào sẽ có thể văng sanh? Khi nào Giới thanh tịnh, quư vị sẽ văng sanh. Giới luật thanh tịnh cũng thuộc loại Niệm Phật tam-muội, vừa mới đắc tam-muội, công phu không sâu, rất cạn! Sự nhất tâm công phu sâu hơn, thật sự đắc Niệm Phật tam-muội, chẳng bị cảnh giới bên ngoài lay động; do vậy người ấy có Định, nhưng chưa khai Huệ. Đối với bản kinh này, người ấy đạt được tâm thanh tịnh, đạt được tâm b́nh đẳng, nhưng chưa giác. Giác là đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, chưa đạt được điều này; v́ thế, người ấy sanh vào cơi Phương Tiện Hữu Dư.

      “Nhược ư bách xích can đầu, cánh tấn nhất bộ, ư tự bổn tánh, hốt nhiên khế hợp” (nếu ở đầu sào trăm thước, tiến thêm một bước nữa, bỗng nhiên sẽ khế hợp bổn tánh của chính ḿnh). Sự khế hợp ấy là kiến tánh, minh tâm kiến tánh, buông khởi tâm động niệm xuống. Khởi tâm động niệm là vô minh, vô thỉ vô minh là khởi tâm động niệm. Khởi tâm động niệm chẳng có mở đầu; chẳng thể nói nó có khởi đầu, chẳng thể nói nó có nguyên nhân, nó chẳng có nguyên nhân, điều này rất khó hiểu! Trong hội Lăng Nghiêm, đức Thế Tôn đă dùng h́nh ảnh “Diễn Nhă Đạt Đa mê đầu nhận ảnh” (anh chàng Diễn Nhă Đạt Đa lầm nhận h́nh bóng cái đầu của chính ḿnh [phát cuồng]) để h́nh dung, mong sao từ thí dụ ấy, quư vị sẽ có thể hiểu được, có thể hiểu đại khái. Những lời Phật nói ấy bao hàm những nghĩa vô cùng sâu! “Liễu tri năng niệm, sở niệm, duy thị nhất tâm, bất trụ hữu niệm, bất lạc vô niệm” (hiểu rơ năng niệm và sở niệm chỉ là một tâm, chẳng trụ hữu niệm, chẳng rơi vào vô niệm). Đây là “niệm mà vô niệm, vô niệm mà niệm”, thanh tịnh, b́nh đẳng, giác hiện tiền, đấy là kiến tánh. “Liễu tri” là kiến, năng niệm và sở niệm chỉ là nhất tâm, năng niệm là ta, là chính ḿnh, duy tâm sở hiện, đức A Di Đà Phật được niệm cũng là duy tâm sở hiện, nhất tâm, vô nhị tâm. Chẳng trụ hữu niệm, chẳng rớt vào vô niệm, trên mặt Sự th́ có, niệm Phật chẳng gián đoạn; nơi Lư th́ chẳng có! Cớ sao về Lư chẳng có? Nếu chúng ta thật sự hiểu rơ lời Di Lặc Bồ Tát nói: “Một cái khảy ngón tay có ba mươi hai ức trăm ngàn niệm”, quư vị sẽ hiểu rơ: Có niệm hay không? Không có niệm, về Lư không có; nhưng Sự th́ sao? Nơi Sự là tướng “tương tục tương tự” (gần như là tướng liên tục). Về căn bản, tướng tương tự tương tục chẳng tồn tại! V́ sao niệm? Pháp vốn là như thế, tự nhiên, chẳng khởi tâm động niệm. Chẳng khởi tâm động niệm, nhưng Phật hiệu lại chẳng gián đoạn! Đó là ǵ? Tập khí vô minh từ vô thỉ. Có thể nói theo cách như vậy được hay không? Có thể đoạn tập khí ấy hay không? Chẳng thể đoạn! V́ sao chẳng thể đoạn? Trong nhân địa đă từng phát nguyện: “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”; v́ thế, vô niệm mà niệm chính là sự hiện hữu cụ thể của nguyện này. Trong sự hiện hữu ấy, chẳng có khởi tâm động niệm, đương nhiên không có phân biệt, chấp trước, cảnh giới ấy chẳng thể nghĩ bàn! Chẳng vướng mắc hai bên. Chẳng trụ hữu niệm là chẳng chấp Có. Không rơi vào vô niệm là chẳng chấp Không. Nhị biên hợp nhất, chẳng thấy nhị biên nữa! Có nhị biên th́ là Biên Kiến. Không có nhị biên sẽ gọi là Chánh Tri Chánh Kiến, Phật Tri Phật Kiến.

      Tiếp đó, trích dẫn lời Liên Tŕ đại sư đă nói trong Sớ Sao, đều là nói về niệm Phật: “Nhược ngôn kỳ hữu, tắc năng niệm chi tâm, bổn thể tự không, sở niệm chi Phật, liễu bất khả đắc” (Nếu nói là có th́ cái tâm năng niệm bản thể vốn là không, đức Phật được niệm trọn chẳng thể được!). Trong một cái khảy ngón tay có ba mươi hai ức trăm ngàn niệm, trọn chẳng thể được! “Nhược ngôn kỳ vô, tắc năng niệm chi tâm, linh linh bất muội” (Nếu nói nó là Không th́ cái tâm năng niệm sáng suốt linh thông chẳng mê mờ). Chúng ta nh́n từ tướng: “Sở niệm chi Phật, lịch lịch phân minh” (đức Phật được niệm vằng vặc phân minh). V́ thế, đối với sự niệm Phật ấy, quư vị chẳng thể nói người ấy hữu niệm, mà cũng chẳng thể nói người ấy vô niệm; cũng có thể nói người ấy hữu niệm, và cũng có thể nói người ấy vô niệm. “Vô niệm nhi niệm, niệm nhi vô niệm, ngôn tư lộ tuyệt, bất khả trạng huống” (Vô niệm mà niệm, niệm nhưng vô niệm, nói năng lẫn suy nghĩ đều dứt bặt, chẳng thể diễn tả được). Trong cảnh giới ấy, không có cách nào dùng ngôn ngữ để diễn tả rơ ràng! Càng nói càng mơ hồ, phạm vi công dụng của ngôn ngữ hữu hạn; quả thật có những chỗ ngôn ngữ chẳng thể diễn đạt được! “Tư” () là thức thứ sáu, tức Ư Thức, có năng lực rất lớn, bên trong nó có thể duyên tới A Lại Da, bên ngoài nó có thể duyên đến hư không pháp giới, nhưng nó chẳng duyên tự tánh. V́ vậy, ngôn ngữ dứt bặt, tâm hành xứ diệt, không thể diễn đạt được! Không thể diễn tả th́ chẳng có cách ǵ nói, mà cũng chẳng có cách nào h́nh dung. “Duy thị nhất tâm, thanh tịnh bổn nhiên chi thể, cánh hữu hà pháp nhi đắc tạp loạn, thị danh Lư nhất tâm, thuộc Huệ môn nhiếp, kiêm đắc Định cố” (Chỉ là nhất tâm, bản thể vốn sẵn thanh tịnh, há c̣n có pháp nào tạp loạn được nó. Điều đó gọi là Lư nhất tâm, thuộc về Huệ môn, kèm thêm đắc Định). Trí huệ đă khai, đương nhiên có Định, không có Định th́ làm sao có thể khai trí huệ cho được? Trí huệ khởi tác dụng, nhưng công phu định lực chẳng mất. Nếu bỏ mất công phu định lực, sẽ chẳng có Huệ. Tác dụng của không có Định là phiền năo, phiền năo khởi tác dụng. Tác dụng của có Định là trí huệ. Nếu chúng ta dùng tựa đề kinh [Vô Lượng Thọ] để nói, tâm thanh tịnh khởi tác dụng là trí huệ, nhưng chưa viên măn. Tâm b́nh đẳng khởi tác dụng là đại trí huệ, vẫn chưa viên măn. Giác tâm khởi tác dụng là trí huệ viên măn. Giác tâm khởi tác dụng, tâm b́nh đẳng hay bất b́nh đẳng, thanh tịnh hay chẳng thanh tịnh? Đương nhiên là thanh tịnh, b́nh đẳng! Thanh tịnh là Định, b́nh đẳng cũng là Định, chỉ có chữ Giác là trí huệ Bát Nhă vốn sẵn có trong tự tánh hiện tiền viên măn, nó nương vào đâu? Nương vào thanh tịnh và b́nh đẳng. Quư vị phải biết: Trong mười pháp giới, chúng ta nói tới nhân tố thứ nhất, Phật là tâm b́nh đẳng, Bồ Tát là tâm thanh tịnh, quư vị thấy nó trọng yếu lắm!

      Do vậy, người tu hành phải thời thời khắc khắc cảnh giác chính ḿnh, một khi tâm chẳng thanh tịnh, bèn ngay lập tức quay đầu, ta sai rồi! Cớ sao chẳng thanh tịnh? Khởi phân biệt, chấp trước, sẽ chẳng thanh tịnh, chẳng b́nh đẳng. Chỗ mầu nhiệm của Tịnh Tông khiến cho Tịnh Tông là phương tiện bậc nhất trong các phương tiện chính là ǵ? Lập tức bảo quư vị hăy trở về với A Di Đà Phật, khôi phục cái tâm thanh tịnh của chính ḿnh! Trong cái tâm thanh tịnh của chính ḿnh, chỉ có một câu A Di Đà Phật. Ngay từ đầu, đă chẳng nói rồi đó sao? Nhớ Phật, niệm Phật, vằng vặc phân minh, đi, đứng, nằm, ngồi, chỉ có một niệm này, không có niệm thứ hai nào! Khi ấy, tâm quư vị là thanh tịnh, b́nh đẳng, nhưng sau khi quư vị bỏ Phật hiệu đi, tâm quư vị lại chẳng thanh tịnh, lại bất b́nh đẳng. Chúng ta dốc công sức tu tập ở chỗ này, tu đến mức tâm thanh tịnh hiện tiền, vẫn chẳng thể bỏ phương pháp này, vẫn dùng phương pháp này, tu đến mức tâm b́nh đẳng, vẫn y như cũ, chẳng bỏ phương pháp này! Thật sự thành Phật, vẫn chẳng ĺa bỏ phương pháp này, khi ấy, [niệm Phật] nhằm dạy chúng sanh. Trước khi thành Phật, phương pháp này là tự lợi. Chính ḿnh đă thành tựu, một câu Phật hiệu này vẫn niệm đến cùng, nhằm hóa độ người khác. Tự hành, dạy người, chỉ có một pháp này. Căn tánh của chúng sanh khác nhau, như Thích Ca Mâu Ni Phật giảng hết thảy các kinh, đối với căn cơ nào, Ngài bèn giảng pháp môn đó, nhưng tới cuối cùng đều hướng dẫn về Cực Lạc. Qua những lời tŕnh bày, hướng dẫn của tổ sư đại đức, chúng ta thấy hết thảy các pháp môn do đức Thế Tôn đă nói cả đời trong suốt bốn mươi chín năm, cuối cùng quy về đâu? Quy về Hoa Nghiêm, trở về Hoa Tạng. Hoa Tạng đến cuối cùng, hai vị đại Bồ Tát Văn Thù và Phổ Hiền suất lănh bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ trong hội Hoa Tạng đến bái phỏng A Di Đà Phật, dẫn về Cực Lạc. Từ kinh Hoa Nghiêm, chúng ta thấy được chuyện này! Hành động ấy của Văn Thù và Phổ Hiền đương nhiên là thuận theo ư của Tỳ Lô Giá Na Phật. Tỳ Lô Giá Na Phật không có ư này, Văn Thù và Phổ Hiền sẽ chẳng thể làm như vậy được! Tỳ Lô Giá Na Phật tán đồng, Tỳ Lô Giá Na Phật hoan hỷ, v́ sao? Thân cận A Di Đà Phật sẽ thành tựu mau chóng! Chư Phật Như Lai mong cho hết thảy chúng sanh lập tức thành Phật, đấy là bổn nguyện của chư Phật Như Lai. Do vậy, cổ đức nói rất hay: “Ngàn kinh vạn luận, đâu đâu cũng chỉ về”, chẳng có một pháp nào chẳng quy về Tịnh Độ.

      Do vậy, trong giáo pháp Đại Thừa, chúng tôi cũng thường nói có ba khoa mục chung. Thứ nhất là giới luật, tám vạn bốn ngàn pháp môn, vô lượng pháp môn, bất luận pháp môn nào cũng đều chẳng thể rời khỏi giới luật; giới luật là cơ sở. Hiện thời, chúng ta nói là “vun bồi căn bản giáo dục”, quư vị chẳng thể không có căn bản. Giới luật là cội rễ, tức căn bản. Khoa mục chung thứ hai cần phải tu tập là Lư, Lư là ǵ? Duy tâm sở hiện, duy thức sở biến, đó là Lư. Đây là khoa mục chung bắt buộc [phải học] trong bất luận pháp môn nào. Thứ ba là quy túc, tức là Tây Phương Cực Lạc thế giới, bất luận pháp môn nào đến cuối cùng thảy đều trở về thế giới Cực Lạc. Ba đại khoa mục chung, chúng ta chẳng thể nào không nghiêm túc học tập. Thưa quư vị, ba đại khoa này trọn đủ viên măn trong bộ kinh chẳng được coi như quá dài này, chúng ta chớ nên không biết. Sự tu học của chúng ta lấy những điều này làm căn bản chánh yếu, là môn chủ yếu để học tập, là khóa tŕnh tu tập chánh yếu. Hết thảy các kinh, thậm chí kinh điển của các tôn giáo khác đều là khóa tŕnh phụ trợ cho chúng ta. Quư vị thông suốt một môn này, sẽ thông suốt hết thảy toàn bộ các kinh; hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian cũng đều thông.

