Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa

淨土大經解演義

Phần 44

Chủ giảng: Lão pháp sư Thích Tịnh Không

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa

Giảo duyệt: Huệ Trang và Đức Phong

 

Tập 87

Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang chín mươi bảy, dòng thứ tư, bắt đầu từ câu cuối cùng:

“Thắng giả, thắng quá dư học, siêu ư cửu thập lục chủng ngoại đạo chi thượng” (Thắng là vượt hơn những kẻ học khác, vượt lên trên cả chín mươi sáu thứ ngoại đạo). Chữ Đại có ba ý nghĩa là Đại, Đa, Thắng, trong phần trước đã học [Đại và Đa]. Hôm nay, [chúng ta] xem từ chữ Thắng. “Thắng quá dư học” (vượt hơn những kẻ học khác), “thắng” () là thù thắng, cũng có nghĩa là vượt trội. Thuở ấy, tại Ấn Độ, lúc Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế, nổi tiếng nhất là chín mươi sáu loại ngoại đạo. Ngoại đạo trọn chẳng phải là những người tu đạo ở ngoài Phật pháp, chẳng mang ý nghĩa ấy! Các đồng học chúng ta nhất định phải biết: Cầu pháp ngoài tâm đều gọi là ngoại đạo. Nếu người học Phật chúng ta cũng cầu pháp ngoài tâm thì cũng gọi là ngoại đạo, loại ngoại đạo này gọi là “môn lý ngoại” (門裡外), tức là ngoại đạo trong Phật môn, trên thực tế, có chẳng ít người! Phật pháp được gọi là “nội học”, “nội” () là gì? Nội là tự tánh, do vậy, hết sức coi trọng trở về tự tánh. Vì sao? Chúng ta đã học Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán của Hiền Thủ đại sư, tôi nhắc tới cuốn sách này mọi người liền hiểu, sẽ hiểu rất rõ nội và ngoại. Giáo pháp Đại Thừa thường nói: “Ngoài tâm không pháp, ngoài pháp không tâm”, nếu hướng về tâm để cầu, đấy là nội học, gọi là Phật pháp. Nếu trái ngược phương hướng ấy, hướng ra ngoài để cầu thì là ngoại đạo. Do vậy, có thể biết: Chúng ta học Phật, ngoại đạo trong Phật môn cũng chẳng ít, mấy ai chẳng phan duyên bên ngoài? Nhãn Căn phan duyên Sắc Trần bên ngoài. Nhĩ Căn phan duyên Thanh Trần bên ngoài. Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp đều ở bên ngoài, phàm kẻ học theo những thứ ấy đều gọi là ngoại đạo. Do vậy, biết: Ý nghĩa được bao hàm trong từ ngữ “ngoại đạo” vô cùng rộng, mấy ai có thể hướng theo tâm tánh? Quả thật chỉ có Đại Thừa Phật pháp! Tiểu Thừa vẫn còn phan duyên bên ngoài; chỉ có Đại Thừa Phật pháp khởi tâm động niệm quán chiếu tự tánh, nên gọi là “nội học”. Vì thế, kinh Phật, đặc biệt là kinh Đại Thừa, được gọi là “nội điển”. Chúng ta hiểu rõ sự khác biệt giữa nội và ngoại. Do vậy, [từ ngữ] “ngoại đạo” chẳng phải là coi rẻ người khác, chẳng phải là xem nhẹ, cũng chẳng có nghĩa là hạ thấp, mà là tông chỉ, phương hướng, mục tiêu tu học [của họ] khác với pháp Đại Thừa. Mục tiêu, phương hướng, và tông chỉ của pháp Đại Thừa đều là minh tâm kiến tánh; bất luận pháp môn nào, Tông Môn, Giáo Hạ, Đại Thừa, Tiểu Thừa, Hiển giáo, Mật giáo, mục tiêu cuối cùng đều là “minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật”. Trong sự giáo dục của đức Phật, đạt đến kiến tánh thì người ấy được coi như đã tốt nghiệp, [tức là] tốt nghiệp pháp Đại Thừa. Tốt nghiệp là thành Phật.

      Thuở ấy, Thích Ca Mâu Ni Phật đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh dưới cội Bồ Đề, điều ấy được gọi là “thành đạo”, hoặc còn gọi là “thành Phật”. Tại Trung Quốc, mọi người đều coi nhân vật đại biểu [cho sự đại triệt đại ngộ] là Lục Tổ Huệ Năng đại sư của Thiền Tông đời Đường. Thật ra, tại Trung Quốc, người đại triệt đại ngộ trong Tông Môn và Giáo Hạ rất nhiều. Từ Cao Tăng Truyện và Cư Sĩ Truyện, quý vị có thể thấy: Bất luận tại gia hay xuất gia đều đạt tới cảnh giới ấy. Trong các buổi giảng, chúng tôi cũng thường nhắc tới cảnh giới ấy, vì chuyện này hết sức trọng yếu. Học Phật rốt cuộc là học gì? Kinh giáo chẳng phải là trọng yếu nhất, nhưng [những điều được giảng trong kinh điển] là phương pháp trọng yếu nhất, phải hiểu điều này. Kinh giáo đã là phương pháp thì dụng ý ở chỗ nào? Dụng ý là đức Phật giảng rõ ràng, minh bạch nội và ngoại, quý vị sẽ giác ngộ. Sự giác ngộ ấy được gọi là giải ngộ; “tín, giải” là giải ngộ. Sau khi giải ngộ, quý vị có thể khởi hạnh, sau đấy mới có thể chứng ngộ. Chứng ngộ mới đáng kể, chứ giải ngộ chẳng đáng kể đến! Nói theo cách bây giờ, giải ngộ thuộc về Phật học, chứng ngộ là học Phật. Bởi lẽ, quý vị chẳng tin, sẽ không thể lý giải, làm sao tu hành? Tu hành là tu gì? Chúng ta bèn hiểu rõ ràng, minh bạch dụng ý của kinh điển. Không có kinh điển, chúng ta vĩnh viễn mê hoặc, chẳng liễu giải chân tướng của vũ trụ và nhân sinh, kinh điển giảng rõ chân tướng. Vũ trụ do đâu mà có? Trong Phật pháp nói tới “pháp giới”, y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới, kinh điển thường nhắc tới những thứ này, chúng do đâu mà có? Cớ sao có mười pháp giới? Khoa học và triết học hiện thời đều nghiên cứu vấn đề này, không chỉ là trong hiện tại, mà xưa nay, trong ngoài nước, bao nhiêu người đang tra xét, nghiên cứu, thăm dò. Ai hiểu rõ ràng, minh bạch? Thích Ca Mâu Ni Phật hiểu rõ, thật sự hiểu rõ. Các khoa học gia và triết học gia hiện thời thảo luận vấn đề, nhưng chẳng thể giải quyết vấn đề. Trong kinh Đại Thừa đã có toàn bộ [giải đáp], cho thấy Thích Ca Mâu Ni Phật thật sự hiểu rõ.

      Tại Trung Quốc, cổ thánh tiên hiền, tổ tiên cũng hiểu rõ. Hiểu rõ như thế nào? Một câu thôi, “buông xuống liền hiểu rõ”, vì sao? Hiểu rõ là bản năng (năng lực sẵn có) của chúng ta, mỗi cá nhân đều hiểu rõ, chẳng có ngoại lệ. Vì vậy, đức Phật thường nói: “Hết thảy chúng sanh vốn đã thành Phật”. Trong phần trước, chúng tôi đã giảng ý nghĩa chữ Phật rất cặn kẽ, dùng tới hai tiếng đồng hồ để giới thiệu Thích Ca Mâu Ni Phật. Chữ “Phật” có nghĩa là giác ngộ, chữ “thánh nhân” của Trung Quốc có nghĩa là hiểu rõ, [danh xưng Phật và “thánh nhân”] có ý nghĩa tương đồng, hiểu rõ là giác ngộ, giác ngộ là hiểu rõ. Người Trung Quốc gọi người hiểu rõ chân tướng của vũ trụ và nhân sinh là thánh nhân, cổ Ấn Độ gọi là Phật Đà. Đức Phật dạy: Bản năng của chúng ta hoàn toàn đều là thông đạt, hiểu rõ, chẳng có cao hay thấp; bởi lẽ, hết thảy chúng sanh vốn là Phật. Nay vì sao biến thành phàm phu? Đã mê rồi, mê mất tự tánh. Kinh Hoa Nghiêm nói về bản năng của tự tánh rất hay: “Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng của Như Lai”, “hết thảy chúng sanh” bao gồm chúng ta trong ấy, chúng ta chẳng phải là ngoại lệ, đều có trí huệ, đức năng và tướng hảo giống hệt Như Lai, chẳng sai biệt. Cuối cùng, đức Thế Tôn nói một câu: “Nhưng do vọng tưởng, chấp trước, nên chẳng thể chứng đắc”, quý vị thấy: Lật lá bài tẩy của chúng ta lên, [sẽ thấy rõ] vì sao chúng ta chẳng thể giống như Phật? Chúng ta có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, đó là mê. Vọng tưởng là gì? Khởi tâm động niệm là vọng tưởng. Từ vọng tưởng khởi phân biệt, từ phân biệt khởi chấp trước, càng mê càng sâu. Trong giáo pháp Đại Thừa, vọng tưởng thường được gọi là Vô Minh phiền não, phân biệt là Trần Sa phiền não, chấp trước là Kiến Tư phiền não, [đó là] ba loại đại phiền não. Chúng ta mê mất tự tánh, trọn chẳng phải là thật sự mất đi, mà là mê mất. Khi nào quý vị chẳng mê, nó sẽ hiện tiền, khởi tác dụng. Do vậy, đức Phật chẳng dạy chúng ta điều gì khác, mà dạy chúng ta hãy buông xuống, ba loại phiền não ấy thảy đều buông xuống, quý vị sẽ thành Phật, [bởi lẽ] quý vị vốn là Phật.

      Phàm phu thành Phật phải mất bao lâu? Nói theo Lý là trong một niệm! Một niệm buông xuống, quý vị bèn thành Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật đã thị hiện cho chúng ta thấy, nhất niệm! Tại Trung Quốc, Lục Tổ Huệ Năng đại sư cũng thị hiện cho chúng ta thấy, cũng là một niệm. Kinh điển thường nói tới bậc thượng thượng căn, vượt trỗi chín mươi sáu loại ngoại đạo. Quý vị phải biết: Phật Thích Ca và Huệ Năng đại sư biểu diễn, thị hiện, há chỉ vượt trỗi chín mươi sáu loại ngoại đạo, mà là siêu việt viên mãn! Điều cốt yếu là quý vị có thể buông xuống. Chúng ta chẳng phải là hạng thượng thượng căn, không có cách nào đốn xả, “trong một niệm hoàn toàn buông xuống” chúng ta làm không được. Trong giáo pháp Đại Thừa, chúng ta thấy chuyện này rất nhiều, rất rõ ràng, rất minh bạch, mà cũng có thể nói: “Chỗ nào cũng là đạo”, nhưng làm không được, thật vậy, chẳng giả! Đức Phật dạy chúng ta: Chẳng thể đốn xả thì quý vị xả từ từ. Nói tóm lại một câu, mỗi ngày đều phải bỏ; chẳng bỏ, quý vị sẽ vĩnh viễn chẳng có tiến bộ. Thưa chư vị, môn học vấn này chẳng tiến ắt lùi. Quý vị không tiến bộ, chắc chắn sẽ lùi bước; lùi bước rất đáng sợ! Nay chúng ta được làm thân người, nhưng trong lục đạo, dưới chúng ta là A Tu La đạo, La Sát đạo, quỷ đạo, súc sanh đạo, địa ngục đạo, quý vị nói xem: Có thể lùi bước hay chăng? Vì thế, chẳng tiến về phía trước sẽ chẳng được, chẳng thể không tiến cao hơn! Nếu muốn tiến lên cao hơn, bí quyết là buông xuống, buông xuống từ chỗ nào? Trong mấy chục năm qua, tôi thường khích lệ các đồng học: “Hãy buông tự tư tự lợi xuống, buông tiếng tăm, lợi dưỡng xuống, buông tham luyến ngũ dục, lục trần, buông tham, sân, si, mạn xuống”, tôi nói mười sáu chữ. Tôi chẳng khoa trương mảy may nào, mà thật thà kính khuyên các đồng học: Làm được mười sáu chữ ấy, tự tư tự lợi chẳng còn, tiếng tăm, lợi dưỡng chẳng có. Ngũ dục lục trần cũng buông xuống, tham, sân, si, mạn mỏng nhạt, có nhập Phật môn hay không? Thưa quý vị, chưa nhập, tôi dẫn quý vị đến cửa ngõ, chưa nhập môn. Quý vị phải biết, phải hiểu rõ: Nhập môn thì nhất định phải tuân thủ tiêu chuẩn của Thích Ca Mâu Ni Phật. Tiêu chuẩn của tôi thấp hơn Ngài, dẫn quý vị đến cửa ngõ. Tiêu chuẩn của Thích Ca Mâu Ni Phật chẳng thể biến đổi: Phải buông tám mươi tám phẩm Kiến Hoặc xuống, quý vị mới có thể nhập môn. Tám mươi tám phẩm ấy thuộc về chín địa vị trong tam giới.

      Nhằm thuận tiện dạy học, tám mươi tám phẩm quá nhiều, quá rắc rối, đức Thế Tôn đã quy nạp chúng thành năm loại lớn hòng dễ nói hơn: Loại thứ nhất trong năm loại lớn là Thân Kiến. Chúng ta luôn chấp trước thân này là ta, thứ kiến chấp này rất đáng ghét. Quý vị chấp trước có ta, khởi tâm động niệm, hết thảy tạo tác đều nhằm phục vụ ta, trật rồi! Đức Phật bảo: “Không có ta, thật sự không có ta”, quý vị ngỡ là “có ta” sẽ hỏng bét. Một mê, hết thảy đều mê, mê đến cùng cực. Vì vậy, đầu tiên phải hiểu thân chẳng phải là ta, thân là gì? Thân là cái ta có, giống như quần áo. Quần áo chẳng phải là ta, nó mặc trên thân ta, ta có nó, phải hiểu rõ ràng quan niệm này. Ta mà còn phải buông xuống, huống gì những thứ ta có! Hễ buông xuống thứ này (chấp Ngã), năm thứ sau đều [buông xuống] rất dễ dàng. Loại thứ hai là Biên Kiến, nay chúng ta gọi Biên Kiến là đối lập. Ta còn chẳng có, đối lập với ai? Đương nhiên chẳng có đối lập, quý vị còn có thành kiến nữa chăng? Thành kiến cũng không có. Vì thế, nói thật ra, mấu chốt của tám mươi tám phẩm Kiến Hoặc là Ta (Ngã).

          Sau khi đã phá ngã, thật sự buông xuống, biết vô ngã, giống như Thiền Tông Nhị Tổ Huệ Khả đến gặp Đạt Ma tổ sư, cầu Đạt Ma tổ sư an tâm cho Ngài. Ngài tìm đến tổ Đạt Ma, tổ Đạt Ma nói: “Ông đến tìm ta có chuyện gì?” “Tâm con bất an, cầu đại sư an tâm cho con”. Đạt Ma tổ sư nói: “Ông lấy tâm ra, ta sẽ an nó cho ông”. Một câu nói ấy nhắc nhở Ngài, quay lại tìm, chẳng tìm được, tìm nửa ngày rồi nói: “Con tìm tâm trọn chẳng thể được”. Đạt Ma tổ sư nói: “Dữ nhữ an tâm cánh”, [nghĩa là] ta đã an cái tâm cho ông ổn thỏa rồi! Do một câu nói này, [Nhị Tổ] bèn đại triệt đại ngộ. Quý vị thấy người ta vọng tưởng, phân biệt, chấp trước thảy đều buông xuống, minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật. Tổ Đạt Ma truyền y bát cho Huệ Khả, đấy là vị Tổ đời thứ hai của Thiền Tông. Đấy là bậc thượng thượng căn, nhất thời đốn xả. Có thể đốn xả bèn đốn ngộ, mảy may vòng vèo cũng chẳng có. Mấu chốt là “có Ta”, tất cả hết thảy tội ác, nghiệp chướng đều từ đấy sanh ra, quý vị nói nó có đáng sợ lắm hay không? Nếu thật sự có ta, thân thật sự là ta thì còn thông cảm được, quý vị vì nó mà tạo những nghiệp chướng ấy. Nó không có, căn bản là chẳng tồn tại! Đức Phật nói những lời ấy, kẻ bình phàm chúng ta rất khó tiếp nhận, rất khó lý giải, nhưng hiện thời, quả thật khoa học đã giúp đỡ Phật giáo rất lớn. Hiện thời trong ngành khoa học tiên tiến nhất, các nhà vật lý Lượng Tử Học đã phát điều gì? Giống như Thích Ca Mâu Ni Phật đã dạy, vô ngã, về căn bản không có Ngã tồn tại. Nói tới nhục thân này, họ biết nhục thân chẳng phải là ta, nhục thân là huyễn tướng, chẳng thật, nhưng phải bỏ thì mới được. Chẳng thể bỏ, quý vị tạo nghiệp hằng ngày.

