Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa

淨土大經解演義

Phần 41

Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo duyệt: Huệ Trang và Đức Phong

 

 

Tập 81

 

Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang tám mươi lăm, ḍng thứ hai từ dưới đếm lên, xem từ chữ Kinh.

      “Kinh giả, Phạn ngữ Tu Đa La. Trực dịch vi Tuyến, ư dịch vi Khế Kinh. Khế giả, nhất giả khế Lư. Lư giả, Thật Tế lư thể dă. Nhị giả khế Cơ, Cơ giả, cơ nghi, chúng sinh căn cơ dă, kiêm chỉ thời cơ, thời tiết nhân duyên dă. Cố khế Cơ giả, thiết hợp chúng sanh thủy b́nh dữ thời đại dă” (Kinh: Tiếng Phạn là Tu Đa La, dịch sát nghĩa là Tuyến (sợi dây), dịch ư là Khế Kinh. Khế: Một là Khế Lư, Lư là Thật Tế lư thể. Hai là khế Cơ, Cơ là cơ nghi, tức căn cơ của chúng sanh, đồng thời có nghĩa là thời cơ, thời tiết nhân duyên. Do vậy, Khế Cơ là phù hợp tŕnh độ của chúng sanh và thời đại). Chúng ta đọc tới chỗ này. Kinh là những lư luận và phương pháp do Thích Ca Mâu Ni Phật thuở tại thế đă dùng để giáo hóa hết thảy chúng sanh, nhưng thuở ấy Thích Ca Mâu Ni Phật chẳng viết thành tài liệu giảng dạy. Vào thời cổ, dường như đều giống như vậy. Như tại Trung Quốc, Khổng Tử chỉ dùng ngôn ngữ để dạy dỗ, không có sách giáo khoa, ngay cả đại cương cũng chẳng có. Nh́n từ chỗ này, suốt bốn mươi chín năm, đức Phật giảng kinh, dạy học mỗi ngày chẳng gián đoạn, sau khi Ngài viên tịch, các học tṛ dựa trên kư ức, dùng văn tự ghi chép lời thầy đă dạy, lưu truyền hậu thế; đấy là cội nguồn của kinh điển Phật giáo. Kinh điển là những lời “giảng nghĩa” trong lúc Phật giáo học thuở ấy, nay chúng tôi dùng chữ “giảng nghĩa” cho mọi người dễ hiểu! Phân lượng [kinh điển nhà Phật] vô cùng to lớn, công tác kết tập gian truân do tôn giả A Nan phức giảng (nhắc lại lời giảng). Trong các đệ tử, cũng như trong số các đồng học, ngài A Nan có trí nhớ tốt nhất. Sở trường đặc biệt của Ngài là trí nhớ mạnh mẽ, gần như nghe qua một lần sẽ vĩnh viễn chẳng quên mất. Ngài có năng lực ấy, sức lư giải rất mạnh. V́ thế, mọi người cùng đề cử Ngài phức giảng, [tức là] nhắc lại những ǵ Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói trong thuở ấy. Có năm trăm vị đồng học, các đồng học đều chứng quả A La Hán. Các vị A La Hán và Bồ Tát ngồi ở dưới nghe, chứng minh lời Ngài nói chẳng sai! Nếu có một vị nào bảo: “A Nan! H́nh như đức Phật chẳng nói câu này”, câu ấy phải gạt bỏ, chẳng thể lưu thông. Nghiêm ngặt như vậy chủ yếu nhằm mục đích giữ chữ Tín với đời sau, chẳng phải là đa số thông qua, hễ có một người có ư kiến sẽ không thể ghi lại [câu nói ấy]. V́ thế, kinh điển được thẩm tra nghiêm ngặt; nói cách khác, những câu nói [được chép trong kinh Phật] đều do chính miệng Thích Ca Mâu Ni Phật thốt ra. Đó là nguồn gốc của kinh điển vậy!   

Chữ “Kinh” là chữ Hán, chúng ta dùng chữ này để dịch chữ Ấn Độ. Tiếng Ấn Độ [gọi Kinh] là Tu Đa La (Sūtra), Tu Đa La vốn có nghĩa là Tuyến (sợi dây). V́ sao? Do trước đây, vào thời kỳ đầu, chép kinh trên lá cây, tức lá cây Bối-đa-la. Đương nhiên thuở ấy vẫn chưa có giấy, nên dùng lá cây Bối-đa-la. Lá cây ấy rất bền, có thể giữ rất nhiều năm chẳng bị hư hoại. Lá cây được cắt thành từng miếng, cắt thành miếng dài, hai bên đục lỗ. Mỗi bên đục một lỗ, dùng dây xâu qua [để buộc lại cho khỏi lạc mất]. [Các miếng lá] đă xỏ dây được gọi là một quyển sách, khi dịch [sát nghĩa chữ Sūtra] th́ dịch theo cách như vậy. Quư vị đến Cố Cung sẽ có thể thấy h́nh dạng nguyên thủy của kinh lá Bối. Nếu dịch nghĩa th́ nên dùng ư nghĩa của chữ Kinh trong tiếng Hán để dịch sẽ rất hay. Bởi lẽ, những giáo huấn của cổ thánh tiên hiền Trung Quốc lưu lại, chúng ta đều gọi là Kinh. Do giáo huấn của đức Phật cũng vô cùng quư báu, dùng chữ Kinh này để phiên dịch là hay nhất.

Trước chữ Kinh, thêm chữ Khế (). Khế là Khế Lư. Lư là Thật Tế lư thể, Lư là ǵ? Lư là chân tướng sự thật. Nói theo cách bây giờ, Thật Tế lư thể là chân tướng của vũ trụ và nhân sinh, mọi người dễ hiểu điều này. Do vậy, kinh nhất định giảng chân tướng sự thật, chẳng phải là nói ṃ, chẳng phải là nói tùy tiện. Đây là chân tướng sự thật thứ nhất.

Thứ hai là phải Khế Cơ, tức là thích hợp tŕnh độ của chúng sanh. Quư vị giảng quá sâu, họ nghe sẽ không hiểu. Quư vị giảng quá cạn, họ sẽ chẳng hứng thú! Nhất định phải thích hợp! Lại c̣n phải thích hợp thời đại. V́ thế, kinh điển sống động. Kinh Phật do đức Phật nói. Quư vị thấy, mỗi triều đại đều chú giải kinh điển rất nhiều. Chú giải là ǵ? Chú giải nhằm khế cơ. Trong mỗi triều đại, trong mỗi xă hội và dân tộc khác nhau, họ cần những ǵ, dùng phương pháp ǵ để giảng [cho thích hợp], đó là sống động. Lời Phật giảng là nguyên lư, nguyên tắc, các vị tổ sư đại đức giảng giải, tức là đă giảng theo kiểu hiện đại hóa, người hiện thời đều có thể thụ dụng, đó là Khế Cơ.

[Kinh Phật] ắt phải phù hợp hai điều kiện ấy. Nếu nói khế cơ chẳng khế lư, đó là ma thuyết, chẳng do Phật thuyết. Rất thích hợp với người nghe, người ta rất thích nghe, nhưng chẳng phù hợp Lư, chẳng phải là chân tướng sự thật, đấy là tà thuyết. Nếu khế lư chẳng khế cơ, sẽ là lời lẽ vô ích. Lư hay lắm, nhưng người ta nghe chẳng hiểu, nghe xong chẳng vận dụng được! V́ vậy, ắt phải phù hợp hai điều kiện ấy th́ mới gọi là “kinh điển”. Đây là cách thông thường để giới thiệu những ư nghĩa được bao hàm trong chữ Kinh, trên thực tế, c̣n có rất nhiều ư nghĩa mà các đồng học học Phật chúng ta chớ nên không biết. Không biết, tức là quư vị chưa phải là kẻ thông hiểu!

      “Kim vị tỉnh văn, lược khử Khế tự” (nay v́ nói gọn, lược bỏ chữ Khế), người Trung Quốc chuộng đơn giản, tuyệt đối chẳng thích rườm rà, không giống người Ấn Độ. Người Ấn Độ ưa rườm rà, càng nói chi tiết càng hay! Người Trung Quốc yêu cầu như thế nào? Nói tới trọng tâm rồi thôi, chẳng dây cà dây muống. Người Trung Quốc là như vậy đó. V́ thế, ngôn ngữ và văn tự Trung Quốc thời cổ đ̣i hỏi phải đạt tiêu chuẩn gồm bốn chữ là “giản, yếu, tường, minh”, tức là đơn giản, tóm tắt, nhưng vẫn phải cặn kẽ, vẫn phải rơ ràng. Ăn nói như vậy mới là ăn nói giỏi, văn chương như thế mới là văn chương hay. Nhưng người Ấn Độ lại khác, quả thật chẳng ngại phiền. Người Hoa nói ǵ chẳng lặp đi lặp lại, văn chương nhắc đi nhắc lại sẽ gọi “trùng lặp”, chẳng phải là văn chương hay! Nhưng kinh Phật chẳng vậy, kinh Phật là nhắc đi nhắc lại. Lặp đi lặp lại cũng có lợi, đối với kẻ trung hạ căn sẽ rất hữu ích. “Giản, yếu, tường, minh” thật sự chỉ hữu ích cho người thượng thượng căn, kẻ trung hạ căn nghe một lần chưa hiểu, nhưng không được nghe lần nữa! Không giống như kinh Phật, quư vị nghe một lần không hiểu, chẳng sao! Phía sau c̣n nhắc lại nhiều lượt, quư vị cứ thong thả mà học, nói chung rồi sẽ nghe hiểu! Đấy là Phật từ bi, từ bi hơn Khổng lăo phu tử rất nhiều! Khổng Tử và Mạnh Tử chẳng từ bi như Phật, mà đ̣i hỏi rất cao, cho nên [sách Nho mới chép]: “Cử nhất ngung, bất dĩ tam ngung phản” (nêu lên một góc, chẳng suy ra được ba góc kia), Khổng lăo phu tử chẳng dạy quư vị, [chê bai]: “Nhà ngươi quá đần độn!” Giống như căn nhà này, tôi bảo quư vị góc này vuông vức đúng chín mươi độ, quư vị phải nghĩ là ba góc kia cũng giống như thế. Nếu quư vị chẳng nghĩ ra, phải dạy quư vị từng thứ một th́ Khổng lăo phu tử chẳng dạy quư vị, “gă này đần quá!” Nhưng Thích Ca Mâu Ni Phật rất từ bi, Ngài sẽ dạy quư vị: “Góc này chín mươi độ, nh́n sang góc kia, góc kia cũng là chín mươi độ”, Ngài chẳng nề hà phiền phức. Từ chỗ này, ta thấy được ḷng từ bi của đức Phật. V́ vậy, nói thật thà, học Phật dễ hơn học Nho. V́ thế, Phật giáo truyền sang Trung Quốc, Phật giáo là giáo dục, giáo dục Phật giáo thịnh vượng hơn giáo dục Nho gia. V́ sao? Thuận tiện, ḥa đồng, ba căn thượng trung hạ, thượng thượng căn, hạ hạ căn Phật đều dạy. Khổng lăo phu tử dạy học th́ [học tṛ] phải là trung thượng căn trở lên. Thấp hơn trung thượng căn, phu tử sẽ chẳng muốn dạy, “rơ ràng là ngươi quá đần độn!” Đây là một nhân tố khiến cho nền giáo dục Phật giáo có thể phổ biến, phổ cập toàn dân tại Trung Quốc, tỏ rơ tấm ḷng yêu thương của đức Phật.

      Chữ Kinh này có bốn ư nghĩa, thông thường, hễ giảng kinh, nhất định phải giới thiệu. Kinh có bốn ư nghĩa là “quán, nhiếp, thường, pháp”:

1) Quán () là “quán xuyên sở thuyết chi lư” (thông suốt, xuyên suốt Lư đă được nói). Nói theo cách bây giờ là phù hợp lư luận, thật sự là một môn học thuật cao sâu, người hiện thời gọi là “la-tập” (Logic, luận lư học) giảng về biện chứng pháp (Dialectics)[1], nói theo danh từ Phật pháp là Nhân Minh (Hetuvidyā). V́ thế, trong Phật pháp có khoa Nhân Minh Học. Nhân Minh Học nay được gọi là La Tập, hoặc Biện Chứng Pháp. “Quán” là có phương pháp tuân theo Luận Lư Học, v́ thế, giảng hết sức mạch lạc, có trật tự; người Trung Quốc gọi điều đó là “hữu điều bất vặn” (有條不紊: sắp xếp mạch lạc, hợp phương pháp, chẳng rối loạn), quư vị nghe rất dễ hiểu, rất minh bạch.

2) Ư nghĩa thứ hai là Nhiếp (), “Nhiếp tắc nhiếp tŕ sở hóa chi sanh (chúng sanh)” (Nhiếp là thâu giữ những chúng sanh được giáo hóa). Đây là Nhiếp Tŕ. Tŕ là ǵn giữ, [tức là] ǵn giữ những chúng sanh đă được giáo hóa. Nếu dùng bốn chữ tiêu chuẩn này để nhận định th́ văn chương Trung Quốc chỉ đạt được điều thứ nhất là Quán, thực hiện được chữ ấy! Tất cả văn chương đạt được điều ấy, c̣n ba chữ sau đó chưa chắc đă đạt được! “Nhiếp” là nhiếp thọ hết thảy chúng sanh, cũng là giống như nó có sức hấp dẫn, sức thu hút. Sau khi tiếp nhận, quư vị rất ưa thích, muốn bỏ mà chẳng thể bỏ được. Điều này chẳng đơn giản. V́ thế, kinh Phật khiến cho quư vị đọc một lần, vẫn muốn đọc lần thứ hai, lần thứ ba, càng đọc, càng ưa thích, sức nhiếp thọ của kinh có thể chiếm lĩnh tâm hồn người đọc; điển tịch của cổ thánh tiên hiền Trung Quốc có sức mạnh này. Chẳng hạn như Tứ Thư, Ngũ Kinh có năng lực này. Quư vị thuở bé đọc Tứ Thư, đến lúc bảy tám mươi tuổi, đọc Tứ Thư vẫn hứng thú tràn trề, chúng có sức mạnh ấy! Quư vị đọc tiểu thuyết, sau khi đọc một hai lượt, chẳng muốn đọc lần thứ ba. Tiểu thuyết dù hay cách mấy, thuở bé, tôi thích coi, ưa chuộng nhất bốn bộ tiểu thuyết Trung Quốc là Tam Quốc, Thủy Hử, Tây Du Kư, và Hồng Lâu Mộng, [mỗi bộ] đại khái tôi đọc tới mười lần, nhưng sau khi đọc mười lần, suốt đời này, chẳng muốn đọc lại nữa! Nói cách khác, sức nhiếp thọ của chúng chỉ lớn chừng đó, sau khi xem mười lượt sẽ chẳng muốn đọc nữa! Chẳng giống như kinh Phật, quư vị đọc kinh Phật một vạn biến cũng chẳng ngán, càng đọc càng ưa thích, sức nhiếp thọ to lớn.

3) Chữ thứ ba là Thường (). “Thường tắc cổ kim bất dịch” (Thường là xưa nay chẳng thay đổi). Người hiện thời gọi [điều này] là Chân Lư. Những điều kinh Phật giảng chính là chân lư, chân lư vĩnh hằng chẳng thay đổi. Những điều đức Phật giảng từ ba ngàn năm trước là chính xác, tới nay, ba ngàn năm sau vẫn chính xác. Tại Ấn Độ, dạy người Ấn Độ chính xác, truyền sang Trung Quốc, dạy người Trung Quốc vẫn chính xác! Cũng có nghĩa là những lư luận và phương pháp của đức Phật siêu việt thời gian và không gian, nên gọi là Thường. Điều này hết sức khó đạt được!

4) Điều cuối cùng là Pháp (), “Pháp tắc cận viễn đồng tuân” (pháp là xa gần cùng tuân thủ). Người thời cổ và người hiện tại đều phải tuân những phương pháp đă được dạy trong kinh điển.

Có thể phù hợp bốn điều kiện ấy mới gọi là Kinh. Văn chương của phàm nhân sáng tác chẳng thể trọn đủ bốn điều kiện này, nên chẳng thể gọi là Kinh. Trọn đủ bốn điều kiện này mới có thể gọi là Kinh. Như Tứ Thư của Trung Quốc có thể gọi là Kinh, v́ quả thật Tứ Thư có “quán, nhiếp, thường, pháp”, phù hợp bốn điều kiện ấy. Nói tới Ngũ Kinh th́ phần lớn là có [bốn điều kiện ấy]. Trong thời đại hiện tại, có thể dùng tinh thần, chứ không thể dùng phương pháp [được nói trong Ngũ Kinh], v́ phương pháp phù hợp thời đại đó, [chẳng phù hợp thời đại này], chẳng giống như kinh Phật. Những điều được giảng trong kinh Phật là sống động. “Thượng thuật tứ tự, khả tận Kinh tự chi nghĩa” (bốn chữ vừa nói trên đây, có thể gồm trọn hết những ư nghĩa của chữ Kinh). Thông thường để giải thích chữ Kinh, luôn dùng bốn chữ “quán, nhiếp, thường, pháp” này!

      “Hựu Phật sở thuyết giả, thông danh vi Kinh” (lại nữa, những điều do đức Phật nói đều gọi chung là Kinh), những ǵ do Thích Ca Mâu Ni Phật đă giảng, “cố đề trung Kinh chi nhất tự thị Thông Danh” (nên một chữ Kinh trong tựa đề là tên chung). Phàm những ǵ do Thích Ca Mâu Ni Phật đă giảng đều gọi là Kinh; v́ thế, Kinh là Thông Danh (tên chung). Tất cả hết thảy những giáo huấn của thánh hiền cũng gọi là Kinh, nhưng Kinh [của thánh hiền] chưa chắc đă có hội đủ ư nghĩa gồm trong bốn chữ “quán, nhiếp, thường, pháp”. Tuy đều là Kinh, nhưng có rất nhiều thứ chẳng phù hợp định nghĩa “quán, nhiếp, thường, pháp” này. Đấy chính là chỗ vượt trội của kinh Phật so với các thứ kinh điển khác! Những câu này nhằm giới thiệu Kinh danh xưng chung.

Tiếp đó, sách Chú Giải viết: “Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác”, mười bốn chữ ấy, “thị bổn kinh độc cụ chi biệt danh” (là tên riêng chỉ ḿnh kinh này có). Đều do đức Phật nói, nhưng không giống những kinh khác [th́ danh xưng ấy] được gọi là Biệt Danh. Như vậy đề mục kinh này gồm mười lăm chữ bao gồm Thông Đề (Thông Danh) và Biệt Đề (Biệt Danh). Mười bốn chữ đầu là Biệt Đề, một chữ Kinh sau đó là Thông Đề.

      “Chư kinh lập danh, bất ly nhân, pháp, dụ. Hoặc đơn, hoặc phức, khả đắc thất loại: Đơn nhất giả tam, cụ nhị giả tam, cụ túc giả nhất, cộng thành thất loại” (Đặt tên các kinh, chẳng ngoài nhân, pháp, dụ, có thể là đơn hoặc phức, chia thành bảy loại: Đơn danh, tức chỉ một thứ, gồm ba loại, gồm hai thứ có ba loại, có đủ ba thứ chỉ có một loại, cộng thành bảy loại). Đây là nói đến việc đặt tên kinh Phật có quy củ, chẳng phải là nói tùy tiện. V́ thế, người thông hiểu vừa nh́n vào [đề mục kinh, đă biết] kinh này là thật hay là ngụy tạo. Những kinh ngụy tạo có đề mục chẳng phù hợp nguyên tắc này. Chẳng phù hợp nguyên tắc này, sẽ chẳng phải là kinh Phật chân chánh. Kinh Phật chân chánh nhất định phải phù hợp nguyên tắc này, tức bảy tiêu chuẩn. Nói tóm lại, bảy tiêu chuẩn chẳng ngoài “nhân, pháp, tỷ dụ”, trong đề mục nhất định lấy những điều ấy làm nguyên tắc.

“Đơn nhân”, là chỉ dùng người (nhân) làm đề mục, “A Di Đà Kinh, A Di Đà thị nhân” (kinh A Di Đà, A Di Đà là người), A Di Đà là Biệt Đề, Kinh là Thông Đề, trong tựa đề kinh ấy chỉ có Nhân, không có Pháp, không có tỷ dụ.

“Đơn pháp, Đại Bát Nhă Kinh, Bát Nhă thị Pháp” (Đơn pháp là như kinh Đại Bát Nhă, Bát Nhă là Pháp), không có Nhân, không có Dụ, tức là không có tỷ dụ.

Đơn dụ, Phạm Vơng kinh” (chỉ có Dụ là như kinh Phạm Vơng), Phạm Vơng (Brahmajala) là cái lưới của Đại Phạm Thiên. Dùng cái lưới của Đại Phạm Thiên để sánh ví. V́ thế, Phạm Vơng là tỷ dụ, không có Nhân, mà cũng chẳng có Pháp.

Ba loại ấy được gọi là “đơn tam đề” (ba loại đề mục kinh chỉ dùng một thứ để đặt tên).

“Phức nhị đề” cũng có ba loại; trong ấy có:

- Nhân Pháp, tức là trong đề mục có người và pháp, như Văn Thù Vấn Bát Nhă Kinh. Văn Thù là Nhân, Bát Nhă là Pháp, trong ấy chẳng có tỷ dụ.

- Dùng Pháp và Dụ để đặt tên như Diệu Pháp Liên Hoa Kinh. Diệu Pháp là Pháp, Liên Hoa là tỷ dụ, trong ấy chẳng có Nhân.

- Dùng Nhân và Dụ để đặt tên kinh như Bồ Tát Anh Lạc Kinh, Bồ Tát là Nhân, Anh Lạc là tỷ dụ, trong ấy chẳng có Pháp.

Ba thứ này gọi là “phức tam chủng lập đề”.

Nhân, pháp, dụ thảy đều có đủ, cả ba thứ ấy đều có, đầy đủ nhân, pháp, dụ là Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, đề kinh có đủ cả ba thứ ấy. Phật là Nhân, Đại Phương Quảng là Pháp, Hoa Nghiêm là tỷ dụ (Dụ). Do vậy, Nhân, Pháp, Dụ đều có.

Đây là bảy nguyên tắc để đặt tựa đề cho kinh Phật. Nếu chẳng tương ứng [với bảy nguyên tắc ấy], nhất định chẳng phải là kinh Phật. Nếu bảo nó là kinh Phật th́ đó là giả, chẳng thật! Kinh Phật thật sự sẽ chẳng trái phạm quy củ này.

     “Kim bổn kinh đề diệc cụ túc Nhân, Pháp, Dụ” (nay tựa đề kinh này cũng trọn đủ Nhân, Pháp, Dụ). Hạ lăo cư sĩ hội tập kinh này, đặt tựa đề trọn đủ Nhân, Pháp, Dụ. “Đề trung Phật tự biểu thử độ quả nhân” (chữ Phật trong tựa đề biểu thị người đă chứng quả trong cơi này): “Phật” là Thích Ca Mâu Ni Phật, tức là vị đă chứng quả trong cơi này. “Quả nhân” là người đă chứng Phật quả, là Thích Ca Mâu Ni Phật. Chúng ta học Phật nhất định phải biết, bất luận ở chỗ nào cũng phải nói rơ ràng với người khác, nếu người ta hỏi đến Phật th́ Phật là giáo dục. Chúng ta tiếp nhận sự giáo dục của Thích Ca Mâu Ni Phật, nói rơ Phật chẳng phải là tôn giáo, chẳng liên quan ǵ đến tôn giáo! Kể từ khi tôi được tiên sinh Phương Đông Mỹ giới thiệu tiếp xúc Phật giáo, tôi học theo sự giáo dục của Thích Ca Mâu Ni Phật, chẳng theo tôn giáo. Chúng ta phải hiểu rơ ràng, minh bạch điều này. Hiệp hội của chúng ta là hiệp hội giáo dục của đức Phật, chớ nên mơ hồ, khiến cho người khác nẩy sanh hiểu lầm!