      Chúng ta xem câu chót do cụ Niệm Tổ [đă viết trong đoạn này]: “Niệm Phật nhược đạt Lư nhất tâm, phá nhất phần vô minh, tắc sanh Thật Báo Trang Nghiêm độ, đồng thời phần chứng Thường Tịch Quang Tịnh Độ” (Nếu niệm Phật đạt đến Lư nhất tâm, phá một phần vô minh, sẽ sanh vào cơi Thật Báo Trang Nghiêm, đồng thời chứng một phần Thường Tịch Quang Tịnh Độ). Lư nhất tâm nhất định là phá vô minh, vô minh là ǵ? Khởi tâm động niệm. Phá bằng cách nào? Sáu căn của chúng ta thấy sắc, nghe tiếng chẳng khởi tâm, không động niệm, sẽ chẳng có vô minh. Khởi tâm động niệm, vô minh tồn tại; khởi tâm động niệm là vô minh. Chúng ta có thể làm được điều này hay không? Chẳng thể nói là không làm được, nhưng rất khó, so với thanh tịnh và b́nh đẳng c̣n khó hơn! Có thể nói là cả đời này chúng ta có thể thành tựu hay không, hoàn toàn phụ thuộc vào công phu tu học cá nhân, mà cũng là nói quư vị có thể buông xuống hay không! Buông xuống có tầng lớp, chúng ta chẳng phải là bậc thượng thượng căn, trước hết, phải buông chấp trước xuống, khôi phục cái tâm thanh tịnh, rồi lại buông phân biệt xuống, khôi phục tâm b́nh đẳng. Cuối cùng, chẳng khởi tâm, không động niệm, Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác hiện tiền. [Hành nhân] bắt đầu chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thành Phật, theo kinh Hoa Nghiêm, chư vị phải hiểu [người như vậy] là Sơ Trụ Bồ Tát. Chúng ta đọc kinh Hoa Nghiêm, thấy cảnh giới của Thập Trụ và cảnh giới của Thập Địa vô cùng tương tự, do nguyên nhân ǵ? Chư Phật Như Lai chứng đến viên măn rốt ráo, chẳng khởi tâm, không động niệm. Khởi tâm động niệm thảy đều không có, c̣n có ǵ hay chăng? Thứ ǵ cũng đều không có! Toàn bộ trí huệ và đức tướng trong tự tánh đều hiện tiền. Do vậy, quư vị nói bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ trong hội Hoa Nghiêm là b́nh đẳng hay bất b́nh đẳng? Thật sự b́nh đẳng. Trong khi học tập, chúng tôi đă từng báo cáo tỉ mỉ cùng quư vị, chẳng thể nói bốn mươi mốt địa vị ấy là có, mà cũng chẳng thể nói là không. V́ sao chẳng thể nói là có? Khởi tâm động niệm c̣n không có, lấy đâu ra bốn mươi mốt địa vị? Nếu có bốn mươi mốt [địa vị], chẳng phải là trong ấy có phân biệt ư? Nếu quư vị chấp trước [những địa vị ấy] là có, đó chẳng phải là nẩy sanh chấp trước ư? Do chấp trước là có, do phân biệt bèn nói là bốn mươi mốt [địa vị], há có đạo lư ấy? Đó là ǵ? Đó là mười pháp giới, chứ trong cơi Thật Báo đâu có những danh xưng ấy! Chẳng thể nói là có! V́ sao chẳng thể nói là không? Tuy chẳng khởi tâm động niệm, nhưng có tập khí, tập khí có mức độ dày hay mỏng khác nhau! Người đă chứng đắc từ lâu, tập khí cũng rất mỏng, người đến nay mới chứng đắc, tập khí cũng rất nồng đậm. Do nói theo [mức độ] tập khí [dầy hay mỏng] mà có bốn mươi mốt cấp bậc, chuyện là như vậy đó, phải hiểu rơ ràng, minh bạch. Chúng ta có thể thật sự hiểu rơ ràng, minh bạch hay không? Chẳng dễ dàng! Chúng ta [hiểu phải] làm như thế nào, đó là giải ngộ, nhưng chưa khế nhập cảnh giới, v́ sao? Khế nhập cảnh giới sẽ không động tâm, nay chúng ta vẫn động tâm, vẫn khởi tâm động niệm. V́ thế, chúng ta cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, cầu ở nơi đâu? Chỉ cầu cơi Phàm Thánh Đồng Cư, phải biết điều này! V́ sao? Quư vị đặt vững mục tiêu ở nơi đó, ổn thỏa, thích đáng, chắc chắn sẽ thành tựu, chẳng thất bại. Nếu quư vị nâng mục tiêu cao hơn, sẽ chẳng chắc ăn, v́ quư vị thiếu trí huệ, thiếu định lực, thiếu khả năng ấy. Do vậy, nhất định phải hiểu bản thân thật rơ ràng, rành rẽ!

      Trong đoạn lớn kế tiếp, giảng rất nhiều về cơi Thật Báo, chúng ta lại xem kinh văn: “Thật Báo Trang Nghiêm độ năi Pháp Thân đại sĩ chi sở du cư, Biệt Giáo Sơ Địa, Viên Giáo Sơ Trụ dĩ thượng chư đại sĩ thỉ đắc sanh thử” (Cơi Thật Báo Trang Nghiêm là chỗ ngao du, cư trụ của hàng Pháp Thân đại sĩ, các đại sĩ từ Sơ Địa trong Biệt Giáo hay Sơ Trụ trong Viên Giáo trở lên mới được sanh về cơi ấy). Nếu chúng ta niệm tới Lư nhất tâm, quư vị hiểu Lư nhất tâm là minh tâm kiến tánh, là Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo, hoặc Sơ Địa Bồ Tát trong Biệt Giáo, sanh vào cơi Thật Báo Trang Nghiêm. “Phá nhất phần vô minh, chứng nhất phần Pháp Thân, phương sanh thử độ” (phá một phần vô minh, chứng một phần Pháp Thân, mới sanh vào cơi ấy). Nói “một phần vô minh” có nghĩa là ǵ? Chúng ta học Hoàn Nguyên Quán, sẽ hiểu khá rơ khái niệm này. Theo Di Lặc Bồ Tát đă nói, nay chúng ta nói theo cách bây giờ là một giây, hiện thời nói đến thời gian luôn dùng một giây làm đơn vị, một giây phải chia thành bao nhiêu phần? Chúng tôi thường nói, một giây khảy ngón tay bốn lần, sẽ là một ngh́n hai trăm tám mươi triệu, [tức là] một phần của một ngh́n hai trăm tám mươi triệu phần của một giây là một phần vô minh. Y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới xuất hiện trong [một niệm] vô minh ấy, mỗi niệm đều là một phần vô minh. Nếu đoạn sạch một phần vô minh ấy, mười pháp giới sẽ chẳng c̣n, quư vị sẽ chứng một phần Pháp Thân, hết thảy các pháp là chính ḿnh, c̣n thân thể th́ sao? Thân thể này cũng là một phần trong đó, chẳng lọt ra ngoài, y báo và chánh báo trang nghiêm trọn khắp pháp giới hư không giới được biến hiện trong một niệm vô minh. Hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng, một phần vô minh ấy cũng là tâm tưởng. Lúc ấy, liễu giải hết thảy các pháp và chính ḿnh có mối quan hệ: “Một chính là hết thảy, hết thảy chính là một”, đó chính là luân lư được giảng trong Đại Thừa Phật pháp. Trong tâm Bồ Đề, chân thành là Lư thể, Pháp Thân Lư thể, Chân là chẳng giả, vĩnh hằng không thay đổi; Thành: Chẳng phải là hư ngụy. Luân lư ấy là: Trọn khắp pháp giới hư không giới chỉ là chính ḿnh. Pháp Thân: Pháp là hết thảy các pháp, hết thảy các pháp là thân của chính ḿnh, đó cũng là hết thảy các pháp. Quư vị chỉ chấp trước thân xác này là thân của chính ḿnh th́ trật rồi, hết thảy các pháp mới là thân của chính ḿnh. Như thân thể của chúng ta là do vô số tế bào hợp thành, nếu quư vị chấp trước một tế bào trong đó là chính ḿnh th́ đă sai mất rồi, mỗi tế bào đều là chính ḿnh, làm sao quư vị có thể chấp trước một tế bào cho được?

      Khi nào quư vị thật sự giác ngộ, khắp pháp giới hư không giới do nhất tâm của chính ḿnh hiện, duy tâm sở hiện, toàn là chính ḿnh. Cũng giống như chúng ta nằm mộng, sau khi tỉnh mộng, chính quư vị hăy suy nghĩ kỹ càng, tất cả hết thảy người, sự, vật trong mộng, có ǵ chẳng phải do tâm chính ḿnh biến hiện? Chúng ta dùng mộng cảnh [làm tỷ dụ] v́ mộng cảnh dễ hiểu, ngoài tâm không có pháp, ngoài pháp không có tâm, toàn bộ mộng cảnh do nhất tâm hiện ra. Sau đấy, quư vị lại mở rộng, vũ trụ như chúng ta nhận biết trong hiện thời cũng do nhất tâm của chính ḿnh hiện ra, hết sức giống với mộng cảnh, chẳng giả tí nào. Đấy là quan niệm luân lư trong Phật pháp được giảng đến mức rốt ráo viên măn. Luân lư như tổ tiên chúng ta đă nói chỉ giảng về mối quan hệ giữa con người với nhau, mục tiêu chung cực là: “Phàm là người, đều phải yêu thương”, điều đó gọi là Đức. Phật pháp giảng [luân lư] rất viên măn, nhưng tổ tông chúng ta có nói tới [những điều ấy] hay không? Có chứ! Trong Luận Ngữ đă thật sự nói đến: “Phiếm ái chúng, nhi thân nhân” (yêu thương rộng khắp mọi người, thân cận kẻ nhân từ), “chúng” là ǵ? “Chúng” là chúng sanh, do các duyên ḥa hợp mà sanh ra các hiện tượng. Ta do các duyên, tức Tứ Đại và Ngũ Uẩn ḥa hợp, hoa, cỏ, cây cối cũng do các duyên ḥa hợp, núi, sông, đại địa vẫn là các duyên ḥa hợp. [Nói tới] Ngũ Uẩn là đă hoàn toàn khái quát các duyên. Trong Ngũ Uẩn, Sắc là vật chất, Thọ, Tưởng, Hành, Thức là tinh thần; tinh thần và vật chất vĩnh viễn chẳng thể tách rời. Cây cối, hoa, cỏ có Thọ, Tưởng, Hành, Thức hay không? Có! Chúng tôi ở đây mười năm, trồng những loài rau và cây cối, chúng tôi tṛ chuyện với chúng, những cây cối, hoa cỏ ấy hiểu được ư nghĩ của chúng ta. Chúng ta ưa thích, tôn trọng, yêu thương chúng, cây cỏ sẽ đặc biệt xanh tươi, hoa đặc biệt thơm, trái đặc biệt ngọt, chúng hiểu được ư nghĩ của chúng ta. Không chỉ thực vật có Thọ, Tưởng, Hành, Thức, mà khoáng vật cũng có, có thứ nào chẳng do Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức thành tựu? Đức Phật đă giảng trọn hết. Tiến sĩ Giang Bổn Thắng làm thí nghiệm với nước, nước là khoáng vật, nó có Thọ, Tưởng, Hành, Thức. V́ sao? Trong tự tánh vốn sẵn có kiến văn giác tri, khi đă giác ngộ th́ gọi là kiến văn giác tri, v́ trong kiến văn giác tri không có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Trong Thọ, Tưởng, Hành, Thức có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, hễ mê liền biến thành tám thức, trong tám thức có Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Theo quan niệm luân lư của Phật pháp, biết hết thảy các pháp và chính ḿnh là một Thể, quư vị dùng tâm ǵ để đối đăi? Thân thiết như cha và con!

      T́nh thân trong Phật pháp là đại từ đại bi, không có pháp nào chẳng có quan hệ với chính ḿnh. Nếu quư vị nói có một pháp đối lập, mâu thuẫn với chính ḿnh, quư vị đă lầm lẫn quá đỗi rồi! Chính quư vị đă mê hoặc, điên đảo tận gốc, làm sao có chuyện như vậy được? Do vậy, trong lục đạo, người giác ngộ ḥa quang đồng trần với chúng sanh trong lục đạo, nhưng người ấy hiểu rơ ràng, minh bạch, [chẳng mê hoặc, điên đảo như chúng sanh]. Chúng sanh trong lục đạo đều mê hoặc, điên đảo, mê mất tự tánh, người ấy là bậc giác ngộ, những chúng sanh ấy đă làm rất nhiều chuyện xấu, trái nghịch tự tánh, người ấy có ghim trong ḷng hay không? Chẳng để ở trong ḷng. Người ấy có trách móc họ hay không? Chẳng trách móc họ! V́ sao? Người ấy khẳng định hết thảy chúng sanh tánh vốn lành, nơi hữu t́nh gọi là Phật Tánh, tánh vốn lành, nơi vô t́nh gọi là Pháp Tánh, vẫn là tánh vốn lành. Trong tự tánh, chẳng t́m được một chút mảy may thiếu khuyết nào, t́m không được, viên măn mà! Nhỏ nhất là vi trần cũng đầy đủ trí huệ và đức tướng, lớn như hư không pháp giới vẫn trọn đủ trí huệ và đức tướng, thật đấy, chẳng giả! [Người đă] mê sẽ làm chuyện sai trái, quư vị phải dạy họ, giúp họ quay đầu, đó là đúng; chư Phật, Bồ Tát làm theo cách ấy. Tuyệt đối chẳng hề có ư niệm muốn trừng phạt người đó. [Nếu thấy] kẻ đó đă làm bao nhiêu chuyện xấu, phải trừng phạt kẻ đó, [người có cái nh́n như thế] sẽ chẳng phải Bồ Tát, chưa giác ngộ, vẫn là lục đạo phàm phu. Thật sự giác ngộ sẽ chẳng thể nào có ư niệm ấy, ai thật sự giác ngộ? Từ A La Hán trở lên, các Ngài đă đắc Chánh Giác, đối với hữu t́nh chúng sanh trong mười pháp giới, chẳng cần biết họ làm chuyện sai quấy nào, cũng thấy họ giống như con cái của chính ḿnh, quư vị có thể trách móc chúng nó hay chăng? Có thể vứt bỏ chúng nó hay không? Không! Sẽ cố gắng dạy dỗ chúng. Dùng tấm ḷng yêu thương để dạy bảo, chẳng có kẻ nào không thể dạy dỗ thành tốt đẹp, không có một ai chẳng thể quay đầu, chỉ là họ mê sâu hay cạn khác nhau. Mê sâu sẽ khó quay đầu một chút, phải tốn thời gian dài hơn một chút, nhưng chắc chắn sẽ quay đầu. Kẻ chẳng thể quay đầu trong đời này, [sẽ quay đầu trong] đời sau, Phật, Bồ Tát độ chúng sanh đời đời kiếp kiếp chưa hề gián đoạn. Đời này có thể quay đầu, có thể thành tựu, đều là do thiện căn, phước đức, nhân duyên đă tích lũy đời đời kiếp kiếp trong quá khứ, đến đời này chín muồi, nên đắc độ. Chưa chín muồi phải giúp cho kẻ ấy chín muồi, chưa gieo thiện căn sẽ giúp cho kẻ ấy gieo thiện căn, tâm ấy b́nh đẳng, không có dầy, mỏng, chẳng có cao, thấp, nên gọi là “phổ độ”.