      Trong Phật pháp có chân ngã hay không? Thưa quý vị, có! Minh tâm kiến tánh, chân ngã bèn hiện tiền. Quý vị thấy trong tự tánh có bốn tịnh đức Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, Ngã có nghĩa là gì? Ngã có nghĩa là chủ tể, tự tại. Quý vị hãy nghĩ xem: Trên cái thân này có hai ý nghĩa ấy hay không? Có chủ tể hay không? Nếu thật sự có chủ tể, năm nào cũng là mười tám thì sẽ tốt đẹp lắm! Vì sao con người có già, bệnh, chết? Có thể làm chủ thì năm nào cũng là mười tám. Dân gian Trung Quốc tán thán Bồ Tát, “Bồ Tát, Bồ Tát, niên niên thập bát” (Bồ Tát năm nào cũng mười tám), chẳng già! Chúng ta có cách nào làm được hay chăng? Nếu quý vị kiến tánh, quả thật chẳng có mảy may vấn đề nào, đúng là như vậy. Đạo lý này rất sâu, nếu giảng ra thì chẳng phải là hai giờ, ngay cả hai mươi bốn giờ vẫn giảng không xong, thật đấy, chẳng giả chút nào! Do vậy, trong tự tánh có Ngã, có chủ tể, thật sự tự tại, đắc đại tự tại, trên thân chúng ta chẳng tìm được định nghĩa này. Có chân lạc, có Thường, Thường là vĩnh hằng không thay đổi, Lạc là vĩnh viễn chẳng khổ, lìa khổ là Lạc, Tịnh là vĩnh viễn chẳng nhiễm ô. Huệ Năng đại sư kiến tánh đã báo cáo đơn giản, ngắn gọn với hòa thượng Ngũ Tổ Nhẫn, câu đầu tiên là: “Nào ngờ tự tánh, vốn tự thanh tịnh”, quý vị thấy trong ấy có Tịnh, tức là Tịnh trong bốn tịnh đức. Câu thứ hai là “nào ngờ tự tánh, vốn chẳng sanh diệt”, đó là Thường, bất sanh, bất diệt, đó chính là Thường. “Nào ngờ tự tánh, vốn tự trọn đủ”, đó là Ngã. Cuối cùng là “có thể sanh vạn pháp”, vốn tự trọn đủ, có thể sanh vạn pháp, đấy là tự tại! Vì vậy, hễ kiến tánh sẽ đạt được Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, chúng thật sự có; nhưng nơi thân phàm phu hoàn toàn không có, hữu danh vô thực, tìm bốn chữ ấy không được, đều là giả. Chúng ta chớ nên không biết điều này; sau đấy, mới biết chúng ta học Phật là học gì? Mong đạt được gì? Phải biết cách học ra sao? Đây là một điều rất trọng yếu.

      Chúng ta đọc lời chú giải tiếp theo: “Tái giả, Phật Địa Luận lánh hữu tam nghĩa” (Ngoài ra, Phật Ðịa Luận còn nêu lên ba nghĩa khác). Cũng là nói về sự thù thắng ấy, Phật Địa Luận nêu ra ba ý nghĩa. Thứ nhất là “tối cực lợi căn”, [tức là] căn tánh nhạy bén đạt tới mức cao tột nhất, “Ba La Mật Đa chủng tánh”, người Trung Quốc nói là “bậc thượng thượng căn”, mang ý nghĩa ấy. Người thượng thượng căn “nghe một, ngộ cả ngàn”, hễ tiếp xúc bèn hiểu rõ, họ có cần học hay không? Không cần, vì sao không cần? Bậc thượng thượng căn là người kiến tánh, vì hết thảy các pháp là tâm tưởng, thức biến, kinh Hoa Nghiêm nói là “duy tâm sở hiện”. Tâm ấy là chân tâm, là tự tánh, là tự tánh sanh, tự tánh hiện, duy thức biến. Quý vị hoàn toàn thông đạt, hiểu rõ tánh thức thì sáu căn tiếp xúc cảnh giới sẽ tự nhiên thông đạt, không cần học. Ngài A Nan kết tập kinh tạng, có thật sự cần phải nghe Thích Ca Mâu Ni Phật phức giảng hay chăng? Chẳng phải! Ngài phức giảng như thế nào? Ngài đã kiến tánh, chỉ cần quý vị nói Thích Ca Mâu Ni Phật đã giảng một bộ kinh nào đó, Ngài bèn biết toàn bộ, chẳng nghe cũng biết, chẳng học cũng biết. Tánh là cùng một tánh, tướng là thiên sai vạn biệt, nhưng tánh là một. Vì thế, học Phật giống như tựa đề bộ kinh này rất hay, hoàn toàn viết ra nhân quả của sự minh tâm kiến tánh. Nhân là gì? Thanh tịnh, bình đẳng, giác. Bất luận tu học pháp môn nào, tám vạn bốn ngàn pháp môn, Hiển giáo, Mật giáo, Tông Môn, Giáo Hạ, tu gì? Tu thanh tịnh, tu bình đẳng, tu giác. Tám vạn bốn ngàn pháp môn, “pháp” là phương pháp, tu phương pháp thanh tịnh, bình đẳng, giác, “môn” là môn đạo (đường lối), môn kính (đường nẻo), phương pháp tu hành, đường lối vô lượng vô biên. Trong Tứ Hoằng Thệ Nguyện có nói: “Pháp môn vô lượng thệ nguyện học”, đúng là chẳng giả tí nào! Thưa chư vị, trong kinh Bát Nhã, đức Phật đã nói: “Pháp môn bình đẳng, chẳng có cao thấp”, bất luận một môn nào! Vì sao? Đều do tự tánh hiện, tâm sanh, tâm hiện, đều do thức biến; vì vậy, chúng bình đẳng. Nói cách khác, bất luận một môn nào, quý vị chỉ tìm được năng sanh, năng hiện, năng biến của nó, chẳng phải là quý vị thành Phật ư? Từ hết thảy các pháp tướng, chúng ta thấy chúng là sở sanh, sở hiện, sở biến, quý vị tìm được cội nguồn của chúng, chúng do đâu mà có, tìm được cái năng sanh, năng hiện, năng biến rồi, năng biến là A Lại Da, năng sanh, năng hiện là tự tánh, chẳng phải là đã kiến tánh ư? Đó là nội học. Tìm bên ngoài sẽ vĩnh viễn chẳng tìm được, đức Phật gọi kẻ tìm bên ngoài là ngoại đạo, phương hướng sai lầm. Hãy hướng vào trong mà tìm, tìm bên ngoài sẽ vĩnh viễn chẳng tìm được. Vì thế, người hễ quay đầu, căn tánh bèn nhạy bén, người Trung Quốc nói đó là trí huệ thượng thượng, là chủng tánh Ba La Mật Đa.

Thứ hai, “đắc Vô Học quả vị”. Quả Vô Học là A La Hán, ở đây, kinh nói là “Đại A La Hán”, quả Vô Học này chẳng phải là Tiểu Thừa A La Hán, mà là Đại A La Hán. Đại A La Hán là ai? Thập Địa Bồ Tát! Trong Đại Thừa, Thập Địa Bồ Tát được gọi là Vô Học, trong Tiểu Thừa A La Hán là Vô Học. Thập Địa Bồ Tát thù thắng lắm!

Loại thứ ba: “Đắc tiểu quả dĩ, xu đại Bồ Đề” (đã đắc tiểu quả, tiến lên đại Bồ Đề) cũng đúng! “Tiểu quả” là Tiểu Thừa A La Hán hoặc Bích Chi Phật, chứng đắc quả vị này, hồi Tiểu hướng Đại, nên biến thành đại tỳ-kheo. Phật Địa Luận giảng ba ý nghĩa ấy. “Dĩ thượng tam nghĩa, cố danh viết Đại” (Do ba nghĩa trên đây nên gọi là Ðại).

      “Hựu Gia Tường sư vị Đại hữu tam nghĩa” (Ngài Gia Tường lại bảo: Ðại có ba nghĩa”). Bản chú giải kinh này của ngài Gia Tường là Vô Lượng Thọ Kinh Nghĩa Sớ, khi giải thích chữ Đại, Ngài đã dùng ba ý nghĩa sau đây: “Nhất sanh đại giải, nhị phá đại ác, tam chứng đại quả” (Một là sanh sự hiểu biết lớn lao, hai là phá ác lớn, ba là chứng đại quả). “Sanh đại giải” là trí huệ. “Phá đại ác” là buông đại ác xuống, đại ác là gì? Tham, sân, si, mạn, triệt để buông xuống. “Chứng đại quả”, nói theo cách thông thường, đại quả là Pháp Thân đại sĩ, vượt thoát mười pháp giới; nói cách khác, vọng tưởng, phân biệt, chấp trước thảy đều buông xuống, đoạn hết. “Do thượng khả kiến đại tỳ-kheo giả nãi đức cao vọng trọng, hồi Tiểu hướng Đại chi tỳ-kheo, nãi tỳ-kheo chúng trung chi tôn túc” (Do những điều trên, ta thấy đại tỳ-kheo là bậc tỳ-kheo đức cao trọng vọng, từ Tiểu Thừa hướng đến Ðại Thừa, là bậc tôn túc trong các tỳ-kheo), người Trung Quốc gọi các vị ấy là “trưởng lão”. Kinh nói rõ, một vạn hai ngàn người tham gia pháp hội này. “Dữ đại tỳ-kheo chúng vạn nhị thiên nhân câu” (và các đại tỳ-kheo một vạn hai người cùng nhóm họp), nay những người đến tham gia pháp hội Vô Lượng Thọ Kinh chẳng phải là người thường, kinh Phật gọi họ là bậc đại quyền thị hiện. “Đại” là chư Phật Như Lai, Pháp Thân đại sĩ đến giúp đỡ Thích Ca Mâu Ni Phật giáo hóa chúng sanh, thị hiện đủ mọi cách. Đấy là “một đức Phật xuất thế, ngàn đức Phật ủng hộ”, đấy là nói về Đa (nhiều), chẳng phải chỉ có một ngàn! Chư Phật, Pháp Thân đại sĩ, có vị thị hiện làm học trò Phật, xuất gia hay tại gia, có những vị thị hiện làm hộ pháp của đức Phật. Còn có những vị thị hiện làm nhân vật phản diện đến chướng ngại Phật pháp, đến gây rối Thích Ca Mâu Ni Phật, họ chẳng phải là phàm nhân. Đề Bà Đạt Đa cũng là cổ Phật tái lai, đến thị hiện, Lục Quần tỳ-kheo cũng thế. Chúng ta hiểu rõ chân tướng sự thật này, quý vị đọc năm mươi ba lần tham học của Thiện Tài sẽ thấy có ý vị, bèn hiểu: Đều là chư Phật Như Lai thị hiện đủ mọi lẽ nhằm thành tựu một người tu hành. Nếu người tu hành thật sự hiểu, phải bao lâu mới thành Phật? Một đời! Đấy là kẻ bình phàm, chẳng phải là bậc thượng thượng căn. Bậc thượng thượng căn thành Phật trong một niệm. Phàm nhân thành Phật, chắc chắn có thể làm được trong một đời. Quý vị thật sự có thể lý giải, thật sự hạ quyết tâm buông xuống. Trước hết, hãy bắt đầu từ tự tư tự lợi, từ tiếng tăm, lợi dưỡng, ngũ dục, lục trần, tham, sân, si, mạn, thực hiện từ những điều này, không ngừng tiến lên. Tập khí phiền não rất nặng, thật đấy, chẳng giả đâu! Sức dụ dỗ, mê hoặc của ngoại duyên quá lớn. Đấy đều là chân tướng sự thật. Nếu chúng ta chẳng kiên trì, chẳng thể chịu khổ, chẳng thể nhẫn nhục, sẽ chẳng có một tí biện pháp nào. Làm sao để có thể giúp đỡ chúng ta? Đọc kinh, nghe giáo là phương pháp tốt nhất.

      Cả đời này, tôi học Phật năm mươi chín năm, giảng kinh năm mươi hai năm, chẳng bị thế tục cảm nhiễm, do đâu mà đắc lực? Đắc lực do giảng kinh, và đọc kinh mỗi ngày, mỗi ngày chẳng rời khỏi kinh giáo, chẳng tách rời kinh giáo, chẳng lìa khỏi Phật, Bồ Tát. Mỗi ngày giảng kinh có nhiều thính chúng như vậy, thính chúng đều là Phật, Bồ Tát, đều là thiện tri thức của tôi. Họ đến đốc thúc tôi, mỗi ngày đều muốn nghe, nên tôi phải học mỗi ngày. Tôi chẳng học, lấy gì để giảng cho họ nghe? Họ đốc thúc tôi. Trong tâm mục của tôi, họ chẳng phải là thính chúng, mà là giám học, đều là thầy của tôi, thị hiện mọi lẽ. Học trò là ai? Chính tôi là học trò. Giống như Thiện Tài đồng tử, chính mình là học trò; trừ chính mình ra, hết thảy đều là chư Phật, Bồ Tát, thị hiện đủ mọi cách, thuận cảnh, nghịch cảnh, thiện duyên, ác duyên, đến thành tựu, giúp đỡ tôi. Vì thế, Thiện Tài thành Phật trong một đời. Nếu tôi tự cho mình là đúng, tôi là thầy, là pháp sư, các vị đều là học trò, là đồ chúng của tôi, thưa quý vị, tôi không chỉ chẳng thể thành tựu, sợ rằng còn phải đọa lạc. Vì sao? Có những ý niệm ấy, chắc chắn sẽ nẩy sanh tham, sân, si, mạn, tức ngạo mạn, chắc chắn tạo tội nghiệp; một vạn hai ngàn người thị hiện, năm mươi ba lần tham học của Thiện Tài đồng tử chẳng phải là uổng công ư? Có mấy ai hiểu được, nhìn ra, thấy được đường nẻo này, thật sự đúng lý, đúng pháp, y giáo tu hành.

       Tiếp đó nói: “Vạn nhị thiên nhân câu” (một vạn hai ngàn người cùng nhóm họp), tham gia pháp hội lần này là một vạn hai ngàn người, “tiêu tỳ-kheo chi nhân số” (nêu ra số lượng các tỳ-kheo). Chúng ta cần phải biết điều này, vì sao? Tham gia pháp hội, ngoài các tỳ-kheo còn có rất nhiều người, có thể thấy pháp hội này thù thắng. “Hội Sớ viết: Chư kinh đa tiêu thiên nhị bách ngũ thập nhân, kim kinh dữ Pháp Hoa tiêu vạn nhị thiên nhân, cái thị xuất thế bổn hoài, nhất đại thắng hội, cố thập phương đại đức giai vân tập hồ” (Bộ Hội Sớ viết: “Các kinh thường nêu một ngàn hai trăm năm mươi người. Kinh này và kinh Pháp Hoa lại nói một vạn hai ngàn người. Ðó là do bổn hoài xuất thế, là pháp hội thù thắng trong cả một đời, nên mười phương đại đức đều như mây nhóm đến đó chăng?”). Chữ “hồ” () là đánh dấu hỏi, là một nghi vấn, nhằm nói rõ điều gì? Hội này chẳng phải là pháp hội tầm thường, mà là một pháp hội thù thắng khôn sánh. Đức Phật giảng kinh Pháp Hoa, tỳ-kheo một vạn hai ngàn vị; giảng bộ kinh này cũng là một vạn hai ngàn người, có nghĩa là giáo nghĩa kinh này và kinh Pháp Hoa ngang nhau, bình đẳng. Kinh Pháp Hoa là Nhất Thừa Viên giáo. Từ xưa, các tổ sư phán giáo, phán định Đại Thừa, Tiểu Thừa, ngoài Tiểu Thừa và Đại Thừa còn có Nhất Thừa. Đại Thừa là Bồ Tát, Tiểu Thừa là Thanh Văn, Nhất Thừa là Phật. Pháp hội này giảng gì? Giảng pháp môn thành Phật, đó là Nhất Thừa. Nếu tiêu chuẩn tối cao trong một pháp môn là giảng cách tu thành Bồ Tát, đấy là Đại Thừa; nếu chỉ giảng [phương pháp] thành A La Hán, thành Bích Chi Phật, đó là Tiểu Thừa. Tổ sư đại đức thường nói về kinh Pháp Hoa như sau: “Thành Phật Pháp Hoa, khai trí huệ Lăng Nghiêm”, kinh Lăng Nghiêm khai trí huệ, kinh Pháp Hoa thành Phật, bộ kinh này thì sao? Kinh này thành Phật! Kinh Hoa Nghiêm cũng là thành Phật, kinh Hoa Nghiêm thành Phật như thế nào? Đến cuối cùng mười đại nguyện vương của Phổ Hiền Bồ Tát dẫn về Cực Lạc. Kinh Pháp Hoa cũng không ngoại lệ, phàm là kinh Nhất Thừa thành Phật đều dính líu đến kinh Vô Lượng Thọ. Trong lời tựa cho bản hội tập, lão cư sĩ Mai Quang Hy đã nói rất rõ ràng, rất minh bạch. Vì thế, chuyện được ghi chép bởi câu này có ý nghĩa biểu thị pháp rất sâu, chúng ta vừa nhìn liền hiểu tầm trọng yếu của bộ kinh này. Thuở trước, vào thời Đông Tấn, Huệ Viễn đại sư lập Niệm Phật Đường tại Lô Sơn, thuở ấy, Ngài đã căn cứ trên kinh Vô Lượng Thọ. Chúng ta không biết Huệ Viễn đại sư đã dựa theo bản dịch nào, nhưng trong mục lục, chúng ta thấy có ghi bản dịch của An Thế Cao, nên chúng ta có lý do để tin tưởng: Huệ Viễn đại sư phải dùng bản dịch của ngài An Thế Cao, đáng tiếc là bản ấy đã thất truyền. Trong các vị đại sư phiên dịch trải các đời, An Thế Cao và Cưu Ma La Thập là hai vị đại sư phiên dịch được người Trung Quốc thích đọc nhất. Họ dịch theo lối dịch ý, chẳng phải là trực dịch. Nay chúng ta thấy bản dịch của hai vị đại đức ấy trong Đại Tạng Kinh đều vô cùng hoan hỷ. Do Đông Tấn vẫn còn rất gần với thời đại của ngài An Thế Cao, chúng tôi có lý do để tin tưởng: Vào thuở ấy, Viễn công đại sư phải có được bản dịch ấy. “Thượng thuyết thậm thị” (thuyết trên đây thật đúng), tức là [cụ Hoàng Niệm Tổ nhận định] sách Hội Sớ nói rất có lý. “Hội chúng chi thịnh, chánh biểu Thế Tôn thuyết pháp chi thắng dã” (Đại chúng tham dự pháp hội đông đảo, biểu thị đức Thế Tôn thuyết pháp thù thắng), kinh Vô Lượng Thọ giảng pháp thù thắng khôn sánh. “Hựu Câu giả, cộng tập chi nghĩa” (lại nữa, Câu có nghĩa là cùng nhóm họp lại). “Câu” () là mọi người cùng nhau học tập, cùng nhau đề xướng, cùng nhau hoằng dương, cùng nhau phổ độ hết thảy đại chúng, có ý nghĩa này.