Phật, Bồ Tát, A La Hán là những danh xưng học vị trong nền giáo dục của đức Phật, mà cũng là những danh xưng chung. Phật là học vị tối cao, Bồ Tát là học vị thứ hai, A La Hán là học vị thứ ba, có cùng một ư nghĩa với [các học vị] tiến sĩ, thạc sĩ, học sĩ như trong nhà trường hiện thời. Thích Ca Mâu Ni Phật tu học đă đạt tới tầng lớp cao nhất, nên gọi Ngài là Phật Đà. C̣n những vị như Văn Thù, Phổ Hiền được nhắc đến trong kinh sách, tuy chưa đạt tới tối cao, nhưng tu cũng rất khá, thuộc vào học vị Bồ Tát. Lại c̣n có Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên là A La Hán, thuộc học vị thứ ba. [Gọi Phật, Bồ Tát, A La Hán là nói tới] danh xưng học vị, các Ngài chẳng phải là thần, mà cũng chẳng phải là tiên, các Ngài là người. Phải hiểu rơ ràng, minh bạch th́ chúng ta mới thật sự học được thứ này thứ nọ trong Phật pháp có lợi ích cho chúng ta.

      Lợi ích phổ biến nhất là thân tâm khỏe mạnh, quư vị có muốn hay không? Quư vị học Phật, khẳng định phải đạt được điều đầu tiên này! Nhà Phật nói “trường sanh bất lăo” là thật, chẳng phải là mê tín, đáng tiếc là chúng ta công phu chẳng tới mức, phải nâng công phu lên cao hơn, nâng cao tới cảnh giới nào? Nâng cao tới A La Hán là được rồi, A La Hán trường sanh bất lăo. Nay chúng tôi chỉ mới dính dáng một chút bên ngoài, hưởng nhờ một tí bên bề ngoài, hết thảy mọi người quư vị thấy tôi tuổi tác không ngừng tăng lên, nhưng cũng chẳng suy lăo, thật đấy, chẳng giả! Năm 1999, tôi giảng kinh tại Tân Gia Ba, có một vị cư sĩ là nữ tu Thiên Chúa Giáo tại Tân Gia Ba, đến gặp tôi, muốn quy y Phật môn. Bà ta hỏi: “Tôi có đủ điều kiện để quy y hay không?” Tôi nói: “Chẳng có vấn đề ǵ, bà hội đủ điều kiện”. Tôi quy y cho bà ta, năm ấy, bà ta đă một trăm lẻ một tuổi, được gọi là “người thanh niên một trăm lẻ một tuổi”. Bà làm công tác thiện nguyện chăm sóc người già. Người già đều là bảy, tám chục tuổi! Bà ta phục vụ, chăm sóc họ mỗi ngày, chăm nom hai mươi mấy người già, rất khó có! Hiện thời, thân thể bà ta vẫn vô cùng khỏe mạnh. Mấy hôm trước, tôi nghe nói bà ta muốn sang một viện dưỡng lăo ở Tân Cương phục vụ nửa năm. Năm 1999, bà ta đă một trăm lẻ một tuổi, năm nay là năm 2010, bà ta phải là một trăm mười một tuổi, không phải vậy, năm 1999, bà ta đă một trăm lẻ một tuổi, năm nay là một trăm mười hai tuổi. Một trăm mười hai tuổi vẫn làm công tác thiện nguyện, vẫn chăm sóc người già sáu, bảy chục tuổi, bà ta chẳng già, vẫn nói ḿnh là thanh niên! Đầu tiên là thân tâm khỏe mạnh, quư vị chẳng có phiền năo, mà có trí huệ, phiền năo nhẹ đi, trí huệ tăng trưởng. Gia đ́nh quư vị ḥa thuận, sự nghiệp thuận lợi, nơi quư vị sống ḥa thuận, chẳng có ǵ không tốt đẹp! Đấy là lợi ích hiện tiền của Phật pháp. Một người tu hành như vậy ở nơi ấy, các nhà Lượng Tử Học cho biết: Người ấy ở khu vực nào, trong vùng phụ cận, tỷ lệ phạm tội chắc chắn rất ít, do nguyên nhân nào? Từ trường tốt đẹp! Một đạo tràng thành lập ở đây, người thật sự học tập rất nhiều, tỷ lệ phạm tội trong khu vực này sẽ giảm bớt với một mức độ to lớn, đó là sự thật. V́ vậy, chúng ta nói tới Phật, Pháp, Tăng, nói chung phải hiểu ư nghĩa thật sự. Nếu không, người ta sẽ nói chúng ta mê tín, sai lầm rất lớn. Do vậy, chữ Phật ở đây là “thử độ quả nhân”, trong thế gian này, Ngài là một người tu học đă đạt được học vị tối cao.

      “Vô Lượng Thọ thị bỉ phương quả nhân” (Vô Lượng Thọ là người chứng quả trong phương kia), Vô Lượng Thọ ở Tây Phương Cực Lạc thế giới, cũng là A Di Đà Phật đạt học vị tối cao. A Di Đà dịch là Vô Lượng Thọ, Phật là danh xưng học vị. Ngài và Thích Ca Mâu Ni Phật có học vị tương đồng, b́nh đẳng. “Cố đề trung cụ lưỡng độ quả nhân” (do vậy, trong tựa đề kinh có hai vị chứng quả trong hai cơi), trong một tựa đề kinh có hai người, chẳng phải là một người, mà là hai người, đều đạt được học vị tối cao.

      Bảy chữ “trang nghiêm thanh tịnh b́nh đẳng giác” là pháp, “Đại Thừa nhị tự” (hai chữ Đại Thừa) là tỷ dụ. “Thừa giả” (Thừa là), âm cổ là Thặng (), nay chúng ta thường đọc là Thừa, âm cổ đọc là Thặng, có nghĩa là xe, thuở ấy là xe ngựa! “Thử kinh khả vận tải vô lượng chúng sanh hàm đạt bảo sở” (kinh này có thể chuyên chở vô lượng chúng sanh cùng đến được chỗ có của báu), nói theo cách bây giờ, “bảo sở” là “bảo địa” (nơi đất báu). Bộ kinh này có thể chở chúng ta sang Tây Phương Cực Lạc thế giới bảo địa. Như trong kinh Pháp Hoa đă nói: “Đại bạch ngưu xa”. Đại bạch ngưu xa là xe ngựa. Thời cổ, xe ngựa lớn nhất, có thể ngồi được rất nhiều người. Tôi nhớ lúc bé, đi học tại Nam Kinh, lúc ấy đang học Sơ Trung (trung học đệ nhất cấp, cấp hai), phương tiện giao thông ở Nam Kinh rất ít, xe ngựa rất nhiều. Xe ngựa rất rẻ, h́nh như là một hai xu, rất rẻ! Một cỗ xe ngựa, tôi nhớ thường ngồi được mười bốn đứa học tṛ, mười bốn đứa nhỏ ngồi chung một chiếc xe ngựa đi học. Do vậy, dùng Đại Thừa làm tỷ dụ, Đại Thừa là cỗ xe ngựa lớn.

      “Chư kinh giai cụ Giáo, Hành, Lư” (các kinh đều có đủ Giáo, Hành, Lư), hết thảy các kinh đều có bốn ư nghĩa ấy, ở đây, [lời chú giải] đă tỉnh lược một chữ, lẽ ra phải là Giáo - Hành - Lư - Quả. Một bộ kinh nhất định có bốn ư nghĩa ấy; ở đây, Quả bị lược đi, Quả là chứng quả, tức đạt được học vị. “Phật Thuyết Đại Thừa thị Giáo” (Phật Thuyết Đại Thừa là Giáo), đấy là giáo học. “Trang Nghiêm Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác thị Hành” (Trang Nghiêm Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác là Hành). Như vậy th́ đây là Giáo kinh mà cũng là Hành kinh, quư vị hành sẽ đạt được, chẳng hành sẽ chẳng đạt được! “Vô Lượng Thọ thị Lư” (Vô Lượng Thọ là Lư), Vô Lượng Thọ [là Lư] mà cũng là Quả. Các vị tổ sư đại đức xưa nay giải thích tựa đề kinh chẳng hoàn toàn giống nhau. Có những vị có cách giảng riêng, nhưng đều giảng hợp lư, đúng lư, đúng pháp, nên [thuyết của các Ngài] đều được công nhận. Do vậy, chúng ta đọc nhiều về giáo pháp Đại Thừa, đối với những thứ do tổ sư đại đức đă giảng từ xưa, quư vị có thể dung hội, ḥa hợp, tham khảo nhiều bản [chú giải khác nhau]. Ở Trung Quốc, vào thời cổ, kinh Vô Lượng Thọ có hai bản chú giải chú giải để tham khảo. Những tác phẩm chú giải của Nhật Bản càng nhiều, có hơn hai mươi thứ như trong phần trước chúng ta đă thấy. Lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ giới thiệu, phần nhiều là nh́n vào cách người khác giảng giải tựa đề kinh và Huyền Nghĩa. Bậc tu hành lăo luyện, thật sự thâm nhập Kinh Tạng thường chẳng nh́n xem quư vị giảng giải nội dung kinh như thế nào, chẳng xem phần ấy, mà xem phần Huyền Nghĩa. Huyền Nghĩa là ǵ? Là báo cáo tâm đắc tu học của quư vị, trong ấy có cảnh giới của chính quư vị, nên bậc tu hành lăo luyện thường thích xem phần ấy. Kẻ sơ học thích xem cách giảng từng câu kinh một, xem lời chú giải.

      “Vô Lượng Thọ biểu tam tế nhất như, Niết Bàn thường trụ chi Pháp Thân bổn thể” (Vô Lượng Thọ biểu thị ba đời giống hệt như nhau, Pháp Thân bổn thể thường trụ Niết Bàn). “Tam tế” (三際) là quá khứ, hiện tại, vị lai, cũng có thể nói là Lư Thể được chứng bởi tam thế chư Phật. Lư Thể ấy thường được gọi là “chư pháp Thật Tướng”, tức là chân tướng của hết thảy các pháp, chẳng hề mê tín! Khoa học và triết học hiện tại đang nghiên cứu những ǵ? Chân tướng của vũ trụ và vạn vật. Trải qua nhiều niên đại như thế, những triết học gia và khoa học gia xưa nay trong ngoài nước đă nghiên cứu, có thể nói là họ đă đạt thành tựu khá khả quan; nhưng c̣n có khá nhiều nghi vấn chưa thể giải đáp! Nói tới khởi nguyên của vũ trụ, các khoa học gia hiện đại cho rằng có một vụ Bùng Nổ Lớn (Big Bang), nhưng thuyết Bùng Nổ Lớn ấy chẳng thể nói trọn vẹn, cái ǵ đă bùng nổ? Do nguyên nhân nào mà bùng nổ? Chẳng thể giảng rơ ràng những điều ấy. Nói Big Bang là chỉ nh́n vào một hiện tượng, quan sát thấy bằng viễn vọng kính: Trong vũ trụ, thấy tất cả những tinh cầu [bùng nổ] ấy dường như đều ở quá xa chúng ta. Đây là một hiện tượng Bùng Nổ, [do nh́n] từ chỗ này [mà lập ra thuyết ấy]. Thuyết ấy chẳng thể nói trọn vẹn, chỉ do tạm thời quan sát hiện tượng mà có được kết luận như vậy, vẫn phải tiếp tục nghiên cứu. Hiện thời, Lượng Tử Lực Học (Quantum Mechanics) lại phát hiện, phát hiện ǵ vậy? Phát hiện hiện tượng vật chất sanh khởi là “vô trung sanh hữu” (từ trong Không mà sanh ra Có), tốc độ vô cùng nhanh chóng, sau khi sanh ra, bèn tiêu diệt trong khoảng sát-na. Cách nói này hết sức giống với những điều được giảng trong kinh Phật; bởi lẽ, Phật pháp giảng nguyên khởi của vũ trụ là A Lại Da nguyên khởi, A Lại Da là ǵ vậy? Hiện thời, A Lại Da quả thật đă bị các nhà Lượng Tử Lực Học phát hiện; nhưng c̣n có một vấn đề: A Lại Da do đâu mà có? Họ chẳng có cách nào [khám phá], nhưng kinh Phật có thể nói rơ: A Lại Da do đâu mà có? V́ sao có A Lại Da?

      Do vậy, thuở ấy, tiên sinh Phương Đông Mỹ giới thiệu Phật pháp với tôi, [đă bảo] Thích Ca Mâu Ni Phật là một bậc đại triết học gia. Tôi học Triết với cụ, chúng tôi muốn t́m triết học gia, chẳng t́m tôn giáo, không t́m đến mê tín! Cụ nói: “Thích Ca Mâu Ni là đại triết học gia, kinh Phật là đỉnh cao nhất trong triết học cả thế giới. Học Phật là hưởng thụ cao nhất trong đời người”. Tôi được cụ uốn nắn quan niệm sai lầm trước kia như vậy, tôi cứ tưởng Phật giáo là tôn giáo, mê tín, cụ đă chuyển đổi quan niệm sai lầm ấy. Tôi học Phật từ lúc bắt đầu học với thầy Phương cho tới nay là năm mươi chín năm, sang năm là một giáp. Năm mươi chín năm học tập, chứng tỏ lời thầy nói là thật, chẳng giả. V́ thế, tôi nhớ măi không quên ân đức của thầy. Nếu không được thầy chỉ dẫn, làm sao chúng tôi biết trên thế giới có thứ tốt đẹp như vậy, ở ngay trước mặt mà bỏ lỡ, quư vị nói có đáng tiếc lắm không? Bao nhiêu người bỏ lỡ!

Hiện thời, chúng tôi đă nghiên cứu, học tập Phật giáo năm mươi chín năm, phát hiện nó không là đỉnh cao nhất trong triết học, mà c̣n là khoa học đạt tới đỉnh cao nhất. Những vấn đề mà khoa học và triết học hiện tại chẳng thể giải quyết, đều có toàn bộ [lời giải đáp] trong kinh Đại Thừa. Khoa học gia phát hiện vấn đề ấy, chúng ta mở kinh Phật ra xem thấy ngày càng gần gũi, rốt cuộc họ có thể đạt tới cảnh giới của Phật hay chăng? Chẳng thể nào! V́ sao chẳng thể? Trong kinh Đại Thừa, đức Phật đă giảng: Ư thức là tâm phân biệt, năng lực của tâm ư thức rất lớn, chúng ta hăy nghĩ thức thứ sáu tức ư thức, bên ngoài có thể duyên khắp pháp giới hư không giới. Khoa học hiện thời gọi điều này là “hoằng quan thế giới” (đại vũ trụ, vũ trụ vĩ mô, macrocosm). Quư vị có thể phan duyên toàn bộ vũ trụ, bên trong quư vị có thể duyên tới A Lại Da. Hiện thời, Lượng Tử Lực Học đă thật sự duyên đến A Lại Da. Họ nói tới ba tế tướng của A Lại Da, đương nhiên chẳng rơ ràng, minh bạch như trong kinh Phật đă giảng! Hiện nay, họ phát hiện trong vũ trụ, thứ ǵ cũng đều không có, chỉ có ba thứ, giống như trong Pháp Tướng Duy Thức đă giảng. Các nhà Pháp Tướng Duy Thức chẳng thừa nhận trong vũ trụ có thứ ǵ, họ chỉ thừa nhận duy thức, [nghĩa là] chỉ có thức, chỉ có một ḿnh thức! Thức là ba tế tướng, tức nghiệp tướng, chuyển tướng, cảnh giới tướng, họ dùng các danh từ ấy. Hiện thời, các nhà Lượng Tử Lực Học nói ǵ? Vật chất, năng lượng, thông tin là ba tế tướng của A Lại Da. Năng lượng là nghiệp tướng của A Lại Da, diễn đạt bằng những danh từ khác nhau, nhưng là cùng một chuyện! Thông tin là chuyển tướng của A Lại Da, cảnh giới tướng được các nhà khoa học hiện tại gọi là “vật chất”. Hoàn toàn tương đồng với Pháp Tướng, chẳng đơn giản! Vũ trụ sâu xa kín nhiệm!

      Đức Phật dạy đến khi nào mới có thể thấy sự sâu xa kín nhiệm ấy, là ai? Trong kinh Phật nói Bát Địa Bồ Tát có công phu định lực ấy. Bởi lẽ, các khoa học gia dùng dụng cụ, máy móc để quan sát, phát hiện, Phật pháp không như thế, Phật pháp dùng công phu định lực! Ngài nhập định rất sâu, từ trong Định thấy được. Trong Định, chẳng có giới hạn thời gian và không gian, chẳng có chiều không gian. Ngài trực tiếp thấy, cho nên thấy rơ ràng hơn các khoa học gia. Các khoa học gia phải nhờ vào dụng cụ, máy móc, họ chưa đoạn ư niệm. V́ vậy, đức Phật nói phải đoạn sạch ư niệm, quư vị chớ nên dùng tâm ư thức! Dùng tâm ư thức sẽ chẳng thể thấy chân tướng, v́ sao? Cái mà quư vị trông thấy chính là huyễn tướng, tâm ư thức cũng là huyễn tướng! Huyễn tướng có thể duyên huyễn tướng, chẳng thể duyên chân tướng. V́ thế nói: Các khoa học gia chắc chắn chẳng thể kiến tánh. Nếu khoa học gia, triết học gia buông phân biệt, chấp trước, khởi tâm động niệm xuống, họ sẽ thành Phật, mới có thể thật sự thấy chân tướng. Do vậy, chúng ta có thể nói: Các nhà Lượng Tử Lực Học đă mon men bên lề Phật pháp. Nếu họ thật sự có thể tiến thêm một bước đột phá nữa, buông khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước xuống, họ sẽ chứng đắc, không cần dùng dụng cụ khoa học, chẳng cần phiền phức như vậy. Do các lẽ đó, nói Thật Tế lư thể, nói “tam tế nhất như”. “Niết Bàn thường trụ”, Niết Bàn (Nirvāna) là tiếng Phạn, dịch nghĩa là bất sanh bất diệt. Trong Phật pháp, “Pháp Thân bổn thể” được gọi là Chân Như, mà cũng là Chân Tâm, hoặc Bổn Tánh, rất nhiều danh từ, tới mấy chục loại! V́ sao đối với một chuyện mà đức Phật nói ra lắm danh từ như thế? Đấy là giáo học thiện xảo, dạy quư vị chớ nên chấp trước tướng danh tự! Nói cách nào cũng được, chỉ cần nói đúng chuyện này, phá chấp trước, phá phân biệt đấy mà! Nói một danh từ, quư vị liền chấp trước, phân biệt. Nói mấy chục danh từ đều nhằm nói về chuyện này, danh tướng là giả, đừng chấp trước, quư vị mới hiểu nghĩa chân thật do đức Phật đă giảng.

      Pháp Thân bổn thể “diệc tức chúng sanh bổn cụ chi Phật Tánh” (cũng chính là Phật Tánh mà chúng sanh vốn sẵn có), Pháp Thân bổn thể là Phật Tánh của chính ḿnh. “Thị tâm thị Phật chi bổn tâm. Cố phán thuộc ư Lư, cái kỳ vi Thật Tế lư thể dă” (là bổn tâm “tâm này là Phật”, nên phán định [Vô Lượng Thọ] thuộc về Lư, v́ nó chính là Thật Tế lư thể). Nói tới cuối cùng, vũ trụ và chính ḿnh là một, chẳng hai. Đấy là ǵ? Nêu rơ quan hệ luân lư trong Phật pháp. Phật pháp giảng luân lư thật tuyệt vời, rốt ráo viên măn. Tổ tiên Trung Quốc nói tới luân lư, lấy thí dụ như trong hiện thời là một gia tộc, từ gia tộc mở rộng đến người ngoài: “Phàm thị nhân, giai tu ái” (phàm là người, đều phải yêu thương). Quan hệ luân lư như trong Phật pháp giảng, không chỉ là hết thảy mọi người và chính ḿnh là nhất thể; Lăo Tử nói “thiên địa dữ ngă đồng căn, vạn vật dữ ngă nhất thể” (trời đất và ta cùng một căn bản, vạn vật và ta cùng một thể), hai câu ấy hết sức gần với Đại Thừa Phật pháp, luân lư Phật pháp giảng điều ǵ? Hoa, cỏ, cây cối và chính ḿnh là nhất thể; núi, sông, đại địa và chính ḿnh là nhất thể; hư không pháp giới và chính ḿnh là nhất thể. Giảng luân lư viên măn, giảng đến rốt ráo. Hiểu rơ ràng mối quan hệ, phẩm đức thứ nhất trong tự tánh là ǵ? Là Ái. Phật không gọi là Ái, v́ sợ nói Ái, người ta sẽ nẩy sanh hiểu lầm, v́ trong Ái có t́nh, Ái đó sẽ chẳng thật, bị biến đổi; nhà Phật nói là từ bi. Từ bi là Ái, trong từ bi có trí huệ, chẳng có t́nh. Khi giác ngộ gọi là trí huệ, khi mê, trí huệ bèn biến thành t́nh, nên gọi là “t́nh thức”. V́ lẽ đó, trí huệ và t́nh thức là một chuyện. Một thể mà có hai phương diện! Khi ngộ th́ là trí huệ, lúc mê gọi là “t́nh chấp”. Đức Phật dạy chúng ta hăy giác ngộ, chớ nên mê hoặc. Chúng sanh trong mười pháp giới đều mê, chẳng giác, đến khi nào mới thật sự giác ngộ? Từ bậc Sơ Trụ trong Viên Giáo như kinh Hoa Nghiêm [đă nói] trở lên là giác ngộ. Trong tâm các Ngài, hoàn toàn là trí huệ, chẳng c̣n có t́nh chấp. Trong mười pháp giới, Phật pháp giới có chín phần giác ngộ, vẫn c̣n một phần t́nh chưa đoạn. Đạt đến địa vị Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo, t́nh chẳng c̣n, trí huệ mười phần viên măn hiện tiền, mới hữu dụng, mới chẳng lui sụt, mới chẳng đọa lạc. V́ thế, mục tiêu chung cực của giáo học Phật pháp là dạy chúng ta trở về tự tánh, trí huệ viên măn trong tự tánh chính là Thật Tế lư thể.

     “Phật Thuyết Đại Thừa thị Giáo, tức y thử Vô Lượng Thọ chi Lư thể, trực chỉ Đại Thừa vi dụ, vị tuyên thuyết chúng sanh bổn cụ chi đại kinh, phán chi vi Giáo, nghĩa thậm phân minh” (“Phật Thuyết Đại Thừa” là Giáo, nghĩa là nương theo lư thể của “Vô Lượng Thọ” để trực chỉ Đại Thừa. [Vô Lượng Thọ] là tỷ dụ, v́ đức Phật tuyên thuyết Đại kinh để nói về cái chúng sanh vốn sẵn có đủ. Ư nghĩa phán định chữ “Phật Thuyết Đại Thừa” là Giáo hết sức rơ ràng). Ư nghĩa này rất rơ ràng, rất minh bạch. Phần đầu [bản chú giải] kinh này, Hoàng lăo cư sĩ đă nói một câu rất hay, “chúng sanh bổn cụ chi đại kinh” (đại kinh nói về cái chúng sanh vốn sẵn có đủ, hoặc có thể hiểu là: Đại kinh mà chúng sanh vốn sẵn có). Nay chúng ta học kinh Vô Lượng Thọ là học kinh Vô Lượng Thọ của ai? Chẳng phải là A Di Đà Phật, chẳng phải là Thích Ca Mâu Ni Phật, mà là chính ḿnh. V́ sao? Trong tâm của chính ḿnh, trong chân tâm, trong tâm thanh tịnh đă trọn đủ Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác. Người Trung Quốc cũng nói tới bổn tánh. Câu đầu tiên trong Tam Tự Kinh là “nhân chi sơ, tánh bổn thiện” (thoạt đầu, con người tánh vốn lành). Đối với Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác, Tam Tự Kinh dùng một chữ là Thiện, bổn tánh vốn lành! Thiện nghĩa là ǵ? Chính là mười bốn chữ trong tựa đề kinh. Chính ḿnh, chẳng phải bên ngoài, học điều này để làm ǵ? Học để chúng ta trở về bổn thiện, quư vị liền thành Phật. Hiện thời chúng ta như thế nào? Hiện thời, chúng ta “tánh tương cận, tập tương viễn” (tánh gần giống như nhau, do huân tập mà khác xa), tánh của chúng ta là một, đều là thanh tịnh, b́nh đẳng, giác, đều là Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác, đều là như vậy; nhưng hiện thời mê muội, lệch lạc, tà vạy, lệch sang tập tánh. Tập tánh là ǵ? Ích kỷ, tự lợi, thị phi, nhân ngă, tiếng tăm, lợi dưỡng, tham, sân, si, mạn, làm những chuyện ấy, lệch lạc rồi! Tiếp nhận sự giáo dục của đức Phật là ǵ? Từ lệch lạc, tà vạy quay trở lại, trở về Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác, trở về bổn thiện. Từ tập tánh trở về bổn thiện là đúng. Điều đó gọi là sự giáo dục của đức Phật. Sự giáo dục của đức Phật là ǵ? Quư vị vốn là Phật, nay quư vị đang mê muội, lệch lạc, nên là chúng sanh. Chúng sanh chẳng làm ǵ, cứ luân hồi trong lục đạo, bị khốn khổ ngần ấy bèn oán trời hờn người, chẳng biết là tự làm, tự chịu! Thật sự hiểu rơ ràng, minh bạch, [sẽ thấy Phật pháp] vốn là sự giáo dục tốt nhất trong thế gian và xuất thế gian!