      Chúng ta xem đoạn tiếp theo: “Thử độ đại sĩ, sắc tâm tự tại, thân độ hỗ hiện, ư nhất hào đoan hiện bảo vương sát, ư vi trần lư chuyển đại pháp luân” (Các bậc đại sĩ trong cơi ấy sắc và tâm tự tại, thân và cơi hiện lẫn nhau, trong một đầu lông hiện cơi bảo vương, trong một vi trần chuyển đại pháp luân). Ngài đắc đại tự tại, những chuyện này hoàn toàn là thật, chẳng có câu nào là vọng ngữ hay khoa trương! Như Lai là “đấng nói lời thật, nói sự thật, nói đúng như sự thật”, “như ngữ” là ǵ? Hoàn toàn là chân tướng sự thật. Các bậc đại sĩ trong cơi ấy (Thật Báo Trang Nghiêm), nói thật ra, rất nhiều vị đại Bồ Tát đă thành Phật từ nhiều kiếp lâu xa, nay Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện thành Phật ở nơi đây, Ngài là giáo chủ. Một vị Phật ra đời, ngàn vị Phật ủng hộ, vô lượng chư Phật dùng thân phận Bồ Tát đến giúp Thích Ca Mâu Ni Phật tiếp dẫn, giáo hóa, thành tựu chúng sanh, đến làm trợ thủ. Phàm phu chúng ta thấy h́nh như có cao, thấp, trên thực tế là b́nh đẳng, hoàn toàn b́nh đẳng. V́ giáo hóa chúng sanh, hằng thuận chúng sanh, do chúng sanh có bất b́nh đẳng, có cao, thấp, nên Bồ Tát cũng thị hiện sự cao thấp cho quư vị thấy. “Thân độ hỗ hiện” (thân và cơi hiện lẫn nhau), nhờ vào Sắc và Tâm tự tại, v́ sao tự tại? Chẳng chướng ngại! Chẳng có ǵ chướng ngại ư? Không có Vô Minh chướng ngại, không có Trần Sa chướng ngại, không có Kiến Tư chướng ngại. Kinh Hoa Nghiêm nói buông toàn bộ vọng tưởng, phân biệt, chấp trước xuống sẽ chẳng có chướng ngại, đắc tự tại. Thân và cơi hiện lẫn nhau, câu này hay quá! Thân tự tại, cơi tự tại; thân thanh tịnh, cơi bèn thanh tịnh; thân b́nh đẳng, cơi bèn b́nh đẳng. Thân chẳng tự tại, chúng ta sống trên đại địa này cũng chẳng tự tại, v́ sao? Cảnh chuyển theo tâm, tướng do tâm sanh. Nếu chúng ta thấu triệt, hiểu rơ ư nghĩa này, nếu có thể vận dụng trong cuộc sống hằng ngày th́ mới thật sự được thụ dụng!

      Sáu câu tiếp đó nói rơ đức dụng tự tại của các Ngài: Trong một đầu lông, sách Hoàn Nguyên Quán đă nêu một ví dụ là một hạt vi trần, một vi trần là y báo nhỏ nhất. Một sợi lông thật sự là chánh báo nhỏ nhất, trên thân thể chúng ta, một sợi lông là nhỏ nhất, [“nhất hào đoan” là] chót đầu một sợi lông, “nhất hào đoan” quả thật đă chỉ điều này. Trong đầu một sợi lông hiện “bảo vương sát”, bảo vương sát là ǵ? Cơi nước của chư Phật là tam thiên đại thiên thế giới, ở nơi đâu? Trong đầu một sợi lông! Đầu lông chẳng phóng to, đại thiên thế giới chẳng rút nhỏ, v́ sao? Xứng tánh. Tự tánh không có lớn hay nhỏ, chẳng có trước hay sau, cũng có nghĩa là trong tự tánh không có thời gian, chẳng có không gian, tự tại! “Ư vi trần lư chuyển đại pháp luân” (Trong một vi trần chuyển đại pháp luân), “vi trần” là một hạt vi trần, vi trần là nhỏ nhất, đây là nói về y báo. Hai câu trước nói về chánh báo. [Tuy nói về y báo và chánh báo], nhưng có cùng một ư nghĩa, hiện cơi bảo vương và chuyển đại pháp luân có cùng một ư nghĩa. Thị hiện cơi nước để làm chuyện ǵ? Dạy học làm đầu, chuyển đại pháp luân là dạy học làm đầu, ở trong ấy, giúp kẻ mê mất tự tánh quay đầu là bờ! “Xứng tánh trang nghiêm, vô chướng, vô ngại”, hoàn toàn khác thế gian này, chúng ta phải hiểu ư nghĩa sâu xa, uyên áo, kín nhiệm ở đây, nghĩa ǵ vậy? Chúng ta và chư Phật, Bồ Tát, Pháp Thân đại sĩ chẳng hai, chẳng khác, v́ sao nay các Ngài có thể, mà chúng ta chẳng thể? Các Ngài không có chướng ngại, chúng ta có chướng ngại; không có chướng ngại là thật, có chướng ngại là giả. Chúng ta bị hại bởi điều ǵ? Bị hại bởi các hành pháp bất tương ứng. Các hành pháp bất tương ứng toàn là giả, [chúng là] những khái niệm trừu tượng sai lầm tạo thành chướng ngại. Câu cuối cùng: “Viên Giáo Sơ Trụ dĩ thượng trực chí Đẳng Giác Bồ Tát, tứ thập nhất vị Pháp Thân đại sĩ giai thuộc thử độ, vị vị giai phần chứng Thường Tịch Quang độ” (Từ bậc Sơ Trụ trong Viên Giáo trở lên cho đến Đẳng Giác Bồ Tát, bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ đều thuộc về cơi này, địa vị nào cũng đều phần chứng cơi Thường Tịch Quang). Hôm nay đă hết thời gian rồi, ngày mai chúng ta sẽ bắt đầu học từ câu này!

 

Tập 30

 

Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải trang ba mươi hai, chúng ta xem từ ḍng thứ nhất.

“Thử độ đại sĩ, sắc tâm tự tại, thân độ hỗ hiện, ư nhất hào đoan hiện bảo vương sát, ư vi trần lư chuyển đại pháp luân. Xứng tánh trang nghiêm, vô chướng vô ngại” (Các bậc đại sĩ trong cơi ấy sắc và tâm tự tại, thân và cơi hiện lẫn nhau, trong một đầu lông hiện cơi bảo vương, trong một vi trần chuyển đại pháp luân. Xứng tánh trang nghiêm, chẳng chướng ngại). Lần trước, chúng ta đă học tập tới đây, chúng ta xem tiếp đoạn văn kế đó: “Viên Giáo Sơ Trụ dĩ thượng, trực chí Đẳng Giác Bồ Tát, tứ thập nhất vị Pháp Thân đại sĩ giai thuộc thử độ, vị vị giai phần chứng Thường Tịch Quang độ” (Từ bậc Sơ Trụ trong Viên Giáo trở lên cho đến Đẳng Giác Bồ Tát, bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ đều thuộc về cơi này, địa vị nào cũng đều phần chứng cơi Thường Tịch Quang). Đây là câu cuối cùng trong đoạn này, đoạn này nói về cơi Thật Báo Trang Nghiêm. Cơi Thật Báo Trang Nghiêm là báo độ do Pháp Thân Bồ Tát chiêu cảm. Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo phá vô minh, chứng Pháp Thân. Vô thỉ vô minh là khởi tâm động niệm, rất khó hiểu, cũng có thể nói là lục đạo phàm phu bất luận dùng phương pháp ǵ cũng đều chẳng thể hiểu, nghĩ không ra chuyện này, cũng không thể nói được, đúng như trong giáo pháp Đại Thừa thường nói: “Ngôn ngữ dứt bặt, tâm hạnh xứ diệt”, hai câu ấy diễn tả cảnh giới này. Đức Phật đă nói rất hay: “Thử sự duy chứng năi tri” (chuyện này chỉ có chứng th́ mới biết), chính quư vị chứng đắc sẽ hiểu rơ ràng, rành rẽ. Sau khi quư vị chứng đắc, cũng không thể diễn tả được! Không diễn tả được, đức Phật bèn có phương tiện, đó là trí huệ viên măn, phương tiện thiện xảo của Phật. Tuy đức Phật đă nói, nhưng phàm phu chúng ta vẫn chẳng hiểu. Ai hiểu? Pháp Thân Bồ Tát hiểu. Tiếp đó, hàng Quyền Giáo Bồ Tát đă buông phân biệt, chấp trước xuống cũng có thể hiểu. Kinh nói họ giải ngộ, chưa chứng ngộ, [tức là chỉ] nghe hiểu [chưa chứng nhập cảnh giới ấy]. Tâm họ thanh tịnh hơn tâm chúng ta. Kinh Vô Lượng Thọ nói họ đắc tâm thanh tịnh, tâm b́nh đẳng, cho nên họ hiểu. Ắt phải phá vô minh, chứng Pháp Thân, họ mới thật sự hiểu. V́ sao? Đó là cảnh giới của họ, từ Sơ Trụ trở lên cho đến bậc Đẳng Giác.

      Bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ ấy đều thuộc về cơi đó, cơi ấy là báo độ của họ. Pháp Thân đại sĩ chứng đắc Pháp Tánh thân, hoàn cảnh cư trụ là “cơi Pháp Tánh”, rất khác với chúng ta nơi đây. Trong cơi này, chúng ta nói tới tịnh và nhiễm, tức là uế độ. Lục đạo là uế độ, tứ thánh pháp giới là Tịnh Độ. Trong cơi Pháp Tánh không có tịnh hay uế, càng không có thiện hay ác, ngay cả những danh tự ấy cũng đều chẳng nghe thấy, lẽ đâu có các hiện tượng đó. “Vị vị giai phần chứng Thường Tịch Quang” (địa vị nào cũng đều phần chứng Thường Tịch Quang), nói thật ra, nói Tịch Quang là chỉ hết thảy Lư Thể của hết thảy y báo và chánh báo, nói theo danh từ Triết Học, [Tịch Quang là] bản thể của hết thảy y báo và chánh báo. Trong những phần trước, chúng tôi đă nhiều lần dùng TV làm tỷ dụ, Tịch Quang là ǵ? Tịch () là màn h́nh TV. Các cơi Đồng Cư, Phương Tiện, Thật Báo là những h́nh ảnh hiện trên màn h́nh, chúng có mối quan hệ như vậy. Do vậy, chúng ta biết chính ḿnh có ở trong cơi Thường Tịch Quang hay không? Có! Chưa từng rời khỏi Thường Tịch Quang! Rời khỏi Thường Tịch Quang là rời khỏi màn h́nh, rời khỏi màn h́nh th́ thứ ǵ cũng đều không có. Ở chỗ này, v́ sao nói địa vị nào cũng đều phần chứng Thường Tịch Quang? Các Ngài đă chứng đắc, “phần chứng” ở đây là minh tâm kiến tánh. Tánh là ǵ? Thường Tịch Quang là tánh, các Ngài đă kiến tánh. Tuy tự tánh của chúng ta ở trước mặt, nhưng không thấy được! Giống như chúng ta xem TV, chỉ nh́n thấy h́nh ảnh, chẳng thấy màn h́nh, màn h́nh có tồn tại hay không? Ở ngay nơi đó, nhưng chẳng nh́n thấy màn h́nh, chỉ nh́n thấy h́nh ảnh trong màn h́nh. Pháp Thân đại sĩ khác hẳn, trông thấy h́nh ảnh đồng thời biết chúng là tướng được hiện trong màn h́nh, so với màn h́nh là một, không hai, có quan hệ “bất tức, bất ly” (chẳng phải chính là một, mà cũng chẳng phải tách ĺa) với màn h́nh. Nó chẳng rời khỏi màn h́nh, nhưng cũng chẳng phải là màn h́nh, bất tức, bất ly! Thường Tịch Quang: Thường () là vĩnh hằng, chẳng gián đoạn giữa chừng. Nói là “cơi Thường Tịch Quang” cũng được, mà nói “thân Thường Tịch Quang” cũng được, thân và cơi là một. V́ thế, kinh Đại Thừa có lúc tỉnh lược thân và cơi, chỉ gọi là Thường Tịch Quang, nhằm dạy chúng ta chớ nên phân biệt, chấp trước, mang ư nghĩa như thế. Nói về cơi Thật Báo tới đây [là xong].