      Hai câu kế tiếp đó: “Nhất thiết đại thánh, thần thông dĩ đạt. Thượng nhị cú, tán chư đại tỳ-kheo chi đức” (Câu hết thảy đại thánh thần thông đã đạt” khen ngợi đức của các đại tỳ-kheo). Đây là tán thán. Hai câu này là tổng tán, đến phần sau, chúng ta sẽ thấy lời biệt tán, tán thán rất nhiều. Tán thán phẩm đức của các vị đại tỳ-kheo, trong ấy chứa đựng ý nghĩa rất sâu, [những đức năng của các vị đại tỳ-kheo] chính là đức năng vốn sẵn đủ trong tự tánh của chúng ta. Quý vị thấy những đức năng ấy trong tự tánh thảy đều có, chỉ là hiện tại bị mê mất. Đọc xong sẽ có ý niệm: Chúng ta phải tìm lại Tánh Đức, quá tốt đẹp! Tìm như thế nào? Buông tập khí phiền não xuống, Tánh Đức sẽ trở lại. Chúng ta có thể buông xuống một phần, Tánh Đức sẽ hiển lộ một phần. Có thể buông xuống hai phần, Tánh Đức sẽ hiển lộ hai phần. Không nhất định phải buông xuống viên mãn, buông xuống viên mãn sẽ thành Phật, viên mãn hiện tiền. Chỉ cần thật sự làm, quý vị sẽ có lòng tin tràn trề, sẽ ngập tràn pháp hỷ. Trong Phật môn thường nói là “phiền não nhẹ, trí huệ tăng trưởng”. Phiền não mỗi ngày nhẹ dần, trí huệ mỗi ngày tăng thêm. Phiền não mỗi năm giảm dần, trí huệ mỗi năm tăng trưởng. Phiền não mỗi tháng giảm nhẹ, trí huệ mỗi tháng tăng trưởng. Tới lúc mỗi tháng phiền não nhẹ dần, trí huệ tăng dần, quý vị sẽ pháp hỷ sung mãn; mỗi ngày đều tăng trưởng, gần như quý vị sẽ nhanh chóng thành Phật, cách Vô Thượng Bồ Đề chẳng xa!

      “Nhất thiết, nãi cai la sự vật chi xưng” (Nhất thiết” là tiếng để gọi chung tất cả sự vật), tức là bao gồm tất cả hết thảy. “Hựu nhất thiết, phổ dã. Nhất thiết đại thánh, tán thán chi từ” (“nhất thiết” còn có nghĩa là khắp cả. “Nhất thiết đại thánh” là lời khen ngợi). Trong Gia Tường Sớ có giải thích: Du tâm Không lý; ẩn, hiển nan trắc, cố xưng thánh nhân” (Tâm dạo nơi lý Không; ẩn, hiển khó lường, nên gọi là thánh nhân”), ý nghĩa này dễ hiểu. Thấy thánh nhân dụng tâm khác với chúng ta, tâm chúng ta trái nghịch tâm họ. Tâm chúng ta chẳng Không, trong ấy có quá nhiều thứ tạp nhạp. Tâm chúng ta trái nghịch lý (lý là tự tánh). Tự tánh đúng là thứ gì cũng chẳng có, nó là Không, là Lý Thể để vạn sự vạn pháp nương vào. Vạn sự vạn pháp trong vũ trụ do đâu mà có? Những đạo lý, năng sanh, năng hiện, năng biến, Lý Thể là tự tánh, mười pháp giới đều bao gồm trong ấy. Thức biến, mười pháp giới là thức biến. Tự tánh chẳng phải là vật chất, cũng chẳng phải là tinh thần. Nó có thể hiện vật chất, mà cũng có thể hiện tinh thần. Khi nó hiện, tức là Hiển, Hiển là hiện. Khi chẳng hiện thì gọi là Ẩn. Khi Huệ Năng đại sư khai ngộ đã nói: “Nào ngờ tự tánh, vốn tự trọn đủ”, đó là Ẩn, chẳng hiện. Vốn tự trọn đủ, tuy cái gì cũng chẳng phải là nó, nhưng nó có thể hiện bất cứ điều gì. Câu cuối cùng là “có thể sanh ra vạn pháp”, đó là Hiển. Tổ nói năm câu thì câu thứ ba là Ẩn, câu cuối cùng là Hiển, đều chẳng thể nghĩ bàn. Câu “chẳng thể nghĩ bàn” này có ý nghĩa vô cùng sâu, quý vị chẳng cần phải suy tưởng, chẳng cần phải thảo luận, vì sao? Hễ suy tưởng thì toàn bộ đã trật rồi! Quý vị thảo luận cũng sai luôn! Đừng suy tưởng, đừng thảo luận, chân tướng sẽ hiện tiền, quý vị thấy toàn bộ. Quý vị tư duy nó thì toàn bộ vọng tưởng, phân biệt, chấp trước sẽ hiện tiền.  

Cớ sao mê? Do vọng tưởng, phân biệt, chấp trước bèn mê. Mê thì chẳng thể giác ngộ, mê chỉ có càng mê hơn, càng mê càng sâu! Đức Phật dạy chúng ta, buông xuống là được, đừng quan tâm tới nó, chỉ buông xuống. Buông chấp trước xuống bèn thành A La Hán, chấp trước là Kiến Tư phiền não. Buông phân biệt xuống, phân biệt là Trần Sa phiền não, buông phân biệt xuống là Bồ Tát. Buông khởi tâm động niệm xuống, quý vị bèn thành Phật, trong hội Hoa Nghiêm những vị ấy được gọi là Pháp Thân đại sĩ. Tu hành trong Phật pháp, ngàn lời, vạn câu đều là một câu, đều khuyên quý vị hãy buông xuống, phải giữ cho thân tâm thanh tịnh. Quan trọng nhất là tâm, tâm thanh tịnh, thân sẽ thanh tịnh, vì sao? Thân là một hiện tượng vật chất gần gũi chúng ta nhất, là cảnh giới, là tướng cảnh giới, cảnh chuyển theo tâm. Tâm là ý niệm, ý niệm là Mạt Na Thức và thức thứ sáu, tức Ý Thức. Thức thứ sáu (Ý Thức) phân biệt, thức thứ bảy chấp trước. Chẳng phân biệt, chẳng chấp trước, chuyển thức thứ bảy thành Bình Đẳng Tánh Trí, chuyển thức thứ sáu thành Diệu Quán Sát Trí. Hai thứ này vừa chuyển, A Lại Da và năm thức trước cũng chuyển theo. Tám thức chuyển có trước sau, thức thứ sáu và thứ bảy chuyển trước, chuyển biến nơi nhân. Năm thức trước và thức thứ tám chuyển nơi quả. Quý vị thấy cảnh chuyển theo tâm. Có thể chuyển cảnh giới thì tu hành mới có công phu, mới thật sự biết tu. Chẳng chuyển được cảnh giới, quý vị tu uổng công. Nói “tu uổng công” thì vẫn là ca ngợi quý vị, chứ về căn bản, quý vị chẳng tu! Những sự lý, nhân duyên như vậy, nhất định phải đọc nhiều kinh luận Đại Thừa [mới hiểu được].

Đọc kinh cũng có bí quyết mầu nhiệm, hễ hiểu sẽ có thụ dụng, lại còn rất nhanh chóng. Chẳng hiểu, sẽ khó khăn. Hiểu là gì? Thâm nhập một môn, huân tu dài lâu, đắc tam-muội ngay trong môn ấy. Tam-muội là Định, tâm thanh tịnh hiện tiền. Vì mỗi ngày quý vị nghĩ đến nó, chẳng có hơi sức đâu để nghĩ đến điều gì khác, toàn bộ những thứ tạp nhạp trong thế gian đều buông xuống, trong tâm chỉ giữ một thứ là Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh, chỉ một thứ ấy. Giữ lâu ngày, tập khí phiền não tự nhiên đoạn hết. Đoạn phiền não, tam-muội hiện tiền, sau một thời gian lâu dài, quý vị sẽ đại triệt đại ngộ, khai ngộ kinh Vô Lượng Thọ. Một ngộ, hết thảy ngộ; không chỉ đối với hết thảy các pháp do đức Thế Tôn đã nói trong bốn mươi chín năm, mà vô lượng đại pháp do mười phương ba đời hết thảy Như Lai đã giảng, quý vị đều thông suốt toàn bộ. Vì sao? Chẳng lìa tự tánh. Quý vị đã tìm được năng sanh, năng hiện, năng biến, đối với sở sanh, sở hiện, sở biến, không gì chẳng thông đạt, hiểu rõ toàn bộ. Tin tức này tốt đẹp, rất khó gặp gỡ, chúng ta đã gặp, phải tin tưởng. Hễ tin tưởng, quý vị bèn có phước. Vì sao? Tin tưởng thì quý vị sẽ thật sự muốn học, đúng như pháp tu hành, nên thật sự đạt được lợi ích. Nếu quý vị không tin, sẽ chẳng phát khởi ý nguyện học tập; nói theo nhà Phật là “chẳng phát tâm Bồ Đề”. Bởi lẽ, đối với tín, giải, hành, chứng, chẳng thể lý giải thấu triệt giáo huấn của Phật, Bồ Tát, lý giải chính xác, quý vị tu tập bằng cách nào? Quý vị tu học toàn là sai lầm, dẫu dụng công, dù nỗ lực, vẫn chẳng đạt được hiệu quả, cuối cùng mất lòng tin đối với Phật pháp! Nếu bị mất lòng tin, nẩy sanh hoài nghi, lại hủy báng Phật pháp, tạo nghiệp quá nặng, chẳng bằng không học. Đồng tu học Phật, bất luận xuất gia hay tại gia, chớ nên không biết điều này!

      Thật sự muốn học thì vun bồi cội rễ giáo dục quan trọng hơn bất cứ điều gì khác. Quý vị không có cội rễ, dẫu nỗ lực cũng uổng công. Giống như trồng cây, thiếu rễ, quý vị trồng cách nào nó cũng chẳng sống được! Rễ quan trọng! Tại Trung Quốc, vào thời cổ, người học Phật có bốn cội rễ; vì thế, đời nào cũng đều có người chứng quả, khai ngộ, đắc Định rất nhiều. Đắc Định là đắc tâm thanh tịnh. Khai ngộ, chứng quả, tâm bình đẳng, tâm chánh giác đều hiện tiền, chánh giác là chứng quả. Đối với bốn cội rễ ấy, phải biết Phật giáo Trung Quốc kể từ giữa đời Đường trở đi, không còn vun bồi cội rễ Tiểu Thừa. Xưa kia, Tiểu Thừa có Thành Thật Tông và Câu Xá Tông. Từ giữa đời Đường trở đi, tổ sư đại đức đề xướng dùng Nho, dùng Đạo thay thế Tiểu Thừa; vì thế, Nho, Thích, Đạo biến thành một nhà. Ngày nay chúng ta phải vun bồi căn cội, hãy hành theo giáo huấn của tổ tiên, vì hơn một ngàn bảy trăm năm qua, người thành tựu rất nhiều. Chúng ta dùng Đệ Tử Quy của Nho gia, Thái Thượng Cảm Ứng Thiên của Đạo gia, dùng Thập Thiện Nghiệp Đạo của Phật pháp, đấy là ba cội rễ, người xuất gia còn có một thứ nữa là Sa Di Luật Nghi, [do] bốn căn cội, quý vị mới thành tựu thù thắng. Hiện thời, chúng ta không thể thực hiện câu “du tâm Không lý” trong Gia Tường Sớ, nhưng Pháp Thân Bồ Tát thật sự có thể làm được câu ấy. Hiện thời, chúng ta có thể “du tâm Di Đà” đã tuyệt lắm rồi, trong tâm chỉ có A Di Đà Phật, trừ A Di Đà Phật ra, thứ gì cũng đều không có. Cuộc sống, công việc hằng ngày, đãi người, tiếp vật hoàn toàn tuân thủ theo giáo huấn của ba cội rễ, hoặc bốn cội rễ, sẽ là thánh nhân trong thời hiện đại, đương nhiên Phật pháp sẽ hưng vượng. Phật giáo hưng vượng phải nhờ vào các đệ tử nghiêm túc nỗ lực học tập, khiến cho đại chúng bình phàm trong xã hội chẳng đến nỗi hiểu lầm [Phật giáo], tự nhiên tôn trọng, ủng hộ quý vị, hướng theo quý vị học tập.

      “Hội Sớ viết: Sơ Quả dĩ thượng, tất danh thánh giả. Dĩ cứu đại A La Hán, cố danh Đại Thánh” (Sách Hội Sớ giảng: “Từ Sơ Quả trở lên đều gọi là Thánh. Ðã cùng tột quả Ðại A La Hán thì gọi là Ðại Thánh”). Sách Hội Sớ giảng theo lối thông thường. Sơ Quả Tu Đà Hoàn là thánh nhân, là vị thánh nhỏ nhoi, vì sao? Ngài có thể đoạn hết tám mươi tám phẩm Kiến Hoặc trong tam giới, chứng quả Tu Đà Hoàn của Tiểu Thừa. Nếu là Đại Thừa, nói theo kinh Hoa Nghiêm, người chứng đắc địa vị Sơ Tín trong [các địa vị thuộc] Thập Tín Bồ Tát là nhập môn. Vì vậy, đối với chuyện nhập môn, tiêu chuẩn như tôi đã nói vẫn chưa được. Tôi thưa cùng quý vị, tiêu chuẩn như tôi đã nói chỉ đưa đến cửa ngõ, hết sức gần gũi, cũng có nghĩa là quý vị thật sự buông tự tư tự lợi xuống, buông tiếng tăm, lợi dưỡng xuống, buông ngũ dục, lục trần xuống, buông tham, sân, si, mạn xuống, quý vị sẽ ở trước cửa ngõ. Muốn vào cửa, nhất định phải đoạn sạch Thân Kiến, Biên Kiến, Kiến Thủ Kiến, Giới Thủ Kiến, Tà Kiến. Đoạn hết năm thứ kiến giải sai lầm ấy, quý vị sẽ chứng đắc Tiểu Thừa Sơ Quả. Nếu học Đại Thừa, sẽ là Sơ Tín vị Bồ Tát, là thánh nhân, thật sự là thánh nhân. Tuy chưa thoát khỏi lục đạo luân hồi, còn ở trong lục đạo, nhưng chắc chắn chẳng đọa tam ác đạo. Lại còn bảy lần sanh trong cõi trời hay trong nhân gian, luôn tu học, tối đa là bảy lần, quý vị chắc chắn chứng quả A La Hán. Trong Đại Thừa, tái sanh bảy lần, chứng đắc Đệ Thất Tín trong Thập Tín vị, bèn vượt thoát lục đạo. Thất Tín, Bát Tín, Cửu Tín, Thập Tín thuộc vào tứ thánh pháp giới, Thất Tín là Thanh Văn pháp giới, Bát Tín là Duyên Giác, Cửu Tín là Bồ Tát, cao nhất là Phật, lại vượt thoát mười pháp giới, vượt thoát mười pháp giới là đại thánh. Những địa vị ấy (địa vị thấp hơn Sơ Trụ) đều chẳng thể coi là đại thánh, chỉ được coi là thánh nhân. Vượt thoát mười pháp giới, từ Sơ Trụ của Viên Giáo trở lên, là Pháp Thân đại sĩ, trụ tại nơi đâu? Trụ trong cõi Thật Báo Trang Nghiêm của chư Phật Như Lai. Trên thực tế, cõi Thật Báo Trang Nghiêm của chư Phật Như Lai là cõi Thật Báo Trang Nghiêm của chính mình. Tới khi đó, quý vị mới thật sự hiểu rõ: “Tự tánh Như Lai, duy tâm Tịnh Độ”. Do vậy, Tây Phương Cực Lạc thế giới là tự tâm hiện, tự tánh biến, chẳng phải là bên ngoài. Đó là quê nhà của quý vị, là nơi chốn quý vị vốn sẵn có. Vì thế, trở về cõi Thật Báo của A Di Đà Phật là quay về nhà, đâu có gì khó khăn!