      Thầy Phương về già dạy học tại Đài Loan, từ lúc tôi được biết cụ cho đến khi cụ mất, trong hơn hai mươi năm, hết thảy những lớp cụ dạy đều là giảng kinh Phật, nhưng cụ chẳng giảng từng bộ kinh một mà giảng đại ư. Cụ dạy học cũng giống như Phật Thích Ca hay Khổng Tử, dạy học chẳng có sách giảng nghĩa, chẳng có sách giáo khoa. Cũng may là thuở ấy, cụ c̣n phóng khoáng hơn thầy Lư một chút. Thầy Lư giảng kinh chẳng cho phép người khác thâu âm, thâu h́nh càng không chấp nhận! Nếu quư vị mang máy ghi âm đến, Ngài sẽ chẳng giảng, nhưng thầy Phương cho phép học tṛ ghi âm, chuyện này cũng tốt lắm. Quư vị đọc Toàn Tập [của cụ Phương Đông Mỹ] sẽ thấy đó là do học tṛ ghi lại, ghi từ đâu ra? Chép từ băng thâu âm ra. Sách do chính cụ viết không nhiều lắm, chỉ có mấy loại, hiện thời Toàn Tập có kích thước lớn như vậy toàn là chép từ băng thâu âm ra. Cụ chẳng thích dùng sách, cũng chẳng thích dùng bài giảng soạn sẵn, mà tùy ư nói ra không hạn chế. Tôi theo cụ một thời gian, cụ đặc biệt giảng cho một ḿnh tôi. V́ thế, tôi là học tṛ rất đặc biệt, các bạn đồng học rất hâm mộ. Ở Hương Cảng, tiên sinh Đường Quân Nghị[2] là học tṛ của cụ. Những học tṛ thuở đầu ai nấy đều có thành tựu rất khá. V́ thế, phương pháp cổ nhân đă sử dụng hiện thời vẫn c̣n có người dùng, nhưng học sinh phải có một tŕnh độ nhất định. Chưa đạt đến tŕnh độ, nghe giảng cũng chẳng hiểu thầy đang giảng ǵ! Thật sự nghe hiểu, sẽ thấy vô cùng thú vị.

      Do vậy, phải hiểu: Hết thảy các kinh Phật, không chỉ là một bản kinh này, mà hết thảy đều là tự tánh, là một phần của Tánh Đức, một phần là toàn phần. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Một tức là nhiều, nhiều tức là một”. Chuyện này vừa mới được Lượng Tử Lực Học phát hiện. Lượng Tử Lực Học phát hiện bất luận một tế bào nào, một phân tử c̣n nhỏ hơn tế bào, nhưng trong một phân tử có thông tin viên măn về vũ trụ, họ phát hiện điều này! Trong Phật pháp, điều này được nói rất nhiều. Phật pháp nói trong mỗi một hạt vi trần có toàn thể vũ trụ. Trong vi trần có thế giới, thế giới chẳng rút nhỏ, vi trần chẳng ph́nh to, trong ấy có thế giới viên măn. Đối với thế giới ấy, chúng ta đă đọc kinh Hoa Nghiêm, thấy kinh nói ai có thể thấy thế giới trong vi trần? Phổ Hiền Bồ Tát. Phổ Hiền Bồ Tát có thể đến tham học và giáo hóa chúng sanh trong thế giới ở trong vi trần. Mỗi hạt vi trần đều là như vậy, chẳng có ngoại lệ, một chính là nhiều, nhiều chính là một. Một và nhiều chẳng hai! Trong tự tánh không có lớn hay nhỏ, chẳng có xa hay gần. Không có xa gần là chẳng có không gian; không có trước sau là chẳng có thời gian, không có đối lập. Đấy chính là Tánh Đức viên măn thấu lộ.

      Tiếp đó, sách viết: “Hựu tùng Giáo khởi Hành, cố hạ văn trung Trang Nghiêm Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác tức thị Phật sở giáo hóa chi diệu hạnh dă” (Lại c̣n từ Giáo khởi Hành nên Trang Nghiêm Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác chính là diệu hạnh do đức Phật giáo hóa). Nay chúng ta nói Trang Nghiêm là “mỹ hảo” (đẹp đẽ), Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác là điều chúng ta tu học.

Tôi cũng có một cách giảng riêng khác với cách giảng của cụ Hoàng, tôi nghĩ cách tôi nói khiến cho mọi người dễ hiểu hơn. Tôi đem [tựa đề kinh] phối hợp với ba giai đoạn tu học là A La Hán, Bồ Tát, và Phật. Buông chấp trước xuống, chẳng c̣n chấp trước hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian, tâm thanh tịnh hiện tiền; đấy là A La Hán. Bước thứ nhất là quư vị khôi phục tâm thanh tịnh. Tiến hơn bước nữa là buông phân biệt xuống, chẳng c̣n có ư niệm phân biệt, tâm quư vị đắc định. Chẳng c̣n phân biệt là tâm b́nh đẳng hiện tiền; đấy là Bồ Tát. A La Hán c̣n có phân biệt, Bồ Tát chẳng phân biệt. Cuối cùng, khởi tâm động niệm đều không có, sự giác ngộ ấy chính là Phật Đà. V́ thế, “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác” là ba tầng tu học theo thứ tự, ba giai đoạn. Bậc thượng thượng căn bỏ ngay, đoạn ngay khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước, Lục Tổ Huệ Năng trong Thiền Tông là người như vậy. Ngài có thể buông xuống ngay lập tức, nên thành Phật, phàm phu bèn thành Phật. V́ thế, nói theo lư luận, phàm phu thành Phật cần bao nhiêu thời gian? Một niệm! Trong một niệm, phàm phu có thể thành Phật. Quư vị nghĩ xem, trong một niệm chúng ta có thể tiêu diệt tội nghiệp hay không? Quư vị chẳng hiểu rơ ư? Hễ một niệm giác th́ mầm mống tội lỗi đă tạo trong vô lượng kiếp sẽ chẳng c̣n nữa, đều tiêu hết, thành Phật rồi!

      Trong kinh, đức Phật có nêu một tỷ dụ: “Pḥng tối ngàn năm”. Căn pḥng ấy tối tăm cả ngàn năm, chẳng hề có ánh đèn chiếu tới. Pḥng tối ngàn năm tỷ dụ điều ǵ? Tỷ dụ thời gian quư vị tạo tác tội nghiệp rất dài, tội rất nặng, nhưng thắp một ngọn đèn sẽ chiếu sáng, tối tăm chẳng c̣n nữa! V́ thế, chúng ta hiểu đạo lư này, buông khởi tâm động niệm xuống sẽ thành Phật. Trong kinh Đại Thừa, khởi tâm động niệm được gọi là “căn bản vô minh”. Tất cả hết thảy các hiện tượng hư vọng, y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới là huyễn tướng, “phàm những ǵ có h́nh tướng đều là hư vọng”, “hết thảy hữu vi pháp, như mộng, huyễn, bọt, bóng”, hết thảy mọi người đều biết đọc những câu ấy, nhưng quư vị có cảm nhận được hay chăng? Chúng ta chia nó thành từng giai đoạn. Chẳng chấp trước hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian, lục đạo sẽ chẳng c̣n. V́ thế biết: Tạo thành lục đạo nghiêm trọng nhất chính là chấp trước. Chẳng c̣n chấp trước, lục đạo sẽ chẳng c̣n! C̣n có tứ thánh pháp giới, tức Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật, đó là ǵ? Phân biệt. Quư vị có phân biệt, sẽ có [tứ thánh pháp giới]. Chẳng có phân biệt, tứ thánh pháp giới sẽ chẳng có, mười pháp giới cũng chẳng có, chỉ c̣n lại cái được gọi là Nhất Chân pháp giới. Chẳng có khởi tâm động niệm sẽ vượt thoát mười pháp giới. Nay chúng ta hiểu rơ: Sở dĩ cơi Thật Báo của chư Phật Như Lai tồn tại là v́ tập khí vô thỉ vô minh chưa đoạn sạch, nên các Ngài hiện tướng này. Khi tập khí đoạn sạch, tướng ấy sẽ chẳng có. Do vậy, “phàm những ǵ có h́nh tướng đều là hư vọng”, đức Phật chẳng nói “trừ cơi Thật Báo của chư Phật Như Lai ra”, chẳng nói câu ấy. Chẳng nói câu ấy th́ nói cách khác là cơi Thật Báo cũng vậy, cũng là chẳng thật. Tập khí vô thỉ vô minh đoạn sạch, sẽ là h́nh dạng ra sao? Vẫn c̣n có, trong Tịnh Độ gọi là cơi Thường Tịch Quang hiện tiền. Thường Tịch Quang là tự tánh của chúng ta. Thường Tịch Quang là Bổn Tế. Thường Tịch Quang chính là Bổn Tâm đang được nói ở đây. Ở đây, Thường Tịch Quang được gọi là “Thật Tế lư thể”, quy về Thường Tịch Quang. Thường Tịch là nói về tự tánh.

      Huệ Năng đại sư minh tâm kiến tánh là thấy ǵ vậy? Thấy Thường Tịch Quang. Ngài mô tả Thường Tịch là như thế nào, chứ các nhà khoa học chẳng thể nói được!

- Thứ nhất là thanh tịnh, “nào ngờ tự tánh, vốn tự thanh tịnh”, mảy may ô nhiễm cũng chẳng có, chưa hề bị ô nhiễm. Trong lục đạo chẳng ô nhiễm, trong địa ngục A Tỳ cũng không ô nhiễm, chân tánh của quư vị trước nay chưa hề bị ô nhiễm.

- Thứ hai là “vốn chẳng sanh diệt”, bất sanh, bất diệt, vĩnh hằng.

- Thứ ba là “vốn tự trọn đủ”. Trong Thường Tịch Quang, thứ ǵ cũng đều không có. Nó chẳng phải là vật chất, mà cũng chẳng phải là tinh thần, cũng chẳng phải là hiện tượng tự nhiên, nhưng những thứ ấy đều ẩn tàng trong đó, chẳng tỏ lộ ra. Vốn tự trọn đủ, giống như máy TV. Chúng ta tắt nguồn điện th́ thứ ǵ cũng chẳng có, nhưng quư vị chẳng thể nói là nó không có. Quư vị bật điện lên, nó bèn xuất hiện. Nhà Phật gọi điều này là “ẩn hiển”. Trong Thường Tịch Quang, [những h́nh tướng, hiện tượng] đều ẩn, thứ ǵ cũng chẳng có.

- Nếu gặp duyên, “có thể sanh ra vạn pháp”. Có thể sanh ra vạn pháp là Hiển, sanh ra mười pháp giới, sanh ra cơi Thật Báo của chư Phật là Hiển. Khi hiển, quư vị chẳng thể nói là nó có. Khi chẳng hiển, chẳng thể nói là nó không có. Tự tánh vốn định, do vậy, định rất quan trọng.

- Huệ Năng đại sư bảo: “Nào ngờ tự tánh, vốn chẳng dao động”, cũng là chân tâm bất động. Vọng tâm bị động, chứ không phải là chân tâm. Chúng ta nói “khởi tâm động niệm”, nghĩ Đông tưởng Tây là vọng tâm, chẳng phải là chân tâm. Đấy là thức thứ sáu, tức Ư Thức thuộc A Lại Da, phải hiểu rơ ràng! Khoa học [vận dụng] tận hết sức lực, đúng như đức Phật đă nói, có thể phát hiện A Lại Da, chứ chẳng thể kiến tánh, v́ sao? Kiến tánh cần phải buông vọng tưởng, phân biệt, chấp trước xuống. Các khoa học gia chẳng buông những thứ ấy xuống, nên họ chẳng thể kiến tánh. Đạt đến cảnh giới này, khoa học chẳng thể tiến cao hơn được nữa, vẫn mong truy tầm, khảo sát bản thể vũ trụ, nhưng chẳng t́m được. Chắc chắn là t́m không được! Buông xuống sẽ t́m được. Chuyện này đ̣i hỏi phải có công phu định lực. V́ thế, Trang Nghiêm Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác chính là diệu hạnh giáo hóa của đức Phật.

      “Nhất cú A Di Đà, dĩ chi trang nghiêm tự tâm, thanh tịnh tự tâm, thị tức y giáo tu hành dă” (Một câu Di Đà dùng trang nghiêm tự tâm, thanh tịnh tự tâm th́ chính là “y giáo tu hành”). Đây là quy về Tịnh Độ Tông, quy về phương pháp tu hành được giảng trong bộ kinh này, tức là một câu A Di Đà, “Phát Bồ Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm”. Đặc biệt, trong xă hội hiện tiền, tai nạn rất nhiều, chúng ta buông xuống vạn duyên, buông xuống hết thảy, thật sự buông xuống giống như Thích Ca Mâu Ni Phật, trong tâm chỉ có một câu A Di Đà Phật, trừ A Di Đà Phật ra, thứ ǵ cũng đều chẳng có, tâm quư vị vui sướng lắm, tự tại lắm! Đấy mới là như Phương tiên sinh đă nói: “Sự hưởng thụ tối cao trong đời người”. Chính ḿnh chắc chắn sanh về Tịnh Độ, hễ sống thêm một ngày trên thế giới này th́ phải thêm nỗ lực một ngày, để làm ǵ? Nâng cao phẩm vị! Nâng cao phẩm vị bằng cách nào? Trọn chẳng lưu luyến thế gian này, phẩm vị của quư vị mới có thể nâng cao. Mảy may vướng mắc đối với thế gian này chính là sợi dây trói buộc khiến cho quư vị chẳng thể văng sanh, quư vị đă sai rồi, hăy buông hết thảy xuống! V́ thế, chúng ta sống trong thời đại này, đối với một người tu hành thật sự mong chứng quả, mong thành Phật mà nói th́ là hoàn cảnh tốt đẹp! Lắm tai nạn là hoàn cảnh tốt đẹp, v́ nó bức bách quư vị không dụng công cũng chẳng được, ép quư vị không buông xuống cũng chẳng xong. Đó gọi là Nghịch Tăng Thượng Duyên. Nếu là đời thái b́nh thịnh trị, hết thảy đều có thể vừa ḷng như ư, quư vị sẽ chẳng muốn rời đi, vẫn mong sống trên thế giới này thêm vài năm nữa. Nếu thấy hiện thời tai nạn dồn dập như thế, trong tâm sẽ mong “ước ǵ ta văng sanh ngay lập tức, văng sanh ngay hôm nay là tốt nhất!” Tâm thành tựu sẽ dũng mănh, tinh tấn, khiến cho quư vị có cái tâm cảnh giác rất cao trong hoàn cảnh, chẳng mê hoặc mảy may nào! V́ thế, trong các buổi giảng, chúng tôi thường nói: “Trong thế gian này, ai cũng là người tốt, mọi chuyện đều là chuyện tốt” Người t́m đến gây chuyện, tạo chướng ngại đều là người tốt, đều là chuyện tốt. V́ sao? Khiến cho chúng ta chẳng c̣n mảy may lưu luyến thế giới này. Đối với người tu hành, đó là chuyện tốt, quyết định thành tựu trong một đời này, lại c̣n thành tựu rất nhanh!

      Tiếp đó, sách viết: “Bất giả phương tiện, tự đắc tâm khai” (chẳng nhờ vào phương tiện, tự được tâm khai). “Bất giả phương tiện” là chẳng cần nhờ đến phương pháp nào khác giúp đỡ, chỉ đơn độc một câu A Di Đà Phật là được rồi, tự được tâm khai. “Tâm khai” là khai ngộ, minh tâm kiến tánh. “Viên hiển bổn cụ chi b́nh đẳng giác, thị dĩ Hành hiển Lư dă” (hiển lộ trọn vẹn b́nh đẳng giác sẵn có. Ấy là dùng Hành để hiển Lư). Chúng ta thật sự niệm, thật sự hành, trong sự niệm Phật của quư vị có Định, Định sanh ra Huệ. Khi thật sự buông xuống, tâm thanh tịnh hiện tiền, tâm b́nh đẳng hiện tiền, lẽ đâu chẳng khai ngộ? Hễ khai ngộ, tất cả nghiệp chướng đều tiêu. Chúng ta hăy nghĩ xem, đời Đường, Huệ Năng đại sư thật sự khai ngộ trong phương trượng thất của Ngũ Tổ, nghiệp chướng tiêu sạch, v́ sao vẫn phải ẩn núp trong phường thợ săn mười lăm năm, pháp duyên mới thành thục, v́ sao? Nghiệp chướng của chính ḿnh đă tiêu rồi, nhưng phước báo của chúng sanh chưa hiện tiền, chúng sanh có nghiệp chướng, nên chẳng có cách nào! Quư vị không có cách nào tiêu nghiệp giùm họ được! Ắt phải [chờ đến lúc] nghiệp chướng của chúng sanh cũng tiêu mất th́ quư vị mới có thể giúp đỡ họ. Điều này được gọi là ǵ? “Phật chẳng độ kẻ vô duyên”. Chúng sanh có nghiệp, chúng sanh đáng thương, vẫn chưa thể tiếp nhận, quư vị đành phải thong thả chờ đợi họ, Huệ Năng đại sư có thể chờ mười lăm năm. Sau đấy, các vị Bồ Tát giúp đỡ Ngài. Ngài Ấn Tông là Bồ Tát, rất phi phàm, chẳng có tí xíu tâm ghen ghét nào, Ngài là Bồ Tát, chẳng phải là phàm nhân. Có tâm ghen ghét sẽ chèn ép, luôn mong khống chế, lợi dụng, chiếm hữu Lục Tổ để tạo tiếng tăm, lợi dưỡng cho chính ḿnh. Ngài Ấn Tông không như thế, nhận biết đại sư thật sự đắc pháp từ chỗ ngài Hoàng Mai, là vị pháp sư được truyền y bát, lúc đó, Lục Tổ vẫn c̣n là một cư sĩ chưa xuống tóc, Ấn Tông bèn quy y cho đại sư. V́ thế, ngài Ấn Tông là thầy quy y của Lục Tổ. Sau khi xuống tóc, Ấn Tông bái Lục Tổ làm sư phụ, bái Ngài làm thầy. Do vậy, Huệ Năng là thầy truyền pháp cho Ấn Tông; mà Ấn Tông lại là thầy thế độ của Huệ Năng. Hết sức phi phàm! Thuở ấy, tại vùng Lănh Nam[3], Quảng Đông, ngài Ấn Tông có danh vọng rất cao, pháp duyên rất thịnh, Ngài bái đại sư làm thầy, tôn thầy lên cao, ngay lập tức, đại sư bèn được nổi tiếng. Ấn Tông làm hộ pháp cho Ngài, thỉnh Ngài giảng kinh, giáo học, ai không phục? Ai chẳng nghe theo? Ấn Tông dẫn đầu đến nghe, đến học. Điều này được Phật pháp diễn tả là: “Nhất Phật xuất thế, thiên Phật ủng hộ” (một vị Phật ra đời, ngàn vị Phật ủng hộ).

      “Hựu đắc văng sanh giả ngộ Vô Sanh Nhẫn, tùng Thể khởi Dụng, phục dĩ thử b́nh đẳng diệu pháp, b́nh đẳng phổ độ nhất thiết chúng sanh, văng sanh Tịnh Độ, đồng chứng Đại Giác, phục thị tùng chúng hạnh hiển Lư dă” (Hơn nữa, được văng sanh bèn ngộ Vô Sanh Nhẫn, từ Thể khởi Dụng, lại dùng diệu pháp b́nh đẳng này b́nh đẳng phổ độ hết thảy chúng sanh văng sanh Tịnh Độ, cùng chứng Đại Giác. Đấy cũng chính là từ các hạnh hiển lư vậy). Văng sanh mới thật sự chứng đắc Vô Sanh. Địa vị Vô Sanh Pháp Nhẫn rất cao! Theo kinh Đại Thừa đă giảng, hàng Đăng Địa Bồ Tát[4] mới chứng đắc, nhưng thật sự chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn là từ Thất Địa trở lên. Vô Sanh Pháp Nhẫn là ǵ? Thật ra, nay chúng ta cũng biết, hiện thời chúng ta chưa phải là chứng ngộ, mà là giải ngộ. Chẳng phải là chứng ngộ th́ chưa dùng được, chẳng phải là cảnh giới của chúng ta. Chúng ta biết đích xác, v́ sao? Quư vị đọc đoạn đối thoại giữa Di Lặc Bồ Tát và Thích Ca Mâu Ni Phật, sẽ biết hết thảy các pháp bất sanh, hết thảy các pháp bất diệt. Nhẫn () là quư vị thừa nhận, đồng ư, tán thành: Hết thảy các pháp thật sự bất sanh. Pháp là ǵ? Di Lặc Bồ Tát đă giảng: “Trong một khảy ngón tay, có ba mươi hai ức trăm ngàn niệm, niệm niệm thành h́nh”, “h́nh” là hiện tượng vật chất. “H́nh đều có thức”, thức là hiện tượng tinh thần. Hiện tượng tinh thần và hiện tượng vật chất do đâu mà có? Do huyễn tướng từ ư niệm liên tục tích lũy lại! Cách nói này là cách nói của các khoa học gia Lượng Tử, v́ họ cũng phát hiện vật chất và tinh thần đột nhiên phát sanh, trong Không sanh ra Có, thời gian rất ngắn ngủi, vừa sanh ra liền bị tiêu diệt, chẳng c̣n nữa. Đấy là hiện tượng Vô Sanh. Khoa học gia dùng máy móc để chứng đắc, vẫn chưa thật sự hiểu rơ ràng, nhưng người tu hành do công phu định lực chứng đắc, công phu định lực là ǵ? Tâm thanh tịnh hiện tiền. Khoa học gia giống như chúng ta, chưa rời khỏi phân biệt, chấp trước, nhờ vào máy móc để quan sát t́nh h́nh vật chất là như thế đó.

      V́ thế, các nhà khoa học nói: Dựa trên sự nghiên cứu nguyên tử và các hạt cơ bản, đạt đến kết luận cuối cùng, trong vũ trụ chẳng có những thứ vật chất ǵ cả! Hiện tượng vật chất và tinh thần đều là một hiện tượng tích lũy liên tục của ư niệm. V́ thế, trong khi giảng kinh Hoa Nghiêm, chúng tôi thường xuyên nhắc nhở các đồng học: Hiện tượng ấy là hiện tượng gần giống như liên tục (tương tự tương tục tướng), chẳng phải là thật sự liên tục, mà thật sự là sanh khởi trong mỗi niệm, hiện tượng vật chất và hiện tượng tinh thần đều độc lập, niệm trước và niệm sau khác nhau, niệm niệm đều khác nhau, chúng là tương tự, chẳng phải là hoàn toàn giống nhau. V́ thế, chẳng thể nói là “liên tục”, mà nói là “tương tự tương tục”. Do đó, tôi cảm thấy các nhà khoa học nói như vậy rất hay, họ nói là “tích lũy”. [Các hiện tượng vật chất và tinh thần] đều là huyễn tướng của ư niệm được tích lũy liên tục; cách nói này rất khá, giảng rất rơ ràng. Quư vị thật sự thừa nhận Vô Sanh Nhẫn, biết những thứ ấy (các hiện tượng tinh thần và vật chất) chẳng phải là thật, kể cả thân thể chúng ta, quư vị liền an tâm. An tâm liền tự tại. Hễ an tâm, các tế bào trong toàn bộ thân thể sẽ khôi phục b́nh thường. Quư vị chẳng an ḷng, hôm nay nghĩ tới chỗ này, ngày mai nghĩ đến gan, hôm sau lại nghĩ đến phổi, hôm sau nữa lại nghĩ đến tim, trong ḷng luôn căng thẳng. Căng thẳng sẽ như thế nào? Dễ sanh ra bệnh tật, tế bào bèn sanh ra sự biến hóa. Quư vị biết hết thảy đều b́nh thường, hễ sanh ra liền lập tức diệt, căn bản là quư vị chẳng c̣n nghĩ tới nó, liễu giải chân tướng sự thật, mặc kệ nó! Toàn bộ sẽ khôi phục b́nh thường, những tế bào vốn mắc bệnh sẽ khôi phục b́nh thường. Do vậy, đây là chỗ tốt đẹp tối thiểu do học Phật, học được điều ǵ? Quư vị chẳng ngă bệnh! Tôi lại bảo quư vị: Quư vị chẳng chết, sanh tử là giả. Đó là thật, chẳng phải là lời giả dối, tuyệt đối chẳng phải là mê tín!