      Tiếp đó, giảng về cơi thứ tư “Thường Tịch Quang độ. Pháp Thân Phật sở cư chi độ, danh vi Thường Tịch Quang độ”. (Cơi Thường Tịch Quang: Cơi nước do Pháp Thân Phật trụ được gọi là cơi Thường Tịch Quang). Những vị này chẳng phải là Đại Sĩ, mà là Pháp Thân Phật. Pháp Thân Phật là địa vị Diệu Giác, cao hơn Đẳng Giác là Diệu Giác. Đẳng Giác, gần bằng Diệu Giác, nhưng vẫn chưa phải là Diệu Giác, v́ sao? C̣n có một phẩm tập khí sanh tướng vô minh cuối cùng chưa phá. Do vậy, trong cơi Thật Báo có tướng, nhưng cơi Thường Tịch Quang không có tướng, Thường Tịch Quang hiện tướng thành cơi Thật Báo. V́ sao nó có thể hiện tướng? Tập khí vô minh chưa đoạn, tướng được hiện ấy là do tập khí vô minh biến hiện. Chư vị hăy nhớ, cơi ấy chẳng do A Lại Da biến hiện, mà do tập khí vô minh biến hiện. Không có tập khí th́ cơi Thật Báo cũng chẳng có; nhưng cơi Thật Báo dường như cũng vĩnh viễn tồn tại, trong kinh Đại Thừa có một câu nêu rơ nguyên nhân, kinh nói như thế nào? “Pháp Thân Phật lưu Hoặc nhuận sanh” (Pháp Thân Phật giữ lại Hoặc để lợi ích chúng sanh). “Hoặc” là ǵ vậy? Tập khí vô minh từ vô thỉ chính là một phẩm sanh tướng vô minh cuối cùng, Ngài có năng lực đoạn một phẩm ấy, nhưng không đoạn, v́ sao? Sau khi đoạn, sẽ không thể phục vụ chúng sanh, sẽ chẳng c̣n độ chúng sanh. Đấy là ḷng từ bi vô tận từ tự tánh thị hiện, mà cũng là vô lượng trí huệ thị hiện, đó là hai thứ quư báu nhất trong tự tánh: Trí huệ Bát Nhă và đại từ đại bi. Hai thứ ấy do Tánh Đức viên măn mở rộng ra, hiển hiện, chẳng do tu thành. Chúng ta chẳng cần nói tới Pháp Thân Phật, chỉ nói tới Pháp Thân Bồ Tát, trong cơi Thật Báo, trí huệ của các Ngài đă trọn khắp pháp giới hư không giới, ḷng từ bi của các Ngài cũng trọn khắp pháp giới hư không giới. Giống như trong phần trước, đức Phật đă nêu thí dụ, “nhất hào đoan” (đầu một sợi lông), “vi trần lư” (trong một hạt vi trần), viên măn trọn đủ trí huệ Bát Nhă và từ bi của tự tánh. Chúng ta có [trí huệ và ḷng từ bi ấy] hay không? Đương nhiên là có, trong đầu mỗi sợi lông của chúng ta cũng đều có, trong mỗi một hạt vi trần của y báo cũng đều có. Hạt vi trần như trong nhà Phật nói được khoa học hiện tại gọi là “hạt cơ bản” hoặc “khoa-khắc” (quartz: hạt vi lượng), tràn ngập trí huệ, đầy ắp từ bi.

      Chúng ta biết: Tự tánh không có lớn hay nhỏ, không có trước hay sau. Không có lớn hay nhỏ là không có không gian. Không có trước hay sau là không có thời gian. Siêu việt thời gian và không gian, nhưng không nơi nào chẳng tồn tại, không khi nào chẳng tồn tại, không chỗ nào chẳng hiện diện. V́ thế, chư Phật Như Lai, kể cả Pháp Thân Bồ Tát chẳng có ǵ không yêu thương. V́ sao? Các Ngài đă giác ngộ, hiểu rơ hết thảy y báo và chánh báo trang nghiêm trọn khắp pháp giới và hư không giới có cùng một Thể với chính ḿnh. Một tự tánh, sở sanh, sở hiện; một A Lại Da, năng biến, sở biến, trừ những thứ này ra, chẳng c̣n pháp nào khác. V́ vậy, tông Duy Thức trong Đại Thừa chẳng thừa nhận trong vũ trụ có thể lập ra một pháp nào, chỉ có Thức tồn tại, chỉ có A Lại Da. Trừ A Lại Da ra, điều ǵ cũng đều không có, từ ba ngàn năm trước đức Phật đă nói điều ấy. Các khoa học gia hiện thời cũng nói giống như vậy, họ đă chứng thực lời Phật. Các khoa học gia nói: Trong vũ trụ này, thứ ǵ cũng đều chẳng có, chỉ có ba thứ là năng lượng, thông tin, và vật chất. Trừ những thứ ấy ra, thứ ǵ cũng đều chẳng có! Cách nh́n ấy nếu xét theo Duy Thức th́ năng lượng là nghiệp tướng của A Lại Da, thông tin là chuyển tướng, vật chất là cảnh giới tướng. Ba thứ ấy do đâu mà có? Sanh từ nhất niệm, là dao động vô cùng vi tế. Hễ nó vừa động, cả ba hiện tượng ấy bèn hiện ra. Toàn thể vũ trụ do ba hiện tượng này biến hóa, nó là hiện tượng dao động. V́ sao có muôn h́nh muôn vẻ khác nhau nhiều như thế? Tần số dao động khác nhau, nhưng thật ra, tốc độ dao động giống nhau. Tướng tương tự tương tục khác nhau rất lớn. Đây là từ Tam Tế lại giảng cho quư vị nghe tướng Lục Thô. Tướng Lục Thô là nói về phân biệt, chấp trước, A Lại Da là nói đến khởi tâm động niệm; đấy là triết học cao cấp trong Phật pháp, là khoa học cao cấp. Do vậy, cơi mà Pháp Thân Phật ngự, trở về tự tánh viên măn là Thường Tịch Quang.

      “Yếu Giải vân: Thật Tướng chi thể, phi Tịch, phi Chiếu” (Sách Yếu Giải giảng: “Thể của Thật Tướng chẳng Tịch, chẳng Chiếu”). Tịch là thanh tịnh tịch diệt, trong kinh Đại Thừa gọi Tịch là Bát Niết Bàn. Bát Niết Bàn (Parinirvana) là tiếng Ấn Độ, có nghĩa là “thanh tịnh tịch diệt”. Huệ Năng đại sư kiến tánh, nói: “Nào ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh”. V́ sao thanh tịnh? Vọng tưởng, phân biệt, chấp trước thảy đều chẳng có, nên gọi là Diệt, tức là diệt vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Thể của nó là thanh tịnh; đấy là bản thể. Tổ tiên và cổ thánh tiên hiền Trung Quốc đă nói: “Bổn tánh bổn thiện” (bổn tánh vốn lành) nhằm ư nghĩa này! Tự tánh có rời khỏi chúng ta hay không? Không có! Chẳng thể nào rời khỏi. Nay chúng ta có tự tánh hay không? Đương nhiên là có, giống như chúng ta xem TV, TV có thể tách rời màn h́nh hay chăng? Quư vị chẳng thể rời khỏi, hễ rời khỏi màn h́nh sẽ chẳng có tướng. Ngoài tâm không có pháp, ngoài pháp chẳng có tâm, tâm là màn h́nh, tướng thuộc các băng tần được biến hiện trên màn h́nh là pháp, tức vạn pháp. Thể, Tướng, Dụng chắc chắn chẳng thể phân khai độc lập, không thể nào! Thể, Tướng, Dụng vĩnh viễn dung hợp thành một Thể, Thể ấy là tự tánh thanh tịnh viên minh thể. Chúng tôi dùng màn h́nh làm tỷ dụ cho quư vị dễ hiểu. Ví như nay chúng ta xem TV, nhưng quên tuốt màn h́nh TV, nói sao quư vị cũng chẳng thông, chẳng có cách nào hiểu. V́ sao? Quư vị vẫn một mực chưa thấy màn h́nh, giống như TV vĩnh viễn mở, quư vị sẽ chẳng biết TV có màn h́nh, chỉ nh́n thấy nó có tướng cảnh giới. Tướng cảnh giới ấy thiên biến vạn hóa, nó là pháp sanh diệt, màn h́nh là bất sanh bất diệt. Phàm phu chẳng biết trong sanh diệt có bất sanh bất diệt. Chẳng sanh diệt mới là chính ḿnh. Đó là tự tánh, là chân tâm. Ai biết? Vọng tưởng, phân biệt, chấp trước thảy đều buông xuống, quư vị sẽ có thể thấy được, chứng đắc, đó gọi là “minh tâm kiến tánh”. Tánh được gọi là Thường Tịch Quang, Thường là vĩnh hằng không thay đổi. Chúng ta dùng những câu nói của Huệ Năng đại sư để diễn tả th́ Thường là câu nói thứ hai của Ngài [khi đă giác ngộ]: “Nào ngờ tự tánh vốn chẳng sanh diệt”, đấy là Thường. Tịch là ǵ? Câu đầu tiên là Tịch, “nào ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh”, đấy là Tịch. Câu thứ tư là Tịch, “nào ngờ tự tánh vốn chẳng dao động”. Quư vị thấy hai câu ấy là Tịch. C̣n có hai câu là Quang, câu thứ ba: “Vốn tự trọn đủ”, trong tự tánh vốn tự trọn đủ, trọn đủ ǵ vậy? Trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật đă nói [tự tánh vốn trọn đủ] trí huệ và đức tướng, chúng tôi thay [trí huệ và đức tướng] bằng một câu vẫn do đức Phật giảng, [đó là] kiến văn giác tri, tự tánh vốn tự trọn đủ [kiến văn giác tri]. Câu cuối cùng [của Lục Tổ] chính là nói nó (tự tánh) tỏa ánh sáng, [tức là] khởi tác dụng: “Có thể sanh vạn pháp”. Có thể sanh vạn pháp th́ vạn pháp do đâu sanh ra? Sanh từ câu thứ ba “vốn tự trọn đủ”! Không có duyên, nó sẽ chẳng sanh, nó thanh tịnh. Hễ có duyên, nó bèn sanh. “Có duyên” là nhất niệm bất giác. Nhất niệm bất giác là động rồi, hễ động, thứ đầu tiên xuất hiện là A Lại Da. A Lại Da vừa xuất hiện, tất cả vạn pháp sẽ xuất hiện, sách Hoàn Nguyên Quán viết: “Hiển nhất thể, khởi nhị dụng, thị tam biến”. Ba đoạn lớn này giảng về duyên khởi vũ trụ, mà cũng là duyên khởi của A Lại Da, duyên khởi của Tánh Đức, nói cách nào cũng được, nói như thế nào cũng đều thông suốt. Đấy là chân tướng sự thật, “Thật Tướng của các pháp” như trong Bát Nhă thường nói chính là nói về điều này. Bởi lẽ, Thể của Thật Tướng chẳng Tịch, chẳng Chiếu. Tịch là thanh tịnh tịch diệt, Chiếu là quang minh chiếu khắp. Nó có Tịch hay không? Có Chiếu hay không? Có! Nhưng xét trên Thể, Tịch và Chiếu đều ẩn, chẳng khởi tác dụng, nhưng vốn tự trọn đủ! Thứ ǵ cũng đều không có, nhưng quư vị chẳng thể nói là không có. Nó có, khi khởi tác dụng nó có thể sanh muôn pháp, nhưng quư vị chẳng thể nói nó là có, chẳng Tịch, chẳng Chiếu.

      “Nhi phục Tịch, nhi hằng Chiếu, Chiếu nhi hằng Tịch” (nhưng lại là Tịch mà luôn Chiếu, tuy chiếu nhưng luôn Tịch). Khi nó khởi tác dụng, xét theo Tướng, chúng ta nói là h́nh ảnh trên màn h́nh, Tịch nhưng hằng Chiếu, ẩn và hiện như nhau. Tịch là ẩn, Chiếu là hiện; tuy hiện, nhưng hiện mà thường Tịch. Tôi dùng hai chữ này để giảng cho mọi người dễ hiểu. Chúng ta có biết chân tướng sự thật này hay không? Đối với chân tướng sự thật này, ắt phải thật sự tham thấu triệt lời Di Lặc Bồ Tát đă giảng: “Trong một cái khảy ngón tay có ba mươi hai ức trăm ngàn niệm” th́ quư vị sẽ hiểu rơ hai câu này. Tịch mà hằng Chiếu, Chiếu mà hằng Tịch, thay đổi một chữ, nhưng ư nghĩa vẫn như vậy, thay bằng một chữ rơ nghĩa hơn để mọi người dễ hiểu hơn một chút: Tịch mà thường Chiếu, Chiếu mà thường Tịch. Hằng và Thường có cùng một ư nghĩa, dùng chữ Thường sẽ rơ nghĩa hơn một chút, mọi người sẽ dễ hiểu [ư nghĩa] “Tịch mà thường chiếu, tuy Chiếu nhưng thường Tịch”. Trong tất cả các hiện tượng, bất luận nhiễm hay tịnh, thiện hay ác, bất luận trong cảnh giới nào, quư vị vẫn chớ nên khởi tâm động niệm, khởi tâm động niệm là trật rồi! Khởi tâm động niệm đều chẳng thể được đương nhiên càng chớ nên có phân biệt, chấp trước. Có phân biệt là sai lầm to lớn; có chấp trước th́ càng sai lầm lớn hơn nữa. Đó là ǵ? Hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng! Quư vị có phân biệt, sẽ biến cơi Thật Báo thành cơi Phương Tiện, cơi Phương Tiện là tứ thánh pháp giới. Quư vị có chấp trước, sẽ biến cơi Phương Tiện thành cơi Đồng Cư, lại biến thành lục đạo luân hồi. Chẳng phải do ai khác làm, chẳng mảy may liên quan đến người khác. Chư vị phải biết: Chẳng dính dáng ǵ đến Phật, Bồ Tát, mà cũng chẳng dính líu Thượng Đế, mà cũng chẳng dính dáng đến vua Diêm La, chẳng liên can đến hết thảy các ngoại duyên. Ai làm? Do ư niệm của chính ḿnh quấy phá, đó là chân tướng sự thật, quư vị phải hiểu rơ ràng, hiểu minh bạch.