      Thật sự học Phật, quý vị chẳng thể không nhận biết Thích Ca Mâu Ni Phật, chẳng thể không liễu giải Thích Ca Mâu Ni Phật. Quý vị học tập giống như Ngài, có lẽ nào chẳng thành Phật trong một đời! Đức Phật dạy chúng ta buông xuống, Ngài thật sự buông xuống, thứ gì cũng đều không có. Ngài sống cuộc đời đơn giản nhất, ba y một bát, đó là tài sản của Ngài. Toàn bộ tài sản là ba y một bát, đều mang theo thân. Thật vậy! Nếu nói theo phía tục nhân chúng ta, cái gì trên thân quý vị sẽ là của chính quý vị, chẳng ở trên thân sẽ chẳng phải là của chính mình. Tối thiểu là có quan niệm ấy! Trên thân quý vị có tiền, trong bóp có bao nhiêu tiền, đó là của chính mình, còn tiền cất trong ngân hàng chẳng phải là của quý vị. Căn nhà quý vị đang ở trong ấy, sống trong ấy, nó là của quý vị. Sau khi quý vị bước ra khỏi cửa, căn nhà ấy chẳng phải là của quý vị. Trong cuộc sống hằng ngày, quý vị có thể quán như thế, sẽ gần gũi Phật pháp, tham, sân, si dần dần bị hóa giải, đó là chân tướng sự thật, chớ nên không hiểu rõ. Quý vị thấy bà Lưu Tố Vân giảng về chữ “trượng phu” (chồng) rất khéo, trượng phu là gì? Trong vòng một trượng thì là chồng mình, ngoài một trượng bèn chẳng phải. Tôi nói với mọi người chuyện sít sao nhất, cái gì quý vị có trên thân là của quý vị, cái gì chẳng ở trên thân thì chẳng phải là của quý vị, tâm khai ý giải, mảy may vướng mắc cũng không có.

      Thích Ca Mâu Ni Phật suốt đời nêu gương cho chúng ta. Vì thế, chúng ta phải học theo Ngài, học giống như Ngài. Ngài suốt đời theo đuổi sự nghiệp gì? Giáo học, kể từ ngày khai ngộ lúc ba mươi tuổi bèn bắt đầu giáo học, tới bảy mươi chín tuổi viên tịch, [dạy suốt] bốn mươi chín năm chẳng gián đoạn, chẳng thiếu một buổi học nào, là một vị thầy hết sức tận tụy. Ngài mang thân phận là một vị thầy chuyên nghiệp, thưa quý vị, chẳng hề dính dáng gì đến tôn giáo. Ngày nay hễ nhắc tới Phật giáo, hết thảy mọi người đều nghĩ Phật giáo là tôn giáo, chúng ta chẳng xứng đáng, đã “đày” Thích Ca Mâu Ni Phật vào trong tôn giáo. Vì thế, tôi nói tứ chúng đệ tử chúng ta đều phạm tội lỗi, thầy cả đời dạy học, sao lại bị tống vào tôn giáo, lẽ nào lại như vậy? Phật pháp truyền tới Trung Quốc, chúng ta đọc lịch sử, [kể từ lúc truyền vào] cho tới thời đầu nhà Thanh, [trải các triều] Khang Hy, Ung Chánh, Càn Long cho tới Gia Khánh, Phật pháp vẫn là dạy học. Trong lịch sử [Trung Quốc], Phật giáo biến thành tôn giáo chưa đầy ba trăm năm, đấy là chuyện trong thời gần đây. Trước đó, tự viện, am đường là trường học, bao nhiêu người thành danh trong lịch sử học hành ở chỗ nào? Học từ trong chùa chiền! Chùa chiền là trường học, người đọc sách có thể sống trong chùa. Chùa chiền rất từ bi, có thể tiếp đãi người ấy. Trong chùa chiền, người xuất gia đều là thầy tốt, có năng lực dạy bảo quý vị. Trước đây, người đi thi Cử Nhân, hay thi Tiến Sĩ, đến đâu để học? Đều là đến chùa chiền, chùa chiền có kinh sách. Không chỉ là kinh Phật, tàng kinh lâu (lầu chứa kinh) là thư viện, trong ấy thứ gì cũng có. Không thiếu thầy giáo, học trò bất luận có vấn đề gì, tìm người xuất gia, người xuất gia đều có thể dạy quý vị. Vì thế, người có tiền sống trong chùa, bỏ ra một ít tiền ăn ở; người không có tiền, chùa chiền vẫn chiếu cố quý vị. Quý vị thấy Phạm Trọng Yêm cả đời đọc sách trong chùa, nhà rất nghèo túng, vì thế, sống trong chùa tự lo liệu ăn uống. Mỗi ngày, ông ta nấu một nồi cháo, nấu đặc một chút, chia thành bốn phần, để sống hết ngày. Học hành tốt đẹp, quý vị thấy về sau ông ta thi đỗ, công danh thành tựu, xuất tướng nhập tướng[1], cảm niệm nhà chùa đã thành tựu cho ông ta. Nếu không, ông ta đến đâu để học hành? Vì thế, thời cổ, chùa chiền có cống hiến vô cùng to lớn đối với xã hội, thay quốc gia đào tạo bao nhiêu nhân tài. Chúng ta chớ nên không thông hiểu những chuyện lịch sử này!

      Trước đây, chùa chiền là trường học, chẳng có kinh sám Phật sự. Danh xưng của chấp sự trong chùa chiền cho đến nay vẫn giữ nguyên, nhưng đã biến chất. Trụ Trì, Phương Trượng của tự viện là chức vị gì? Hiệu Trưởng. Thủ Tọa Hòa Thượng là Giáo Vụ Trưởng, Duy Na là Huấn Đạo Trưởng, Giám Viện là Tổng Vụ Trưởng. Quý vị thấy có giống như phân công trong nhà trường hiện thời hay không? Trong một ngôi chùa, có vài vị Thủ Tọa Hòa Thượng, chẳng phải là một, chia thành các giảng tòa giảng kinh. Điện đường là phòng học, pháp sư giảng kinh rất nhiều, chẳng phải là một, giống như trường học, chia thành lớp, nhưng [trong mỗi lớp] đều là thâm nhập một môn, huân tu lâu dài. Giảng đường này giảng kinh Hoa Nghiêm, giảng đường kia giảng kinh Pháp Hoa, giảng đường khác giảng kinh Vô Lượng Thọ, quý vị muốn học gì bèn vào giảng đường đó. Quý vị chỉ có thể học một môn, chẳng thể học hai môn. Vì thế, trước đây nói là “đến tự viện, viết thảo kinh đơn”, [tức là] đến nơi ấy ghi danh [xin học một bộ kinh nào đó], giảng đường [giảng bộ kinh ấy] sẽ cho quý vị một chỗ ngồi, ký túc xá cho quý vị một cái giường, để quý vị có thể an tâm học tập ở nơi đó. Kỳ hạn là một bộ kinh, quý vị học xong một bộ kinh có thể rời khỏi. Nếu muốn học thêm một bộ nữa, lại ghi danh tiếp, học tiếp một bộ, nhưng thông thường, một bộ kinh phải giảng mấy tháng. Kinh dài phải mất một hai năm. Nhà chùa đúng là một trường học, cớ sao biến thành tình trạng như hiện thời? Thuở ấy, tôi học Phật cũng cảm thấy rất kỳ quái, bèn hỏi lão hòa thượng. Lúc đó, tôi theo lão hòa thượng Đạo An ở Đài Loan, Ngài rất quan tâm đến tôi, tuổi Ngài cũng đã rất cao. Tôi thỉnh giáo Ngài, tôi nói kinh sám Phật sự vì sao mà có? Do ai làm? Ngài suy nghĩ, rồi nói: “Rất có thể là do Đường Minh Hoàng[2] làm”. Ngài cũng có căn cứ, vì thời Đường Minh Hoàng gặp phải loạn An Sử, tức là An Lộc Sơn tạo phản, do Dương Quý Phi dẫn khởi. Cuộc bạo loạn ấy khiến cho nhà Đường gần mất ngôi, may mắn là được một nhóm người như Quách Tử Nghi dẹp yên cơn biến loạn ấy. Sau khi yên ổn, tại mỗi nơi chiến trường, Đường Minh Hoàng dựng một ngôi chùa, đặt tên là chùa Khai Nguyên, vì cuộc động loạn xảy ra trong niên hiệu Khai Nguyên. Mỗi địa phương dựng một ngôi Khai Nguyên Tự, dựng chùa nhằm truy điệu quân dân tử nạn. Đó là khởi đầu, mang tánh chất kỷ niệm giống như Trung Liệt Từ[3], thỉnh các vị xuất gia tụng kinh siêu độ, hồi hướng cho họ. Quốc gia làm như vậy, nên trong dân gian, người già qua đời, cũng thỉnh pháp sư đến niệm kinh. Đương nhiên đó là ngẫu nhiên, có thể thỉnh pháp sư về nhà niệm kinh, nhất định đều là những vị quý nhân hay quan chức hiển đạt, chẳng phải là bình dân. Người xuất gia làm chuyện này là kèm thêm, thỉnh thoảng làm kèm thêm. Pháp sư Đạo An bảo tôi, có thể đó là khởi đầu, vì trước đó, chưa hề nghe nói tới [chuyện tăng sĩ làm kinh sám Phật sự].

      Tôi nghĩ: Thật sự biến thành tình hình như hiện tại là do Từ Hy, Từ Hy Thái Hậu tạo oan nghiệt. Dưới đời nhà Thanh trước kia, đế vương thường lễ thỉnh học giả Nho, Thích, Đạo giảng học trong hoàng cung. Hoàng thượng dẫn phi tần, văn võ bá quan đến nghe giảng, chế độ này mãi cho đến đời Hàm Phong vẫn còn (hoàng đế Hàm Phong là chồng của Từ Hy Thái Hậu), vẫn còn gìn giữ. Giảng nghĩa trong cung đình, giảng nghĩa Nho, Thích, Đạo. Họ đặc biệt tôn trọng Phật pháp, [nhưng giảng nghĩa Phật pháp không bảo lưu] trong Tứ Khố, giảng nghĩa của Nho gia và Đạo gia đều có trong Tứ Khố Toàn Thư. Đôi khi, tôi mở [bộ Tứ Khố] ra xem, coi cách giảng trong hoàng cung của người thuở trước rốt cuộc là như thế nào. Giảng Tứ Thư theo cách nào? Giảng Ngũ Kinh theo cách nào? Những bản giảng nghĩa ấy vẫn còn tồn tại, nhưng đối với Phật pháp, bèn đặc biệt biên tập một bộ Đại Tạng Kinh, gọi là Càn Long Đại Tạng Kinh, không xếp [những bài giảng kinh Phật] vào Tứ Khố, đó là đặc biệt tôn trọng Phật pháp. Do lịch đại đế vương đều là đệ tử Tam Bảo, những vị đại đức thuộc hàng đức cao vọng trọng đều phong làm quốc sư. Triều đình nhà Thanh làm như vậy đó. Sau khi Hàm Phong qua đời[4], con còn rất nhỏ, con trai Từ Hy Thái Hậu làm tiểu hoàng đế, quyền lực triều chánh lọt vào tay bà ta, thùy liêm thính chánh[5]. Cho nên con trai bà ta [có niên hiệu] là Đồng Trị, tức là bà ta và con trai cùng trị vì quốc gia, phiền phức khá lớn. Bà ta tin tưởng quỷ thần, bãi bỏ chuyện thỉnh đại đức giảng học trong cung đình, điều này có ảnh hưởng quá lớn đối với văn hóa truyền thống Trung Quốc. Vì sao văn hóa truyền thống hiện thời suy vi đến nỗi này? Đầu sỏ là Từ Hy Thái Hậu, tin tưởng cầu cơ, chẳng tin kinh điển, cũng chẳng nghe lời, tin tưởng các vị cao tăng đại đức. Bà ta cầu cơ phù loan, kết quả là quốc gia tiêu vong từ đó. Thuở tôi còn trẻ, Chương Gia đại sư kể cho tôi nghe chuyện này. Chương Gia đời trước[6] là quốc sư của Từ Hy Thái Hậu, toàn là hữu danh vô thực, bà ta cũng chẳng hỏi ý Ngài. Trong quá khứ, hễ thật sự gặp đại sự nghi nan, đế vương bèn hỏi ý kiến các vị đại đức, tức các vị đại đức Nho, Thích, Đạo, họ cũng giống như cố vấn của hoàng thượng. Từ Hy Thái Hậu rất tôn trọng họ, nhưng chẳng nghe lời, mà nghe theo quỷ thần. Vì vậy, [Phật giáo Trung Quốc] phải là hoàn toàn bị biến chất vào lúc ấy.

      Hiện thời, tự viện am đường Phật giáo nhìn không ra diện mục giáo học của Thích Ca Mâu Ni Phật, hoàn toàn chẳng nhìn thấy, Phật giáo bị biến thành mê tín. Hơn nữa, trong tôn giáo, Phật giáo lại là tôn giáo cấp thấp. Tôn giáo cao cấp chỉ có một thần, một vị chân thần, trong Phật giáo thờ Phật, Bồ Tát quá nhiều, người ta nghĩ các Ngài đều là thần, nên gọi Phật giáo là phiếm thần giáo, hoặc đa thần giáo. Phiếm thần giáo, đa thần giáo là tôn giáo cấp thấp. Tứ chúng đệ tử chúng ta ngày nay đều có nghĩa vụ giảng rõ ràng, rành rẽ chuyện này cho xã hội. Cả đời Thích Ca Mâu Ni Phật là giáo dục, nói theo cách bây giờ là văn hóa xã hội giáo dục đa nguyên, giáo dục trọn khắp thế gian, có thể mang lại an định, hòa bình cho xã hội, có thể mang lại hạnh phúc mỹ mãn cho hết thảy chúng sanh, là giáo dục luân lý, giáo dục đạo đức, giáo dục nhân quả, những điều ấy đều được gồm trong Phật giáo. Một số ít học giả, chuyên gia lại mong muốn tiến cao hơn, trong kinh Phật có giáo dục triết học và giáo dục khoa học, đều giảng đến mức viên mãn rốt ráo. Ngày nay, [kẻ khác] nói Phật giáo là tôn giáo, chúng ta cũng chẳng thể không thừa nhận, nó đã thật sự biến thành tôn giáo. Chúng ta đi theo con đường này là đi theo con đường giáo dục của Thích Ca Mâu Ni Phật. Lúc tôi mới xuất gia, các đồng tham, đồng học cũng đều rất muốn đi theo con đường này, nhưng lại sợ hãi, sợ gì vậy? Sợ đi theo con đường này trong tương lai sẽ chết đói, không có ai cúng dường! Kinh sám Phật sự, học ba tháng đánh pháp khí, xướng niệm là được rồi, đã có thể kiếm tiền; làm mười năm, hay tám năm, tích cóp có thể dựng một ngôi chùa nhỏ, [nên đại đa số người xuất gia] đều đi theo con đường ấy, chứ giảng kinh, giáo học mọi người đều sợ. Tôi sống cả đời chẳng chết đói, vẫn sống khá lắm, nhưng con đường này (giáo học, giảng kinh) vô cùng khổ cực, vì sao khổ sở ngần ấy? Chúng ta phải hiểu rõ ràng, rành rẽ nguyên nhân, chẳng đi theo [con đường này] sẽ chẳng được! Hy vọng mọi người nỗ lực khôi phục nền giáo dục Phật giáo. Nếu chẳng khôi phục giáo dục, Phật giáo chẳng có địa vị trong xã hội, rất đáng thương! Tất cả các tôn giáo, không chỉ riêng Phật giáo, đều phải trở về giáo dục, vì sao? Quý vị thấy mỗi vị sáng tổ tôn giáo đều là nhà giáo dục xã hội. Gia Tô (Jesus) dạy ba năm, bị kẻ khác hại chết. Mục Hãn Mặc Đức (Mohammed, Muhammad) dạy hai mươi bảy năm. Quý vị quan sát cẩn thận, vị giáo chủ sáng lập tôn giáo nào thoạt đầu chẳng phải là dạy học? Nếu tôn giáo trở về giáo dục, tôn giáo sẽ được xã hội chấp nhận, vì nó cống hiến, tạo lợi ích cho xã hội, mọi người tự nhiên ủng hộ, giúp đỡ quý vị phát triển. Quý vị là giáo dục, xã hội cần quý vị, khác hẳn! Do vậy, chúng tôi học tập đến chỗ này, cảm khái rất sâu.