      Do vậy, đối với sanh tử, Phật pháp nói “liễu sanh tử” th́ “liễu” là ǵ? Hiểu rơ! Thật sự hiểu rơ sanh tử là chuyện ǵ, hiểu rơ ràng; v́ thế, quư vị chẳng sợ hăi nó một chút nào! Sanh tử là chuyện ǵ? Thay một bộ quần áo mà thôi! Thân thể vật chất này sử dụng một khoảng thời gian đă trục trặc rồi, trục trặc th́ thay đổi cái khác, giống như quần áo đă mặc dơ, rách nát, hoặc chẳng thích mặc nữa, bèn thay bộ khác, chuyện này rất b́nh thường. Tinh thần bất diệt, không chỉ là thay đổi, quư vị thấy thân thể này vứt bỏ, nhưng c̣n có linh tánh. Chúng ta nói “linh hồn” th́ linh hồn đang mê; sau khi giác ngộ chẳng gọi là “linh hồn” mà gọi là “linh tánh”. Học Phật chẳng phải là làm chuyện ǵ khác, mà là nâng cao linh tánh của chính ḿnh. Thân thể là cái kèm theo, linh tánh dựa vào cái thân này, thân thể chẳng có tí xíu bệnh tật nào. Do linh hồn có mê, mê rồi nên nó có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, linh tánh chẳng mê. Do vậy, sẽ h́nh thành “Kim Cang bất hoại thân” như kinh Phật đă nói, chuyển mê thành ngộ là Kim Cang bất hoại thân. “Từ Thể khởi Dụng” là ǵ vậy? Ứng hóa trên thế gian là từ Thể khởi Dụng. Lại dùng phương pháp này, tức là dùng phương pháp “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác” để b́nh đẳng phổ độ hết thảy chúng sanh. Phương pháp này tuyệt diệu, “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác” ở ngay trong một câu A Di Đà Phật. Toàn bộ câu A Di Đà Phật này là tiếng Phạn, có thể dùng “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác” để dịch ư nghĩa của nó. A Di Đà Phật nghĩa là ǵ? “Thanh tịnh, b́nh đẳng, giác”, dùng phương pháp này để độ hết thảy chúng sanh, giúp họ văng sanh thế giới Cực Lạc cùng chứng Vô Thượng Bồ Đề, Đại Giác là Vô Thượng Bồ Đề, là quay về tự tánh. Đấy là từ các hạnh để hiển Lư. Các hạnh gồm nhiều hạnh môn, kể cả cuộc sống hằng ngày và công việc của chúng ta, xử sự, đăi người, tiếp vật, toàn là A Di Đà Phật, hoàn toàn là “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác”. Điều khẩn yếu là chúng ta phải thật sự hiểu rơ, thật sự biết dùng, biết dùng phương pháp đơn giản nhất là trong cuộc sống, trong công việc, trong xử sự đăi người, tiếp vật, trong tâm có A Di Đà Phật. Trong tâm trừ A Di Đà Phật ra, thứ ǵ cũng đều không có. Câu này (tức câu “từ Thể khởi Dụng”) có ư nghĩa như vậy đó. Trong tâm chẳng cần nghĩ đến “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác”, chỉ nghĩ tới A Di Đà Phật, bốn chữ đơn giản là được rồi, sẽ nhập cảnh giới ấy. Vận dụng “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác” vào cuộc sống, công việc, đăi người, tiếp vật, do các hạnh mà hiển Lư, đấy là tự tánh.

      “Nhược dĩ kinh đề phối Tam Đại” (nếu đem tựa đề kinh phối hợp với Tam Đại), Tam Đại là Thể, Tướng, Dụng. Trong tựa đề kinh có những ư nghĩa ấy hay không? “Vô Lượng Thọ thị Thể đại, Trang Nghiêm Thanh Tịnh thị Tướng đại, B́nh Đẳng Giác thị Dụng đại” (Vô Lượng Thọ là Thể đại, Trang Nghiêm Thanh Tịnh là Tướng đại, B́nh Đẳng Giác là Dụng đại), thật sự có ư nghĩa Tam Đại, rất rơ rệt. Chúng ta đọc phần tiếp theo: Y Hán dịch Vô Lượng Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác tức A Di Đà Phật nghĩa” (Căn cứ theo bản Hán dịch, Vô Lượng Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác tức là ư nghĩa của chữ A Di Đà Phật). Trong năm bản dịch gốc, bản dịch đời Hán có tựa đề là Vô Lượng Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác Kinh; tựa đề này là dịch theo nghĩa, nguyên văn tiếng Phạn là A Di Đà. “Cánh khả dĩ bổn kinh đề phối tam giác. Vô Lượng Thọ Phật thị ngă Bổn Giác. Phát Bồ Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm, dĩ trang nghiêm tự tâm thị danh Thỉ Giác. Thỉ Giác hợp Bổn Giác, trực xu Cứu Cánh Giác, tức đề trung Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác dă” (ta có thể đem tựa đề kinh này phối hợp với Tam Giác. Vô Lượng Thọ Phật là Bổn Giác của ta. Phát Bồ Đề tâm, một mực chuyên niệm để trang nghiêm tự tâm là Thỉ Giác. Thỉ Giác hợp với Bổn Giác, tiến thẳng đến Cứu Cánh Giác chính là Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác trong tựa đề kinh). Đây là phối hợp với ba món Giác: Thỉ Giác, Bổn Giác, và Cứu Cánh Giác. Trong đó, Bổn Giác là Lư thể, Thỉ Giác là bắt đầu tu hành. Chúng ta suốt ngày mê muội, bất giác, quư vị phải hiểu: Niệm Phật là giác chứ không mê. Nhưng quư vị phải biết: Nếu không hiểu, mà chẳng nghe kinh, chẳng học giáo, quư vị niệm câu A Di Đà Phật này vẫn là mê hoặc, điên đảo, mê tín, A Di Đà Phật là ǵ? Không biết! Người ta nói A Di Đà Phật là ǵ? “Tượng Phật được thờ trong nhà tôi là A Di Đà Phật”, kẻ ấy bèn chỉ vào tượng đó, về căn bản chẳng biết A Di Đà Phật là ǵ! A Di Đà Phật là tự tánh, là bổn tánh của chính ḿnh, là “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác” chính ḿnh vốn sẵn đủ. Liễu giải th́ khi niệm sẽ tương ứng, giống như phương pháp được gọi là Tam Mật Tương Ứng trong Mật Tông: Tay kết thủ ấn, nay chúng ta gọi là “thủ ngữ”, miệng tŕ chú, trong tâm quán tưởng, thảy đều tương ứng th́ mới được. Chúng ta niệm một câu A Di Đà Phật này cũng giống như thế, khi niệm A Di Đà Phật chắp tay niệm cũng được, cung kính! Lần tràng hạt niệm Phật cũng được. Cầm tràng hạt trên tay nhưng không lần cũng được! V́ sao? Nhắc nhở chính ḿnh. Không lần tràng hạt để nhắc nhở chính ḿnh, [cầm tràng hạt] giống như thủ ấn, giống như kết ấn, bằng với kết ấn. Một câu A Di Đà Phật chẳng rời miệng, giống như tŕ chú. Trong tâm thanh sạch, chẳng nhiễm mảy trần. Hoặc là miệng niệm Phật, trong tâm có Phật, niệm một tiếng A Di Đà Phật, biết A Di Đà Phật là tự tánh của chính ḿnh, biết A Di Đà Phật là “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác” của chính ḿnh, biết A Di Đà Phật là đại viên măn của chính ḿnh, chẳng phải là chẳng có ǵ khác [Tam Mật Tương Ứng] ư? Cùng là một chuyện! C̣n đơn giản, thuận tiện hơn Mật Giáo! Trong Mật Giáo có rất nhiều quy củ, pháp môn này không có, hoàn toàn khiến quư vị thoải mái. V́ thế, nếu quư vị biết niệm, đúng là một pháp môn sẽ là hết thảy các pháp môn. Một câu A Di Đà Phật này bao gồm trọn hết thảy Đại Thừa, Tiểu Thừa, Hiển Giáo, Mật Giáo, Tông Môn, Giáo Hạ! Quư vị nói xem pháp môn này có thù thắng, vi diệu lắm hay không?

      Tiếp đó là: “Hựu khả giải vi B́nh Đẳng Giác thị ngă Bổn Giác. Khởi tâm niệm Phật, dĩ tự trang nghiêm, thị vi Thỉ Giác. Thỉ Bổn bất ly, trực xu giác lộ, đốn nhập Tịch Quang, chứng Vô Lượng Thọ. Như thị tắc B́nh Đẳng Giác thị ngă nhân tâm, Vô Lượng Thọ thị ngă Quả Giác. Như thị diệu nghĩa triển chuyển vô tận, tất tại nhất đề chi trung” (Lại có thể hiểu như sau: B́nh Đẳng Giác là Bổn Giác của ta, khởi tâm niệm Phật để tự “trang nghiêm” là Thỉ Giác. Thỉ, Bổn chẳng rời nhau, thẳng tiến trên đường giác ngộ, chóng vào được Tịch Quang, chứng Vô Lượng Thọ. Như vậy, B́nh Đẳng Giác là nhân tâm (cái tâm dùng làm nhân, cái tâm tu nhân) của ta, Vô Lượng Thọ là Quả Giác của chúng ta). Diệu nghĩa được phát triển đến vô tận như thế, nhưng đều nằm gọn trong tựa đề). Những ư nghĩa ấy đều bao gồm trong tựa đề kinh, trong tựa đề kinh bao hàm vô lượng nghĩa, thật vậy, chẳng giả! “Thị cố Viên Trung Sao sớ viết: ‘Văn thủ đề danh tự, hoạch vô lượng công đức’. Sao viết: Như Kim Quang Minh, cập chư Đại Thừa, đa tác thử thuyết” (V́ vậy, trong sách Viên Trung Sao có lời sớ như sau: “Nghe tựa đề kinh được vô lượng công đức”. Lời Sao giảng: “Như kinh Kim Quang Minh và các kinh Đại Thừa khác phần nhiều nói như vậy”). Từ các bản chú sớ kinh Đại Thừa của cổ đức, chúng ta thấy nói như vậy rất nhiều! Không chỉ là tựa đề kinh trọn đủ viên măn vô lượng nghĩa, mà trong các buổi giảng, chúng tôi đă từng báo cáo cùng quư vị: Một câu A Di Đà Phật trọn đủ vô lượng nghĩa. Trong một câu A Di Đà Phật dung nhiếp trọn vẹn tựa đề của mười hai bộ kinh, [nói “mười hai bộ kinh” ở đây] là nói tới mười hai bản dịch gốc [của kinh Vô Lượng Thọ]. Mỗi tựa đề đều được bao gồm trong Phật hiệu. V́ vậy, quư vị niệm một câu Phật hiệu này là niệm trọn hết tựa đề của mười hai bộ kinh, niệm tựa đề là niệm toàn bộ bản kinh. Niệm toàn bộ kinh này sẽ giống như niệm toàn bộ kinh Hoa Nghiêm và hết thảy các kinh do Thích Ca Mâu Ni Phật đă giảng trong bốn mươi chín năm, chẳng sót một bộ nào! Chúng ta học phần giải thích tựa đề kinh của cụ Hoàng Niệm Tổ đến đây [là xong].

Tiếp theo đây, tôi sẽ đơn giản giới thiệu cách tôi giảng tựa đề bộ kinh này như thế nào khi tôi giảng kinh này trong quá khứ. Hiện thời, chúng tôi giảng bộ kinh này lần thứ mười một, trước kia đă giảng mười lần, nhưng cả mười lần, chúng tôi không giảng bản Chú Giải của cụ Hoàng Niệm Tổ, chỉ là giảng kinh, chẳng giảng chú giải. Tham khảo chú giải, sử dụng một phần, c̣n lần này là học tập bản Chú Giải chẳng sót một chữ nào. “Phật Thuyết Đại Thừa”, Phật là Thích Ca Mâu Ni Phật nói, ư nghĩa này rất rơ rệt. Phật là Thích Ca Mâu Ni Phật, Bổn Sư. “Thuyết” là thỏa thích điều từng ấp ủ trong ḷng. Đức Phật xuất hiện trên thế gian này, nhằm mục đích ǵ? V́ rộng độ chúng sanh, giúp chúng sanh mau chóng thành Phật. Dùng phương pháp ǵ để giúp chúng sanh có thể thành Phật trong một đời? Bằng pháp môn này, bằng bộ kinh này! Đức Phật thấy chúng sanh cơ duyên thành thục; cơ duyên là ǵ? Họ có thể tin, nghe hiểu, lư giải. Sau khi nghe hiểu, họ sẽ chịu làm, chịu phát nguyện văng sanh, cơ duyên đă chín muồi! Phật bèn giảng bộ kinh này cho mọi người, nhằm măn nguyện của quư vị, một đời này, quư vị chắc chắn sẽ được như nguyện, sanh về thế giới Cực Lạc, thân cận A Di Đà Phật, đến Tây Phương Cực Lạc thế giới tu hành chứng quả, thành Phật độ sanh giống như Ngài. Đấy là ư nghĩa của hai chữ Phật Thuyết.

      “Đại Thừa” là trí huệ, v́ trong phẩm [Như Lai] Xuất Hiện của kinh Hoa Nghiêm, đức Thế Tôn đă bảo chúng ta: “Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng của Như Lai”. Tôi [dùng điều đó để] dung thông, phối hợp với tựa đề kinh này th́ “Đại Thừa” là trí huệ sẵn có trong bổn tánh, “Vô Lượng Thọ” là tự tánh trọn đủ các đức, “Trang Nghiêm” là tự tánh vốn trọn đủ tướng hảo. Trí huệ và đức tướng là quả. Quả đương nhiên có nhân, nhân là ǵ? Nhân là “Thanh tịnh, b́nh đẳng, giác”. Tu ba nhân ấy, quư vị sẽ chứng quả Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm, tức Phật quả. Thanh tịnh: Người học Phật chúng ta tu ǵ? Tu “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác”. Dùng phương pháp ǵ để tu? Tám vạn bốn ngàn pháp môn! Tám vạn bốn ngàn là phương pháp, đường lối. Tu ǵ? Tu “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác”, kinh này trực tiếp chỉ dạy chúng ta. “Thanh tịnh, b́nh đẳng, giác” là Tam Học, Tam Huệ. Tam Học là Giới - Định - Huệ, thanh tịnh là Giới, b́nh đẳng là Định, giác là Huệ, Giới - Định - Huệ Tam Học. “Thanh tịnh, b́nh đẳng, giác” là Tam Tạng, mười hai bộ kinh (thể loại kinh) trong Tam Tạng. Thanh tịnh là Luật Tạng, b́nh đẳng là Kinh Tạng, giác là Luận Tạng. Quư vị thấy đó là Tam Học, Tam Tạng. Lại c̣n là Tam Bảo, thanh tịnh là Tăng Bảo, lục căn thanh tịnh chẳng nhiễm mảy trần là Tăng Bảo, tức người tŕ giới. Hiện thời xuất hiện vấn đề: Tại gia học Phật chẳng thể hành Thập Thiện Nghiệp đạo, xuất gia học Phật chẳng làm được Sa Di Luật Nghi, nên vấn đề xuất hiện! V́ thế, bất luận tại gia hay xuất gia học Phật cũng đều chẳng thể thành tựu. Trong vài chục năm qua, chúng tôi thấy vấn đề này quá nhiều, nghĩ bao nhiêu năm mới nghĩ ra v́ sao có hiện tượng ấy, v́ sao cổ nhân chẳng giống như vậy? Cổ nhân dù tại gia hay xuất gia đều có thể tu hành chứng quả, v́ sao người hiện tại lại không được?

      Suy đi nghĩ lại, cuối cùng t́m ra cội rễ của vấn đề. Kể từ sau khi nhà Măn Thanh mất nước cho đến hiện tại, trong một trăm năm thuộc thế kỷ này, chúng ta đă sơ sót không vun bồi căn bản giáo dục. Trước kia, quả thật là hai mươi năm đầu thời Dân Quốc, tức là hai mươi năm sau khi nhà Măn Thanh mất nước, vẫn c̣n ảnh hưởng, người trong xă hội thuở ấy vẫn c̣n phổ biến coi trọng giáo dục luân lư, đạo đức, nhân quả, hết sức coi trọng! Chúng tôi thuở bé cũng được hưởng lây một chút, vun bồi căn bản giáo dục rất trọng yếu. Cổ ngạn ngữ Trung Quốc có câu: “Giáo nhi anh hài, giáo phụ sơ lai” (dạy con từ thuở c̣n thơ, dạy vợ từ thuở ban sơ mới về), dạy con cái là dạy ra sao? Từ thuở trứng nước, con sanh ra gọi là “anh hài”. Dạy con dâu, khi cưới vợ về, vừa vào cửa liền dạy dỗ, dạy vợ từ thuở ban đầu; nếu không, vợ sẽ dưỡng thành thói quen, chẳng nghe lời quư vị. Con thơ từ lúc được sanh ra phải dạy dỗ. Nó sanh ra, mở mắt ra sẽ thấy, tai sẽ nghe tiếng, tuy nó chưa thể nói chuyện, nhưng đă học tập, học ǵ vậy? Học theo người lớn. Đầu tiên là cha mẹ mỗi ngày dẫn dắt nó. Cha mẹ khởi tâm động niệm, lời nói, việc làm, cử chỉ đối với nó đều có ấn tượng. Một ngh́n ngày từ lúc được sanh ra cho đến ba tuổi được gọi là “vun bồi căn bản giáo dục”. Có được một ngh́n ngày ấy, cổ nhân bảo “tam tuế khán bát thập”; [nghĩa là] dạy dỗ kỹ càng một ngàn ngày [từ lúc sanh ra] cho đến lúc ba tuổi th́ tám mươi tuổi sẽ không thay đổi, có căn bản rồi! Đầu thời Dân Quốc, xă hội Trung Quốc chẳng an định, quân phiệt cát cứ, tiếp đó, chiến tranh với người Nhật. Sau tám năm kháng chiến, Trung Quốc chiến bại, chẳng có chiến thắng, bại ở chỗ nào? Vứt bỏ truyền thống văn hóa Trung Quốc, chẳng c̣n gia giáo. Không chỉ chẳng có gia giáo, mà gia tộc cũng chẳng c̣n! Hăy nên biết Trung Quốc thời cổ là đại gia đ́nh, ngũ đại đồng đường[5], chẳng tách thành tiểu gia đ́nh. V́ thế, mỗi nhà có gia quy, có gia đạo, gia học, gia nghiệp. Sau khi kháng chiến thắng lợi, toàn bộ đều chẳng c̣n. Đấy là chúng ta bị đánh bại, bề ngoài là thắng lợi, chứ thật sự là bị đánh bại!

      Nếu thật sự chiến thắng, xă hội ngày nay sẽ ổn định vững bền, phải thịnh vượng giống như thuở Hán, Đường, đại quốc mênh mông. V́ sao ngày nay chúng ta vẫn khổ sở, xă hội động loạn như thế, đấy là chiến bại, bề ngoài là thắng lợi, chứ trên tinh thần đă xong hết cả rồi, chúng ta chớ nên không biết nguyên nhân ấy! Do vậy, tôi đă nghĩ học Phật th́ phải t́m lại sự vun bồi căn bản giáo dục ấy. Dùng ǵ để vun bồi? Dùng ba căn bản của Nho, Thích, Đạo, mọi người đă sơ sót những điều này. Căn bản của Nho là Đệ Tử Quy, căn bản của Đạo là Thái Thượng Cảm Ứng Thiên, căn bản của Phật là Thập Thiện Nghiệp Đạo. Nếu ba căn bản này đă được dạy dỗ tốt đẹp từ nhỏ, th́ Sa Di Luật Nghi rất dễ dàng, v́ mỗi điều đă nói trong Thập Thiện Nghiệp đă đều có thể làm được. Lúc ấy mới khiến cho chúng tôi nghĩ ra v́ sao người thuở trước học Phật dễ thành tựu như vậy mà hiện thời không được, hiện thời vun bồi căn bản giáo dục do ai dạy? TV dạy! Học sinh lên lớp học theo Internet. Dạy ǵ? Dạy bạo lực, t́nh dục, giết, trộm, dâm, dối! Căn bản để học Phật của quư vị được vun bồi bằng bạo lực, t́nh dục, giết, trộm, dâm, dối, làm sao quư vị học Phật tốt đẹp cho được? Xă hội làm sao yên ổn cho được? Có thể nào chẳng xảy ra tai nạn? Toàn bộ vấn đề đă được bộc lộ, chúng ta thấy rơ ràng, rành rẽ. V́ thế, nhiều năm qua, chúng tôi cực lực đề xướng phải học ba căn bản, nhằm học bù đắp những chỗ sai sót. Học Phật là học từ đâu? Học từ Đệ Tử Quy, không làm được Đệ Tử Quy th́ quư vị học Phật một trăm năm, hay ba trăm năm đều vô dụng, thiếu căn bản! Nếu làm được Cảm Ứng Thiên, Thập Thiện Nghiệp Đạo sẽ chẳng có vấn đề. Quư vị không vun bồi cội rễ ở chỗ này, đúng là [học Phật] ba trăm năm, tối đa bất quá là trở thành học giả mà thôi. Tối đa là giống như tôi đă thấy tại nước Anh, những nhà Hán học, những vị giáo sư lừng danh, hoặc những người giống như họ, chẳng thể thật sự thụ dụng Phật pháp, những lợi ích trước mắt đều chẳng đạt được, sức khỏe, trường thọ, phiền năo nhẹ bớt, trí huệ tăng trưởng, đó là những ǵ [lẽ ra] quư vị phải đạt được trong hiện tiền, nhưng quư vị vẫn lắm phiền năo, thiếu trí huệ, c̣n làm sao được nữa? Sai lầm rồi! Sai lầm do coi nhẹ căn bản. Vun bồi căn bản giáo dục trọng yếu lắm; may sao là trong mấy năm nay, trong nước đă dần dần coi trọng Đệ Tử Quy, dần dần cũng coi trọng Cảm Ứng Thiên, tốt lắm! Quốc gia, dân tộc vẫn c̣n có tiền đồ.

      Trong phần trước, chúng ta đă nói tới sự trọng yếu của Phật; Phật là phước báo bậc nhất trong thế gian và xuất thế gian. Quư vị chẳng học Phật sẽ không tu phước. Chẳng tu phước sẽ chẳng có phước báo, thiếu phước báo sẽ khổ sở. Đại phú đại quư trong thế gian này là do tu từ đâu? Đời quá khứ đă tu trong Phật môn, trong Phật môn có thể tu cái nhân đại phú đại quư, cảm được quả báo phú quư. Hiện tại, hưởng phú quư, nhưng chẳng tu nữa, phước báo sẽ hưởng hết rất nhanh. Sau khi hưởng hết, khổ nạn sẽ hiện tiền. Đấy là đạo lư nhất định, chớ nên không biết. V́ thế, sau khi vun bồi tốt đẹp ba căn bản, quư vị lại khéo học Phật, phước huệ song tu, tiền đồ sẽ tốt đẹp vô lượng, cớ sao chẳng làm? Bởi lẽ, nhà Phật tu hành là “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác”, thanh tịnh là Chánh Giác, b́nh đẳng là Chánh Đẳng Chánh Giác, sau đấy là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Trong giáo pháp Đại Thừa, từ trong kinh điển, chúng ta thường đọc thấy A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, tức là “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác”. Do vậy, tu thanh tịnh như thế nào? Chẳng chấp trước, đoạn Kiến Tư phiền năo là thanh tịnh. Chẳng phân biệt, đoạn Trần Sa phiền năo bèn b́nh đẳng. Không khởi tâm, chẳng động niệm, Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác liền hiện tiền, đạt được quả báo Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm. “Trang Nghiêm” có ư nghĩa vô cùng rộng! Thường Tịch Quang, cơi Thật Báo Trang Nghiêm, y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới thảy đều hàm nhiếp trong ấy. Đây là nói đại lược về tựa đề bộ kinh này.