      Hết thảy chúng sanh ai nấy đều có phần nơi ba học vị tu học trong Phật pháp. Chỉ cần quư vị chẳng chấp trước hết thảy các pháp, chúc mừng quư vị đă đạt được học vị thứ nhất là A La Hán. Đạt được học vị này, lục đạo chẳng c̣n nữa, v́ sao? Lục đạo do chấp trước biến hiện, không có chấp trước sẽ chẳng có lục đạo. Không có phân biệt sẽ chẳng có tứ thánh pháp giới, sẽ chẳng có cơi Phương Tiện Hữu Dư, địa vị nâng cao lên thành Bồ Tát, Chánh Đẳng Chánh Giác. Tiến thêm bước nữa, không chỉ chẳng chấp trước, chẳng phân biệt, ngay cả khởi tâm động niệm cũng buông xuống, chúc mừng quư vị, quư vị lại tiến thêm bước nữa, đạt đến tột đỉnh, thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đạt được học vị tối cao là Phật Đà. Phật Đà giống như học vị Tiến Sĩ trong nhà trường hiện thời, Bồ Tát là học vị Thạc Sĩ, A La Hán là học vị Học Sĩ (Cử Nhân), quư vị đă thành tựu. Cả ba học vị ấy đều chưa đạt được, dẫu học Phật, dụng công cách nào đi nữa, quư vị chẳng thể thoát khỏi lục đạo luân hồi, biến toàn bộ những ǵ đă tu học thành phước báo thế gian, tương lai sẽ đi về đâu? Đến Dục Giới Thiên, Sắc Giới Thiên, Vô Sắc Giới Thiên để hưởng phước. Quư vị phải hiểu: Hưởng hết phước, nhưng c̣n có tội báo, chớ nên không biết [điều này]! Quư vị tạo những ác nghiệp, hưởng hết phước, tai họa sẽ xảy đến, nợ mạng phải đền mạng, thiếu nợ phải trả tiền. Chúng ta thật sự hiểu rơ ràng chân tướng sự thật này, chẳng c̣n nợ mạng chúng sanh nữa, quyết định chẳng sát sanh, chẳng gây thương tích, tổn hại chúng sanh, không c̣n chiếm tiện nghi của người khác, chẳng thiếu nợ. Nghèo hèn, khốn quẫn đến chết, vẫn cam tâm bằng ḷng chịu chết, vẫn không tham một chút tiện nghi, cũng chẳng đoạt lấy sanh mạng của chúng sanh để duy tŕ mạng sống của chính ḿnh, [nếu đoạt lấy] là sai rồi! Do lẽ nào? Thân chẳng phải là ta, thân có sanh diệt, linh tánh bất sanh bất diệt, ta phải chiếu cố linh tánh, chớ nên chiếu cố cái thân này, người hiểu rơ [sẽ làm như vậy]! Quyết định chẳng ích kỷ, tự lợi. Trong một đời người, đáng quư nhất là hiểu rơ, người đă hiểu rơ được gọi là “thánh nhân”. Người Hoa gọi [người đă hiểu rơ] là “thánh nhân”, người Ấn Độ gọi là Phật. Quư vị hăy nh́n vào ư nghĩa của chữ Phật, đó là chữ phiên âm, mang ư nghĩa là “giác giả”, tức bậc giác ngộ. Người Trung Quốc gọi [bậc giác ngộ] là “thánh nhân”, Thánh có nghĩa là ǵ? Người hiểu rơ, chẳng hồ đồ, đă hiểu rơ rồi! Phật chẳng mê hoặc, đă giác ngộ. A La Hán, Bồ Tát đều đă giác ngộ, nhưng chưa viên măn, đạt đến giác ngộ viên măn rốt ráo sẽ gọi là Phật. Chúng ta nhất định phải lư giải chính xác ư nghĩa của những danh từ này th́ học Phật mới học được này nọ, thụ dụng chân thật.

      “Chiếu nhi Tịch, cưỡng danh Thường Tịch Quang độ. Tịch nhi Chiếu, cưỡng danh thanh tịnh Pháp Thân” (Chiếu mà Tịch, cưỡng gọi là cơi Thường Tịch Quang. Tịch mà Chiếu, cưỡng gọi là Pháp Thân thanh tịnh). Tịch là Thể, Chiếu là tác dụng. Từ Dụng trở về Thể th́ gọi là “cơi Thường Tịch Quang”. Từ Thể khởi Dụng bèn gọi là “thanh tịnh Pháp Thân”. “Thân độ bất nhị, giai thuộc cưỡng danh” (Thân và cơi nước là một, [gọi là thân hay cơi nước] đều là gọi gượng ép), nó vốn không có tên, bất đắc dĩ miễn cưỡng đặt cho nó một danh xưng. V́ sao? Nhằm dạy học thuận tiện, chẳng phải là thật sự. V́ thế, Lăo Tử nói rất hay: “Danh khả danh, phi thường danh; đạo khả đạo, phi thường đạo”, phải hiểu đó là những danh từ thuật ngữ. Danh từ thuật ngữ chẳng phải là những thứ có thật, do dạy học thuận tiện mà giả lập. Ngàn vạn phần đừng coi những thứ giả bày là chân thật để rồi lại mê man nơi đó, mê nơi danh tướng. V́ thế, trong Khởi Tín Luận, Mă Minh Bồ Tát đă dạy chúng ta một tâm thái học tập, nhất định phải biết ĺa tướng ngôn thuyết, văn tự là phù hiệu [dùng để ghi chép] ngôn thuyết. Ly ngôn thuyết tướng, đừng nên phân biệt, chấp trước ngôn thuyết. Quư vị thấy những kinh điển của thánh nhân là những lời dạy từ chính miệng Thích Ca Mâu Ni Phật được ghi chép lại. V́ thế, văn tự là phù hiệu của ngôn thuyết. Đừng nên phân biệt, chấp trước ngôn thuyết, mà cũng chớ nên phân biệt, chấp trước văn tự. V́ thế, phải ĺa tướng văn tự. Tiến hơn bước nữa, không chỉ phải ĺa ngôn ngữ văn tự, mà c̣n phải biết ĺa tướng danh từ thuật ngữ. Những chữ Chiếu và Tịch [được nói đến ở đây] đều là danh từ thuật ngữ. Thân, cơi, Pháp Thân đại sĩ, Pháp Thân Phật đều là danh từ, đều nhằm thuận tiện biểu đạt pháp mà giả lập, chẳng có thật nghĩa trong ấy! Khiến cho chúng ta nghe, đọc, hiểu được ư nghĩa là được rồi, chớ nên chấp trước. Điều cuối cùng Mă Minh Bồ Tát dạy là “chớ nên chấp trước tướng tâm duyên”, tâm duyên là ǵ? “Nh́n vào văn tự, suy đoán ư nghĩa”. Ta đọc đến điều này, ta cảm thấy nó có ư nghĩa chi đó, sai rồi! Chẳng có ư nghĩa ǵ! Phải vĩnh viễn ghi nhớ: Bậc đại triệt đại ngộ chính ḿnh chẳng có ư nghĩ ǵ! Khi quư vị đọc, chính ḿnh nghĩ có ư nghĩa ǵ th́ đó là ư nghĩa của quư vị, chẳng liên quan ǵ đến Phật, Bồ Tát. Quư vị đă hiểu lầm ư nghĩa mất rồi!

      Khi nào quư vị nghe kinh, đọc kinh, đọc thấy trong ấy chẳng có ư nghĩa ǵ, quư vị sẽ hoảng nhiên đại ngộ, nó quả thật chẳng có ư nghĩa ǵ! Đó là chuyện ǵ vậy? Kinh Bát Nhă thường nói: “Bát Nhă vô tri”, quư vị tiếp cận Tánh Thể. Giống như chúng ta xem TV, quư vị dần dần hiểu rơ màn h́nh: Trong màn h́nh chẳng có ǵ cả, nó là bản thể của hết thảy các pháp. Hết thảy các pháp nương vào nó để biến hiện, h́nh ảnh trong hơn một trăm băng tần thảy đều là nương vào màn h́nh này để hiện ra. Nay quư vị hồi phục tự tánh, thứ ǵ cũng đều không có, Bát Nhă vô tri; nó khởi tác dụng th́ sao? Không ǵ chẳng biết. V́ thế, khi quư vị đạt đến vô tri, mới thật sự khởi tác dụng to lớn, không ǵ chẳng biết. Có cần phải học hay không? Chẳng cần học. Quư vị học th́ cái tri kiến [do học hành mà có] ấy sẽ là sai lầm, đó là tri thức. Trí huệ chân chánh, trong tâm địa sạch làu, như Huệ Năng đại sư đă nói: “Vốn tự thanh tịnh, vốn bất sanh diệt, vốn tự trọn đủ, vốn chẳng dao động”, khi khởi tác dụng “có thể sanh vạn pháp”, đó là trí huệ. Trí huệ là vô tri, không ǵ chẳng biết; tri thức là có biết, nên sẽ có điều chẳng biết, hoàn toàn tương phản. Nếu chúng ta coi kinh Phật như tri thức để nghiên cứu, quư vị đă đi sai đường mất rồi! Học Phật là cầu trí huệ, chẳng phải là cầu tri thức! Tri thức có thể giải quyết một phần nhỏ của vấn đề, sau đấy c̣n để lại cả đống hậu quả, trí huệ có thể giải quyết hết thảy vấn đề, chẳng để lại hậu quả!

Trí huệ nhất định phải đạt tới minh tâm kiến tánh. Muốn đạt tới minh tâm kiến tánh, quư vị phải buông tướng ngôn thuyết, tướng danh tự, tướng tâm duyên xuống. Chưa làm được th́ cứ tiến hành dần dần. Chưa đạt được, quư vị cứ học mỗi ngày như vậy, học lâu ngày sẽ đạt được. V́ thế, trong tám vạn bốn ngàn pháp môn của Phật pháp, đọc tụng là một pháp môn, mỗi ngày ta niệm kinh, niệm kinh là ǵ? Niệm kinh là tu Giới, Định, Huệ. Nương theo phương pháp ấy của Mă Minh Bồ Tát chính là tu Giới, Định, Huệ. Ta đọc bộ kinh này mất một giờ là mỗi ngày ta tu Giới, Định, Huệ một giờ, hoàn thành Giới, Định, Huệ một lần. Nương theo quy củ này để niệm, đó là tŕ giới. Y theo quy củ này là ĺa tướng văn tự, ĺa tướng danh tự, ĺa tướng tâm duyên, thật thà dùng cái tâm thanh tịnh để niệm kinh từ đầu đến cuối một lần, đấy là tŕ giới. Khi niệm quư vị cũng chẳng chấp trước, buông tướng văn tự xuống, danh từ thuật ngữ cũng buông xuống, cũng chẳng bận tâm nghĩ tới ư nghĩa trong kinh, đấy là Định. Quư vị thấy đó, quư vị đang tu Giới và tu Định. Niệm tới khi đủ biến số (số lần cần phải niệm), khi nào th́ đủ? Đủ là ǵ? Duyên phận của mỗi cá nhân khác nhau, tiêu chuẩn của mỗi cá nhân khác nhau. Thật sự ra, tiêu chuẩn chính là tâm thanh tịnh hiện tiền. Tâm thanh tịnh hiện tiền, tâm thanh tịnh khởi tác dụng là trí huệ, đó là tiểu ngộ, chẳng phải là đại ngộ, mà là tiểu ngộ, nhưng so với phàm nhân bất giác vẫn cao minh hơn. Từ tiểu ngộ, vẫn dùng phương pháp này, lại trải qua bao nhiêu năm đó, sẽ đại ngộ, v́ sao? Tâm b́nh đẳng hiện tiền. Lại qua bao nhiêu lâu sau nữa, sẽ đại triệt đại ngộ, quư vị sẽ trở thành Pháp Thân Bồ Tát, thành Phật, đó là ǵ? Giác rồi! Giác ấy là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, là thanh tịnh, b́nh đẳng, giác. Giác ấy là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. V́ sao? Nó là ba địa vị: Tâm thanh tịnh đắc Chánh Giác, tâm b́nh đẳng đắc Chánh Đẳng Chánh Giác, do vậy, địa vị cuối cùng là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Từ chỗ này, chư vị có thể thấu hiểu, có thể khẳng định, có thể tin sâu chẳng nghi ngờ: Do một bộ kinh này, phàm phu có thể thành tựu Phật quả viên măn, quư vị nói pháp môn này có thù thắng lắm hay không?