      Chúng ta lại xem đoạn kế tiếp: “Diệc khả tuy ngoại hiện Thanh Văn, nội bí Bồ Tát chi hạnh, cố danh đại thánh” (Cũng có thể hiểu là tuy bề ngoài hiện làm Thanh Văn, bên trong ẩn giấu hạnh Bồ Tát nên gọi là Ðại Thánh). Đây là nói về sự biểu thị pháp, xác thực có ý nghĩa này, nhưng trong kinh Đại Thừa, đức Phật cũng dạy rõ, chuyện này chẳng phải là giả. Trong các đệ tử thường tùy của đức Phật, quả thật có không ít vị đã thành Phật, thả chiếc bè Từ, đến giúp Thích Ca Mâu Ni Phật giáo học. Như Mục Kiền Liên và Xá Lợi Phất đều đã sớm thành Phật, lần này Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện làm Phật, các Ngài đến làm đệ tử. Chẳng phải là người thông hiểu, lão luyện, sẽ chẳng thể nêu câu hỏi, họ cùng đức Phật một hỏi, một đáp, cố ý làm bộ không hiểu để đức Phật giải thích cho mọi người nghe, chẳng phải là các Ngài thật sự không hiểu. Ngay cả ngài A Nan cũng chẳng phải là phàm nhân, A Nan thị hiện Sơ Quả, Mục Kiền Liên, Xá Lợi Phất thị hiện làm Tứ Quả La Hán, Bồ Tát chúng lại càng không cần phải nói nữa! Chư vị đều biết Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Âm đã sớm thành Phật, hiện tại mang thân phận Phật ở thế giới phương khác, nhưng đến khu vực giáo hóa của Thích Ca Mâu Ni Phật bèn mang thân phận Bồ Tát, đều là đến thị hiện. Do vậy, “ngoại hiện Thanh Văn” là ý nghĩa về mặt Hiển, “nội bí Bồ Tát hạnh” là Ẩn. Ẩn và hiện khác nhau, những vị này đều là bậc đại thánh.

      “Tịnh Ảnh Sớ viết, Đại hữu lưỡng nghĩa, nhất, vị cao danh Đại” (Tịnh Ảnh Sớ giảng: “Đại có hai nghĩa: Một là địa vị cao lớn, nên gọi là Đại”), chủ yếu nói các vị tỳ-kheo có địa vị cao. Trong Phật pháp có học vị, nên Phật pháp đích xác là giáo dục. Phật, Bồ Tát, A La Hán là các danh xưng học vị trong Phật môn. Quý vị buông chấp trước xuống, đoạn Kiến Tư phiền não, sẽ đắc Chánh Giác, sẽ được gọi là A La Hán. Vì vậy, đấy là học vị, quý vị chứng đắc học vị thứ nhất. Quý vị lại có thể buông phân biệt xuống, và cũng đoạn sạch Trần Sa phiền não, bèn chứng học vị thứ hai là Chánh Đẳng Chánh Giác. Đấy là Bồ Tát. Lại tiến thêm bước nữa, không khởi tâm, chẳng động niệm, và cũng buông vô thỉ vô minh xuống, sẽ thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, bèn gọi là Phật Đà, đây là học vị tối cao. Vì thế, Phật Đà, Bồ Tát, A La Hán là ba học vị trong nền giáo dục của đức Phật; hết thảy chúng sanh vốn là Phật, tức là ai cũng đều có thể đạt được học vị tối cao. Điều này khác với tôn giáo! Trong tôn giáo, chỉ có một Thượng Đế, thần cũng chỉ có một, con người và thần chẳng ngang hàng, không thể nào [có chuyện con người tu thành Thượng Đế]. Nhà Phật chẳng giống như vậy, nhà Phật là “hết thảy chúng sanh đều có thể thành Phật”, kinh nói rất hay: “Hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh”. Đã có Phật tánh, nhất định có thể chứng đắc Phật quả. Do vậy, nói theo tự tánh, vốn là Phật. Nói theo phương diện tu hành, quý vị nhất định có thể đạt được học vị này. Đó là địa vị cao, là ý nghĩa của chữ Đại. Thứ hai là “đức thắng”, [nghĩa là] đức thù thắng, vượt trỗi hết thảy tiểu thánh, nên gọi là Đại. “Hội chánh vi thánh” (hiểu biết đúng đắn là thánh), Chánh là chánh tri chánh kiến, đấy là thánh nhân. Tại Trung Quốc, các Ngài được gọi là Thánh, ở Ấn Độ, các Ngài được gọi là Phật. Chúng ta chớ nên không biết những ý nghĩa được bao hàm trong các danh từ thuật ngữ này.

“Tổng thượng khả kiến, hoặc tùng đức nhi ngôn, khế ư Không lý, hội hợp chánh đạo viết Thánh” (Tổng hợp những điều trên đây, ta thấy: Nếu từ đức mà nói thì khế hợp lý Không, hiểu đúng chánh đạo nên gọi là Thánh). Đây là giải thích ý nghĩa chữ Thánh trong Đại Thánh. “Hoặc tùng vị nhi ngôn, Sơ Quả dĩ thượng, xưng Thánh” (Hoặc từ địa vị mà nói thì từ Sơ Quả trở lên đều gọi là Thánh); đấy là tiểu thánh, chúng ta gọi Tu Đà Hoàn là vị thánh nho nhỏ, Ngài thật sự là thánh nhân, trọn chẳng phải là phàm nhân. “Duy hồi Tiểu hướng Đại, hành Bồ Tát đạo, trực thú Phật quả giả (nãi danh cứu đại A La Hán)” (chỉ có những ai hồi Tiểu hướng Ðại, hành Bồ Tát đạo, hướng thẳng đến Phật quả (mới gọi là tột cùng quả Ðại A La Hán)), thật sự hồi Tiểu hướng Đại, sốt sắng nỗ lực tu học Đại Thừa sẽ được là “đại thánh”. Mặt khác, “đại quyền thị hiện” đương nhiên lại càng chẳng cần phải nói nữa, đều là Bồ Tát tái lai, Pháp Thân đại sĩ tái lai, đương nhiên là đại thánh. Ý nghĩa “đại thánh” được nói đến đây.

      Tiếp đó, nói về thần thông, tức “thần thông dĩ đạt” (thần thông đã đạt). “Hựu Tịnh Ảnh viết, thần thông dĩ đạt, thán kỳ đức thắng, sở vi thần dị” (Ngài Tịnh Ảnh lại nói: “Thần thông đã đạt là khen ngợi đức của họ thù thắng, việc làm thần dị”), “sở vi” (所為) là những việc họ làm, thần thông biến hóa. Chúng ta phải nhìn ra ý nghĩa của chữ Thần (). Văn tự Trung Quốc là phù hiệu trí huệ, quý vị thấy chữ này ở trước mặt chúng ta, đối trước văn tự, bên trái là chữ Thị (), tức chữ Thị trong Thị Hiện (示現). Phía trên chữ Thị là một vạch ngắn, chẳng phải là một chấm, hiện thời [trong chữ Thần, vạch ngắn phía trên chữ Thị được viết thành] một chấm. Nếu quý vị viết [chữ Thần theo lối] chữ Triện sẽ thấy, trong lối chữ Triện, chẳng phải là một chấm, mà là một vạch. Phía trên là một vạch ngắn, phía dưới là một vạch dài. Vào thời cổ, chữ này được gọi là Thượng, tại thượng (ở trên). Phía dưới có ba vạch, ba vạch là diễn tả hình tượng, tức là hiện tượng tự nhiên, [điều đó được gọi là] “thùy tượng” (biểu thị hình tượng). Thể hiện ý nghĩa gì? Hiện tượng được biểu hiện trên trời. Nói theo cách bây giờ sẽ là “hiện tượng tự nhiên”, mọi người hiểu ngay: Chữ Thị biểu thị hiện tượng tự nhiên. Cạnh đó là chữ Thân (). Chữ Thân viết theo lối Cổ Triện sẽ giống như có ba cái ải, chính giữa có một thanh gươm báu kéo xuống[7], nên gọi là Thông; [ý nói]: Vượt qua ba ải thông suốt. [Do vậy chữ Thần] có ý nghĩa: Người thông đạt hiện tượng tự nhiên được gọi là Thần, đấy là giải thích ý nghĩa gốc của chữ này. Có một lần tôi đến thăm Cục Tôn Giáo Trung Quốc, cục trưởng Diệp Tiểu Văn tiếp đãi tôi, có nhắc tới chữ Thần này, tôi viết ra cho ông ta xem, giảng cho ông ta nghe. Ông ta bảo: “Nói như vậy thì vô thần luận nói chẳng suông!” Tôi đáp: “Đúng vậy! Chữ Thần có ý nghĩa ấy”. Quý vị phải hiểu ý nghĩa bao hàm trong văn tự Trung Quốc, quả thật là phù hiệu trí huệ. Người Trung Quốc nói thần nhân và thánh nhân; thần nhân và thánh nhân ý nghĩa tương thông. Thần là người thông đạt hết thảy hiện tượng vũ trụ, người ấy gọi là thần nhân. Thánh nhân: Thánh là hiểu rõ, người hiểu rõ chân tướng của vũ trụ và nhân sinh gọi là thánh nhân. Do vậy, thần thánh thường dùng chung. Họ là người, chẳng dính dáng gì đến quỷ thần. Giảng rõ ràng, minh bạch. Sách Thuyết Văn Giải Tự[8] giảng rất rõ ràng, đấy là phù hiệu trí huệ.

      “Vô ủng viết thông” (Không bị úng trệ là Thông), đây là nói tới chướng ngại. Không có chướng ngại bèn thông đạt. “Sở vị Thân Thông, Thiên Nhãn, Thiên Nhĩ, Tha Tâm, Túc Mạng, cập dữ Lậu Tận” (tức là Thân Thông (Thần Túc Thông), Thiên Nhãn, Thiên Nhĩ, Tha Tâm, Túc Mạng và Lậu Tận), những thứ này [ngoại trừ Lậu Tận] được gọi đơn giản là “ngũ chủng thần thông” (năm thứ thần thông). Năm thứ ấy, hiện thời, trong nước gọi người có năng lực này là “công năng đặc dị”, Phật pháp nói những năng lực ấy là bản năng (năng lực sẵn có) của chúng ta, mỗi cá nhân chúng ta đều có; nhưng vì sao bị mất đi? Vì quý vị vọng niệm quá nhiều, phiền não dấy lên, nên bị chướng ngại, nguyên nhân là như vậy đó. Vì thế, tu Định nhằm dễ dàng khôi phục năng lực ấy. Tu Định là tu tâm thanh tịnh. Tâm phải đạt đến thanh tịnh, bình đẳng, năng lực ấy sẽ tự nhiên khởi lên, hiện tiền. Vì thế, điều này chẳng có gì là hiếm hoi, lạ lùng, chúng là bản năng của con người. Tâm thanh tịnh sẽ khôi phục. Quý vị đọc kinh điển thấy Tu Đà Hoàn có thể đoạn tám mươi tám phẩm Kiến Hoặc, cũng là buông xuống, bèn khôi phục hai thứ năng lực, một là Thiên Nhãn, hai là Thiên Nhĩ. Hạng người bình phàm như chúng ta không thấy, nhưng Ngài có thể thấy, có thể nhìn xuyên vách tường, chúng ta gọi đó là “công năng đặc dị”. Ngài có thể nghe những âm thanh chúng ta không nghe được. Nếu là Tu Đà Hoàn, chúng ta đang tiến hành hoạt động giảng kinh giáo học ở tầng mười một, người ở mười tầng dưới làm gì, quý vị vừa nhìn liền thấy toàn bộ. Đó là Tu Đà Hoàn thật sự. Nếu nói “ta đã chứng đắc quả Tu Đà Hoàn”, mà hỏi có thấy chuyện sát vách hay không? Chẳng thấy! Đó là giả, chẳng thật. Tu Đà Hoàn nhất định có năng lực ấy.

      Nếu quý vị chứng Nhị Quả Tư Đà Hàm, quý vị có thêm hai thứ năng lực nữa là Tha Tâm và Túc Mạng, trong tâm người khác nghĩ chuyện gì, quý vị sẽ biết. Túc Mạng là đối với chính mình, đời đời kiếp kiếp quá khứ của ta [đều biết rõ]. A La Hán có thể biết năm trăm đời quá khứ. Tôi tin Nhị Quả phải biết ba đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời chẳng có vấn đề gì. Ngài biết trạng huống trong đời đời kiếp kiếp quá khứ. Tam Quả A Na Hàm, Thần Túc Thông giống như Tôn Ngộ Không, có thể biến hóa, có thể phân thân, nhưng lợi hại hơn, thánh nhân Tam Quả mà! Tứ Quả là A La Hán, Lậu Tận Thông, cũng có nghĩa là đoạn hết Kiến Tư phiền não, thoát ly lục đạo luân hồi. Trong lục đạo, Ngài chẳng có tí chướng ngại nào, cũng là ra vào lục đạo tự tại. Nay chúng ta chẳng thể ra khỏi lục đạo, nhưng Ngài có thể thoát ra. Đấy là bản năng, chẳng hiếm hoi, lạ lùng tí nào, công phu định lực của quý vị càng sâu, năng lực càng mạnh. A La Hán chỉ có thể biết năm trăm đời quá khứ; nói cách khác, năng lực ấy chẳng phải là rất lớn. Bồ Tát có nhiều tầng cấp, Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, càng lên cao, năng lực ấy càng lớn, càng thù thắng. Thiên Nhãn của A La Hán có thể thấy một tiểu thiên thế giới; ngài A Nậu Lâu Đà là một vị A La Hán đặc biệt trong các vị A La Hán, vì mắt Ngài đã hỏng, đức Thế Tôn dạy Ngài tu Thiên Nhãn, Ngài tu thành công. Thiên Nhãn của Ngài khác các vị A La Hán thông thường, có thể thấy tam thiên đại thiên thế giới. A La Hán thông thường chỉ có thể thấy một tiểu thiên thế giới, chỉ riêng Ngài có thể thấy tam thiên đại thiên thế giới. Tam thiên đại thiên thế giới là khả năng thấy được [bằng Thiên Nhãn] của các vị Bồ Tát thông thường. Đối với tam thiên đại thiên thế giới, các phẩm Hoa Tạng Thế Giới và Thế Giới Thành Tựu của kinh Hoa Nghiêm nói thế giới vô lượng vô biên, quý vị không có chướng ngại, sẽ đều có thể thấy. Vì vậy, triết học và khoa học được giảng trong kinh Phật là cảnh giới Hiện Lượng, chẳng phải là tầm thường; [những cảnh giới ấy do] đức Phật đích thân trông thấy. Các nhà khoa học hiện thời suy diễn từ toán học [rút ra] những thông tin, sau đấy dùng dụng cụ khoa học để quan sát, thấy được một chút; nói chung, vẫn chưa thể nói rõ ràng. Phật pháp giảng vô cùng rõ ràng, vì sao? Đức Phật trông thấy, năng lực ấy được khôi phục toàn bộ, các khoa học gia và triết học gia chẳng có cách nào sánh bằng, phải biết điều này! Ở đây, đức Phật dạy chúng ta, chỉ cần quý vị khéo tu, sẽ có thể chứng đắc, đó là bản năng của quý vị. Ngài giảng trí huệ, đức năng, tướng hảo, những đức năng ấy đều là những thứ chính quý vị vốn sẵn có, phải nên khôi phục. Sau khi quý vị khôi phục, đúng là không gì chẳng biết, không gì chẳng thể, chẳng phải là giả, tuyệt đối chẳng phải là mê tín. Hôm nay đã hết thời gian rồi, chúng ta học tập tới chỗ này.

 

Tập 88

 

Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang chín mươi tám, xem từ dòng thứ năm:

“Hựu Tịnh Ảnh viết: Thần thông dĩ đạt, thán kỳ đức thắng. Sở vi thần dị, cố danh viết Thần. Vô ủng viết Thông. Sở vị Thân Thông, Thiên Nhãn, Thiên Nhĩ, Tha Tâm, Túc Mạng, cập dữ Lậu Tận. Cố tri Thần vi bất trắc chi nghĩa, Thông vi vô ngại chi nghĩa” (Ngài Tịnh Ảnh lại nói: “Thần thông đã đạt: Khen ngợi đức của họ thù thắng. Việc làm thần dị nên gọi là Thần. Không bị úng trệ là Thông, [Thần Thông] chính là Thân Thông (Thần Túc Thông), Thiên Nhãn, Thiên Nhĩ, Tha Tâm, Túc Mạng và Lậu Tận. Vì vậy, Thần nghĩa là chẳng lường được, Thông nghĩa là vô ngại”). Hôm qua chúng ta đã học đến chỗ này, do thời gian hạn chế nên chưa giảng xong đoạn này; hôm nay lại tiếp tục giảng lần nữa. “Thần thông dĩ đạt”, “đạt” () là thông đạt (通達). Trong Phật pháp nói đến sáu thứ thần thông này. Thuở đức Thế Tôn tại thế, chúng ta biết Ấn Độ thuở ấy là một nước tôn giáo, tôn giáo thịnh vượng nhất, cũng là một nơi có trình độ học thuật cao nhất nếu nói theo [quy mô] cả thế giới. Vì thế, đức Phật xuất hiện ở nơi ấy, vô cùng hợp lý! Đức Phật chẳng xuất hiện tại Trung Quốc, mà xuất hiện ở Ấn Độ, tức là trình độ văn hóa của Ấn Độ cao hơn Trung Quốc. Thật ra, Phật cũng xuất thế ở Trung Quốc, nhưng chẳng dùng thân phận Phật, tôi cảm thấy Khổng, Mạnh, Lão, Trang, Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang đều là Phật, Bồ Tát tái lai. Trong quá khứ, tôi từng hỏi lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam xin Ngài chứng thực một phen. Sau khi nghe xong, Ngài cười, bảo tôi: “Nói theo Lý thì hợp lẽ, nhưng về mặt Sự chẳng có chứng cứ”. Thiếu chứng cứ về mặt Sự, nhưng nói theo Lý cũng suông. Nay chúng ta gọi sáu thứ năng lực ấy là “công năng đặc dị”, thật ra chúng là “bản năng” (năng lực sẵn có) của chúng ta, hết thảy chúng sanh ai nấy trọn đủ, ai không có? Ai nấy đều có. Vì sao chúng chẳng hiện ra? Do có chướng ngại ngăn trở. Chướng ngại ấy thường được gọi là “nghiệp chướng”, nói tóm lại là phiền não. Phiền não có ba loại lớn: Vô Minh phiền não, Trần Sa phiền não, và Kiến Tư phiền não; ba loại này khiến cho bản năng, trí huệ và tướng hảo của chúng ta thảy đều bị chướng ngại. Vì thế, trong kinh Đại Thừa đức Phật thường nói: “Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng của Như Lai”, sáu thứ ấy là đức, thuộc về năng lực, sáu thứ ấy cũng bị chướng ngại. “Tướng” là tướng hảo, nó cũng được người Hoa gọi là “phước báo”. Trong nhà Phật, phước báo được gọi là “tướng hảo”. [Do phiền não mà trí huệ, đức tướng] đều bị chướng ngại, [Phật và chúng sanh] vốn là bình đẳng.