Tôi nói kiểu này đơn giản, dễ hiểu, dễ lănh hội, quư vị mới biết nội dung giáo học trong bộ kinh này phong phú khôn sánh, thật sự giúp chúng ta giải quyết hết thảy vấn đề. Bất cứ một nghề nghiệp nào trong xă hội nẩy sanh vấn đề, đều có thể t́m được lời giải quyết trong đây. Về chánh trị, cũng chẳng phải là ngoại lệ, đều có thể giúp quư vị giải quyết những chỗ nẩy sanh vấn đề. Cớ sao quư vị chẳng học? Hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng ta học tập tới chỗ này!

 

Tập 82

 

      Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang tám mươi tám, ḍng thứ ba đếm từ dưới lên.

      “Chánh thích kinh nghĩa” (chính thức giải thích ư nghĩa kinh văn), đây là phần lớn thứ ba trong [bản Chú Giải] kinh này, chính thức giải thích ư nghĩa trong kinh văn. “Tiền minh toàn kinh cương tông” (trong phần trên, đă nói về cương lănh và tông chỉ của cả kinh), nêu cương lănh và tông chỉ, “dữ kinh đề tổng nghĩa” (và ư nghĩa tổng quát của tựa đề kinh). “Cẩn dĩ cục tâm hạn lượng chi ngôn, lược chương Tịnh Tông vô tận chi diệu” (kính cẩn dùng cái tâm hạn hẹp để phô bày đại lược sự mầu nhiệm vô tận của Tịnh Tông), đây là lời khiêm hư của cụ Hoàng Niệm Tổ. Cục tâm hạn lượng” ư nói: Chưa khai ngộ, tâm lượng phàm phu. Sau khi khai ngộ, tâm lượng sẽ giống như Phật, Bồ Tát, quả thật là “tâm bao thái hư, lượng châu sa giới” (tâm trọn khắp hư không, tâm lượng rộng khắp các cơi nhiều như cát). “Cục” () là có giới hạn, “cục tâm hạn lượng” là tâm lượng và kiến giải phàm phu. “Lược chương Tịnh Tông”, đây là một bộ kinh điển trọng yếu nhất trong Tịnh Tông, quả thật là vô tận diệu nghĩa. “Tư y tiên lệ, toàn kinh phân tam” (nay dựa theo lệ trước, chia toàn bộ kinh này thành ba phần), “tiên lệ” là thông lệ giảng giải kinh văn của cổ thánh tiên hiền, luôn chia một bộ kinh thành ba phần lớn, tức là ba bộ phận. Bộ phận thứ nhất gọi là Tự Phần, bộ phận thứ hai là Chánh Tông Phần, bộ phận thứ ba gọi là Lưu Thông Phần. Tự () là như trong các tác phẩm văn chương hiện thời, phía trước có phần Tự Luận (dẫn nhập), giữa là Chánh Thuyết (nội dung chánh yếu), sau đó là Tổng Kết, ba đoạn lớn như vậy. Trong kinh Phật, bản thân mỗi kinh có ba đoạn, thứ nhất là Tự, sau Tự là Chánh Tông, sau Chánh Tông là Lưu Thông, [phần này] cũng gần như quá nửa là đức Phật dặn ḍ chúng ta nên thực hiện nghĩa lư, giáo huấn và cảnh giới của bộ kinh này như thế nào trong cuộc sống hằng ngày, nâng cao chính ḿnh, thậm chí thực hiện trong công việc, trong toàn bộ công tác. Đây là dạy quư vị sau khi chính ḿnh đă thành tựu, c̣n phải tạo ảnh hưởng người khác, mong cho người khác cũng có thể tu học, cùng nâng cao cảnh giới giống như chính ḿnh. Đấy là Lưu Thông Phần.

      “Ngẫu Ích đại sư viết: Tự như thủ, ngũ quan câu tồn. Chánh Tông như thân, phủ tạng vô khuyết. Lưu Thông như thủ túc, vận hành bất trệ” (Ngẫu Ích đại sư nói: “Tự như đầu, ngũ quan đầy đủ. Chánh Tông như thân, phủ tạng chẳng thiếu, Lưu Thông như chân tay, vận hành không trệ ngại”). Thuở tại thế, suốt đời Ngẫu Ích đại sư cũng giảng kinh giáo học. Ngẫu Ích đại sư là người xuất gia thuở trước, sống vào những năm cuối triều Minh và những năm đầu triều Thanh. Ngài sống vào cuối đời Minh, viên tịch trong đời Thanh, là tổ sư đời thứ chín của Tịnh Độ Tông. Trước tác vô cùng phong phú, tuy tuổi tác chẳng cao lắm, sáu mươi mấy tuổi đă viên tịch, nhưng Ngài lưu lại trước tác vô cùng phong phú, đúng là trước tác suốt cả đời. Đối với chuyện giải thích kinh chia thành ba phần, Ngài đă nêu thí dụ, dùng con người chúng ta làm tỷ dụ: Tự Phần giống đầu người, ngũ quan đầy đủ, vừa nh́n thấy vẻ mặt liền biết quư vị là người như thế nào. Kế đó là Chánh Tông giống như thân thể, bên trong có ngũ tạng, lục phủ. Lưu Thông Phần giống như tay chân, quư vị có thể hoạt động, có thể khởi tác dụng. Tiếp đó, cụ Niệm Tổ nói: “Y đại sư ư, Tự như thủ (đầu dă) chỉ kinh chi Tự Phần do nhân chi hữu thủ. Do thủ chi ngũ quan (mi, nhăn, nhĩ, tỵ, khẩu) khả khuy kỳ nhân chi thiện, ác, trí, ngu (Theo ư đại sư, “Tự như đầu” tức là Tự Phần của kinh giống như người có đầu, từ ngũ quan (lông mày, mắt, tai, mũi, miệng) có thể biết được phần nào con người ấy là thiện hay ác, trí hay ngu), quư vị vừa nh́n liền hiểu rơ. “Quán nhất kinh chi Tự phẩm, tiện khả tri toàn kinh chi Đại, Tiểu, Thiên, Viên” (Nh́n vào Tự Phần của một bộ kinh, liền có thể biết toàn bộ bản kinh ấy là Đại Thừa hay Tiểu Thừa, Thiên Giáo hay Viên Giáo). Từ Tự Phần, quư vị có thể thấy, trong Tự Phần có ư nghĩa biểu thị pháp. Nếu quư vị hiểu, vừa nh́n vào Tự Phần sẽ hiểu rơ ràng, rành rẽ [những ư nghĩa biểu thị pháp ấy]. “Cố Tự Phần trung, diệc tất hàm hữu thâm văn” (V́ thế trong Tự Phần ắt phải có những đoạn kinh văn ư nghĩa sâu xa). Điều này chẳng sai tí nào! Trong Tự Phần chứa đựng những ư nghĩa sâu xa, quyết định chẳng khác ǵ Chánh Tông và Lưu Thông. “Kim y đại sư chi chỉ, phán phân bổn kinh như hạ” (Nay y theo ư chỉ của đại sư, phân định kinh này như sau), chia làm ba phần:

1) Phần thứ nhất từ phẩm thứ nhất tới phẩm thứ ba, đó là Tự Phần

2)Từ phẩm thứ tư đến phẩm bốn mươi hai là Chánh Tông Phần, tức là phần diễn nói chánh yếu trong kinh này.

3) Từ phẩm bốn mươi ba đến phẩm bốn mươi tám là Lưu Thông Phần. Phần này rất dài, đều thuộc về phần Lưu Thông.

“Kim chi tam phần, diệc chánh như ngă quốc Tịnh Ảnh, Gia Tường lưỡng gia đối bổn kinh Ngụy dịch bổn chi phán phân” (Nay ba phần này cũng chính là cách phán định của hai vị Tịnh Ảnh và Gia Tường[6] của Trung Quốc đối với bản Ngụy dịch của kinh này). Quy củ của lịch đại tổ sư đại đức đều giống nhau, nhất định chia một bộ kinh thành ba phần. Phân đoạn sớm nhất là pháp sư Đạo An, [Ngài làm như vậy] sớm nhất. Sau này, tuy các vị chú giải kinh đều chia chánh kinh thành ba phần, nhưng ba phần chia từ chỗ nào trọn chẳng giống nhau. Đó là mỗi vị có cách nh́n khác nhau, chúng ta phải chú tâm quán sát mới hiểu được điều này.

Tiếp theo đây là bộ phận thứ nhất, tức Tự Phần: “Hựu Tự Phần phục phân vi nhị” (Lại nữa, Tự Phần lại được chia thành hai phần), trong Tự Phần có hai khoa lớn. Thứ nhất là Thông Tự, thứ hai là Biệt Tự. “Thông Tự, hựu danh Chứng Tín Tự, chư kinh giai cụ” (Thông Tự c̣n gọi là Chứng Tín Tự, các kinh đều có), mở đầu hết thảy kinh đều có. “Như Thiên Thai dữ Gia Tường đẳng” (như các vị Thiên Thai, Gia Tường v.v...), Thiên Thai là Trí Giả đại sư, ngài Gia Tường chú giải kinh Vô Lượng Thọ. “Y Pháp Hoa Luận dĩ lục chủng thành tựu vi Chứng Tín Tự. Lục thành tựu giả, Tông Mật đại sư viết” (dựa theo Pháp Hoa Luận[7], lấy sáu thứ thành tựu làm Chứng Tín Tự. Sáu thứ thành tựu là như Tông Mật đại sư nói), Tông Mật là tổ sư đời thứ năm của tông Hoa Nghiêm, là học tṛ tổ Thanh Lương. Thứ nhất là Tín, thứ hai là Văn, thứ ba là Thời, thứ tư là Chủ, thứ năm là Xứ, thứ sáu là Chúng. “Lục duyên bất cụ, giáo tắc bất hưng” (sáu duyên chẳng đủ, giáo pháp chẳng thể hưng khởi). Đây là nói về giáo học; giáo học nhất định phải có sáu duyên này th́ mới có thể thành tựu. Thiếu một điều, giáo học sẽ chẳng thể thành tựu. V́ thế, [sáu điều ấy] gọi là Lục Chủng Thành Tựu. Sáu thứ thành tựu:

- Thứ nhất là Tín Thành Tựu, trong phần sau sẽ nói đến. Chữ “như thị” trong kinh văn là Tín Thành Tựu, nói rơ bộ kinh này quả thật do đức Phật nói, chân thật đáng tin, đó là Tín Thành Tựu.

- Thứ hai là Văn. “Văn” là khi tôn giả A Nan kết tập Kinh Tạng, Ngài nói: “Thích Ca Mâu Ni Phật nói kinh này, chính tôi đích thân nghe”. Chẳng phải là nghe nói lại, nên đáng tin cậy.

- Thứ ba là giảng vào thời gian nào?

- Thứ tư là do ai nói? “Chủ” là Thích Ca Mâu Ni Phật, nhất định do đức Phật nói.

- Thứ năm, giảng ở nơi nào?

- Thứ sáu là khi giảng kinh bộ kinh này, có bao nhiêu người đang nghe?

Do vậy, sự giáo học ấy mới là viên măn, trong đó, thiếu một điều cũng không được, giáo học cũng chẳng thể thành tựu. V́ thế, gọi là Chứng Tín. “Dĩ chứng kinh văn, xác vi Phật thuyết, chân thật khả tín, cố danh Chứng Tín” (Dùng sáu điều ấy để chứng thực kinh văn, xác quyết đây là lời Phật dạy chân thật đáng tin; v́ thế gọi là Chứng Tín). Hai phẩm đầu trong kinh này đều thuộc về Chứng Tín, phẩm thứ nhất là “Pháp hội thánh chúng đệ nhất”, phẩm thứ hai là “Đức tuân Phổ Hiền đệ nhị”. Hai phẩm này đều là Chứng Tín, cũng đều nói về sáu thứ thành tựu.

      Phẩm thứ ba mới là phần Phát Khởi kinh này, “hựu danh Phát Khởi tự” (c̣n gọi là Phát Khởi Tự), đó là Biệt Tự. Chứng Tín Tự là phần đầu hết thảy các kinh văn đều có, nên gọi là Thông Tự. Tuy [kinh nào cũng] có, nhưng trong đó, quan trọng nhất là người nào tham gia, tức là nêu ra đức hiệu của các vị thượng thủ nào. Giống như nay chúng ta nh́n vào một cuộc họp, quư vị thấy những người nào tham dự, liền biết cuộc họp ấy nhằm bàn thảo vấn đề ǵ! Nếu hội nghị toàn là giới giáo dục, [tức là, người tham gia toàn là] các nhân sĩ thuộc giới giáo dục, các vị chủ quản giáo dục như hiệu trưởng, giáo vụ, quản giáo vụ, nhất định họ sẽ thảo luận [về đề tài] giáo dục. Nếu những người tham dự hội nghị này toàn là nhân viên tài chánh, kinh tế, mậu dịch, họ nhất định bàn về kinh tế. Do vậy, quư vị nh́n thấy người nào tham dự, sẽ biết pháp hội ấy thảo luận chuyện ǵ. V́ thế, trong phần Thông Tự, [nh́n vào] tên hiệu của các vị thượng thủ được liệt kê khác nhau, sẽ biết tánh chất khác biệt của bộ kinh này, thảo luận những ǵ. Phát Khởi Tự là “phát khởi toàn kinh chi đoan do” (đầu mối phát khởi cả bộ kinh). V́ sao đức Phật giảng bộ kinh này, trong phần Phát Khởi Tự sẽ nói rơ nguyên nhân phát khởi của cả bộ kinh này. “Dĩ pháp bất cô khởi, khởi tất hữu do, chư kinh các biệt, cố hựu danh Biệt Tự” (v́ pháp chẳng thể tự khởi lên một ḿnh. Phát khởi phải có duyên do. Duyên do phát khởi của các kinh khác nhau, nên lại gọi là Biệt Tự). Pháp nhất định có nguyên nhân, chẳng thể nói không có nguyên nhân nào mà sanh khởi được, quyết định là có nhân duyên. Nhân duyên phát khởi của mỗi bộ kinh khác nhau; v́ thế, gọi là Biệt Tự.

      “Lệ như Tiểu Bổn A Di Đà Kinh” (chẳng hạn như Tiểu Bổn A Di Đà Kinh), kinh A Di Đà được phát khởi không do ai hỏi, mà do đức Phật tự nói. Đây là chuyện như thế nào? Pháp môn này quá trọng yếu, tuy chẳng có ai khải thỉnh, không có ai thỉnh pháp, nhưng đức Phật thấy hết thảy chúng sanh duyên đă chín muồi. Duyên như thế nào sẽ được gọi là “chín muồi”? Có người nghe rồi sẽ có thể tin tưởng, lư giải, phát nguyện, nương theo phương pháp này tu hành văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Tuy không có ai hỏi, nhưng đức Phật thấy trong đại chúng có người như vậy, cho nên chẳng cần hỏi, đức Phật tự ḿnh nói ra. Cũng chính v́ pháp môn này là pháp khó tin, nên không ai có thể hỏi. V́ sao? Phàm phu thành Phật trong một đời, ai có thể tin tưởng? Nếu quư vị nói tu hành ba đại A-tăng-kỳ kiếp, vô lượng kiếp mới có thể thành tựu, sẽ có rất nhiều người tin tưởng. Phàm phu nghiệp chướng sâu nặng, có thể thành Phật trong một đời, chưa hề có ai nghĩ đến vấn đề này, cho nên không có ai hỏi; nhưng đức Phật thấy trong các chúng sanh quả thật có căn cơ ấy, họ thật sự hiểu, thật sự làm, sẽ thành tựu trong một đời. Quư vị nói xem pháp môn này có thù thắng lắm hay chăng? Pháp môn thù thắng khôn sánh, cho nên đức Phật chẳng đợi ai hỏi, tự ḿnh nói ra. C̣n bộ kinh này th́ “bổn kinh tắc nhân Thế Tôn phóng quang, hiện thụy” (kinh này do đức Thế Tôn phóng quang minh, hiện tướng lành), cuối phần Biệt Tự chúng ta có thể thấy, [đức Phật] làm như vậy để dẫn dắt tôn giả A Nan khải thỉnh, nêu câu hỏi. “Các kinh bất đồng, cố danh Biệt Tự. Kim kinh đệ tam phẩm thuộc chi” (Mỗi kinh chẳng giống nhau nên gọi là Biệt Tự. Phẩm thứ ba của kinh này thuộc về phần Biệt Tự), đấy là Biệt Tự của bộ kinh này. Từ phẩm thứ tư trở đi là phần Chánh Tông.

      Trước hết, chúng ta xem đoạn lớn thứ nhất giảng về Thông Tự, “Pháp hội thánh chúng đệ nhất”, trong đây bao hàm học vấn to lớn, tuy kinh văn không dài, chỉ có bốn hàng kinh văn. Chúng ta đọc kinh văn:

     

Như thị ngă văn, nhất thời Phật tại Vương Xá thành, Kỳ Xà Quật sơn trung. Dữ đại tỳ-kheo chúng vạn nhị thiên nhân câu. Nhất thiết đại thánh, thần thông dĩ đạt. Kỳ danh viết: Tôn giả Kiều Trần Như, tôn giả Xá Lợi Phất, tôn giả Đại Mục Kiền Liên, tôn giả Ca Diếp, tôn giả A Nan đẳng, nhi vi thượng thủ. Hựu hữu Phổ Hiền Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Di Lặc Bồ Tát, cập Hiền Kiếp trung nhất thiết Bồ Tát, giai lai tập hội.

如是我聞。一時佛在王舍城耆闍崛山中。與大比丘眾萬二千人俱。一切大聖。神通已達。其名曰。尊者憍陳如。尊者舍利弗。尊者大目犍連。尊者迦葉。尊者阿難等。而為上首。又有普賢菩薩。文殊師利菩薩。彌勒菩薩。及賢劫中一切菩薩。皆來集會

      (Tôi nghe như thế này: Một thời, đức Phật ở tại thành Vương Xá, trong núi Kỳ Xà Quật, với các đại tỳ-kheo chúng một vạn hai ngàn người câu hội. Hết thảy các vị đại thánh đă đạt thần thông, tên các Ngài là: Tôn giả Kiều Trần Như, tôn giả Xá Lợi Phất, tôn giả Đại Mục Kiền Liên, tôn giả Ca Diếp, tôn giả A Nan v.v... làm thượng thủ. Lại có Phổ Hiền Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Di Lặc Bồ Tát và hết thảy Bồ Tát trong Hiền kiếp đều đến nhóm hội).

 

      Đoạn Thông Tự được nói đến chỗ này. Đối với đoạn kinh văn này, chúng ta xem trong năm bản dịch gốc, trong mỗi bản liệt kê số người rất nhiều, lăo cư sĩ Hạ Liên Cư khi hội tập đă chỉ chọn năm vị tôn giả làm đại biểu, ba vị Bồ Tát, năm vị Thường Tùy đệ tử, tỉnh lược rất nhiều. Năm vị ấy có thể làm đại biểu cho toàn bộ kinh hay không? Có thể chứ, từ năm vị ấy, có thể thấy nghĩa thú của cả bộ kinh, [tức là] nghĩa lư của cả bộ kinh hướng về đâu. Nay chúng ta học tập kinh văn. Câu đầu tiên là “như thị ngă văn”. Trong phần Thông Tự ở đầu mỗi bộ kinh đều có bốn chữ này. “Chư kinh giai trí thử tứ tự ư kinh thủ, cái tôn Thế Tôn chi di giáo” (Các kinh đều dùng bốn chữ này để đặt ở đầu kinh là do tôn trọng di giáo của đức Thế Tôn). Kinh văn được mở đầu bằng bốn chữ ấy là do Thích Ca Mâu Ni Phật răn dạy. Tiếp đó, sách viết: “Thế Tôn tương bát Niết Bàn” (đức Thế Tôn sắp nhập Niết Bàn), khi Thích Ca Mâu Ni Phật sắp viên tịch, “A Nan bi bất năng thắng”, [nghĩa là] tôn giả A Nan quá đỗi bi thương, tuy Ngài đă chứng Sơ Quả, t́nh chấp vẫn c̣n rất sâu. Ngài A Nê Lâu Đà (Anirudha) dạy A Nan, kinh Di Đà chép là A Nậu Lâu Đà, “đồ bi hà ích” (đau buồn suông ích chi), đức Phật sắp diệt độ, lăo nhân gia rời khỏi chúng ta, bi thương có được ǵ? Có ích lợi chi đâu? Ông hăy nên ngay lập tức thưa hỏi đức Phật bốn chuyện. Đối với bốn chuyện ấy, [trong bản chú giải này], cụ Hoàng chỉ nhắc tới một chuyện. Trong kinh Niết Bàn, trạng huống lúc đó được ghi chép rất rơ ràng. Ngài A Nê Lâu Đà dạy tôn giả A Nan, v́ A Nan nghĩ không ra. Ngài nói sau khi đức Phật diệt độ, có bốn chuyện lớn cần phải được chính miệng đức Phật dặn ḍ.

      Thứ nhất là đức Phật tại thế, mọi người chúng con nương theo đức Phật làm thầy, nương theo Phật để trụ, Phật ở nơi đâu, chúng con đều cùng ở đó. Nay Phật mất đi, chúng con nương theo ai? Đây chính là như trong nhà Phật nói “y chỉ một người nào đó”. Có ai thay mặt đức Phật hay không? Đức Phật trả lời, chẳng dặn ḍ nương theo bất cứ ai, mà là “y Tứ Niệm Xứ trụ” (nương vào Tứ Niệm Xứ để trụ). Nương vào Tứ Niệm Xứ để trụ, chẳng khác ǵ nương vào Phật mà trụ. Phần thứ nhất của ba mươi bảy đạo phẩm là Tứ Niệm Xứ.

Điều thứ nhất trong Tứ Niệm Xứ, đức Phật dạy chúng ta “quán Thân bất tịnh”. Quư vị phải thường nghĩ thân thể này chẳng phải là thứ sạch sẽ, chớ nên lưu luyến thân thể này, đừng thường v́ thân thể này mà sanh phiền năo, v́ thân thể này mà tạo nghiệp chướng. Nếu vậy, quư vị đă sai mất rồi, thân là giả! Trong Phật pháp thường nói “tá giả tu chân” (nhờ vào cái giả để tu cái thật), chúng ta dùng cái thân thể huyễn giả này để tu hành, nâng cao linh tánh của chính ḿnh. Điều này trọng yếu! Thân là công cụ, quư vị hăy khéo lợi dụng nó, chớ nên lợi dụng nó để tạo nghiệp, phải lợi dụng nó để tu hành, đó là đúng. Không biết tu hành, chắc chắn sẽ tạo nghiệp! Quả báo của tạo nghiệp: Tạo thiện nghiệp sẽ vào tam thiện đạo để tiêu nghiệp. Tam thiện đạo hay tam ác đạo đều nhằm tiêu nghiệp chướng. Nghiệp chướng có thiện và ác. Tạo nghiệp bất thiện sẽ vào tam ác đạo để tiêu nghiệp, quư vị thấy: Đều là tiêu nghiệp, b́nh đẳng! V́ sao? Trong tự tánh thanh tịnh tâm không có nghiệp chướng, thiện nghiệp lẫn ác nghiệp đều không có. Ác nghiệp bất hảo, thiện nghiệp cũng bất hảo! Phải giác ngộ điều này, chỉ cần tạo nghiệp, quư vị sẽ không thoát khỏi lục đạo luân hồi. Luân hồi trong lục đạo, chắc chắn thời gian quư vị ở trong ác đạo dài lâu, thời gian ở trong thiện đạo ngắn ngủi. Đó là sự thật, chúng ta chớ nên không cảnh giác. V́ sao? Hễ sanh ra đời là có phiền năo, phải biết rằng thiện hay ác đều là phiền năo, phải biết điều này, chúng đều là phiền năo. Trong ấy, thiện ít, ác nhiều. Trong Bách Pháp Minh Môn Luận, đă quy nạp những nghiệp ấy (nghiệp chướng) thành hai mươi sáu loại bất thiện, thiện cũng được quy nạp thành mười một loại. Quư vị thấy: So sánh giữa hai loại này, ác c̣n nhiều hơn hai lần thiện, ác có hai mươi sáu thứ, thiện chỉ có mười một! Chúng ta suy ra sẽ biết v́ sao con người học điều tốt lành rất khó khăn, học theo chuyện xấu rất dễ dàng! Tự tánh không có thiện hay ác, nó có thể hiện, có thể sanh, có thể hiện vạn pháp, có thể sanh vạn pháp. A Lại Da có thể biến, trong A Lại Da có thiện và ác, có nhiễm và tịnh. V́ thế, trong kinh, đức Phật thường nói: “Hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng”.