      Như vậy th́ quư vị có biết niệm kinh này hay không? Biết niệm th́ chúng ta từ địa vị phàm phu sẽ niệm tới Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, quư vị có hiểu hay không! Nếu vừa niệm vừa khởi vọng tưởng, xong luôn! Một mặt vẫn nghĩ ta thuộc cảnh giới ǵ? Ta nên nâng cao như thế nào? Xong rồi! Mă Minh Bồ Tát dạy chúng ta nguyên tắc ấy (ĺa tướng văn tự, ĺa tướng ngôn thuyết, ĺa tướng tâm duyên) là chân lư, vĩnh hằng không thay đổi. Tám vạn bốn ngàn pháp môn, môn nào cũng đều phải tuân thủ nguyên tắc này. Quư vị không tuân thủ nguyên tắc này, sẽ phạm lỗi, lỗi lầm do chính quư vị, không thể trách móc người khác. “Cố tri thân độ bất nhị, giai thuộc cưỡng danh. Tịch Chiếu đồng thời, phi tư lượng cảnh” (V́ thế, biết thân và cơi chẳng hai, đều thuộc cưỡng danh. Tịch và Chiếu đồng thời, chẳng phải là cảnh giới suy lường). Đừng nên suy nghĩ loạn xạ, hễ suy nghĩ loạn xạ là trật rồi. Có thời gian để suy nghĩ loạn xạ, sao không niệm A Di Đà Phật? Suy nghĩ loạn xạ cũng chẳng dễ ǵ trừ được; v́ thế, Tịnh Tông có diệu pháp, dùng một câu danh hiệu A Di Đà Phật để thay thế suy nghĩ loạn xạ, tốt đẹp hơn! Suy nghĩ loạn xạ, nếu chẳng đọa vô minh, sẽ đọa trạo cử (lao chao, tức suy nghĩ loạn xạ), luôn tạo nghiệp luân hồi, lục đạo luân hồi. Trong lục đạo chẳng t́m được một câu A Di Đà Phật này, bất cứ đường nào trong lục đạo cũng chẳng t́m được A Di Đà Phật, A Di Đà Phật ở Tây Phương Cực Lạc thế giới, chỉ cần tương ứng với nơi ấy, sẽ chẳng tương ứng với lục đạo và mười pháp giới, quư vị nhớ kỹ câu này là được rồi. “Trạo cử” là suy nghĩ loạn xạ, “hôn trầm” là muốn ngủ gà ngủ gật, tinh thần không dấy lên nổi; hôn trầm là vô minh. Hai thứ phiền năo ấy hiện tiền, quư vị hăy khéo niệm Phật, thật thà niệm Phật. Dùng phương pháp Niệm Phật để thay thế phiền năo.

      Lại xem tiếp đoạn dưới: “Hựu Thường Tịch Quang tam tự” (lại nữa, ba chữ Thường Tịch Quang), câu này vẫn do Ngẫu Ích đại sư viết trong Yếu Giải, ba chữ này “toàn hiển Niết Bàn tam đức Như Lai bí tạng” (hiển hiện toàn vẹn Niết Bàn tam đức Như Lai bí tạng). Trong kinh Bát Niết Bàn nói đến tam đức, tam đức ấy là bí tạng của Như Lai, ba đức nào vậy? Tiếp theo là: “Thường tức Pháp Thân đức, Pháp Thân thường trụ cố” (Thường là đức của Pháp Thân, v́ Pháp Thân thường trụ). V́ thế, một người giác ngộ, sẽ không coi thân này là cái thân của chính ḿnh, ǵ mới là thân của chính ḿnh? Hết thảy các pháp đều là thân của chính ḿnh. Tâm hiện, tâm là chính ḿnh, thức biến, thức cũng là chính ḿnh. Tâm là chân tâm của chính ḿnh, thức là vọng tâm của chính ḿnh. Chân tâm là bổn tánh của chính ḿnh. Vọng tâm là A Lại Da, là tập tánh của chính ḿnh. Cổ nhân Trung Quốc nói “bổn tánh, tập tánh”, Phật pháp nói “chân tâm, vọng tâm”. Chân tâm là bổn tánh, vọng tâm là tập tánh, chân và vọng là một, không hai. Giác ngộ rồi th́ vọng là chân; lúc mê, chân là vọng, chân và vọng là một, không hai. Giác và mê cũng là một, cũng chẳng hai. Người thật sự giác ngộ, người minh tâm kiến tánh, thân của người ấy là ǵ? Thân của hết thảy chúng sanh là thân của người ấy, thân của hoa, cỏ, cây cối cũng là thân người ấy, núi, sông, đại địa cũng là thân người ấy. Khắp pháp giới hư không giới đều là thân của người ấy, thân người ấy không đâu chẳng tồn tại, không lúc nào chẳng hiện diện. Tuy nó có sanh diệt, diệt rồi lại sanh, giống như ǵ? Thân thể của chúng ta giống như nhau; thân thể này có bao nhiêu tế bào? Mỗi tế bào này đổi cũ thay mới mỗi ngày, giống như sinh vật trên địa cầu, mỗi ngày có sanh và diệt. Đức Phật giảng: Vô lượng vô biên các cơi Phật trong toàn thể vũ trụ sanh diệt vĩnh viễn chẳng ngừng trong ấy, nên gọi là “Pháp Thân thường trụ”. Chúng ta sánh ví thân ấy như Pháp Thân, Pháp Thân thường trụ. Cái thân của chúng ta giống như tế bào, các khoa học gia nói mỗi tế bào có tuổi thọ tối đa là bảy năm. Trong bảy năm, tế bào này diệt, tế bào mới lại sanh ra. Do vậy, nói thật ra, thân thể của chúng ta, bảy năm là một chu kỳ, tất cả các tế bào trên thân đều thay đổi. Chúng ta mê hoặc, điên đảo, v́ sao? Bảy năm đổi một lần, v́ sao chẳng đổi mới, chẳng đổi lấy cái tốt, cứ phải lấy cái già nua, hư hoại, thân thể càng đổi càng tệ hơn! Đó là ǵ? Chẳng biết cách! Người giác ngộ cao minh, cũng đổi mỗi ngày, do giác ngộ nên toàn là đổi lấy tốt đẹp, khỏe mạnh, người ấy chẳng sanh bệnh, chẳng suy lăo. V́ sao? Người ấy đổi lấy sự tốt đẹp, chẳng đổi lấy thứ hư xấu. Ai chủ tŕ sự thay đổi trong ấy? Ư niệm. Ư niệm của Phật, Bồ Tát tốt đẹp, cho nên tế bào của các Ngài hoàn toàn mới. Hoàn toàn mới là do ư niệm trẻ trung, luôn khỏe mạnh, chẳng ngă bệnh, chẳng đổi lấy tế bào bệnh tật? Tế bào bị bệnh tật là hạng người nào? Tham, sân, si mạn, nghi, nên đổi lấy cái xấu. Tham, sân, si, mạn, nghi thảy đều đoạn sạch, vô tham, vô sân, vô si, bèn thay đổi lấy cái tốt lành, hoàn toàn thay đổi bằng cái tốt lành, chuyện là như thế đó! Đấy là chân tướng sự thật. Khởi tâm động niệm đều là đại công vô tư, chẳng v́ chính ḿnh, chẳng v́ thân này, v́ sao? V́ Pháp Thân. Chẳng v́ nhục thân này, mà v́ Pháp Thân!

      Trong những năm qua, có rất nhiều người muốn tặng đạo tràng cho tôi, tôi rất cảm kích. Tôi có nên tiếp nhận hay chăng? Chẳng nghĩ v́ ḿnh. Nếu đạo tràng ấy có thể lợi ích nơi đó, tôi sẽ giúp sức, khiến cho chánh pháp tồn tại lâu dài nơi đó, lợi ích xă hội, lợi ích chúng sanh, chuyện tốt đẹp mà! Tôi chẳng thể v́ chính ḿnh, v́ chính ḿnh là tư tâm. Đạo tràng nhiều, chẳng phải là biến thành giống như một chuỗi cửa hàng hay chăng? Đó là mở tiệm buôn Phật, biến thành xí nghiệp Phật giáo, chính ḿnh chẳng làm đệ tử Như Lai, mà làm ông chủ, trật mất rồi, lại mê rồi! V́ thế, người b́nh thường sẽ thấy đó là cảnh giới tốt, chuyện tốt đẹp, thấy người khác trao tặng mà nếu quư vị mê, sẽ mê nơi đó, càng mê sâu hơn! Quư vị vốn có thể thành Phật, làm Tổ, nay đă mê, lại luân hồi, lại vào tam đồ. V́ thế, tổ sư thường xuyên cảnh tỉnh người khác, mà cũng thường là trong lúc khám nghiệm kẻ khác, bèn hỏi: “Hiểu không?” Hai chữ này ư vị sâu dầy, quư vị có hiểu hay không? Nếu quư vị thật sự hiểu, bất luận thuận cảnh hay nghịch cảnh, uế độ hay Tịnh Độ, đều có thể nâng cao cảnh giới của chính ḿnh, đều có thể phổ độ chúng sanh. Nếu không hiểu, thuận cảnh hay nghịch cảnh đều giúp quư vị đọa lạc, mê hoặc, tạo nghiệp. Tạo nghiệp th́ sau này phải chịu báo. Vấn đề ở chỗ quư vị có hiểu hay không? Quư vị có thật sự giác ngộ hay không? Người giác ngộ chắc chắn chẳng hại người; kẻ chưa giác ngộ, dẫu hảo tâm cũng thường hại người.

    Đối với bất cứ ai, kẻ giác ngộ luôn một mực chân thành, v́ sao? Giúp kẻ khác giác ngộ. Nếu kẻ ấy rắp tâm muốn lừa gạt, muốn hại quư vị, chẳng sao hết, quư vị cứ dùng tâm chân thành đối đăi kẻ ấy. Khi kẻ ấy già chết, nghĩ lại, một đời này, ta đă thật sự gặp được người tốt. Đó là ǵ? Giúp gieo thiện căn trong A Lại Da của kẻ ấy. Người giác ngộ biết hết thảy chúng sanh đều có Phật Tánh, hết thảy chúng sanh vốn là Phật, nay kẻ ấy tạo Ngũ Nghịch, Thập Ác cũng chẳng sao, v́ sao? Đó là tập tánh. Đừng quan tâm tới tập tánh, hăy chuyên môn quan tâm bổn tánh của người ấy; đó là điều kiện thứ nhất trong việc độ chúng sanh của Phật, Bồ Tát, là quan niệm độ sanh duy nhất của Phật, Bồ Tát. Chúng sanh trong địa ngục A Tỳ cũng có thể viên thành Phật đạo. Nếu họ tiếp xúc pháp môn Tịnh Độ này, có thể văng sanh hay không? Có thể! Làm sao mà không thể cho được? Pháp môn này, bất luận quư vị là thiện hay ác, cũng chẳng cần biết quư vị thuộc căn tánh nào, chỉ cần quư vị có thể tin tưởng, chịu phát nguyện, là được rồi. Ngẫu Ích đại sư nói rất hay: Có thể văng sanh hay không, được quyết định bởi có tín nguyện hay không? Phẩm vị cao hay thấp là do công phu niệm Phật sâu hay cạn! Chỉ nói tới văng sanh th́ hết thảy chúng sanh đều có phần, pháp môn này thật là tuyệt, quá sức thù thắng! Ấn Quang đại sư nói rất hay: “Bỏ pháp môn này, người thượng thượng căn mong được thành tựu cũng vô cùng khó khăn!” Đối với pháp môn này, tin sâu không nghi ngờ, chúng sanh chẳng biết chữ, thiếu trí huệ, nghèo cùng, khốn khó vẫn có thể đắc độ. Quư vị mới hiểu trong các pháp thế gian và xuất thế gian, chẳng có pháp nào thù thắng hơn pháp này.

      Chúng ta duyên phận quá tốt đẹp, vô cùng thù thắng, gặp được bản hội tập của cụ Hạ Liên Cư hay như thế này. Vương Long Thư chẳng gặp được, Ngụy Mặc Thâm cũng chẳng gặp, bao nhiêu vị cổ thánh tiên hiền đều chẳng gặp! Lại gặp được lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ viết tác phẩm Chú Giải này, trong ấy, cụ trích dẫn kinh luận và chú sớ của cổ nhân, tổng cộng một trăm chín mươi ba thứ! Quư vị đọc quyển sách này giống như đọc một trăm chín mươi ba bộ kinh, luận, trước tác, chẳng dễ dàng! Nhân duyên vô cùng thù thắng. Do vậy, tôi tin tưởng sâu đậm không nghi ngờ, khi Phật pháp bị diệt hết trên thế gian này, bản này vẫn lưu lại một trăm năm. Trong chín ngàn năm thời Mạt Pháp, trong tám vạn bốn ngàn pháp môn, quư vị nương theo pháp môn nào? Chỉ có pháp môn này. Ta giúp hết thảy chúng sanh học pháp môn ǵ? Cũng học pháp môn này, tự hành, dạy người bằng một bộ kinh Vô Lượng Thọ này. Tôi vẫn c̣n muốn học pháp môn khác? Được thôi! Thông suốt pháp môn này, sẽ thông suốt toàn bộ hết thảy các pháp môn khác. Tôi có cần phải lăng phí thời gian và tinh thần để học bộ nào khác hay chăng? Không cần! Phật pháp thật sự là “một kinh thông, hết thảy các kinh đều thông!”