      Người phát hiện sáu thứ ấy sớm nhất chẳng phải là Thích Ca Mâu Ni Phật, ai phát hiện? Bà La Môn giáo, tức là Hưng Đô giáo (Hinduims) hiện thời. Họ có lịch sử hơn một vạn năm, tôi tin họ, tôi có qua lại với họ. Hình như lầu ba [trong cao ốc này] là Ấn Độ giáo. Họ không coi trọng lịch sử, cho nên không ghi chép lịch sử, tương truyền [Ấn Độ giáo đã tồn tại] hơn một vạn năm. Hiện thời, những người nghiên cứu lịch sử trên thế giới thừa nhận họ có tối thiểu tám ngàn năm trăm năm lịch sử. Chiếu theo ghi chép của Trung Quốc cổ đại về Phật giáo, như những người cùng thời đại với lão hòa thượng Hư Vân đều dùng niên đại [Phật giáo] theo cách ghi chép của Trung Quốc thời cổ: Năm Thích Ca Mâu Ni Phật xuất sanh tương đương với năm thứ hai mươi bốn đời Châu Chiêu Vương của Trung Quốc, đức Phật viên tịch nhằm năm thứ năm mươi ba đời Châu Mục Vương, sách vở Trung Quốc đều ghi chép như thế. Nếu ghi chép theo lối ấy, từ lúc Thích Ca Mâu Ni Phật viên tịch cho tới ngày nay phải là ba ngàn lẻ ba mươi bảy năm, gần như sai lệch sáu trăm năm so với cách nói của người ngoại quốc. Chúng ta không cần phải khảo sát chuyện này, [vì nó] chẳng có mảy may ý nghĩa gì, chúng ta [chỉ quan tâm] liễu giải chân tướng sự thật. Do thuở đức Thế Tôn xuất hiện tại Ấn Độ, Ấn Độ đã có văn hóa cao như vậy; đương nhiên năm thứ thần thông trong Bà La Môn giáo đều có, chỉ có Lậu Tận là không có, năm thứ trước họ đều có; vì thế, chúng ta cũng chớ nên xem thường [Bà La Môn giáo]. Hãy suy nghĩ sẽ thấy vì sao Thích Ca Mâu Ni Phật giáng sanh nơi ấy, rất có lý!

      Phàm phu làm như thế nào để đạt được các loại bản năng ấy? Hiện thời, công năng đặc dị có hai loại:

1) Một là do bẩm sanh. Nói chung, người bình thường, lúc còn chưa biết nói có thể là đều có, vì bẩm tánh thiên chân, tâm địa thanh tịnh, chưa bị ô nhiễm, nên có năng lực ấy. Chúng ta quan sát cẩn thận trẻ thơ, sẽ nhận thấy khi trẻ đang ngủ trong nôi, có lúc nó tự mỉm cười, cũng như nó có rất nhiều động tác biểu lộ giống như có người đùa với nó, chơi với nó. Thật đấy! Nó có thể thấy, nghe. Dần dần khôn lớn, công năng đặc dị bẩm sanh [bị mất đi], phổ biến nhất là Thiên Nhãn, Thiên Nhĩ, người bình thường chúng ta nhìn không thấy, nhưng họ (người có công năng đặc dị) nghe được, người bình phàm chúng ta chẳng nghe được, nhưng họ có thể thấy, hai thứ [năng lực] này bình thường nhất, và khôi phục cũng dễ dàng nhất. Năng lực bẩm sinh ấy, chúng ta gọi là “công năng đặc dị”, có thể mất đi hay không? Có thể! Tôi đã từng phỏng vấn hai ba người có năng lực ấy, tôi hỏi họ tới hai mươi mấy tuổi có bị mất đi hay không? Có thể! Năng lực của họ lúc hai mươi mấy tuổi kém lúc mười mấy tuổi. Lúc mười mấy tuổi, năng lực mạnh mẽ, hai mươi mấy tuổi yếu đi, khoảng chừng ba mươi mấy tuổi sẽ chẳng còn nữa. Vì sao? Đầu óc có quá nhiều thứ, quá phức tạp, nên mất đi năng lực. Vì thế, chúng tôi biết [công năng đặc dị có thể bị mất].

2) Một loại khác là người tu đạo. Ngoài Phật giáo ra, gần như tất cả các tôn giáo ở Ấn Độ đều tu Thiền Định, do Thiền Định có thể đạt được [thần thông]. Đạt được lớn hay nhỏ tùy thuộc công phu định lực của quý vị sâu hay cạn. Công phu sâu, năng lực đặc biệt mạnh. Công phu cạn hơn một chút, năng lực cũng cạn hơn một chút, tỷ lệ thuận với công phu tu hành. Quý vị thấy Bà La Môn của cổ Ấn Độ đã nhìn thấy lục đạo luân hồi. Lục đạo luân hồi là thật, chẳng giả, chẳng do đức Phật nói, chẳng phải là [điểm đặc biệt] của Phật giáo, mà do Bà La Môn giáo nói. Vì sao họ biết? Họ thấy trong Định. Người trong trạng thái Thiền Định sẽ đột phá các chiều không gian, các khoa học gia đã chứng thực điều này, thật sự tồn tại những chiều không gian khác nhau. Rốt cuộc có bao nhiêu chiều không gian? Nói theo lý luận thì chẳng có số lượng, nhưng nói theo tình hình thực tế, hiện thời các khoa học gia khẳng định tối thiểu có mười một chiều không gian khác nhau!

      Năm xưa, lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ kể cho tôi nghe chuyện ấy, cụ nghiên cứu khoa học, có căn cơ Phật pháp rất sâu, bản chú giải chúng ta đang đọc hiện thời là do cụ viết. Tôi đến thăm cụ rất nhiều lần, là bạn già của cụ, mà cụ cũng là thầy của tôi. Cụ là truyền nhân của lão cư sĩ Hạ Liên Cư. Từ bản chú giải này, chúng ta có thể thấy lão cư sĩ đã vun đắp Phật học khá sâu dầy, duyên phận với Phật thù thắng khôn sánh. Nếu nói theo cách nói thông thường của Trung Quốc, cụ chẳng phải là phàm nhân tái lai, cụ và Hạ lão cư sĩ cũng phải do có sứ mạng mà đến đây, tức là chỉnh lý kinh Vô Lượng Thọ một lần nữa, biên tập thành một bản hoàn hiện để hết thảy chúng sanh trong chín ngàn năm đời mai sau thuộc thời Mạt Pháp học Phật sẽ đắc độ trong một đời do nương tựa bộ kinh điển này. Cụ Hạ hội tập hoàn thành, để học trò của cụ là cụ Hoàng Niệm Tổ soạn chú giải cho kinh này. Sau khi hội tập kinh này thành công, cụ Hạ đã giảng mấy lượt, lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ đã nghe từ đầu đến cuối. Cụ bảo tôi, khi đó cụ có chép bút ký, đáng tiếc là khi viết bản chú giải này thì những bản bút ký, tài liệu thời đó đều bị mất sạch. Hơn nữa, cụ viết tác phẩm này trong khi đang bệnh, chính mắt tôi thấy, tôi vô cùng cảm động.

      Vì thế, đức Phật bảo chúng ta sáu thứ [năng lực] ấy là bản năng. Ngũ thông của thiên thần là báo đắc (do quả báo mà có), quý vị sanh lên trời tự nhiên sẽ có. Quỷ thần cũng có ngũ thông, cũng do báo đắc. Nói thật ra, con người cũng có “báo đắc ngũ thông”, nhưng vì tập khí phiền não quá nặng nên bị mất đi. Tâm chúng ta càng thanh tịnh, chúng sẽ được khôi phục. Quý vị thấy trong tựa đề kinh này, học Phật là học gì? Tuy nói là tám vạn bốn ngàn pháp môn, đó là phương pháp, “pháp” là phương pháp, “môn” là môn kính (門徑: đường lối), phương pháp và đường lối rất nhiều, không phải chỉ là tám vạn bốn ngàn. Quý vị thấy trong Tứ Hoằng Thệ Nguyện có nói: “Pháp môn vô lượng thệ nguyện học”, thật đấy, chẳng có số lượng. Tu gì? Bất luận pháp môn nào, [nói theo] tựa đề kinh này, đều là tu “thanh tịnh, bình đẳng, giác”, tu những điều ấy. Hiện nay, chúng ta chọn lựa phương pháp Trì Danh Niệm Phật của Tịnh Độ Tông, phương pháp ấy thuận tiện, chẳng có bất luận trói buộc gì, đi, đứng, ngồi, nằm đều có thể tu. Thật sự tu đến mức công phu tương ứng, nói thật ra, cũng chẳng kém “tam mật tương ứng” của Mật Tông. Trì Danh của Tịnh Tông và Mật Tông chẳng khác gì nhau. Trong tâm quán tưởng, chúng ta niệm Phật, trong tâm phải có A Di Đà Phật, đó là tâm quán tưởng. Miệng niệm, ra tiếng hay không ra tiếng đều được, niệm thầm, hoặc là Kim Cang Trì. Nói Kim Cang Trì nghĩa là miệng máy động nhưng không có âm thanh. Tay kết ấn, chúng ta tay lần tràng hạt cũng là kết ấn, không dùng tràng hạt cũng là kết ấn. Vì thế, phương pháp này vô cùng thuận tiện, hết sức thiện xảo.

      Phải niệm đến mức nào? Phải niệm đến mức tâm thanh tịnh hiện tiền, phải biết điều này. Hằng ngày niệm Phật, một ngày niệm mấy vạn tiếng, trong tâm vẫn rối ren tơi bời, tuy niệm, chẳng có công phu. Điều trọng yếu nhất là công phu hiện tiền, quý vị thấy kinh Di Đà dạy “nhất tâm bất loạn”, kinh Vô Lượng Thọ dạy “nhất hướng chuyên niệm” (một dạ chuyên niệm), tâm thanh tịnh có thể hiện tiền. Tâm thanh tịnh hiện tiền, sáu thứ bản năng ấy sẽ dần dần khôi phục. Vì vậy, vũ trụ do đâu mà có? Vạn vật xuất hiện như thế nào? Ta do đâu mà có? Các khoa học gia hiện thời cũng rất lỗi lạc, dần dần nói càng ngày càng giống với Phật pháp, nhưng từ ba ngàn năm trước, đức Thế Tôn chẳng có dụng cụ khoa học, vì sao Ngài biết? Ngài thấy bằng Thiên Nhãn, nghe bằng Thiên Nhĩ, đó là cảnh giới Hiện Lượng trong Định, chẳng phải là Tỷ Lượng. Quá nửa những thứ do các khoa học gia hiện thời phát hiện là Tỷ Lượng, họ quan sát Hiện Lượng bằng các máy móc tinh vi, không có máy móc sẽ chẳng thể nhìn thấy, họ dùng kính hiển vi có độ khuếch đại rất cao để quan sát tế bào hoặc quan sát nguyên tử. Hiện thời, ngày càng thấy tinh vi hơn, họ thấy lượng tử. Lượng tử còn gọi là tiểu quang tử, phát hiện hạt căn bản do đâu mà có? Từ các tiểu quang tử tích lũy thành, trở thành một hạt căn bản. Hạt căn bản tích lũy thành nguyên tử, càng ngày càng lớn, đó là thế giới vi mô.

      Tha Tâm là trong tâm người khác dấy lên niệm gì đều biết, rất lợi hại, có chuyện này hay không? Có! Năm xưa tôi ở Đài Loan, thuở ấy vừa mới học Phật chưa bao lâu đã xuất gia. Lão pháp sư Lạc Quan, hiện thời những vị pháp sư thuở ấy đều đã mất, họ thuộc thế hệ trước. Ở Đài Loan có pháp sư Chử Vân là bạn già của tôi, Ngài lớn hơn tôi năm tuổi, cũng đã khuất, có viết một cuốn sách nhan đề Kim Sơn Hoạt Phật (Phật sống chùa Kim Sơn). Đấy là chùa Giang Thiên ở Nam Kinh thuộc Trung Quốc Đại Lục, tức Kim Sơn Tự, ở trên một hòn đảo nhỏ trong sông Trường Giang. Đây là một đạo tràng Thiền Tông rất nổi tiếng, Kim Sơn Hoạt Phật xuất hiện ở đấy, Ngài có pháp danh là Diệu Thiện, tức là pháp sư Diệu Thiện. Hành vi, dáng vẻ rất giống Tế Công, cũng rất lôi thôi, suốt năm khoác một chiếc áo dài, bên trong là một cái quần ngắn, bên ngoài mặc áo dài, ăn mặc không giống ai! Xuân, Hạ, Thu, Đông đều đóng bộ như thế, mùa Đông cũng chẳng lạnh, mùa Hè cũng chẳng nóng. Ngài có Tha Tâm Thông. Pháp sư Lạc Quan ở cùng chỗ với Ngài suốt bốn tháng. Người sùng bái pháp sư Diệu Thiện rất nhiều. Pháp sư Lạc Quan thường nghĩ xem thử có thể phát hiện [pháp sư Diệu Thiện có] lỗi lầm nào hay chăng, rất chú ý nhìn Sư. Dường như khi pháp sư [Lạc Quan] khởi tâm động niệm, Kim Sơn Hoạt Phật đều biết, trong khi nói năng, hoàn toàn nói toạc ra những điều pháp sư đang suy nghĩ. Vị pháp sư ấy nói: [Kim Sơn Hoạt Phật] thật sự có Tha Tâm Thông. Quý vị thấy vị pháp sư ấy (Kim Sơn Hoạt Phật) cả đời chẳng tắm rửa, cổ áo đóng hờm đen thui, nhưng quý vị ngửi thấy mùi hoa sen. Đích thân Ngài trông thấy. Pháp sư Chử Vân rất hâm mộ, đến khắp nơi hỏi dò chuyện Kim Sơn Hoạt Phật rồi viết thành sách. Về sau, pháp sư Lạc Quan cũng viết một bộ[9]. Pháp sư Lạc Quan đích thân ở cùng Ngài chừng bốn tháng, hiểu Ngài khá rõ. Quả thật, qua cuộc sống thường nhật của Ngài có thể thấy những năng lực ấy, Ngài có Tha Tâm Thông.

      Túc Mạng: Túc Mạng là biết một hai đời quá khứ. Đức Phật nói A La Hán có thể biết năm trăm đời quá khứ, năm trăm đời vị lai. Ngài có thể biết quá khứ, vị lai, đấy là Túc Mạng Thông. Thần Túc Thông: Thần Túc là biến hóa đủ mọi lẽ, Ngài có thể phân thân, có thể biến hóa, giống như trong tiểu thuyết Tôn Ngộ Không có bảy mươi hai phép biến hóa, nhưng trên thực tế, A La Hán không chỉ có bảy mươi hai phép biến hóa; so với A La Hán, Tôn Ngộ Không thua kém quá xa. Lậu Tận là đoạn Kiến Tư phiền não, tức là chứng quả A La Hán, đó là Tiểu Thừa. Đây là nêu ra [các thứ] thần thông, thông thường kinh Phật nói sáu thứ thần thông. Trong sáu thứ thần thông ấy, trừ Lậu Tận Thông ra, các tôn giáo khác tại Ấn Độ, thậm chí các học phái đều tu Thiền Định, ít nhiều đều đạt được [năm món thần thông ấy]. Vì thế, đức Phật xuất thế ở nơi nào, chúng ta có thể tưởng tượng bèn biết [trình độ văn hóa và tôn giáo nơi ấy] phải là như vậy. Tại Trung Quốc, tuy học thuật cũng rất phát triển, nhưng người Hoa chẳng chú trọng tu Thiền Định. Cũng tu, cũng nói tới chuyện “tu thân dưỡng tánh”, nhưng chưa đạt tới trình độ ấy, chưa phát hiện thần thông. Trong Phật môn bảo “tu Định, nhưng chưa đắc Định”. Người ấy tu Định, nhưng công phu chưa tới mức. Nếu công phu đạt tới mức, thần thông sẽ hiện tiền; công phu ấy nhất định phải là từ đoạn phiền não mà có!