      Lại nh́n vào hoàn cảnh bên ngoài, hoàn cảnh có thánh nhân trụ thế th́ hoàn cảnh thiện nhiều, ác ít; khi không có thánh nhân trụ thế, chắc chắn là hoàn cảnh ấy ác nhiều, thiện ít. Đối với xă hội hiện thời của chúng ta, chuyện này quả thật là quá rơ rệt, nói rơ điều ǵ? Cho thấy trong thời đại này không có thiện nhân! Không chỉ nơi chúng ta đang sống không có thiện nhân, mà cả thế giới đều không có. Thiện nhân xuất hiện trên thế gian, đặc biệt là bậc đại thánh, đại hiền, chư Phật, Bồ Tát, các Ngài thật sự từ bi. V́ sao các Ngài không đến? Không có chúng sanh cảm, cảm ứng mà! Cho nên các Ngài chẳng ứng. Hằng ngày, tâm chúng ta mong mỏi Phật, Bồ Tát hiện đến, các Ngài có đến hay không? Chẳng đến! Chúng ta cảm, v́ sao các Ngài chẳng ứng? Chúng ta chẳng cảm bằng chân tâm, cho nên các Ngài không tới. Do chân tâm, các Ngài sẽ đến. Chúng ta cầu Phật, Bồ Tát, mục tiêu thứ nhất là ǵ? Làm sao để các Ngài phù hộ tôi thăng quan, phát tài, cho nên các Ngài không tới. Nếu khi quư vị dấy lên ư niệm, chẳng v́ phù hộ tôi, mà do chúng sanh trong thế gian quá khổ, cầu Phật, Bồ Tát đến giúp đỡ thế giới này, cứu khổ, cứu nạn, các Ngài sẽ đến. Nay chúng ta thấy các tai nạn, bao nhiêu người trên toàn thể thế giới cầu đảo? Nhưng họ v́ ai mà cầu đảo? Có ai chẳng v́ chính ḿnh? Cũng [có người cầu đảo] v́ chúng sanh, nhưng v́ chính ḿnh là chủ yếu, chúng sanh chỉ là kèm thêm! Tâm thái như vậy làm sao quư vị cảm động Phật, Bồ Tát cho được? Đâu có đạo lư ấy! Phải làm như thế nào? Hoàn toàn chẳng có chính ḿnh! Hoàn toàn không có chính ḿnh sẽ chẳng phải là người b́nh thường, trong quá khứ đă có cơ sở tu học của thánh hiền, trong A Lại Da Thức có chủng tử mạnh mẽ, đời này gặp thiện duyên, gặp được thiện hữu giúp đỡ, nên người ấy giác ngộ, hiểu rơ, người như vậy hễ cảm bèn có ứng. V́ thế, quán thân bất tịnh rất trọng yếu. Tu học Phật pháp, nếu muốn nhập môn, điều thứ nhất là buông xuống Thân Kiến, đừng chấp trước thân là ta. Thân chẳng phải là Ta th́ thân là ǵ? Thân là cái ta có, giống như y phục. Y phục chẳng phải là ta, mà là cái ta có. Thân thể cũng là cái ta có, chẳng phải là ta. Đức Phật dạy chúng ta hăy nương vào đó để trụ.

      Thứ hai, “quán Thọ là khổ”, Thọ là ǵ? Thọ là hưởng thụ. Thích Ca Mâu Ni Phật đă làm được! Thuở tại thế, Ngài giữa trưa ăn một bữa, đêm ngủ dưới gốc cây, toàn bộ tài sản là ba y một bát, đó là toàn bộ tài sản của Ngài, thứ ǵ cũng chẳng có. Không giống người thế gian chấp trước thân là ta, phải cho cái thân này hưởng thụ, v́ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, lại c̣n thêm ư, v́ lục căn mà hưởng thụ, tạo đủ thứ tội nghiệp. Trong khi hưởng thụ, dường như là sung sướng, nhưng đó chẳng phải chân lạc, v́ sao? Sau khi sướng sẽ khổ! Sướng biến thành khổ, chân thật ở chỗ nào? Chúng ta lắng ḷng quan sát, không ǵ chẳng là tạo ác nghiệp. Sát sanh ăn thịt, ngỡ đó là sướng! Chẳng biết những thứ quư vị đă ăn đều là hữu t́nh chúng sanh, đó là sanh mạng. Quư vị giết chúng nó, chúng nó có cam tâm t́nh nguyện để cho quư vị giết hại hay chăng? Trong kinh, đức Phật đă dạy: “Nhân tử vi dương, dương tử vi nhân” (người chết thành dê, dê chết thành người). Nay con người ăn dê, đời sau nó đầu thai làm người, những người ăn dê hiện thời, về sau chết đi, đầu thai làm dê, lại bị nó ăn, oan oan tương báo, chẳng hết, chẳng xong! Nếu quư vị thấy nhân quả ba đời, sẽ biết nhân quả thông ba đời. Chẳng phải là thân người này chết đi là xong, đâu có dễ dàng như vậy? Trong các buổi giảng, trong quá khứ, chúng tôi thường nói, không thể chết được, chết th́ c̣n làm ǵ được nữa! Nói thật đấy! Không thể chết th́ làm như thế nào mới không thể chết? Niệm Phật sẽ không chết! Quư vị phải biết: Văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới là ra đi trong khi sống, chẳng phải chết rồi mới đi, quư vị phải hiểu rơ ràng! Khi quư vị lâm chung, đầu óc sáng suốt, tai mắt thấy nghe rơ ràng, thấy A Di Đà Phật đến tiếp dẫn quư vị, theo Ngài ra đi, chẳng cần đến thân thể này, vứt bỏ, ra đi trong khi c̣n sống, chẳng phải là chết rồi mới ra đi. Do vậy, pháp môn này là “pháp môn bất tử”, ai có thể hỏi cho được? V́ thế, kinh Di Đà là “vô vấn tự thuyết” (không ai hỏi mà tự nói). Hơn nữa, bất luận người nào, chỉ cần quư vị tin tưởng, đối với ba điều kiện Tín, Nguyện, Hạnh, chỉ cần trọn đủ ba điều kiện ấy, không một ai chẳng văng sanh, pháp môn này đến nơi đâu để t́m? Bất luận tạo bao nhiêu tội nghiệp vẫn chẳng sợ, chỉ cần quư vị chuyển biến ư niệm, thật sự cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, thân cận A Di Đà Phật, nghiệp chướng sẽ tiêu mất. Quá khứ, đời này thiếu nợ mạng của chúng sanh, thiếu nợ t́nh, thiếu nợ tiền bạc, sau khi quư vị thành Phật, bất luận họ ở trong đường nào, quư vị đều thấy rơ ràng, sẽ chẳng trái bổn nguyện, nhất định giúp đỡ họ, giúp cho họ giác ngộ, giúp họ niệm Phật văng sanh thành Phật. Ân lẫn oán đều báo! Đối với các oan gia đối đầu, dùng đức báo oán. Do vậy, phải hiểu: Những ǵ chúng ta hứng chịu đúng là khổ! Trong kinh, đức Phật thường nói tam khổ hoặc bát khổ, trong những phần sau sẽ giảng giải.

      “Quán Tâm vô thường”, “tâm” là vọng tâm. Chân tâm quư vị sẽ chẳng quán được. Đây là chân tâm đă bị mê mất rồi, nên thành vọng tâm, vọng tâm là vô thường. Thật ra, Di Lặc Bồ Tát nói một cái khảy ngón tay có ba mươi hai ức trăm ngàn niệm, nên gọi là “vô thường”. Nó chẳng phải là như như bất động, vọng niệm tơi bời, niệm trước diệt, niệm sau dấy lên, tốc độ quá nhanh.

“Quán Pháp vô ngă”, Ngă là ǵ? Ngă có nghĩa là “chủ tể, tự tại”. Quư vị hăy quán sát cẩn thận, trong hết thảy các pháp đều không có chủ tể, đều là tùy duyên. Duyên sanh, duyên diệt, trong ấy không có chủ tể, chẳng tự tại. Chỉ có càng gần với Tánh Đức, mới phát hiện có chủ tể, có tự tại. Do vậy, trong Phật pháp, hễ minh tâm kiến tánh, Tứ Đức “Thường, Lạc, Ngă ,Tịnh” sẽ hiện tiền. Ngă ấy là Chân Ngă, Chân Lạc. Thường là vĩnh hằng bất diệt. Lạc là chẳng có nỗi khổ nào! Ĺa Khổ là Lạc, chủ tể chân chánh, tự tại xuất hiện. Sau đó là Tịnh, Tịnh là thanh tịnh. Khi kiến tánh, câu đầu tiên Huệ Năng đại sư thốt ra là “nào ngờ tự tánh, vốn tự thanh tịnh”, tâm thanh tịnh hiện tiền, pháp thanh tịnh hiện tiền, thấy hết thảy các pháp đều thanh tịnh. Đó là câu hỏi thứ nhất “chúng con nên nương vào ai để trụ?” Đức Phật dạy “nương vào Tứ Niệm Xứ mà trụ”.

      Câu hỏi thứ hai là khi đức Phật tại thế, chúng con đều tôn Phật làm thầy. Phật khuất bóng, chúng con nương cậy ai làm thầy? Phật pháp quả thật có người truyền thừa. Truyền Tông Môn là tôn giả Đại Ca Diếp, truyền Giáo Hạ là tôn giả A Nan. Đức Phật chẳng dạy nương theo ngài Ca Diếp hay ngài A Nan làm thầy, không có! Đức Phật chẳng nói như thế. Đức Phật dạy chúng ta: “Dĩ giới vi sư” (lấy giới làm thầy). Chỉ cần quư vị có thể tŕ giới, sẽ chẳng khác ǵ Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế. Đức Phật c̣n thường nói: “Dĩ khổ vi sư” (lấy khổ làm thầy), v́ sao? Có thể chịu khổ, sẽ có thể tŕ giới. Chẳng thể chịu khổ, sẽ không thể tŕ giới; chắc chắn quư vị sẽ phá giới, phạm giới. V́ thế, lấy giới làm thầy, dùng khổ để phụ trợ quư vị tŕ giới, thành tựu tịnh giới th́ quư vị mới có thể đắc Định. Nhân Giới đắc Định, nhân Định khai Huệ, quư vị mới có thể thành tựu. Nếu không có Giới, Phật pháp sẽ biến thành Phật học. Chư vị phải biết: Có Giới là học Phật, chẳng có Giới là Phật học. Không có Giới, sẽ không có Định, chẳng có Huệ, coi Phật học một loại học thuật bậc nhất trong thế gian để nghiên cứu, chẳng liên quan ǵ đến cuộc sống của chúng ta, sai mất rồi, toàn thể Phật pháp bị biến chất. Do vậy, hiện tại t́m kiếm Phật pháp trên thế gian, đến nơi đâu để t́m? T́m không ra! Thời cổ, đến nơi nào cũng t́m được. Tất cả tự viện am đường đều là trường học, giống như hiện thời gọi là “trường học chuyên khoa”, quư vị muốn học thứ ǵ, quư vị đến trường đó để học. Núi Thiên Thai ở tỉnh Chiết Giang là trường chuyên khoa của tông Pháp Hoa, quư vị thích kinh Pháp Hoa th́ đến núi Thiên Thai. Thích kinh Hoa Nghiêm th́ đến núi Ngũ Đài; núi Ngũ Đài là trường chuyên khoa của tông Hoa Nghiêm. Thích Pháp Tướng Duy Thức, quư vị đến chùa Đại Từ Ân ở Trường An, hiện thời là Tây An[8]. Huyền Trang đại sư, Khuy Cơ đại sư đều dạy học nơi đó. Thích Tịnh Độ, Huệ Viễn đại sư mở trường chuyên khoa ở Lô Sơn, tỉnh Giang Tây. Gần như mỗi tự viện am đường đều có khóa tŕnh chủ tu, quư vị đến nơi đó, thật sự có cao nhân hướng dẫn, chỉ dạy, quư vị đi cầu học, có thể y chỉ, thân cận thiện tri thức ở nơi đó; hiện thời không có.

      Lúc tôi học Phật, muốn t́m một nơi, nhưng t́m không ra. Đi khắp nơi trên cả thế giới, t́m năm mươi chín năm vẫn chưa t́m ra. Kể ra vận số cũng c̣n khá, được mấy vị cư sĩ hộ tŕ, chẳng đến nỗi phải hoàn tục; nếu không, chẳng có đường nào để đi. Học hết sức nhọc nhằn! Điều khó có là thuở đầu tôi thân cận ba vị thầy, theo thầy mười ba năm, đặt vững căn bản. Chẳng có mười ba năm vun bồi căn cội ấy, nếu muốn tự học, sẽ chẳng thể nào, mà cũng chẳng có cách nào! V́ thế, cổ nhân nói: “Thập tải hàn song, nhất cử thành danh” (mười năm khổ nhọc, thi đậu, thành danh)[9] là có đạo lư. Không có mười năm công phu, đă thế, mười năm c̣n phải thâm nhập một môn, huân tu lâu dài, quư vị mới có thể thành tựu. Người hiện thời khác hẳn tiền nhân, cũng chịu ảnh hưởng bởi hoàn cảnh, [ưa chuộng] học rộng nghe nhiều! Họ học rất nhiều thứ, lăng phí rất nhiều thời gian, rốt cuộc học được ǵ? Học rộng, nhưng chẳng tinh tường. Cổ nhân dạy học khác hẳn, tôi theo thầy Lư mười năm, mười năm chỉ học năm bộ kinh. Tôi đă nói với quư vị, tôi học hơn ba mươi bộ kinh, đều là bàng thính (dự thính). Thầy dạy cho các bạn học khác, tôi nghe ké, c̣n học chính thức chỉ có năm bộ. Nói ra, quư vị nghe sẽ thấy rất đơn giản. Bộ thứ nhất tôi học là A Nan Vấn Sự Phật Cát Hung Kinh, bộ thứ hai là A Di Đà Kinh, bộ thứ ba là Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm, một quyển, tức quyển cuối cùng [của kinh Hoa Nghiêm] giảng về mười đại nguyện vương, bộ thứ tư là kinh Kim Cang, bộ thứ năm là kinh Lăng Nghiêm, mười năm đấy nhé!

      Khi dạy, thầy quy định rất nghiêm ngặt, nhưng Ngài không bó buộc học tṛ, v́ sao? Thời đại hiện nay là dân chủ tự do rộng mở, nếu quư vị kiềm chế quá ngặt nghèo sẽ vi phạm nhân quyền, không được đâu, sẽ phải ngồi tù! V́ thế, khác hẳn trước kia. Trước kia, cha mẹ có thể dạy con cái, thầy có thể dạy tṛ, nay th́ không thể, chỉ có thể nói là dùng thân phận đồng học, dâng kiến nghị cho quư vị tham khảo, quư vị tiếp nhận hay không, quư vị có chủ quyền, chủ quyền ấy rất thiêng liêng, ai cũng không thể can thiệp! V́ thế, trong thời đại này, có thể thành tựu hay không là do chính ḿnh chịu trách nhiệm, thầy có muốn lănh trách nhiệm cũng chẳng thể được, người ấy đâu có chịu! Kể ra chúng tôi vẫn c̣n ngoan ngoăn một chút, nghe lời, nên mới có một chút thành tựu. Nếu chẳng nghe lời, tôi cũng học rộng nghe nhiều, thế là xong luôn! Quả thật cổ nhân nói có lư, “một kinh thông, hết thảy các kinh sẽ thông”. Tuy chúng ta chưa thông một kinh, nhưng đă dốc sức rất nhiều nơi một bộ kinh. Một bộ kinh phải học rất nhiều lượt, chẳng phải một lần là xong! Mỗi lượt đều khác nhau, dần dần sẽ nếm được pháp vị. Đặt vững vàng cơ sở rồi, đối với kinh chưa học, quư vị muốn học tập sẽ chẳng khó. Chẳng hạn như tôi chưa từng học kinh Hoa Nghiêm, kinh Pháp Hoa cũng chưa hề học, nhưng tôi đều giảng được! Đổ công sức nơi kinh Lăng Nghiêm, học Lăng Nghiêm với thầy Lư, tôi giảng kinh Lăng Nghiêm bảy lần. Đó là cơ sở, đấy cũng là một bộ kinh lớn. Tôi nhớ năm 1977, lần đầu tiên tôi sang Hương Cảng, giảng kinh Lăng Nghiêm suốt bốn tháng, pháp duyên lần ấy cũng thù thắng.

      V́ thế, hiện thời đạo thầy tṛ rất khó thành tựu là có nguyên nhân, v́ sao? Trong thời đại hiện thời, không có đạo cha con, Phật pháp là sư đạo, sư đạo kiến lập trên cơ sở hiếu đạo. Xă hội này chẳng có hiếu đạo, đương nhiên cũng chẳng có sư đạo. V́ thế, vấn đề này nghiêm trọng, chẳng phải là vấn đề nhỏ nhoi, có quan hệ đến sự tồn vong của mạng mạch quốc gia, dân tộc và văn hóa truyền thống. Thật sự phải là ǵ? Phải là bậc Bồ Tát tái lai, thật sự phát đại tâm, phải cảm nhận chính ḿnh có sứ mạng, hy sinh tánh mạng cũng không bận ḷng ḥng học tập văn hóa truyền thống. Sau khi học xong, sẽ dạy truyền thống văn hóa, phát huy rực rỡ văn hóa truyền thống. Đó là ǵ? Đó chính là Chúa Cứu Thế, Phật, Bồ Tát tái lai, chẳng phải là người phàm! Người phàm đến thế gian để cầu tiếng tăm, lợi dưỡng, đến hưởng thụ sự vui sướng do ngũ dục lục trần, đến làm những chuyện ấy. V́ thế, đức Phật dạy “lấy khổ làm thầy” vô cùng hữu lư. Thật sự có thể chịu khổ, nhẫn nhục, người ấy mới có thành tựu. Người ấy nhất định thành tựu giới luật, giới luật nhằm mục tiêu nào? Mục tiêu của giới luật là tâm thanh tịnh. Chỉ có tŕ giới quư vị mới có thể khôi phục cái tâm thanh tịnh, tâm thanh tịnh là Thiền Định. Có công phu định lực đạt đến độ sâu nhất định, trí huệ sẽ khai.

      Đối với Thiền Định, quư vị phải biết, hễ chúng ta nói đến Thiền Định, trong đầu mọi người đều nghĩ đến quan niệm: Ngồi xếp bằng, nh́n vào vách th́ gọi là “tham Thiền”’; đó là phương pháp sơ học trong Thiền Tông. Quư vị phải hiểu Thiền Định theo nghĩa rộng, đừng hiểu theo nghĩa hẹp. Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều là Thiền Định, phương pháp tu học Thiền Định khác nhau, đường lối khác nhau, nên gọi là pháp môn! Nếu chẳng phải là tu Thiền Định, sẽ chẳng phải là Phật pháp. Nếu là tu Thiền Định th́ gọi là Phật pháp. Nay Tịnh Độ Tông chúng ta dùng phương pháp ǵ để tu Thiền Định? Nay chúng ta dùng một câu Phật hiệu A Di Đà Phật, dùng phương pháp chấp tŕ danh hiệu để tu Thiền Định. Cách tu ra sao? Trước hết, quư vị phải hiểu Thiền Định nghĩa là ǵ? Giảng hai chữ Thiền Định theo cách nào? Thiền là ǵ? Định là ǵ? Ngoài chẳng chấp tướng là Thiền, trong chẳng động tâm là Định, toàn bộ tám vạn bốn ngàn pháp môn đều là tu phương pháp này! Chúng ta mới có một chút chấp trước, hoặc mới có một tí phân biệt, liền A Di Đà Phật! Tổ sư Tông Môn bảo: “Chẳng sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm!” Thiền Định là giác, ư niệm mới dấy lên, bất luận thiện niệm hay ác niệm, hễ niệm dấy lên là trật rồi! V́ sao? Trong tâm thanh tịnh không có ư niệm. Ư niệm dấy lên th́ làm sao? Trở về A Di Đà Phật, thảy đều quy vào A Di Đà Phật. Tới Tây Phương Cực Lạc thế giới, A Di Đà Phật cũng không có, quư vị sẽ minh tâm kiến tánh. Đây là dùng một niệm để xóa trừ tất cả những niệm khác. Tịnh Tông dùng phương pháp này, nên gọi là Niệm Phật. Dùng phương pháp Niệm Phật để đạt đến minh tâm kiến tánh, đạt tới đại triệt đại ngộ.

      Bất luận pháp môn nào, Tịnh Tông chẳng phải là ngoại lệ, mục tiêu cuối cùng là minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật. V́ vậy, trong kinh Bát Nhă, đức Phật đă dạy: “Pháp môn b́nh đẳng, chẳng có cao thấp”, lời này là thật, chẳng giả. Phương pháp khác nhau, nhưng phương hướng như nhau, mục tiêu giống nhau. V́ thế, không có giới th́ làm sao được? Quư vị chẳng thể chịu khổ, sẽ chẳng thể tŕ giới. Quư vị chẳng thể tŕ giới sẽ không thể đắc Định; chẳng thể đắc Định, làm sao có thể khai Huệ? Vậy th́ những điều quư vị mong cầu, nghiên cứu sẽ là Phật học, là pháp thế gian, chúng ta chớ nên không biết! Một bộ kinh A Di Đà có thể giúp quư vị tới Tây Phương Cực Lạc thế giới. Trong thế gian này, quư vị thông minh, hiếu học, nghiên cứu thấu suốt Tam Tạng mười hai bộ kinh của Thích Ca Mâu Ni Phật, học thuộc nhuyễn nhừ, nhưng không có giới! Không có giới, nói đến chữ này, quư vị phải hiểu: Quư vị chẳng có Giới - Định - Huệ. V́ lẽ đó, trước kia, thầy Lư thường nói: Trong lục đạo luân hồi, quư vị đáng sanh tử ra sao th́ vẫn sanh tử như thế ấy, chẳng có một tí xíu biện pháp nào! Chớ nên xem thường những ông già, bà cả, chẳng thể khi dễ họ! Họ do một bộ kinh Di Đà, một câu A Di Đà Phật, niệm vài chục năm, khi lâm chung, đứng văng sanh, ngồi văng sanh, biết trước lúc mất. Đó là ǵ? Giới - Định - Huệ thành tựu, họ dùng được! Họ tới Tây Phương Cực Lạc thế giới làm Phật, c̣n quư vị vẫn luân hồi trong lục đạo!

      Chư vị phải biết đấy là chân tướng sự thật th́ quư vị mới hiểu. Năm 2007, một nhà Hán Học của trường Kiếm Kiều (Cambridge) là giáo sư Mạch Đại Duy (David McMullen) sang Hương Cảng kiếm tôi, muốn tôi sang Kiếm Kiều mở một học viện, ông ta đă chọn sẵn tên cho tôi rồi, [học viện] Đại Thừa Phật Học thuộc đại học Kiếm Kiều. Tôi rất cảm kích ông ta, đúng là hảo ư. Trên thế giới, Kiếm Kiều được xếp hàng thứ ba. Theo quy chế đại học của Anh Quốc, các trường như Ngưu Tân (Oxford), Kiếm Kiều, nói chung đều có từ năm mươi học viện (academy) trở lên, họ theo quy chế ấy. Tôi cảm tạ ông ta, tôi nói tôi không thể đi, v́ sao? Quy chế và quy ước trong trường các vị là nghiên cứu Phật học, chẳng tu Giới - Định - Huệ, quư vị nghiên cứu Phật học, chẳng phải là học Phật. Quư vị phải biết: Phật học và học Phật là hai chuyện [khác nhau], học Phật có Giới - Định - Huệ. Không có Giới - Định - Huệ sẽ là Phật học, chẳng phải là học Phật. Phật học là tri thức, học Phật là trí huệ, khác nhau! Trí huệ và tri thức là hai chuyện. Trí huệ có thể giải quyết vấn đề, chẳng để lại hậu quả. Tri thức giải quyết vấn đề sẽ để lại cả đống hậu quả, chúng ta chớ nên không biết điều này. Do vậy, ngài A Nậu Lâu Đà dạy A Nan hỏi bốn câu ấy, rất trọng yếu! Lấy khổ làm thầy, lấy giới làm thầy! Nếu chúng ta không coi trọng chuyện này, xong luôn! Ở trong thế gian này, quư vị dùng Phật pháp để đạt được tiếng tăm, lợi dưỡng th́ được, có thể đạt được! Quư vị nói [sinh viên] khoa Hán học của Âu Châu lấy kinh Phật để viết luận văn nhằm giành học vị Tiến Sĩ, chẳng có vấn đề ǵ, có thể đạt được, tương lai cũng có thể là một vị giáo sư hay nhà Hán học nổi tiếng. Thầy Lư nói: “Đáng sanh tử như thế nào th́ vẫn sanh tử như thế ấy”, quư vị không có cách nào văng sanh thành Phật!