      Năm xưa, tôi ở Đài Trung, theo học lớp giảng kinh của cụ Lư. Cụ mở lớp ấy để dạy học sinh học cách giảng kinh, các bạn đồng học trong lớp ấy có hơn hai mươi người. Thuở ấy, tôi tuổi trẻ, thầy cũng đại khai phương tiện môn. Tôi học từ cụ mười ba bộ kinh, kinh Tiểu Thừa nhiều hơn. Đối với kinh Đại Thừa, tôi học một bộ kinh A Di Đà, một bộ Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh Nguyện Phẩm, đó là quyển cuối cùng [trong kinh Hoa Nghiêm], mười đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc, học một quyển này, học một bộ kinh Kim Cang, học những kinh Đại Thừa ấy. Những kinh khác như Thập Thiện Nghiệp Đạo là kinh cùng tu của Đại Thừa lẫn Tiểu Thừa, A Nan Vấn Sự Phật Cát Hung Kinh là Tiểu Thừa, học mười ba bộ ấy. Tôi xuất gia, đến dạy tại Phật Học Viện. Ở Đài Trung, tiến độ (tốc độ tiến triển) [học tập] là mỗi tháng học một bộ kinh, pháp hỷ sung măn. Đến dạy tại Phật học viện, mỗi học kỳ mới dạy một bộ kinh, ba năm là sáu học kỳ, tôi dạy sáu bộ kinh, c̣n bảy bộ vẫn chưa sử dụng được. Tôi suy nghĩ: Không được rồi, căn bản của chính ḿnh không đủ sâu dày, mong được học một bộ kinh lớn. Lúc ấy, trong ḷng nghĩ đến kinh Pháp Hoa; v́ thế, tôi sưu tập tài liệu về kinh Pháp Hoa đến mười mấy thứ. Trở về Đài Trung, thưa với thầy Lư, mong lại được học một bộ đại kinh với thầy. Gặp đúng lúc lăo nhân gia đang giảng kinh Lăng Nghiêm, Ngài bảo tôi Ngài bận bịu lắm việc, t́m không ra thời gian để dạy ḿnh tôi, “nay tôi đang giảng Lăng Nghiêm, anh học kinh Lăng Nghiêm là được rồi!” Cụ giảng kinh Lăng Nghiêm ba năm. Tôi thấy phân lượng [kinh Lăng Nghiêm và kinh Pháp Hoa] không sai khác lắm, cho nên tôi chuyên tâm học kinh Lăng Nghiêm. Thầy giảng ngày thứ Tư, tôi phức giảng (複講: giảng lại, nhắc lại) vào ngày thứ Năm, tức là hôm sau, tôi nhắc lại lời thầy đă giảng một lần. Thính chúng của tôi có sáu người, kể cả tôi là bảy, chúng tôi thành lập một lớp nhỏ. Mỗi ngày thứ Năm, họp mặt phức giảng trong pḥng học nhỏ ở Đài Trung Liên Xă. Do thầy giảng bộ Lăng Nghiêm, tôi cũng phức giảng bộ Lăng Nghiêm, cách học ấy rất thực tiễn. V́ thế, tôi giảng kinh Lăng Nghiêm ở Đài Bắc là giảng lần thứ hai. Các đồng tu Hương Cảng nghe giảng rất thích, mời tôi sang Hương Cảng giảng kinh Lăng Nghiêm, tôi giảng tại Hương Cảng chính là lần thứ ba hay là thứ tư, đă có căn bản rồi!

       Kinh Hoa Nghiêm là do tám người đồng học chúng tôi liên danh khải thỉnh thầy Lư, thỉnh lăo nhân gia giảng bộ kinh Hoa Nghiêm này. Lúc ấy, tuổi thầy đă cao, ngoài tám mươi, chúng tôi mong thầy thường trụ thế. Chưa giảng xong kinh Hoa Nghiêm, chắc là cụ sẽ chẳng tiện ra đi. Thỉnh cụ giảng bộ kinh ấy, dự đoán cụ sẽ sống tới một trăm hai mươi tuổi th́ cụ mới có thể giảng xong. Trao cho thầy một đề mục lớn như vậy, cụ cũng rất cao hứng, chẳng ngờ cụ giảng phân nửa, chẳng giảng nữa, đă ra đi. Tôi học Hoa Nghiêm, ở Đài Trung nghe cụ giảng quyển thứ nhất, tôi chỉ học một quyển. Quyển thứ nhất, tôi nghe xem cụ mở đầu như thế nào, cách giảng ra sao, tôi sẽ biết toàn bộ những phần sau. Cụ giảng ở Đài Trung, tôi giảng ở Đài Bắc. Tôi giảng với tiến độ nhanh hơn cụ, v́ mỗi tuần cụ chỉ giảng một lần, [mỗi lần] một giờ, v́ cụ giảng hai giờ th́ đă mất một giờ dịch sang Đài ngữ. V́ thế, một năm cụ chỉ có thể giảng hơn bốn mươi giờ. Tôi giảng tại Đài Bắc, mỗi tuần giảng ba lần, mỗi lần một tiếng rưỡi, không có phiên dịch. Cho nên tôi giảng một năm bằng thầy giảng bốn năm rưỡi tại Đài Trung, tôi giảng hai năm bằng với thầy giảng chín năm, tiến độ của tôi nhanh hơn. Bất quá, lúc ấy, tôi thường ra ngoại quốc, ra ngoại quốc th́ phải ngưng kinh ấy lại, cho nên cứ gián đoạn, rồi lại tiếp tục. Tôi nhớ h́nh như giảng trước sau mười bảy năm, đứt đứt, nối nối. Bát Thập Hoa Nghiêm giảng phân nửa, Tứ Thập Hoa Nghiêm cũng giảng phân nửa. Lúc ấy, mỗi tuần tôi giảng Bát Thập hai lần, giảng Tứ Thập một lần. Giảng mỗi ngày, gần như giảng tới mấy bộ kinh. Chính là do các đồng học t́m đến, tôi cũng nhận lời; đâm ra là luyện tập, học giảng. B́nh quân mỗi ngày giảng tối thiểu hai giờ, thông thường là ba giờ hay bốn giờ, hằng ngày chẳng nghỉ ngơi, vui sướng, chẳng mệt nhọc. Do vậy, thông suốt một kinh sẽ thông suốt hết thảy các kinh, chưa học qua nhưng có thể giảng, đọc chú giải của cổ nhân là được rồi. V́ thế, công sức nhất định phải dồn nơi một bộ. Khi ấy, ở Đài Trung, tôi bỏ thời gian ba bốn năm nơi kinh Lăng Nghiêm, chuyên tâm nơi một bộ kinh, như vậy th́ mới đặt vững cơ sở.

      Nếu nay quư vị hỏi tôi, trong hết thảy các kinh, bộ kinh nào hay nhất? Tôi bảo quư vị: Chính là bản chúng ta đang dùng đây, tức bản chú giải Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh của lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ. Tôi vừa mới thưa tŕnh cùng quư vị, trong tác phẩm này, cụ đă trích dẫn một trăm chín mươi ba bộ kinh, luận, chú sớ, nội dung hết sức phong phú. Nếu thật sự học bộ kinh này, kinh nào cũng đều không có vấn đề, thông một sẽ thông suốt hết thảy. Hơn nữa, do bộ kinh này, chắc chắn sẽ đắc độ. Chính ḿnh nắm chắc cầu sanh thế giới Cực Lạc rồi mới giúp đỡ người khác. Giúp người khác, vẫn là dùng một bộ kinh này, v́ sao? Khế cơ! Những kinh luận khác chưa chắc có thể giúp đỡ người khác, cũng có thể nói là quư vị có thể thật sự buông xuống được hay không? Thật sự có thể buông xuống th́ được. Nếu quư vị chẳng buông phân biệt, chấp trước xuống, bất luận học pháp môn nào cũng chẳng thoát khỏi lục đạo luân hồi. Trong tâm c̣n có đôi chút [vướng mắc] sẽ không thoát khỏi lục đạo luân hồi; hễ chuyển thế, bị mê khi cách ấm, quên sạch sành sanh những điều đă học trong kiếp trước. Nhất là quư vị chẳng thoát khỏi lục đạo luân hồi, chắc chắn sẽ đọa trong tam ác đạo. Chính quư vị phải khéo suy nghĩ, Ngũ Giới, Thập Thiện quư vị có làm được hay chăng? Tổ tông dạy chúng ta Ngũ Luân, Ngũ Thường, Tứ Duy, Bát Đức, quư vị có làm được hay không? Nếu quư vị chẳng làm được, đời sau chắc chắn không được làm thân người, nghĩ đến chỗ này, mới biết thật sự đáng sợ. Một đời trong thế gian này chẳng dài, dẫu quư vị sống đến trăm tuổi, cũng chỉ là một cái khảy ngón tay, thời gian trôi qua quá nhanh, chẳng thành tựu một chuyện ǵ! Đối với chuyện học Phật mà chẳng thành tựu tức là tạo tội nghiệp, nói như vậy nghĩa là sao? Tôi chẳng làm chuyện ǵ sai quấy! Quư vị chẳng học thành công, khiến cho đại chúng trong xă hội nh́n vào, thấy quư vị học Phật suốt một đời, nhưng sau đấy vẫn giống hệt như cũ, [như vậy là] quư vị đă phá hoại h́nh tượng Phật pháp, có tội lỗi hay chăng? Người học Phật sống trên thế gian, khi chết cũng phải nêu gương tốt cho người thế gian, như thế th́ mới chẳng có tội lỗi. Quư vị không thể nêu gương tốt cho đại chúng trong xă hội nh́n vào, khiến cho đại chúng trong xă hội chửi bới, hủy báng Phật giáo, đấy là nghiệp nhân khiến quư vị đọa tam đồ, chứ chưa nói tới những chuyện khác! Nếu quư vị muốn biết đôi chút, hăy lật Đệ Tử Quy hoặc Sa Di Luật Nghi ra xem, quư vị đă làm được mấy điều? Quư vị liền biết nghiệp nhân quả báo ở chỗ nào, chẳng cần hỏi ai khác, [mà chính ḿnh] sẽ hiểu rơ rệt. Người học Phật phải xứng đáng với cha mẹ, tổ tông, Phật, Bồ Tát, chẳng phụ ḷng lịch đại cao tăng đại đức truyền pháp. Chúng tôi không nói đến thầy, v́ hiện thời trong ḷng chúng ta, những [người mà quư vị nghĩ xứng đáng] làm thầy quá ít. Nhưng nếu trong ḷng chẳng thấy ai đáng làm thầy, người ấy sẽ chẳng học được ǵ cả! V́ sao? Ấn Quang đại sư đă nói rất tuyệt: “Một phần thành kính được một phần lợi ích, hai phần thành kính được hai phần lợi ích, mười phần thành kính được mười phần lợi ích”. Thầy chẳng cần quư vị phải thành kính đối với thầy, một vị thầy đ̣i hỏi quư vị phải cung kính sẽ chẳng phải là một vị thầy tốt! Nhưng thầy có thể thấy quư vị có thể thành tựu trong tương lai hay không, đó là ǵ? Tùy thuộc tâm quư vị được bao nhiêu phần thành kính học tập ở nơi đây, điều đó nhất định tỷ lệ thuận với sự thành tựu của quư vị.

      Chúng ta lại xem tiếp về Tam Đức Bí Tạng, Thường là Pháp Thân. “Tịch tức Giải Thoát đức”, Giải Thoát là tự tại, “trần lao vĩnh tịch” (trần lao vĩnh viễn dứt bặt). “Trần” () là ư thức, phân biệt, vọng tưởng của quư vị nhiều như bụi đất, Trần cũng là ô nhiễm. “Lao” () là nhọc nhằn, đây là nói tới xác thân. [Trần lao] cũng có nghĩa là thân tâm, Lao là nói về thân, Trần là nói về tâm. [“Trần lao vĩnh tịch” là] thân và tâm đều buông xuống, tâm thanh tịnh hiện tiền. Tâm thanh tịnh hiện tiền, quư vị mới tự tại. Do A La Hán chưa chứng đắc Pháp Thân và Bát Nhă, nhưng đă chứng đắc ít phần Giải Thoát, thành tựu Cửu Thế Đệ Định, buông Kiến Tư phiền năo xuống, đoạn trừ rồi. “Quang tức Bát Nhă đức, trí quang biến chiếu cố” (Quang chính là Bát Nhă đức, v́ trí quang chiếu trọn khắp). Quang ấy là đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, trí huệ và từ bi trọn khắp pháp giới, trọn khắp hết thảy các vi trần, trọn khắp hết thảy các đầu sợi lông. Do vậy, Thường Tịch Quang là ba đức của Niết Bàn, ba đức ấy được gọi là Như Lai Bí Tạng. “Đẳng Giác đại sĩ phá tận tứ thập nhất phẩm vô minh” (Đẳng Giác đại sĩ phá sạch bốn mươi mốt phẩm vô minh), bốn mươi mốt phẩm ấy chính là Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác như kinh Hoa Nghiêm đă nói. “Cánh phá tối hậu nhất phẩm sanh tướng vô minh” (lại phá một phẩm sanh tướng vô minh cuối cùng), đó là Đẳng Giác. Đẳng Giác Bồ Tát phá một phẩm sanh tướng vô minh cuối cùng. “Pháp Thân toàn hiển, viên chứng tam đức, triệt bổn tâm nguyên, cứu cánh thanh tịnh, chứng nhập Thường Tịch Quang độ” (Pháp Thân hiển lộ toàn vẹn, chứng trọn vẹn ba đức, thấu suốt tột cùng nguồn tâm, rốt ráo thanh tịnh, chứng nhập cơi Thường Tịch Quang). Ở đây gọi “sanh tướng vô minh” là “tập khí”. Vô minh là khởi tâm động niệm. Sơ Trụ Bồ Tát đă phá, Sơ Trụ Bồ Tát chẳng khởi tâm, không động niệm, nên minh tâm kiến tánh.