      Quý vị thấy trong Phật môn, từ phần trước của bản kinh này, chúng ta đã học: Kiến Tư phiền não là chấp trước, chúng ta buông xuống chấp trước đối với hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian, tâm đạt được thanh tịnh, tâm thanh tịnh hiện tiền. Tâm thanh tịnh, sáu thứ thần thông đều trọn đủ, đều xuất hiện, đấy là cảnh giới của A La Hán. Chứng đắc A La Hán, lục đạo luân hồi chẳng còn nữa. Vì thế, các tôn giáo tại Ấn Độ tuy tu Định, có thể đạt tới Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Thiên, tức là chỗ cao nhất trong lục đạo, vẫn chưa thoát khỏi lục đạo, nguyên nhân là do họ chẳng đoạn tập khí phiền não. Nếu thật sự đoạn trừ, sẽ vượt thoát. Do vậy, A La Hán tu Đệ Cửu Định. Quý vị thấy Tứ Thiền Bát Định, Thiền Định thế gian chỉ đạt tới chỗ này, Định thứ chín là vượt thoát, tức là vượt thoát lục đạo luân hồi, trong Phật pháp mới được coi là tu hành đắc Tiểu Quả. Tiểu Quả là A La Hán hay Bích Chi Phật, vượt thoát tam giới, vượt khỏi lục đạo. Lại lên cao hơn nữa, phải đoạn trừ Trần Sa phiền não, kinh Hoa Nghiêm gọi Trần Sa phiền não là phân biệt. Cũng tức là chẳng phân biệt hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian, phân biệt vi tế hơn chấp trước, điều này cũng phải đoạn trừ, quý vị nâng cao lên thành Bồ Tát, Phật, [ở đây] là Bồ Tát, Phật trong mười pháp giới, đạt tới cảnh giới ấy. Tu hành trong cảnh giới ấy, phải buông căn bản vô minh xuống, căn bản vô minh là khởi tâm động niệm, vi tế cùng cực nhất. Quý vị nhìn vào cuộc đối thoại giữa đức Thế Tôn và Di Lặc Bồ Tát sẽ thấu hiểu tin tức ấy, vi tế đến mức độ nào? Trong một cái khảy ngón tay có ba mươi hai ức trăm ngàn niệm, buông niệm vi tế xuống, quý vị sẽ thành Phật, bèn vượt thoát mười pháp giới. Cảnh giới gì hiện tiền? Cõi Thật Báo Trang Nghiêm của chư Phật Như Lai, người bình phàm chúng ta gọi [cảnh giới ấy] là Nhất Chân pháp giới, hiện tiền.

     Chư vị phải biết: Mười pháp giới có sanh, có diệt, trong Nhất Chân pháp giới không có sanh diệt, cảnh giới ấy hiện tiền, theo kinh Hoa Nghiêm là từ Sơ Trụ trở lên, tức là từ Sơ Trụ của Viên Giáo trở lên. Để đạt đến quả vị rốt ráo còn có bốn mươi hai địa vị là Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, Diệu Giác, còn có bốn mươi hai địa vị. Khi chúng ta học Hoa Nghiêm sẽ hiểu rõ, khởi tâm động niệm còn chẳng có, lấy đâu ra các đẳng cấp? Bốn mươi hai tầng cấp lại do đâu mà có? Có bốn mươi hai tầng cấp sẽ chẳng bình đẳng, chẳng bình đẳng sẽ không ra khỏi mười pháp giới. Do vậy, chúng ta thật sự hiểu rõ, thật sự là pháp giới bình đẳng, chẳng có giai cấp. Vì sao không có giai cấp mà đức Thế Tôn phải nói bốn mươi hai địa vị? Đấy là để cho chúng ta hiểu rõ tập khí vô thỉ vô minh chưa đoạn. Những vị tổ sư đại đức trong quá khứ khi giảng kinh Đại Thừa đã nói rất tỉ mỉ: Quả thật các vị ấy (hàng Pháp Thân đại sĩ) đã thật sự đoạn [phiền não], nhưng chưa đoạn tập khí. Tập khí có trở ngại Sự hay không? Chẳng trở ngại Sự, tập khí Vô Minh chẳng trở ngại Sự. Tập khí Kiến Tư trở ngại Sự, sẽ tạo nghiệp; tập khí Trần Sa tương đối nhẹ hơn một chút, nhưng tập khí Vô Minh chẳng trở ngại Sự. Vì thế, có thể nói là trí huệ, thần thông, đạo lực của các Ngài chẳng khác gì Phật quả rốt ráo viên mãn. Từ kinh Đại Thừa, chúng ta thấy các Ngài có thể đối với chúng sanh hữu duyên trong mười phương các cõi Phật khắp pháp giới tận hư không giới, hễ chúng sanh có cảm, các Ngài bèn có thể ứng, nên dùng thân gì để độ được bèn hiện thân ấy: Nên dùng thân Phật để đắc độ bèn hiện thân Phật, nên dùng thân Bồ Tát đắc độ bèn hiện thân Bồ Tát, cho đến nên dùng hoa, cỏ, cây cối để độ bèn hiện thân hoa, cỏ, cây cối, thật sự đắc đại tự tại! Năng lực ứng hóa bình đẳng, viên mãn, chẳng có mảy may sai biệt, đó là sáu thứ bản năng được khôi phục viên mãn. Chúng ta phải liễu giải thần thông, chẳng có gì hiếm hoi, lạ lùng! Chúng là bản năng, bị nghiệp chướng của chính chúng ta ngăn trở [nên chẳng thể hiển hiện]. Hễ nghiệp chướng tiêu trừ, năng lực bèn khôi phục.

     Tiếp theo đó là giải thích đơn giản ý nghĩa của Thần và Thông. Thần là thần kỳ, chẳng thể lường, vượt ngoài kiến thức thông thường của chúng ta. Ngày hôm qua tôi đã phân tích cùng quý vị, thông đạt chân tướng của vạn sự vạn vật, kinh Phật gọi [chân tướng ấy] là “chư pháp Thật Tướng”, thông đạt chư pháp Thật Tướng sẽ được gọi là Thần, người Trung Quốc gọi hạng người ấy là Thánh. Thần và Thánh có cùng một ý nghĩa, đều là “thông đạt, hiểu rõ”. Tiếp đó, Thông là chẳng có chướng ngại, Thần là thông đạt chẳng bị chướng ngại. Tiếp đó, “Đạt giả, Gia Tường viết: Đạt giả, ngôn chứng”, (“Đạt”, ngài Gia Tường bảo: “Đạt ý nói là chứng”), có nghĩa là chứng. “Chứng Lục Thông, Tam Minh đẳng thị dã” (chính là chứng Lục Thông, Tam Minh v.v...). Tam Minh vẫn là Lục Thông, Tam Minh là Thiên Nhãn Minh, Túc Mạng Minh, và Lậu Tận Minh, ba thứ năng lực ấy đã đạt tới rốt ráo viên mãn. Trên thực tế, ba thứ này đạt tới rốt ráo viên mãn thì cả sáu thứ kia đều đạt đến rốt ráo viên mãn, tại Như Lai quả địa gọi là Tam Minh, tại [địa vị] Bồ Tát gọi là Lục Thông, cũng là do trình độ công phu [sai khác] mà có danh xưng khác biệt.  

“A Nan đương thời, tuy vị đắc Lậu Tận” (tuy thuở ấy ngài A Nan chưa đắc Lậu Tận). Lúc đức Thế Tôn tại thế, ngài A Nan thị hiện làm Tu Đà Hoàn, chỉ chứng Sơ Quả. Vì sao? Vì đa văn, chuộng đa văn, cũng có nghĩa là: Công phu định lực còn yếu kém một chút. Những đồng học khác đều là chuyên tâm tu hành, đều có thể chứng từ Tứ Quả trở lên, ngài A Nan vẫn mang thân phận Tu Đà Hoàn; vì sao cũng có thể gọi là “đại thánh?” Ở đây, tuy Ngài chưa đắc Lậu Tận, “đản dĩ đương cơ, ưng tu tịnh liệt” (do là đương cơ nên cũng xếp vào số các vị [đại thánh]). Vì A Nan sẽ truyền giáo pháp của Thích Ca Mâu Ni Phật. Có hai người truyền pháp của đức Thế Tôn: Tôn giả Đại Ca Diếp truyền Thiền, truyền Tông Môn, A Nan truyền Giáo Hạ, đa văn đệ nhất. Trên thực tế [hai Ngài] đều là đại quyền thị hiện, đại quyền là Pháp Thân Bồ Tát, thậm chí là cổ Phật tái lai. Một đức Phật xuất thế, ngàn đức Phật ủng hộ. Trên sân khấu, các Ngài mang thân phận khác nhau, nhưng sau sân khấu đều là chư Phật Như Lai lỗi lạc. Do vậy, cũng xếp [ngài A Nan] vào hàng đại thánh.

Tiếp đó, trong Tịnh Ảnh Sớ có giải thích: “A Nan tăng thượng lợi căn, tuy cư học địa, vị đắc Vô Học quả vị” (A Nan lợi căn tăng thượng, tuy còn ở địa vị Hữu Học, chưa đạt được quả vị Vô Học). Vô Học là A La Hán, đấy là Tứ Quả, Tứ Hướng trong Tiểu Thừa, quả vị A La Hán là Vô Học, đã tốt nghiệp. Ngài A Nan mới là Sơ Quả, trong tám tầng cấp, Sơ Quả thuộc loại thứ hai. “Nhi thành vô thượng thắng diệu công đức, cố viết đại thánh” (nhưng thành tựu công đức vô thượng thắng diệu, nên gọi là Ðại Thánh). Ngài là bậc lợi căn tăng thượng, người Hoa nói là “nghe một, ngộ cả ngàn”, trí nhớ và sức lý giải vô cùng mạnh mẽ, không chỉ các vị A La Hán dưới tòa của đức Thế Tôn chẳng bằng Ngài, mà rất nhiều vị Quyền Giáo Bồ Tát cũng chẳng bằng, đều kém hơn. Pháp Thân đại sĩ chẳng cần phải nói nữa, Quyền Giáo Bồ Tát đều chẳng bằng Ngài. Vì thế, Ngài cũng được xếp vào đây, gọi là “đại thánh”. “Ư thần thông trung, liễu giải tất cánh” (đã hiểu biết trọn vẹn thần thông), phải đặc biệt mở dấu ngoặc ở đây: “Liễu giải tất cánh” là liễu giải triệt để, nên gọi là “dĩ đạt”. “Thị cố A Nan diệc đắc danh liệt nhất thiết đại thánh, thần thông dĩ đạt” (Do vậy, ngài A Nan cũng được nêu tên trong số “nhất thiết đại thánh thần thông dĩ đạt”). Vì thế, đây là lời tán thán, ngài A Nan cũng được kể trong ấy. Đây là giới thiệu đơn giản, tán thán đức hạnh [của Thanh Văn chúng].

Tiếp đó, liệt kê năm vị tôn giả, năm vị này đều có tánh chất đại biểu. Ý nghĩa được bao hàm [trong danh hiệu của] mỗi vị đều vô cùng sâu. Sau khi hiểu rõ, mới biết những người được kể tên trong kinh điển nhất định là để biểu thị sự thù thắng của pháp hội ấy. Giống như hội nghị trong thế gian, quý vị thấy những ai tham gia hội nghị bèn hiểu rõ hội nghị ấy có tánh chất gì, họ đang thảo luận vấn đề gì. Xin quý vị hãy nhìn vào những vị ấy, thật sự liễu giải, biết bộ kinh này đại biểu điều gì, bàn luận những gì. Trên thực tế, những vị đệ tử ấy hội nào của đức Thế Tôn cũng tham gia, vì sao khi kết tập phải nhắc đến danh hiệu vị này, mà chẳng nhắc tới vị kia? Biểu thị pháp; dụng ý ở chỗ này. “Kỳ danh viết, tôn giả Kiều Trần Như” (Tên các Ngài là: tôn giả Kiều Trần Như), đây là vị thứ nhất. “Tôn giả” là văn tự Trung Quốc, tiếng Phạn là A Lê Da (Ārya), A Lê Da dịch sang nghĩa tiếng Hán là: “Thánh giả, tôn giả, vị trí đức cụ tôn giả, nãi A La Hán chi tôn xưng” (Thánh Giả, Tôn Giả, tức là bậc trí và đức đầy đủ đáng tôn trọng, cũng là tiếng tôn xưng bậc A La Hán). Hiện thời, ở Trung Quốc cũng có thói quen xưng hô như vậy, tại Trung Quốc Đại Lục rất phổ biến, tôn kính người nào đó thì [thêm từ ngữ] “đáng tôn kính” [vào sau tên người đó], đấy chính là “tôn giả”, đây là một cách xưng hô tôn kính nhất. Tại Trung Quốc, rất nhiều từ ngữ được dùng trong đàm thoại vốn phát xuất từ kinh Phật. Vì vậy, trước kia, cụ Triệu Phác Sơ thường nói: “Nếu người Trung Quốc không dùng đến Phật giáo thì nói năng cũng chẳng được!” Câu nói ấy rất có lý, quý vị thấy rất nhiều ngôn từ trong đàm thoại toàn bộ đều phát xuất từ kinh Phật. “Tôn kính” là chữ phát xuất từ “tôn giả” trong kinh Phật. Có đức đáng tôn trọng nên nói là tôn giả, đấy là bậc có đạo đức, có địa vị. “Hội Sớ viết: Tôn vị tôn quý, hữu đức khả quý, cố viết Tôn Giả” (Sách Hội Sớ giảng: “Tôn là tôn quý, có đức đáng quý, nên gọi là Tôn Giả”), nhằm giải thích hai chữ ấy có nghĩa là người ấy đức hạnh, học vấn, địa vị, cống hiến cũng đều có điểm đặc thù, Vì thế, được đại chúng trong xã hội gọi là “tôn giả”, nghĩa là đáng tôn kính.

      Tiếp đó, nói về tên của các Ngài: “Kiều Trần Như Phạn văn toàn danh, tác A Nhã Kiều Trần Như. A Nhã thị danh, Kiều Trần Như thị tánh” (Kiều Trần Như: Tên gọi đầy đủ trong tiếng Phạn là A Nhã Kiều Trần Như (Ājñātakaundinya). A Nhã là tên, Kiều Trần Như là họ). Họ ấy được dịch ra [tiếng Hán] sẽ là Liễu Bổn Tế, hoặc Tri Bổn Tế. Đơn giản hơn một chút [sẽ dịch] là Dĩ Tri hoặc Vô Tri, có mấy ý nghĩa ấy. Lão cư sĩ rất dụng tâm, nhằm thuận tiện cho chúng ta, cụ đã giải thích chữ Vô Tri: “Vô Tri chi nghĩa, phi vô sở tri, thị tri Vô chi nghĩa” (Vô Tri không có nghĩa là chẳng biết gì, mà có nghĩa là biết được cái Không). Đối với ý nghĩa này, chắc kẻ sơ học vẫn chẳng hiểu rõ lắm. Kinh Bát Nhã dạy: “Bát Nhã vô tri, không gì chẳng biết”, Vô Tri là Căn Bản Trí, không gì chẳng biết là Hậu Đắc Trí. Vô Tri là Căn Bản Trí, tức là biết Vô. Ngài là người thứ nhất khai ngộ, chứng A La Hán sau khi Thích Ca Mâu Ni Phật thành đạo. Kinh Niết Bàn có nhắc tới câu chuyện vua Ca Lợi cắt chặt thân thể. Thuở ấy, Thích Ca Mâu Ni Phật tu Nhẫn Nhục Ba La Mật, một mực tu hành, người ta thường gọi Ngài là Nhẫn Nhục tiên nhân. Một hôm, gặp vua Ca Lợi. Ca Lợi (Kalingarāja) là tiếng Phạn, dịch sang nghĩa tiếng Hán là Bạo Ngược, là một ông vua hung bạo, chẳng phải là một ông vua tốt. [Nhẫn Nhục tiên nhân] gặp phải một người như thế, bị nhà vua cắt chặt thân thể. Vua hỏi tiên nhân: “Nhà ngươi sống trong hang núi, tu gì vậy?” Tiên nhân nói: “Tu Nhẫn Nhục”. Được lắm, ta coi thử ngươi có nhẫn nổi hay không? Chặt ngươi một đao, có thể nhẫn hay không? Nhẫn được! Lại chặt một nhát nữa, một mực xử tử lăng trì tiên nhân. Vua Ca Lợi nói: “Thử coi ngươi còn sanh lòng tức giận hay chăng? Có oán hận hay không?” “Chẳng oán hận”. Cuối cùng, trước khi chết, [tiên nhân] bảo vua Ca Lợi: “Trong tương lai, tôi thành Phật, người tôi sẽ độ đầu tiên là bệ hạ”. Nhẫn Nhục tiên nhân là Thích Ca Mâu Ni Phật, tôn giả Kiều Trần Như là vua Ca Lợi thuở ấy. Nói sao làm vậy, đúng là người thứ nhất được độ là tôn giả. Vì thế, Ngài là đệ tử đầu tiên của đức Thế Tôn, là người thành tựu đầu tiên. Điều này đại biểu điều gì? Đại biểu bộ kinh này là bộ kinh bậc nhất của Thích Ca Mâu Ni Phật, nương theo bộ kinh này tu hành sẽ là đệ tử bậc nhất của Phật Thích Ca, biểu thị ý nghĩa ấy. Pháp môn này là pháp môn bậc nhất để Thích Ca Mâu Ni Phật phổ độ chúng sanh, nên xếp ngài Kiều Trần Như lên đầu. Các vị thấy rất nhiều kinh điển có nêu tên ngài Kiều Trần Như đầu tiên hay không? Chẳng có! Chỉ có kinh Vô Lượng Thọ kinh xếp tên Ngài vào đây, chẳng phải là chuyện dễ dàng!