      Câu hỏi thứ ba, cũng là hỏi rất hay! Hiện thời, hiện tượng này rất nhiều, trong đoàn thể, kẻ chẳng tuân thủ quy củ của người xuất gia th́ nên làm sao? Lúc đức Phật tại thế, đức Phật có thể kiềm chế họ, đức Phật có thể giáo huấn họ. Nay đức Phật đă khuất, sau này, gặp những kẻ như vậy, ai sẽ giáo huấn họ? Đức Phật dạy một phương pháp rất hay, đừng quan tâm đến họ, đó là Mặc Tẫn (Brahma-danda). Mặc Tẫn là không bận tâm đến kẻ ấy, dùng phương pháp này. Khổng lăo phu tử của Trung Quốc nói: “Kính nhi viễn chi” (kính trọng nhưng giữ khoảng cách), chẳng kết oán với người khác. Chúng tôi nghe thấy [điều này trong] giáo huấn của thánh nhân, theo thầy Lư mười năm, tôi thấy lăo nhân gia đă làm được. Trong đoàn thể của cụ cũng có những học tṛ chẳng nghe lời, bề ngoài tuân phục, bên trong chống đối, cụ đối với kẻ ấy như thế nào? Chúng tôi thấy thầy đúng là kính nhi viễn chi, thấy kẻ ấy, thầy nhất định rất tôn kính, lễ độ, luôn luôn rất hoan hỷ. “Viễn” là ǵ? Viễn là quư vị tùy tiện làm ǵ, tôi trọn chẳng can thiệp, chẳng nghe, chẳng hỏi đến! Quư vị thích làm ǵ th́ làm. Đúng rồi, chính xác! Lăo nhân gia nêu gương cho chúng ta thấy. Trong xă hội hiện tại, điều này vô cùng trọng yếu, phải biết kính nhi viễn chi đối với kẻ bất thiện! Viễn chẳng phải là cố ư giữ khoảng cách. Chẳng phải! Gặp mặt vẫn rất thân thiết, nhưng hết sức khách sáo, lễ tiết ǵ cũng chu đáo; nhưng quư vị làm ǵ, tôi không can thiệp, tôi làm ǵ, quư vị cũng chẳng dính líu tới. Đấy chẳng phải là đối xử tốt đẹp ư? Mọi người đều vui vẻ ư? Thích Ca Mâu Ni Phật đúng là có trí huệ, thật sự có trí huệ. Nói đến ḥa hài th́ làm như vậy mới thật sự đạt được ḥa hài. Phải học chẳng phê b́nh kẻ khác, đừng nên can thiệp vào chuyện của người khác, chính ḿnh nêu gương tốt cho kẻ khác thấy, điều này rất trọng yếu. Họ nh́n thấy, hiểu, có cảm nhận, tốt lắm! Nh́n nhưng không hiểu, chẳng sao! Họ nh́n lâu ngày sẽ hiểu. Một năm, hai năm mà nh́n không hiểu th́ chắc họ nh́n thấy mười năm, hai mươi năm sẽ hiểu, không nhất định! V́ thế, thái độ nhu ḥa, chất trực quan trọng lắm! “Oai nghi hữu tắc” (oai nghi theo đúng khuôn khổ) là chính ḿnh phải thực hiện Giới - Định - Huệ.

Câu hỏi thứ tư là mọi người đều biết, trong tương lai nhất định sẽ dùng văn tự ghi chép những điều Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói, đă dạy trong một đời để truyền cho hậu thế. Vậy th́ đầu kinh văn, câu đầu tiên phải viết như thế nào? Đức Thế Tôn chỉ dạy, dùng “như thị ngă văn”. Đấy là khi đức Phật diệt độ, A Nan hướng về Thích Ca Mâu Ni Phật hỏi bốn vấn đề. Đây là vấn đề thứ tư trong bốn vấn đề. “Nhất thiết kinh thủ, đương trí như thị ngă văn, Phật tại mỗ phương đẳng lục sự” (Đầu hết thảy các kinh, nên để “như thị ngă văn”, Phật tại chốn mỗ, thời mỗ...”, [tức là] sáu thứ thành tựu [vừa nói trên đây]). Tôi nghe như thế này, đức Phật vào lúc nào, ở địa điểm nào, cùng với người nào, tức là sáu sự đă nói trong phần trước, tức sáu món thành tựu.

“Như thị ngă văn”, chữ Ngă này chỉ A Nan. A Nan vừa mở miệng liền bảo mọi người, “như thị” là tôi đă nghe đức Phật răn dạy như thế, tức là khi đức Phật giảng bộ kinh này, tôi đích thân nghe đức Phật nói. “Biểu như thị pháp môn năi ngă A Nan sở văn ư Thích Tôn giả dă. Thử chánh khả phá đương thời chi nghi” (biểu thị pháp môn như thế ấy do chính A Nan tôi được nghe từ đấng Thích Tôn. Câu này phá được nỗi nghi ngờ của người đương thời). V́ khi kết tập Kinh Tạng, tôn giả A Nan phức giảng, tức là nhắc lại các kinh do Thích Ca Mâu Ni Phật đă giảng. Phức giảng là đại sự, Phật pháp mới có thể lưu truyền mười phương ba đời, công đức ấy vô lượng vô biên! V́ thế, ngài A Nan thăng ṭa, không chỉ Thích Ca Mâu Ni Phật gia tŕ, mà hết thảy chư Phật cũng đều gia tŕ Ngài. Do lẽ đó, trên đài, h́nh tướng của ngài A Nan giống như đă thành Phật, v́ thế, mọi người hoài nghi, có phải là A Nan đă thành Phật đó chăng? Hoặc là Phật từ phương khác đến? Như vậy, thứ nhất là nghi Phật, tức Thích Ca Mâu Ni Phật trở lại, quay lại. Thứ hai là nghi A Nan thành Phật. Thứ ba là nghi Ngài là Phật từ phương khác đến. A Nan vừa nói “như thị ngă văn”, những nghi vấn ấy đều được giải quyết, [mọi người] đều hiểu trên đài là tôn giả A Nan. V́ thế, các đồng học thường nghe giảng kinh, có khi quư vị có thể nhận thấy người đang giảng kinh trên giảng đài đều có Phật, Bồ Tát gia tŕ. Không được Phật, Bồ Tát gia tŕ, sẽ không giảng được. V́ thế, giảng trên đài, oai nghi, tướng mạo, thần thái của người ấy khác với lúc ở dưới giảng đài. Quan sát cẩn thận sẽ có thể nhận ra: Quả thật được Tam Bảo gia tŕ!

Tiếp đó, c̣n có vấn đề: “Hoặc nghi viết: Phật thành đạo nhập niên, A Nan phương xuất gia” (Hoặc nghi: Phật thành đạo hai mươi năm, A Nan mới xuất gia). Phật thành đạo năm ba mươi tuổi, A Nan mới sanh ra. Lại phải qua hai mươi năm sau, A Nan mới xuất gia. A Nan xuất gia năm hai mươi tuổi, Thích Ca Mâu Ni Phật đă năm mươi tuổi. Trong khoảng thời gian trước đó, những kinh đức Phật đă giảng A Nan chưa hề nghe, khi kết tập làm sao Ngài có thể phức giảng được? Chúng ta đọc tiếp lời chú giải: “Hựu thập niên phương mạng vi thị giả. Như thử, tắc tạp niên tiền Phật sở thuyết kinh, A Nan hà năng giai viết ngă văn” (Lại nữa, mười năm sau mới được [đức Thế Tôn] sai làm thị giả. Như thế th́ đối với những kinh do đức Phật trong ba mươi năm trước đó, làm sao A Nan có thể đều nói là “tôi nghe”). Kết tập Kinh Tạng, phía trước [mỗi kinh] đều thêm câu “như thị ngă văn”, quả thật có nghi vấn này. Tiếp đó, [sách Chú Giải] có ba lời giải thích: Thứ nhất là “triển chuyển”, thứ hai là “Phật trùng thuyết”, thứ ba là “A Nan tự thông”, [nghĩa là] tự ḿnh khai ngộ.

- “Triển chuyển văn: Báo Ân kinh ngôn, A Nan sở bất văn kinh, tùng chư tỳ-kheo văn, hoặc chư thiên tử thuyết” (Triển chuyển văn: Kinh Báo Ân nói những kinh nào A Nan không được nghe trước đó th́ nghe từ các tỳ-kheo khác, hoặc nghe chư thiên nói). Nghe từ đồng học, từ những vị đồng học đă thân cận [đức Thế Tôn] từ thuở đầu, những vị đồng học ấy như ngài Kiều Trần Như đă nói trong phần trước là vị chứng A La Hán đầu tiên ở Lộc Dă Uyển, có thể nói là hết thảy các kinh do Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói trong bốn mươi chín năm, Ngài nghe toàn bộ, chẳng sót buổi nào. Các Ngài có quan hệ thân thích với Thích Ca Mâu Ni Phật và A Nan. Do vậy, đây là người khác nói với Ngài.

- Thứ hai là “Phật trùng thuyết”, trong kinh Báo Ân có chép: “A Nan nhân Phật mạng vi thị giả, năi cầu tam nguyện” (A Nan tuân lệnh đức Phật làm thị giả, bèn cầu xin được thỏa ba điều nguyện). A Nan xuất gia, sau khi xuất gia, làm thị giả của Thích Ca Mâu Ni Phật, khi ấy, Ngài bèn cầu xin ba chuyện, trong ấy có một điều như sau: “Sở vị văn kinh, thỉnh Phật trùng thuyết” (những kinh con chưa được nghe, xin Phật nhắc lại), những kinh đức Phật đă giảng trong hai mươi năm, con chưa được nghe, xin Phật giảng lại cho Ngài, giảng lần nữa, “Phật hứa chi” (đức Phật chấp thuận). Trong kinh có chép một đoạn như vậy.

- Thứ ba là “A Nan tự thông: Kim Cang Hoa Kinh ngôn, A Nan đắc Pháp Tánh Giác Tự Tại tam-muội, sở vị văn kinh, tự năng ức tŕ” (A Nan tự thông hiểu: Kinh Kim Cang Hoa nói A Nan đắc Pháp Tánh Giác Tự Tại tam-muội, những kinh chưa được nghe, có thể tự ghi nhớ). Quư vị thấy: Khai ngộ đấy! Quư vị thấy ở Trung Quốc, Thiền Tông Lục Tổ Huệ Năng đại sư khai ngộ, chẳng nghe người khác giảng kinh, chỉ có lúc tiếp nhận y bát ở Hoàng Mai, ḥa thượng Ngũ Tổ Nhẫn đêm khuya giảng đại ư kinh Kim Cang cho Ngài, chắc chắn là không có kinh sách, chúng tôi dự đoán thời gian tối đa là hai tiếng đồng hồ, giảng tới câu: “Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm” (hăy nên chẳng trụ vào đâu để sanh tâm), Ngài hoát nhiên đại ngộ, bèn thông suốt. Hết thảy các kinh do Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói, quư vị đọc cho Ngài nghe, Ngài bèn có thể giảng cho quư vị nghe. Quư vị là người đọc chẳng giác ngộ, Ngài giảng cho quư vị nghe, rất có thể là quư vị sẽ đại triệt đại ngộ. Tỳ-kheo-ni Vô Tận Tạng chẳng phải là một thí dụ rất rơ rệt đó ư? Vị này là người được Huệ Năng đại sư độ đầu tiên, đắc độ đầu tiên, Ngài gặp trên đường lánh nạn. Tại thôn Tào Hầu gặp gỡ, vị tỳ-kheo-ni này cả đời thọ tŕ kinh Đại Niết Bàn. Kinh Đại Niết Bàn kích thước cũng rất lớn, có hai bản dịch, một bản bốn mươi quyển, bản dịch kia gồm ba mươi sáu quyển, đều là phân lượng khá lớn. Con người xưa kia tốt đẹp, thâm nhập một môn! Như thiền sư Pháp Đạt học kinh Pháp Hoa mười năm, thâm nhập một môn. Thâm nhập một môn, Sư đắc tam-muội, tâm thanh tịnh, trong tâm chẳng có ǵ khác, chỉ có một thứ này. V́ thế, Lục Tổ bảo ni sư hăy niệm kinh. Sau khi niệm xong, Lục Tổ vừa nghe một đoạn đă giảng ư nghĩa của đoạn ấy cho ni sư nghe. Ni sư nghe xong: “Hay quá!”, hết sức hoan hỷ, cầm quyển kinh hướng về Huệ Năng đại sư thỉnh giáo. Huệ Năng đại sư bảo: “Ta không biết chữ, ngươi đừng đưa kinh cho ta”. Ni sư hỏi: “Chẳng biết chữ th́ làm sao Ngài giảng hay như thế?” Tổ dạy: “Chuyện ấy chẳng dính dáng ǵ đến biết chữ hay không biết chữ”. Chúng ta có thể suy ra: Huệ Năng đại sư có năng lực ấy th́ A Nan cũng có năng lực ấy. Chỉ cần chuyên, nay chúng ta nói là “chuyên chú”, c̣n Phật pháp gọi là “chuyên nhất”. Khi đạt đến nhất tâm bất loạn sẽ khai, tự được tâm khai, tự nhiên thông suốt. Khi con người đă kiến tánh, thứ ǵ cũng đều thông. A Nan là đại Bồ Tát tái lai, chẳng phải là phàm nhân, diễn tuồng cho chúng ta xem. Trên sân khấu, Ngài chứng quả Tu Đà Hoàn, trên thực tế, là bậc Đại Bồ Tát, chẳng phải là phàm nhân, Ngài minh tâm kiến tánh. V́ thế, một vị Phật xuất thế, ngàn vị Phật ủng hộ, chúng ta biết điều này, sau khi quư vị liễu giải sẽ chẳng c̣n hoài nghi.

      Do A Nan kết tập Kinh Tạng, Ngài là người lưu truyền Giáo Hạ của Phật, Ca Diếp là người lưu truyền Tông Môn, truyền Thiền Tông. V́ thế, [Phật giáo] được gọi là “Tông Môn Giáo Hạ”. Bản thân Phật giáo xưng là Tông Giáo, khác với chữ “tôn giáo” hiện thời, Tông là Tông Môn, Giáo là Giáo Hạ. Tại Trung Quốc có mười tông, Thiền Tông xưng là Tông Môn, chín tôn phái kia đều gọi là Giáo Hạ. Đây là phương thức giáo học khác nhau. Tông Môn trước tiên bảo quư vị tham cứu, không có sách giáo khoa. Ngộ rồi sẽ bắt đầu tu, [tức là] sau khi đại triệt đại ngộ, mới cho phép quư vị xem kinh. Trước khi khai ngộ, chẳng được phép xem kinh. Đây là [pháp môn dành cho] nhân vật thiên tài đặc biệt, chẳng dành cho người tầm thường. V́ thế, lúc tôi vừa tiếp xúc Phật pháp, ba vị thầy đều cảnh cáo tôi. Ba vị thầy đều chưa gặp mặt tôi, nhưng đă cảnh cáo tôi một chuyện, bảo tôi ngàn vạn phần đừng mon men Thiền Tông. Đó là [pháp môn dành cho] kẻ thượng thượng căn, là nhân vật thiên tài trong Phật môn. Nếu anh muốn học pháp môn ấy, đó là “một bước lên trời”. Nếu một bước không lên trời được, rớt xuống sẽ tan thân nát xương, xong luôn! V́ thế, tiên sinh Phương Đông Mỹ dạy tôi Pháp Tướng Duy Thức, Ngài chỉ điểm cho tôi con đường ấy. Sau khi học Phật, tôi thân cận Chương Gia đại sư, tôi theo Phương tiên sinh đại khái nửa năm, theo Chương Gia đại sư ba năm, Chương Gia đại sư đặt vững cơ sở cho tôi. Chương gia đại sư dạy tôi “thấy thấu suốt, buông xuống”, đây là pháp môn tổng quát, tổng nguyên tắc, tổng cương lănh, bất luận tu pháp môn nào cũng đều phải thực hiện từ nơi đây! Ngài dạy tôi học Thích Ca Mâu Ni Phật, tác phẩm Ngài dạy tôi đọc đầu tiên là Thích Ca Phổ và Thích Ca Phương Chí: “Anh nhận biết Thích Ca Mâu Ni Phật, khéo học tập theo Ngài, sẽ chẳng đến nỗi đi sai đường”. Chúng tôi mới liễu giải sau khi khai ngộ vào năm ba mươi tuổi, Thích Ca Mâu Ni Phật liền tiến hành dạy học, dạy suốt bốn mươi chín năm. V́ thế, Phật pháp chẳng phải là tôn giáo.

      Hiện thời, Phật giáo biến thành tôn giáo, đệ tử Phật môn chúng ta có tội lỗi. Thầy chúng ta là một đại giáo dục gia, là đại thánh đại hiền, cớ sao lại khiến cho Ngài dính mắc vào tôn giáo, tôn giáo là mê tín? Chúng ta hiểu rơ ràng, bất luận nơi nào, chúng ta đều phải bảo cho mọi người biết: “Phật pháp chẳng phải là tôn giáo”. Lời này chẳng phải do tôi nói đầu tiên, mà do Âu Dương đại sư (Âu Dương Cánh Vô) nói trước tiên. H́nh như vào năm Dân Quốc 12 (1933), tôi c̣n chưa sanh ra. Ông ta ở đại học Đệ Tứ Trung Sơn, nay là đại học Sư Phạm Nam Kinh, đă có lần giảng diễn rất nổi tiếng với đề mục “Phật pháp chẳng phải là tôn giáo, chẳng phải là triết học, mà là nhu cầu thiết yếu trong hiện thời”, giảng về đề tài như thế. Phật giáo là ǵ? Phật giáo là giáo dục của đức Phật, là giáo dục của Thích Ca Mâu Ni Phật, rất rơ ràng. Chúng ta học Phật là tiếp nhận sự giáo dục của Thích Ca Mâu Ni Phật. Ngài giáo dục là dạy ǵ? Dùng một câu nói trong kinh điển để nói th́ sẽ là “chư pháp Thật Tướng”. Câu này giải thích ra sẽ là: Thật Tướng của nhân sinh và vũ trụ, Ngài dạy chúng ta điều này. Nói cụ thể cùng quư vị, nói theo cách người hiện thời, nội dung lời Ngài nói là ǵ? Nói cụ thể sẽ không ngoài năm hạng mục lớn. Năm hạng mục ấy là luân lư, đạo đức, nhân quả, triết học, và khoa học. Năm hạng mục đều giảng đến mức viên măn rốt ráo, quá sức quư báu! Người đời sau gọi giáo học của lăo nhân gia và các sách vở, tức là những tài liệu dạy học thuở ấy là Pháp Bảo, có lư lắm! V́ thế, bản thân chúng ta phải khéo học, phải nghiêm túc học, phải uốn nắn những ngộ nhận của xă hội, đó là trách nhiệm và sứ mạng của chúng ta. Thầy Phương cả đời nỗ lực làm chuyện này, rất đáng tiếc là cụ mất quá sớm, bảy mươi chín tuổi đă ra đi. Khi ấy tôi nghĩ, nếu thầy sống thêm năm năm nữa, hiệu quả sẽ vô cùng rơ rệt, có thể khiến cho đại chúng trong xă hội suy nghĩ lại, xác định đúng vị trí của Phật pháp. Phật pháp thật sự chẳng phải là tôn giáo.

      Tiếp đó, cụ Hoàng lại giải thích cặn kẽ chữ “như thị”, “như thị”
Tín Thành Tựu. “Cư lục chủng thành tựu trung chi thủ vị” (đứng đầu trong sáu món thành tựu), [đây là] điều đầu tiên phải tin tưởng. Quư vị tiếp nhận giáo dục, chẳng có ḷng tin đối với thầy, chẳng có ḷng tin đối với môn quư vị đang học, sẽ chẳng thể nào học thành công được! V́ thế, đầu tiên, phải tin tưởng thầy, thứ hai là tin tưởng vào môn học th́ quư vị mới thật sự học được điều ǵ đó. Nếu tâm quư vị chẳng mười phần cung kính thầy, sẽ chẳng đạt được mười phần lợi ích. Trong Văn Sao, Ấn Quang đại sư đă giảng rất nhiều lần: “Một phần thành kính được một phần lợi ích, hai phần thành kính được hai phần lợi ích, mười phần thành kính được mười phần lợi ích”. Thành kính đối với ai? Thành kính đối với thầy, tin tưởng môn học, có ḷng thành tín, quư vị mới thật sự học được. Cùng một môn học, cùng một vị thầy, v́ sao hiệu quả học tập của mỗi tṛ khác nhau? Chẳng có chi khác, do ḷng tin khác nhau! Đạo lư ở chỗ ấy! Thầy xét coi học tṛ nào có thể dạy được, học tṛ nào chẳng có cách dạy! V́ sao thầy biết? Thầy chẳng có thần thông, thầy chỉ coi tṛ có tâm tôn kính hay không? Thầy cũng trọn chẳng đ̣i hỏi quư vị tôn kính thầy như thế nào, chẳng phải vậy, mà là thầy xem quư vị có thể tiếp nhận được bao nhiêu?

      Do tôi được cha dạy tôn sư trọng đạo từ nhỏ; thuở ấy, khoảng chừng năm Dân Quốc hai mươi mấy, tôi nhớ h́nh như tôi năm, sáu tuổi, hoặc sáu bảy tuổi, vào trường tư thục, nay gọi là trường học dành cho con em trong gia đ́nh, [thầy dạy] là họ hàng, ở trong nhà cô tôi, thuở ấy là đại gia tộc. Do tôi vẫn c̣n tiếp xúc với đại gia đ́nh, nên có ấn tượng. Thôn trang ấy có phạm vi rất lớn. Ước chừng tới hai trăm người, là một gia tộc, chẳng tách ra thành từng nhà riêng biệt, mười người anh em [của cha tôi] chẳng tách riêng. V́ vậy, cả nhà từ trên xuống dưới có khoảng chừng hai trăm người, là gia tộc rất lớn. Họ có một từ đường. Từ đường trừ Xuân Thu tế lễ ra, chẳng dùng để làm ǵ. V́ thế, trường tư thục mở ngay trong từ đường. Tư thục là trường học cho con em trong gia tộc, trẻ nhỏ trong gia tộc đều đến học tại đó. Tôi nhớ các bạn học dường như không nhiều lắm, phải là từ ba mươi đến năm mươi người, không nhiều lắm! Lớn tuổi th́ đại khái có mười bảy, mười tám, nhỏ tuổi th́ giống như chúng tôi, rất bé, sáu, bảy tuổi. Cùng dạy trong một pḥng học, một vị thầy. Ngày nhập học, cha dẫn tôi đi, mang theo lễ vật, biếu “thúc tu”[10] cho thầy, cho nên mang theo lễ vật dâng lên thầy. Vào trường học, tức là đại điện (gian chính của từ đường), đại điện là nơi tế tổ được đổi thành lễ đường. Chính giữa điện, đặt một bài vị, chữ trên bài vị tôi đều đọc được, v́ khi đó, cha đă dạy cho tôi biết mặt chữ tại nhà, đại khái có thể nhận biết tới năm trăm chữ. V́ thế, mấy chữ trên bài vị tôi đều đọc được: “Đại Thành Chí Thánh Tiên Sư Khổng Phu Tử Thần Vị”, tôi nhận biết bài vị ấy, bài vị rất lớn. Thầy ngồi bên cạnh, hai bên là học tṛ, bạn học đứng hai bên. Cha tôi dẫn tôi, cha ở trước, tôi ở đằng sau, hướng về Khổng lăo phu tử hành lễ tối kính, tức là ba lần lạy, chín lần dập đầu. Sau khi lạy xong, cha tôi mời thầy ngồi trên ghế, thầy ngồi phía dưới bài vị Khổng Tử, [cha con cùng] hướng về thầy ba lần quỳ, chín lần dập đầu, chúng tôi biết tôn sư trọng đạo từ chỗ này. Quư vị thấy cha tôi đối đăi thầy, ba lần quỳ, chín lần dập đầu [trịnh trọng như thế], chúng tôi c̣n dám nói ǵ nữa hay không? Thầy và bậc trưởng thượng trong nhà biểu diễn cho quư vị xem, dạy quư vị biết tôn sư trọng đạo như thế nào. Tôi học từ chỗ ấy, nên cả đời luôn rất tôn kính thầy.