      Bốn mươi mốt địa vị [Pháp Thân đại sĩ] ấy có thật hay không? Nếu có thật, tức là các Ngài c̣n có phân biệt, chấp trước. Nếu các Ngài chẳng phân biệt, chẳng chấp trước, lấy đâu ra bốn mươi mốt phẩm? Thưa quư vị, trong cơi Thật Báo, quả thật chẳng có phân biệt, chấp trước, cho nên chẳng thể nói bốn mươi mốt phẩm này là có thật. Nếu quư vị nói chúng có thật, trật mất rồi! Quư vị cũng chẳng thể nói chúng không có, v́ sao? Tuy đều chứng đến cơi Thật Báo, mỗi cá nhân có tŕnh độ khác nhau. Giống như chúng đi học trong trường, cùng lớp, nhưng tŕnh độ có ngang nhau hay không? Cùng một cấp lớp, lớp học có bốn năm chục học tṛ, lúc thi cử vẫn là từ hạng nhất tới hạng bét, khác nhau, tuy [cùng học] một lớp. Các bạn đồng học cùng một lớp trong cơi Thật Báo, đi thi vẫn khác nhau, do duyên cớ ǵ? Tập khí vô thỉ vô minh chưa đoạn, trong hội Hoa Nghiêm chúng tôi đă nói rất nhiều, đó là chân tướng sự thật. V́ thế, chẳng thể nói chúng là có, cũng chẳng thể nói chúng là không, biết có chuyện như thế; nhưng Pháp Thân Phật rốt ráo viên măn có thể làm chuyện ǵ th́ hàng Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo cũng đều có thể làm được, nhất định chẳng thua kém, quư vị biết đó là b́nh đẳng. Giống như trong phẩm Phổ Môn đă dạy: Phật quả rốt ráo, Đẳng Giác Bồ Tát ứng hóa trong mười pháp giới, nên dùng thân ǵ để độ bèn hiện thân ấy. Chẳng do ư nghĩ của chính ḿnh, mà do tùy thuận chúng sanh. Kinh Lăng Nghiêm đă nói rất hay: “Tùy chúng sanh tâm, ứng sở tri lượng” (thuận theo tâm chúng sanh mà ứng hiện với khả năng nhận biết của họ), tùy tâm ứng lượng! Chính ḿnh chẳng khởi tâm động niệm, đương nhiên càng chẳng có phân biệt, chấp trước. Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo vừa mới phá vô minh, chứng Pháp Thân, cũng có thể làm giống hệt, nên dùng thân ǵ đắc độ bèn hiện thân ấy, nên dùng thân Phật để độ bèn hiện thân Phật, nên dùng thân Bồ Tát liền hiện thân Bồ Tát, như nhau! Chẳng sai biệt tí nào, chúng ta nhất định phải hiểu sự thật này, nhất định phải rơ ràng, không nên phân chia cao thấp!

      Trong mười pháp giới đều là phàm phu, trong tứ thánh pháp giới là ngoại phàm, trong lục đạo là nội phàm. V́ sao tứ thánh pháp giới thanh tịnh? V́ các Ngài đều là đệ tử Phật, đều y theo kinh giáo của Phật để tu hành, Phật dạy người ấy làm như thế nào, người ấy thật sự có thể làm được; Phật dạy người ấy đừng làm điều ǵ, người ấy sẽ tuyệt đối chẳng vi phạm. V́ thế, nh́n bề ngoài rất giống Phật, nhưng trên thực tế chưa phải, v́ sao? Vẫn c̣n dùng A Lại Da, tức vọng tâm, chẳng dùng chân tâm. Dùng chân tâm mới là Phật, dùng vọng tâm th́ chẳng phải là Phật thật sự. V́ thế, Thiên Thai đại sư gọi họ là Tương Tự Tức Phật, rất giống Phật, nhưng chưa phải. Chúng ta hiểu điều này! Phá một phẩm vô minh, chứng một phần Pháp Thân, vị ấy là chân Phật, chẳng phải là giả Phật, cho nên Thiên Thai đại sư gọi bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ ấy là Phần Chứng Tức Phật, các Ngài là thật, chẳng giả. Không có cách nào đoạn tập khí vô thỉ vô minh, để mặc nó, một thời gian lâu sau, nó sẽ tự nhiên chẳng c̣n. Đối với chỗ này, cổ đức gọi là “vô công dụng đạo”, v́ sao? Chẳng thể khởi tâm động niệm, quư vị muốn đoạn tức là khởi tâm động niệm, trật rồi, càng mê sâu hơn! V́ thế, các Ngài niệm ǵ cũng đều chẳng có, ư niệm tu hành chứng quả cũng chẳng có. Chuyện của các Ngài là cảm ứng, chúng sanh có cảm, các Ngài bèn ứng. Nói cách khác, nâng cao cảnh giới của chính ḿnh trong sự ứng hóa, đó là ǵ? Phá tập khí vô thỉ vô minh của chính ḿnh trong ứng hóa. Cảnh giới này quá vi tế, chúng ta không có cách nào tưởng tượng được cảnh giới ấy! Kinh Hoa Nghiêm đă tiết lộ đôi chút tin tức, đó là từ năm mươi ba lần tham học của Thiện Tài đồng tử đă hé lộ đôi chút tin tức. Quư vị thấy từ Sơ Trụ trở lên, Thiện Tài đồng tử đến tham phỏng, hoàn toàn biểu hiện sự ứng hóa nơi sự tướng. Nếu chẳng chú tâm nơi điều này, quư vị sẽ chẳng thể lănh hội được! Từ văn tự, quư vị thấy là Sự, nhưng trong ấy có đạo lư rất sâu. Quư vị phải tự ḿnh ngộ nhập đạo lư ấy, chẳng thể nói rơ được! Quư vị có công phu thật sự, sẽ ngộ nhập cảnh giới khác hẳn!

      Tối qua có một đồng tu cho tôi xem một đĩa DVD về chuyện người ngoại quốc làm thí nghiệm với nước. Họ phát hiện nước có kư ức, cảm thấy vô cùng kinh ngạc. Đối với chúng ta, tin tức ấy rất b́nh thường, chẳng đáng kinh ngạc tí nào. Điều đó chứng tỏ trong hiện tượng vật chất có Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Tiến sĩ Giang Bổn Thắng làm thí nghiệm, [đă khám phá] nước có thể thấy, nghe, hiểu được ư nghĩ của con người, có phản ứng, cho nên nước có giác tri. Đó là Tánh Đức, tự tánh vốn là như thế. Nhưng sự thấy biết trong lục đạo là mê; lục đạo và mười pháp giới đều đang mê, chúng bị biến thành A Lại Da. Biến thành A Lại Da th́ kiến văn giác tri cũng biến đổi, biến thành Thọ, Tưởng, Hành, Thức, Tâm Kinh gọi chúng là Ngũ Uẩn. Bất luận hiện tượng vật chất ǵ cũng đều do Ngũ Uẩn hợp thành, đó là các duyên ḥa hợp. Do vậy, chúng ta thấy nước có Thọ, Tưởng, Hành, Thức, nó có cảm nhận, có phân biệt, Tưởng là phân biệt; nó có chấp trước, Hành là chấp trước; nó có kư ức, Thức là kư ức. Bất quá, chẳng rơ rệt như động vật. Dùng khoa học rất vi tế để quan sát, sẽ phát hiện nước có Thọ, Tưởng, Hành, Thức, điều này hoàn toàn giống hệt như kinh Đại Thừa đă nói. V́ thế, nói theo Đại Thừa Phật pháp, toàn thể vũ trụ kể cả hư không và các hiện tượng tự nhiên thảy đều là thể hữu cơ (Organism), sống động, chẳng chết cứng. Trong vật chất có tinh thần, trong tinh thần có vật chất, kinh Hoa Nghiêm đă giảng rất nhiều. V́ thế, đối với hoàn cảnh vật chất chớ nên phá hỏng nó, chớ nên khinh dễ, phải đối đăi tử tế đối với núi, sông, đại địa. Quư vị chẳng khéo đối đăi nó, nó có kư ức, sẽ căm hận. Quư vị phá hoại chúng, chúng cũng phá hoại quư vị. Quả núi vừa lay động, quư vị đă chịu không nổi, thật đấy, chẳng giả đâu! Chúng ta đối đăi hết thảy động vật, hoa, cỏ, cây cối, núi, sông, đại địa, vi trần, đều phải giống như đối xử với Phật, Bồ Tát. Chính ḿnh khiêm ty, lễ kính người khác. Chúng ta đối xử tốt đẹp với chúng, chúng sẽ báo đền đẹp đẽ. Nh́n từ chỗ nào? Trong thế giới Cực Lạc, trong thế giới Hoa Tạng.

    Quư vị thấy v́ sao cơi Thật Báo của chư Phật tốt đẹp dường ấy? Nơi ấy là chỗ ở của bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ. Quư vị nghĩ xem có vị nào trong các hàng Pháp Thân đại sĩ thuộc bốn mươi mốt địa vị lại chẳng học theo ngài Phổ Hiền? Phẩm thứ hai trong kinh Vô Lượng Thọ là “Đức Tuân Phổ Hiền”. Nguyện thứ nhất trong mười nguyện Phổ Hiền Bồ Tát là lễ kính chư Phật, [nguyện thứ hai là] xưng tán Như Lai, Như Lai là tự tánh. Đối với muôn vật trong trời đất, chúng ta phải khen ngợi, lễ kính, cúng dường, nghiêm túc tu hành th́ chính là cúng dường chúng nó. Chúng ta đối xử tốt đẹp với chúng nó, chúng nó sẽ đối xử tốt đẹp với ta. V́ sao thế giới Cực Lạc tốt đẹp như thế? Thế giới Hoa Tạng tốt lành như vậy? Do người nơi ấy đều dùng tâm chân thành, tâm thanh tịnh, tâm b́nh đẳng, tâm chánh giác, tâm từ bi, những tâm ấy là Đại Bồ Đề tâm, thực hiện viên măn mười nguyện Phổ Hiền. V́ thế, đối với bản thân mà nói th́ sẽ là thân Kim Cang bất hoại, thân thể có tướng hảo, có vô lượng tướng, trong mỗi tướng có vô lượng hảo, chẳng phải chỉ là ba mươi hai tướng, tám mươi thứ hảo. Hoàn cảnh cư trụ vô lượng vô tận mỹ măn, t́m chẳng được mảy may khiếm khuyết nào, xứng tánh mà! Thân là Pháp Tánh thân, cơi là Pháp Tánh độ, chúng ta chớ nên không biết điều này.

      V́ thế, trong cơi Thật Báo, hiển lộ toàn vẹn Pháp Thân, trong cơi Thường Tịch Quang, c̣n có ǵ để nói nữa? Rốt ráo viên măn. “Viên chứng tam đức, triệt bổn tâm nguyên, cứu cánh thanh tịnh” (Chứng trọn vẹn ba đức, thấu suốt tột cùng nguồn tâm, rốt ráo thanh tịnh), mấy câu này viết ở chỗ này khiến cho chúng ta dần dần thấu hiểu trong cơi Thường Tịch Quang không có h́nh tướng, cũng chẳng có hiện tượng vật chất, cũng chẳng có hiện tượng tinh thần. Đấy chính là bốn câu đầu trong năm câu báo cáo khi Huệ Năng đại sư kiến tánh, không hiện tướng. Không có h́nh tướng, không có hiện tượng vật chất, hiện tượng tinh thần cũng chẳng có, có c̣n khởi tác dụng hay chăng? Tôi đă gặp những người đem vấn đề này hỏi tôi, [xin thưa] có tác dụng! V́ sao khởi tác dụng? Chứng trọn vẹn ba đức, thấu suốt tột cùng nguồn tâm, rốt ráo thanh tịnh. Câu thứ ba do Huệ Năng đại sư đă nói là “vốn tự trọn đủ”. Đấy là Lư. Có lư luận này làm căn cứ, chúng ta chỉ biết nó khởi tác dụng, chúng sanh có cảm, nó bèn khởi tác dụng; chúng sanh chẳng cảm, nó chẳng khởi tác dụng, cảm ứng đạo giao mà! Vẫn là “tùy chúng sanh tâm, ứng sở tri lượng”. Tuy ứng lượng, thị hiện giáo hóa vô lượng vô biên chúng sanh, Pháp Thân vẫn hiển lộ toàn vẹn giống như thế, chứng trọn vẹn ba đức, thấu triệt thông suốt nguồn tâm, rốt ráo thanh tịnh. Vị ấy ở trong cơi Phương Tiện, ở trong cơi Đồng Cư, thậm chí ở trong lục đạo tam đồ, hay địa ngục A Tỳ, vẫn đạt đến thanh tịnh rốt ráo, chẳng nhiễm mảy may. Ở nơi nào cũng đều tùy thuộc chúng sanh mà hiện tướng thuyết pháp, đều do chúng sanh cảm, vị Pháp Thân đại sĩ ấy tự nhiên ứng. Ứng nhưng chẳng có khởi tâm động niệm, đương nhiên càng chẳng có phân biệt, chấp trước. Như vậy là ứng ở chỗ nào? Ứng trong Thường Tịch Quang. Phàm phu nh́n vào sự ứng của các Ngài giống như chúng ta xem TV: Phàm phu nh́n vào sắc tướng hiện trên màn huỳnh quang, c̣n chính các Ngài th́ sao? Chính các Ngài thường ở trong Thường Tịch Quang, tức là màn h́nh [trong tỷ dụ này], không có ǵ, thứ ǵ cũng đều chẳng có. Dần dần chúng ta thấu hiểu đạo lư ấy. Đó là ǵ? Pháp Thân Phật, chẳng phải là Pháp Thân Bồ Tát. Pháp Thân Bồ Tát trụ trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm, Pháp Thân Phật trụ trong Thường Tịch Quang Tịnh Độ. Tuy trụ Thường Tịch Quang, vẫn ứng giống hệt như nhau. Tự tánh là sống động, khởi tác dụng, chẳng phải là không khởi tác dụng. Rất nhiều người sợ nhập Thường Tịch Quang, hiện tượng tinh thần không có, hiện tượng vật chất cũng không có, chẳng phải là hết thảy đều không ư? “Tôi chẳng muốn đến nơi ấy”, [điều này] khiến kẻ ấy chết khiếp. Không phải vậy! Chúng ta vĩnh viễn chẳng có cách nào lư giải cảnh giới ấy, tin tưởng nó có thật, sẽ thật sự có tác dụng to lớn, chẳng phải là tác dụng nhỏ nhoi. Chớ nên sợ nó, đừng kinh hoảng. Hôm nay đă hết thời gian, chúng ta học tập tới đây!

Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa

Phần 15 hết