      Sau này, quư vị thấy tôi học Phật tại Đài Loan, tôi chiếm được một chút tiện nghi đối với ba vị thầy. Tôi chẳng có mảy may quan hệ ǵ với thầy, nhưng sau khi thân cận thầy, thầy đặc biệt quan tâm, đặc biệt chăm chút tôi. Tôi thân cận thầy Phương, chỉ cầu thầy đồng ư cho tôi đến dự thính tại trường th́ duyên ấy đă vô cùng hy hữu. Nào ngờ thầy cho phép tôi mỗi tuần đến nhà thầy, dạy tôi hai tiếng, chỉ có ḿnh tôi là học tṛ. Thuở ấy, tôi được sủng ái mà đâm ra sợ, cảm kích năm vóc sát đất. Lúc đó, đời sống tôi rất nghèo khó, một đồng biếu thầy cũng không có, thầy t́nh nguyện dạy miễn phí cho tôi. Do nguyên nhân nào? Mười mấy năm sau, chúng tôi mới nghĩ ra, đối với thầy, tâm tôi có một phần cung kính. Tôi và thầy chẳng quen biết, tôi viết một lá thư gởi đến Ngài, thư viết bằng bút lông, dùng lối chữ Công Khải[11], đúng quy củ viết một bức thư, gởi một bài văn cho thầy xem, bài văn ấy viết bằng lối chữ Tiểu Khải[12], hết sức cung kính. Đại khái là trong trường học, người có tâm cung kính đối với thầy như thế rất ít. V́ thế, lần đầu tiên gặp mặt, thầy gọi tôi đến nói chuyện, hiểu rơ t́nh h́nh cuộc sống của tôi, hiểu rơ chí thú của tôi: Tôi ưa thích triết học, nhưng chưa hề học qua, chưa hề thân cận một vị thầy triết học nào, cũng chưa từng đọc những sách triết học nào, là một tờ giấy trắng. Đó là ǵ? Thầy thích nhất, chưa từng bị ô nhiễm. V́ thế, thầy chẳng cho tôi đến trường nghe kinh, sợ bị ô nhiễm. Đến trường nghe kinh, nhất định quen biết rất nhiều thầy và bạn học, sẽ bị ô nhiễm, thầy ngăn ngừa ô nhiễm! Đấy là sư thừa Trung Quốc thời cổ, nghe lời dạy của một vị thầy mà thôi! Một vị thầy chỉ dạy quư vị, quư vị sẽ đi theo một con đường, có thể đạt thành tựu. Hai vị thầy là hai loại tư tưởng, hai phương hướng, có hai con đường! Ba vị thầy là ngă ba đường, bốn vị thầy là ngă tư, xong luôn! V́ thế, trường học hiện thời phiền phức lắm. Quư vị thấy mỗi ngày có bao nhiêu lớp, mấy vị thầy dạy quư vị, dạy đến nỗi quư vị hồ đồ! Nguyên nhân v́ sao giáo sư David McMullen từ Cambridge đến kiếm tôi mà tôi không đi là ở chỗ này. V́ thế, phương pháp dạy học truyền thống của Trung Quốc thật là hay, đời nào cũng xuất hiện thánh hiền. Hiện nay chẳng có, v́ ngay cả trẻ nhỏ cũng bị dạy đến mức rối tung, đầu óc bị dạy đến nỗi mê muội, hồ đồ. V́ thế, Trung Quốc từ xưa tới nay, cổ thánh tiên hiền dạy dỗ, nguyên tắc chỉ đạo giáo dục tối cao là: “Giáo chi đạo, quư dĩ chuyên” (đường lối giảng dạy quư ở chỗ chuyên tâm). Do vậy, ba vị thầy đối với tôi đều là chuyên, chẳng thể học tạp, học loạn mảy may nào, chắc chắn là chẳng thể! Tôi theo thầy Lư mười năm, những môn học được chỉ là đôi chút. Đó là ǵ? Vun bồi căn bản giáo dục. Tuy Ngài chẳng giảng giới luật v́ Ngài là tại gia cư sĩ, Ngài bảo tôi đọc Ngũ Chủng Di Quy, dùng Ngũ Chủng Di Quy thay thế giới luật. Học giảng kinh, Ngài có mở lớp học, đối với hơn hai mươi bạn học [thuộc lớp ấy], Ngũ Chủng Di Quy là một giáo tŕnh các học tṛ học giảng kinh bắt buộc phải học. Hiện thời, hết sức khó khăn! Nếu muốn t́m được cơ duyên ấy th́ thầy t́m tṛ, tṛ t́m thầy đều chẳng dễ dàng, cổ nhân bảo: “Khả ngộ, bất khả cầu” (chỉ có thể gặp, chứ không thể cầu)!

     Tiếp đó, sách viết: “Trí Độ Luận viết: Phật pháp đại hải, tín vi năng nhập” (Trí Độ Luận nói: “Biển cả Phật pháp, do ḷng tin có thể vào”). Phật pháp quả thật là đại hải, “hải” là Tánh hải. Giáo học Phật pháp nhằm trở về tự tánh, trở về tự tánh, quư vị sẽ đắc đại viên măn. Không có cách nào h́nh dung sự đại viên măn này. Nói đơn giản là như trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật đă nói trí huệ viên măn, đức năng viên măn, tướng hảo viên măn, không có ǵ chẳng viên măn. Sự viên măn ấy chẳng do quư vị học được, mà vốn sẵn có trong tự tánh, chỉ cần kiến tánh sẽ thảy đều chứng đắc. Do vậy, người kiến tánh được gọi là Phật. Phật Phật đạo đồng, Phật Phật trí huệ giống nhau, đức năng giống nhau, tướng hảo giống nhau, không có ǵ khác nhau. Tuyệt đối chẳng thể nói vị Phật này biết nhiều hơn vị Phật kia một chút, không hề có, [các vị Phật đều] viên măn. Chứng đắc của hết thảy chư Phật chẳng tăng, chẳng giảm. Thật ra, hết thảy chúng sanh chúng ta và Phật chẳng khác ǵ nhau, chỉ là mê mất tự tánh mà thôi. Ngày nào chúng ta buông mê hoặc, điên đảo xuống, quư vị sẽ thành Phật. Quư vị và chư Phật Như Lai chẳng sai biệt, pháp thế gian thông suốt toàn bộ, pháp xuất thế gian cũng thông suốt. V́ sao? Hết thảy các pháp chẳng ĺa tự tánh, hết thảy các pháp đều là do tự tánh sanh và hiện, ngay cả những ǵ do A Lại Da biến ra, hết thảy đều hiểu rơ. Làm thế nào để có thể cầu được? “Quư dĩ chuyên”, hễ chuyên bèn có thể cầu được, c̣n tạp sẽ chẳng có cách nào! Phải buông khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước xuống. Trong kinh Đại Thừa thường nói điều này, quư vị thấy: Buông chấp trước xuống, quư vị sẽ chứng quả A La Hán, thành Chánh Giác. Nếu buông phân biệt xuống, quư vị sẽ là Bồ Tát, thành Chánh Đẳng Chánh Giác. Nếu chẳng khởi tâm bất động niệm, quư vị sẽ chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, là Phật. Minh tâm kiến tánh, đúng như Huệ Năng đại sư đă nói, chẳng dính dáng ǵ đến biết chữ hay không biết chữ, học hay chẳng học, mà liên quan đến buông xuống hay không! Dẫu quư vị học cho nhiều, nhưng không buông xuống được, quư vị sẽ là học giả trong thế gian, chẳng thể nào sánh bằng bậc Tu Đà Hoàn trong Phật giáo, mà cũng chẳng được thụ dụng như bậc Tu Đà Hoàn. Tu Đà Hoàn có trí huệ, quư vị có tri thức, nhưng không có trí huệ. Nhất định phải hiểu rơ ràng điều này.

      “Hựu Hoa Nghiêm Kinh thuyết, tín vi thủ. Như nhân hữu thủ, chí trân bảo xứ, tùy ư thái thủ. Nhược nhân vô thủ, không vô sở hoạch. Khả kiến, tín giả năi nhập pháp chi sơ môn, xả thử mạc do” (Kinh Hoa Nghiêm lại dạy: “Tín làm tay, như người có tay đến chốn trân bảo, tùy ư nhặt lấy. Người nếu không tay, không được thứ ǵ”. Rơ ràng, Tín là cửa đầu tiên để nhập pháp, bỏ Tín th́ không cách nào nhập được). Tín rất trọng yếu! V́ thế, đại kinh, đại luận, đại kinh là Hoa Nghiêm, đại luận là Đại Trí Độ Luận, đều nói: “Tín vi đạo nguyên, công đức mẫu” (Tín là nguồn đạo, mẹ công đức), ư nói: Cội nguồn của đạo là Tín, hết thảy các công đức đều là sanh từ tín tâm. Không tin, quư vị chẳng có công đức, có thể tu phước đức, nhưng chẳng có cách nào tu công đức. Công đức nhất định phải phát xuất từ tín tâm, chúng ta chớ nên không biết điều này. Chúng ta học Phật, có đạt thành tựu trong Phật pháp hay không? Nói thật ra, quư vị hăy chú tâm quan sát, quư vị có tin Phật hay không? Có tin pháp hay không? Có tin thiện tri thức hay không? Nếu đối với ba điều ấy mà ḷng tin chẳng đủ, trong Phật môn, quư vị chỉ có thể tu được phước báo, phước đức, chẳng có công đức; nhưng phước đức chẳng thể giải quyết vấn đề! Phước đức có thể giải quyết cuộc sống trước mắt: Có phước báo, có thể đạt được tiếng tăm, lợi dưỡng, nhưng chẳng có mảy may dính dáng đến liễu sanh tử, thoát luân hồi, văng sanh thành Phật. Phải biết điều này! Nhưng chuyện này đối với những người truy cầu tri thức mà nói th́ cũng là chuyện rất b́nh thường, họ nói sao? Đó là mê tín, chẳng hợp khoa học, họ chịu thua thiệt rất lớn. May sao, trong hiện tại, Lượng Tử Lực Học xuất hiện, đây là ngành khoa học mới xuất hiện, tôi tin trong năm năm nữa, nó sẽ phổ biến. Từ những phát hiện của Lượng Tử Lực Học, những nguyên lư và nguyên tắc do đức Phật đă giảng đều được chứng thực. Trước hết, họ chứng minh một chuyện: Vũ trụ xuất hiện trong sát-na, từ Không mà sanh Có. Cách nói này hết sức gần với Phật pháp. Trên thực tế, chẳng phải là từ Không sanh ra Có, mà là một niệm bất giác, tự tánh biến hiện một A Lại Da. A Lại Da là Tạo Vật Chủ (Tạo Hóa), từ A Lại Da xuất hiện vũ trụ vạn vật, sanh mạng, kể cả bản thân chúng ta. Điều này rất gần gũi. V́ thế, những điều này có lợi. Có thể thấy: Tín là sơ môn để nhập pháp, bỏ ĺa ḷng tin sẽ không có cách nào [nhập đạo].

      “Hựu vi nhiếp pháp chi thượng thủ, cố vân: Tài nhập tín môn, tiện đăng tổ vị” (Tín lại là điều quan trọng nhất để gồm thâu các pháp (lănh hội các pháp), nên có câu: “Vừa vào cửa Tín, liền lên địa vị Tổ”). Đây là nói đến Chân Tín. V́ sao Huệ Năng đại sư nghe Ngũ Tổ nói mấy câu bèn khai ngộ? Chẳng có ǵ khác, ḷng thành tín đă đạt tới viên măn, cho nên vừa được chỉ điểm bèn thông suốt. V́ sao nay chúng ta chẳng thể? Trong tín tâm của chúng ta xen tạp hoài nghi, chẳng phải hoàn toàn là thành tín, mức độ tin tưởng chẳng đủ! Trong đây có đại học vấn! Tín tâm viên măn dẫn đến thành tựu viên măn. Tín tâm cũng chẳng dễ dàng sanh khởi! Đặc biệt là đối với khoa học hiện thời. Các nhà khoa học theo đuổi hoài nghi, hoàn toàn trái nghịch với đường lối nhập đạo của nhà Phật. Trong Phật pháp, mảy may hoài nghi cũng chẳng thể có. Quư vị có một phần hoài nghi, sẽ có một phần chướng ngại. Có mười phần hoài nghi, sẽ có mười phần chướng ngại. Chúng ta chia tín tâm thành một trăm phần, tín tâm viên măn một trăm phần, sẽ lập tức có thể thành Phật, ở đây nói là: “Tài nhập Tín môn, tiện đăng tổ vị”, Huệ Năng đại sư là một ví dụ! Tín tâm một trăm phần, có mười phần tin tưởng là đă khá lắm, cũng rất khó có! Tôi theo mấy vị thầy, tôi nghĩ khi ấy thầy thấy tôi tín tâm bất quá được mười phần mà thôi, một trăm phần chỉ được mười phần. Nếu tôi là một trăm phần trăm, tôi sẽ giống như Huệ Năng đại sư, thành Phật, thật sự chẳng sai tí nào! Chúng ta phải nâng cao bản thân như thế nào, phải làm cho ḷng tin sâu đậm hơn như thế nào? Tín tâm liên quan đến đọc tụng Đại Thừa. Nay quư vị nghe một bộ kinh này, có thể thật sự nghe bộ kinh này đến ba ngàn lượt, tín tâm của quư vị tối thiểu có thể đạt tới hai ba chục phần trăm, sẽ có năng lực lănh ngộ kha khá, Giới - Định - Huệ sẽ dần dần h́nh thành. Hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng ta học tới đây.

Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa

Phần 41 hết

 



[1] Biện Chứng Pháp: Cách lư luận nhằm giải quyết những quan điểm khác nhau về cùng một vấn đề, áp dụng những lư luận, giải thích hợp lư.

[2] Đường Quân Nghị (1909-1978), người huyện Nghi Tân, tỉnh Tứ Xuyên, là một nhà tư tưởng, triết học kiêm giáo dục nổi tiếng của Trung Hoa hiện đại, cụ được coi là truyền nhân của tiên sinh Phương Đông Mỹ. Năm 1949, cụ cùng Tiền Mục, Trương Phi Giới v.v... sáng lập Á Châu Văn Thương Học Viện (nay là Hương Cảng Trung Văn Đại Học Viện), từng sang Mỹ dạy học theo lời mời của Quốc Hội Mỹ, dạy học tại nhiều đại học ở Đài Loan, Hương Cảng. Trước tác rất phong phú về nhiều đề tài, nổi tiếng nhất là các tác phẩm Trung Tây Triết Học Tư Tưởng Chi Tỷ Giảo Nghiên Cứu Tập, Trung Quốc Triết Học Nguyên Luận, Triết Học Khái Luận, Nguyên Giáo Thiên v.v...

[3] Lănh Nam là phía Nam rặng Ngũ Lănh, bao gồm toàn bộ vùng Quảng Đông, Quảng Tây, Hải Nam, Giang Tây (đó là nói theo thời Đường), hiện thời Lănh Nam chỉ bao gồm Quảng Đông, Quảng Tây và Hải Nam. Ngũ Lănh là một quần thể núi bao gồm năm rặng Việt Thành Lănh, Đô Bàng Lănh, Manh Chử Lănh, Kỵ Điền Lănh, và Đại Dữu Lĩnh, là ranh giới thiên nhiên phân cách lưu vực của hai sông Trường Giang và Châu Giang. Do thế núi hiểm trở, văn hóa cũng như quân đội Trung Nguyên khó thể xâm chiếm, khống chế vùng này, hơn nữa đây là địa bàn cổ của tộc người Bách Việt, có những nét văn hóa dị biệt, đặc sắc riêng, người Hán với thói quen ngạo nghễ cố hữu bèn gọi nơi này là “man di chi địa”.

[4] Đăng Địa Bồ Tát: Bồ Tát chứng đắc từ Sơ Địa trở lên.

[5] Năm thế hệ cùng sống chung một nhà.

[6] Gia Tường Cát Tạng (549-623) là cao tăng đời Tùy. Ngài quê ở Kim Lăng, họ An, tên Thế, tổ tiên vốn là người An Tức, về sau di cư đến Kim Lăng, nên đôi khi người ta c̣n gọi Ngài là Hồ Cát Tạng. Năm lên bốn tuổi, Sư theo cha yết kiến ngài Chân Đế, được ban pháp danh là Cát Tạng. Sau đấy, cha Ngài xuất gia hiệu là Đạo Lượng. Sư thường theo cha đến chùa Hưng Hoàng nghe ngài Pháp Tuyên giảng Tam Luận, năm lên bảy tuổi bèn xin xuống tóc với ngài Pháp Lăng. Do ngài Pháp Lăng chuyên nghiên cứu Tam Luận giáo học, nên Sư chuyên học Trung Luận, Bách Luận và Thập Nhị Môn Luận. Năm mười chín tuổi, Sư lên giảng kinh khiến cho thính chúng kinh ngạc trước biện tài. Năm Sư ba mươi hai tuổi, ngài Pháp Lăng thị tịch, nên Sư lui về chùa Gia Tường ở Cối Kê, chuyên tâm giảng thuyết, viết sách, người hỏi đạo cả ngàn người, pháp duyên rất thịnh. Do cách sách chú giải về Tam Luận của Sư được các tăng chúng hân thưởng, nên mọi người chỉ gọi Sư bằng danh hiệu Gia Tường đại sư, chứ không gọi tên húy. Sư cũng từng viết thư thỉnh ngài Trí Khải (Trí Giả đại sư) giảng Pháp Hoa. Sư từng tự chép hai ngàn bộ kinh Pháp Hoa, tạo hai mươi lăm pho tượng Phật, cạn hết ḷng thành lễ sám. Năm Vũ Đức nguyên niên (618) đời Đường Cao Tổ, triều đ́nh tuyển chọn mười vị cao tăng để thống lănh tăng chúng, Ngài cũng được cung thỉnh vào đó. Tháng Năm năm Vũ Đức thứ sáu (623), Sư tắm gội, thay áo mới, thắp hương, niệm Phật, viết xong tác phẩm Tử Bất Bộ Luận, rồi an tường viên tịch. B́nh sinh, Sư giảng Tam Luận hơn một trăm lần, kinh Pháp Hoa ba trăm lần, giảng các kinh Đại Phẩm, Hoa Nghiêm, Duy Ma, và Đại Trí Độ Luận hơn mười lần. Trước tác phong phú, nổi tiếng nhất là các bộ Trung Quán Luận Sớ, Thập Nhị Môn Luận Sớ, Bách Luận Sớ, Tam Luận Huyền Nghĩa, Đại Thừa Huyền Luận, Pháp Hoa Huyền Luận, Pháp Hoa Nghĩa Sớ v.v.. Hầu như các kinh Đại Thừa quan trọng như Pháp Hoa, Niết Bàn, Thắng Man, Đại Phẩm, Kim Quang Minh, Duy Ma, Nhân Vương, Vô Lượng Thọ v.v... Ngài đều viết chú sớ.

[7] Pháp Hoa Luận chính là bộ Pháp Hoa Luận Sớ của ngài Gia Tường Cát Tạng, gồm ba quyển.

[8] Thành phố Tây An (tỉnh Thiểm Tây) chính là tên gọi hiện thời của Trường An. Thành phố này c̣n được gọi là Kiểu, Kiểu Kinh, Tông Châu, Nội Sử, Đại An, Hàm Dương, Thường An, Đại Hưng, Phụng Nguyên, Kinh Triệu, Phụng Thành, Đẩu Thành, Tây Kinh, hoặc chỉ gọi đơn giản là An, nằm ở trung tâm vùng Quan Trung, đă có lịch sử hơn sáu ngàn năm, vốn có tên là Phong Kiểu từ thời Tây Châu. Nơi này từng là kinh đô của các triều đại Châu, Tần, Hán, Tấn, Tiền Triệu, Tiền Tần, Hậu Tần, Tây Ngụy, Bắc Châu, Tùy và Đường. Cái tên Tây An phát xuất từ tên gọi Tây An Phủ được đặt ra dưới triều Nguyên.

[9] Thành ngữ này dựa theo hai câu trong Nho Lâm Ngoại Sử: “Thập niên hàn song khổ độc thư, nhất cử thành danh thiên hạ tri” (mười năm song lạnh chăm đọc sánh, thi đậu thành danh thiên hạ quen). Theo sách đó, hai câu thơ ấy lại dựa theo ư bài thơ Trúc Ổ Thính Cầm của Thạch Tử Chương đời Nguyên: “Thập niên hàn song tích tuyết dư, độc đắc nhân gian vạn quyển thư” (Mười năm song lạnh tuyết phủ đầy, đọc khắp nhân gian muôn quyển sách). Do vậy, “thập niên hàn song” chỉ quá tŕnh học tập khổ luyện, không sao nhăng. Cũng có thuyết giải thích câu trong Nho Lâm Ngoại Sử lại xuất phát từ hai câu thơ trong bài Tỳ Bà Kư của Cao Minh đời Nguyên: “Thập niên hàn song vô nhân vấn, nhất cử thành danh thiên hạ tri” (Mười năm song lạnh không ai hỏi, thi đậu thành danh cả nước quen). Dù xuất phát từ đâu, từ ngữ “thập niên hàn song” đều có nghĩa là gắng công chuyên chú học tập, không sao nhăng!

[10] Thúc tu (束脩) theo nghĩa gốc là mười miếng thịt khô bó lại, là một lễ vật thông dụng thời cổ. Chương Thuật Nhi trong sách Luận Ngữ có ghi: “Tử viết: Tự hành thúc tu dĩ thượng, ngô vị thường vô hối” (Khổng Tử nói: Từ lúc tiếp nhận thịt khô làm lễ vật đến giờ, ta chưa bao giờ hối hận). Ư nói: Từ khi khởi sự dạy học đến nay, ta chưa bao giờ hối hận. Về sau, chữ “thúc tu” dùng theo nghĩa rộng để chỉ lễ vật hay một món tiền do phụ huynh biếu cho thầy dạy, xin cho con nhập học. Chữ này c̣n được mở rộng ra để chỉ lương bổng của thầy giáo, hoặc thời điểm bắt đầu làm quan như truyện Diên Đốc trong Hậu Hán Thư có câu: “Thả ngô tự thúc tu dĩ lai, vi nhân thần bất hăm ư bất trung, vi nhân tử bất hăm ư bất hiếu” (từ khi ta làm quan đến giờ, làm bề tôi người khác chẳng đến nỗi bất trung, làm con người khác chẳng đến nỗi bất hiếu). Thậm chí mở rộng ra thành sự ước thúc, tu dưỡng chính ḿnh, giữ trọn ḷng nghiêm túc, cung kính.

[11] Công Khải tức là loại chữ Khải (một trong bốn cách viết chữ Hán), chữ viết đầy đủ nét, rơ ràng, ngay ngắn, không viết tắt, dễ đọc, nên c̣n gọi là Chân Thư, Chánh Thư. Khải có nghĩa là khuôn mẫu, mực thước.

[12] Tiểu Khải tức là lối chữ Khải viết chữ nhỏ. Thể loại này do Chung Diêu sáng chế vào đời Ngụy (thời Tam Quốc). Lối viết này thường được sử dụng thể hiện sự trang trọng, mực thước, không quá nhỏ, không quá lớn, gây cảm giác hài ḥa, đẹp đẽ. Thường được mô tả là “nét chữ trông như chim hồng bay lượn trên mặt biển”. Khoảng cách giữa các ḍng chữ phải cân đối, nét bút chặt chẽ, bay bướm, nhưng mực thước. Cỡ chữ phải đều nhau, rất khó viết, nên mỗi khi tỏ ư tôn kính ai, thường viết bằng chữ Tiểu Khải. Thuở ấy, người ta đă bắt đầu viết chữ Hán bằng bút ch́, bút máy, hoặc bút nguyên tử (bút Bic), hầu như không ai sử dụng bút lông để viết nữa, nên lăo pháp sư trịnh trọng dùng bút lông, viết thư theo lối chữ cổ để tỏ ḷng cung kính, chân thành.