      Tri Vô là thật sự liễu giải chư pháp Thật Tướng, đúng như kinh Đại Bát Nhã đã nói: “Hết thảy các pháp vô sở hữu, rốt ráo không, chẳng thể được”. Đó là Căn Bản Trí. Thật sự hiểu rõ, khẳng định, quý vị nói Ngài còn có gì chẳng thể buông xuống? Vọng tưởng, phân biệt, chấp trước thảy đều buông xuống sẽ chứng quả, chứng quả gì? Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thành Phật. Nếu thành Phật mà tập khí còn chưa đoạn hết, Thiên Thai đại sư gọi quả vị Phật ấy là Phần Chứng Tức Phật, chưa phải là viên mãn Phật, mà là Phần Chứng Tức Phật. Xét theo Lý, Phần Chứng Tức Phật và viên mãn Phật có sai biệt do tập khí phiền não chưa đoạn trọn vẹn, nhưng về mặt tướng, mặt Sự, chẳng có sai biệt mảy may. Vì tập khí chẳng phải là Kiến Tư phiền não, chẳng phải là Trần Sa phiền não. Tập khí Kiến Tư và Trần Sa phiền não có tác dụng; tập khí vô minh gọi là khởi tâm động niệm, tập khí vô minh chẳng trở ngại Sự, chẳng hề chướng ngại tự hành, hóa tha, cho nên Ngài có thể hiện thân khắp pháp giới.

      Trong Tịnh Ảnh Sớ nói: A là tiếng Phạn, dịch nghĩa sang tiếng Hán là Vô. Quý vị thấy A Di Đà Phật, A là Vô, Di Đà là Lượng, Phật là Giác, hoặc dịch là Trí. Danh hiệu này chẳng phải là không thể dịch sang tiếng Hán, nhưng do tôn trọng nên không dịch. Do bao hàm nhiều nghĩa nên không dịch, nó có hai ý nghĩa, nên vẫn phải dịch âm rồi chú giải thêm. “Nhã chi ngôn Trí” (Nhã là Trí), dịch sang nghĩa tiếng Hán là Trí. Hợp [hai chữ A và Nhã] lại là Vô Trí. Vô Trí nghĩa là gì? “Chứng vô thành trí”, tức là vô sở hữu trí, thật sự liễu giải hết thảy các pháp vô sở hữu, “cố danh Vô Trí” (nên gọi là Vô Trí). “Vô, thị nhất thiết chư pháp bổn tánh” (Vô là bổn tánh của hết thảy các pháp), cho nên “danh vi Bổn Tế” (gọi là Bổn Tế). Bổn Tế là bổn tánh. Trong giáo pháp Đại Thừa, chúng ta học bổn tánh đã nhiều năm ngần ấy, tuy chưa phải là cảnh giới của chính mình, nhưng nghe đức Phật giảng trong kinh, nghe nhiều lượt, cũng biết một hai điều, có thể nói rõ ràng, minh bạch chuyện này, tuy chưa phải là cảnh giới của chính mình, vì sao? Chưa buông khởi tâm động niệm xuống. Trong kinh giáo Đại Thừa, đức Phật thường giảng: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng”, kinh Kim Cang dạy: “Hết thảy pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng, như sương, cũng như chớp, hãy nên quán như thế”. Đó là Liễu Bổn Tế, Bổn Tế là bổn tánh, là chân tâm. Kinh Hoa Nghiêm dạy chúng ta về y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới: “Duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”, quý vị có thể tham thấu suốt hai câu ấy, tâm sẽ định. Hết thảy các pháp do tâm hiện, do tự tánh hiện, mà cũng do Bổn Tế hiện.

      Bổn Tế, bổn tánh, chẳng phải là vật chất, mà cũng chẳng phải là tinh thần, hiện tượng gì cũng đều không có, nhưng nó có thể sanh, có thể hiện. Thuở ấy, Huệ Năng đại sư kiến tánh, đã nói năm câu nhằm hình dung tình trạng kiến tánh, được hòa thượng Ngũ Tổ Nhẫn chứng minh. [Trong đó], câu thứ ba là “nào ngờ tự tánh, vốn tự trọn đủ”. Câu cuối cùng là “nào ngờ tự tánh, có thể sanh ra vạn pháp”. Gộp hai câu này lại để xem, khi tự tánh chẳng khởi tác dụng, thứ gì cũng đều không có, quý vị chẳng thể nói nó là Không, vì thứ gì nó cũng trọn đủ. Thứ gì cũng trọn đủ, nhưng đều chẳng hiện. Khi nó khởi tác dụng bèn có thể sanh ra vạn pháp. Vì thế, khi nó chẳng hiện, tức là ẩn, khi hiện là hiển lộ. Ẩn và hiển chẳng hai. Khi ẩn, chẳng thể nói nó là Vô, khi hiện tướng, nó có thể sanh ra vạn pháp, chẳng thể nói là nó Hữu. Giống như hiện thời chúng ta nhìn vào màn hình TV, quý vị thấy màn hình TV hễ vặn trúng băng tần, tướng bèn hiện tiền. Khi tướng hiện tiền, chẳng thể nói nó là Có. Khi tắt máy đi, chẳng còn hiện tướng, chẳng thể nói nó là Không. Chúng ta dùng tỷ dụ này, tỷ dụ này rất thô, dễ liễu giải, tự tánh giống như vậy đó. Vì sao nó có thể hiện? Điều này được kinh Phật giảng rất nhiều, kinh Đại Thừa thường nói: “Nhất niệm bất giác bèn có vô minh”, vô minh là gì? Vô minh là A Lại Da. A Lại Da do đâu mà có? Nhất niệm bất giác. Bổn Tế là từ trong bổn tánh dấy lên A Lại Da, A Lại Da chẳng có lý do gì, quý vị cũng chẳng thể hỏi vì sao một niệm bất giác? Vì sao có A Lại Da? Chính quý vị hãy khéo suy nghĩ, quý vị hỏi câu ấy, phân biệt nổi lên, chấp trước cũng dấy lên, quý vị càng mê sâu hơn. Làm như thế nào mới có thể liễu Bổn Tế? Liễu () là hiểu rõ. Vì thế, các nhà khoa học chẳng thể sánh bằng các vị đại thánh này. Những vị đại thánh này có thể kiến tánh, khoa học gia chẳng thể kiến tánh. Vì sao? Họ biết hỏi, phát hiện: “Vì sao có cái này, vì sao có cái kia?”, thêm vô đó bao nhiêu dấu hỏi. Quý vị thấy từ khởi tâm động niệm biến thành phân biệt, phân biệt do khởi tâm động niệm mà có, chấp trước do phân biệt mà có, càng bị hãm sâu hơn.

      Trong kinh Đại Thừa, đức Phật đã nói chuyện này từ ba ngàn năm trước, Ngài giảng cho chúng ta biết tám thức, giảng về tác dụng của mỗi thức. Nói theo cách bây giờ, A Lại Da là ký ức, vì sao chúng ta có thể nhớ được những chuyện đã từng trải qua? Có nhớ được chuyện trong đời quá khứ hay không? Vẫn nhớ! Vì sao biết quý vị nhớ được? Quý vị thấy hiện thời thuật thôi miên ở ngoại quốc có thể làm cho một người trở về khá nhiều đời trong quá khứ. Tôi đọc một báo cáo, nói chung là rất khó có, người [được thôi miên] ấy có thể trở lại hơn tám mươi đời trong quá khứ, tình hình mỗi đời đều biết rõ ràng. Tám mươi đời là trở lại hơn bốn ngàn năm trước, còn ở trong hang động, chưa có nhà ở, người ấy có thể nói ra tình hình cuộc sống lúc đó. Vì sao người ấy có thể nhớ được? A Lại Da là kho tài liệu, những chuyện chúng ta đã trải qua trong đời đời kiếp kiếp, tài liệu đều được gìn giữ trong đó. Quý vị thấy thôi miên có thể lôi ra các tài liệu. “Tái lai” là công phu định lực bình thường, trong Thiền Định có thể lấy ra toàn bộ những ký ức từ đời đời kiếp kiếp trong quá khứ. A Lại Da là ký ức, Mạt Na là chấp trước, Ý Thức là phân biệt, năm thức trước chỉ có tác dụng chiếu kiến, chứ không có tác dụng nào khác. Chúng ta mắt thấy, tai nghe, giống như máy chụp ảnh, mắt giống như máy chụp ảnh, thu vào sắc tướng bên ngoài, tác dụng của nó ở chỗ này. Nhãn Thức không phân biệt, cũng chẳng chấp trước. Thức thứ sáu, tức Ý Thức, thấy như thế nào? Thức thứ sáu, tức Ý Thức, chẳng thấy bên ngoài, mà thấy hình ảnh được soi chiếu bởi Nhãn Thức. Thức thứ sáu, tức Ý Thức, duyên theo Tướng Phần của Nhãn Thức. Tướng Phần từ bên ngoài chiếu vào [Ý Thức], [Ý Thức bèn] duyên theo Tướng Phần ấy, khởi lên phân biệt nơi Tướng Phần. Thức thứ bảy lại duyên theo Tướng Phần của thức thứ sáu, từ Tướng Phần của thức thứ sáu mà khởi chấp trước, hư vọng! [Thức thứ sáu và thứ bảy] chẳng thật sự thấy cảnh giới bên ngoài, cảnh giới bên ngoài chỉ có trong năm căn trước, tức mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, chúng là cảnh giới Hiện Lượng.

      Do vậy, thức thứ sáu và thức thứ bảy là đối tượng được duyên (sở duyên) bởi A Lại Da. A Lại Da có cảnh giới Hiện Lượng, thức thứ sáu và thức thứ bảy chẳng có cảnh giới Hiện Lượng, chúng đúng là Tỷ Lượng, đó là hư vọng. Quý vị thấy chúng khởi phân biệt, khởi chấp trước nơi đó, há chẳng phải là giống như chúng ta xem TV, từ hình tướng của TV bèn dấy lên phân biệt, chấp trước, chẳng phải là ở ngay nơi hiện trường (cảnh giới thật sự). Khi nào có thể đạt đến hiện trường? Chuyển A Lại Da thành Đại Viên Kính Trí, quý vị sẽ thấy hiện trường. Khi quý vị chưa chuyển thức thành trí thì quý vị chưa thấy hiện trường, nay chúng ta ngỡ đó là hiện trường, sai rồi, chẳng phải vậy! Chẳng phải là hiện trường! Tâm Lý Học của Duy Thức cao lắm, khoa Tâm Lý Học trong đại học hiện thời đem so với Duy Thức sẽ thua kém quá xa. Duy Thức giảng thật vi tế, giảng thật sự có lý. Vì vậy, mỗi ngày chúng ta tạo nghiệp, quý vị nói xem có phải là tạo nghiệp oan uổng lắm không? Chẳng phải là hiện trường! Thật sự thấy hiện trường, sẽ chẳng tạo nghiệp. Hiện trường là cảnh giới gì? Quý vị trông thấy chân tướng, trong kinh Phật nói “Tướng có, Tánh không, Sự có, Lý không”. Hết sức khó có, phát hiện của các khoa học gia Lượng Tử hiện thời ngày càng gần với giáo pháp Đại Thừa, họ phát hiện ba tế tướng của A Lại Da. Tám thức, năm mươi mốt Tâm Sở, tám thức có bốn phần, Tâm Sở cũng có bốn phần: Tự Chứng Phần, Chứng Tự Chứng Phần, Tướng Phần, và Kiến Phần. Đó kiến thức cơ bản thông thường trong Phật pháp Đại, Tiểu Thừa, quý vị chớ nên không biết. Nếu quý vị không biết, sẽ chẳng có phương pháp nào tác quán, chẳng có cách nào tu Chỉ Quán. Phương pháp tu hành Chỉ Quán được kiến lập trên cơ sở này, quý vị phải liễu giải chân tướng sự thật.

      Hiện thời, khoa học có thể hiểu rõ cuộc đàm thoại giữa đức Thế Tôn và Di Lặc Bồ Tát. Di Lặc Bồ Tát đáp câu hỏi của đức Phật: “Tâm hữu sở niệm?” (tâm có mấy niệm), phàm phu chúng ta dấy lên một niệm, trong tâm dấy lên một niệm thì trong một niệm ấy có bao nhiêu niệm vi tế hiển hiện? Trong niệm ấy có mấy Tướng Phần, có mấy Kiến Phần? Kiến Phần là thức, Tướng Phần là hình trạng, chúng ta gọi nó là vật chất. Do vậy, Tướng Phần là cảnh giới tướng, Kiến Phần là chuyển tướng. Vì sao? Nó có thể chuyển biến, “duy thức sở biến” là nói về chuyển tướng, nó có thể biến. Di Lặc Bồ Tát trả lời: “Trong một cái khảy ngón tay, có ba mươi hai ức trăm ngàn niệm”. Hiện thời khoa học dùng giây làm đơn vị, tức là đối với thời gian dùng giây làm đơn vị. Trong một giây, chúng ta có thể khảy ngón tay mấy lần? Nói chung, tôi khảy vẫn chưa đủ nhanh, tôi tin là có người khảy nhanh hơn tôi. Tôi có thể khảy bốn lần, tôi tin [người khác] có thể khảy đến năm lần. Chúng ta tính ra, một cái khảy ngón tay là ba mươi hai ức trăm ngàn niệm, tức là ba trăm hai mươi triệu niệm. Nếu tính một giây có thể khảy năm lần, sẽ là một ngàn sáu trăm triệu, đơn vị là triệu. Một giây có một ngàn sáu trăm triệu niệm vi tế. Niệm ấy xuất hiện gì? Xuất hiện hiện tượng vật chất, và cũng xuất hiện hiện tượng tinh thần, hiện tượng tinh thần và hiện tượng vật chất vĩnh viễn chẳng tách rời. Khoa học gia phát hiện, họ nói hiện tượng vật chất là từ Không sanh ra Có, tốc độ quá nhanh, giống như vừa sanh ra bèn tiêu diệt ngay lập tức. Trước mắt, chúng ta thấy hiện tượng vật chất là gì? Là huyễn tướng do ý niệm liên tục tích lũy phát sanh. Phát hiện của các nhà Lượng Tử Lực Học hiện đại và lời giảng của Di Lặc Bồ Tát đúng là “không bàn định mà cùng phù hợp”. Đức Phật dạy: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng” là nói tới chuyện này, giống như chúng ta vặn đúng một băng tần của TV, trên màn hình bèn hiện tướng, tình trạng là như vậy đó. Quý vị thấy tướng được hiện trên màn hình là do những điểm sáng nhỏ liên kết thành, hợp thành, chẳng thật. Mỗi điểm sáng nhỏ chẳng phải là giống như Di Lặc Bồ Tát đã giảng, trong một giây lóe sáng bao nhiêu lần? Một ngàn sáu trăm triệu lượt, trong một giây [đã là như vậy] thì nó có thật ở chỗ nào? Chúng ta hoa mắt, lầm tưởng là chân thật, vẫn khởi phân biệt, khởi chấp trước trong ấy rồi tạo nghiệp, quý vị nói xem có oan uổng hay không? Nhưng [chúng ta] chẳng biết những vị thánh giả đã thấy rất rõ ràng: “Bản thể chính là không, trọn chẳng thể được!” Do vậy, quý vị có thể tán thưởng hiện tượng, nhưng ngàn muôn phần đừng nên chấp trước chúng, chớ khởi ý niệm khống chế, chiếm hữu chúng, [nếu khống chế, chiếm hữu] quý vị đã hoàn toàn trật lất rồi. Căn bản là không có chuyện này!

      Chúng ta phải học theo chư Phật, Bồ Tát, phải biết nhìn những hiện tượng ấy như thế nào? Chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng thể nói là nó có, cũng chẳng thể nói là nó không có, giữ thái độ ấy, quyết định chẳng chấp trước. Dùng tâm thái gì? Dùng tâm thái thuần tịnh thuần thiện để nhìn vũ trụ, vũ trụ hoàn toàn bảo trì hiện tượng bình thường. Nói theo cách bây giờ, sự bình thường ấy là lành mạnh nhất, viên mãn nhất, tốt lành nhất. Người Trung Quốc nói “chỉ ư chí thiện” (đạt tới tốt lành tột bậc), thuần tịnh, thuần thiện là “chỉ ư chí thiện”. Trong tôn giáo gọi “chỉ ư chí thiện” là thiên đường, Phật môn gọi nó là thế giới Hoa Tạng hay thế giới Cực Lạc. Thật ra, thế giới Hoa Tạng, thế giới Cực Lạc và chúng ta có gì khác nhau? Thưa quý vị, giống hệt, chẳng có sai biệt một tí nào, nhưng trong sự giới thiệu của đức Thế Tôn, sai biệt rất lớn. Sai biệt do đâu mà có? Sai biệt là do tâm tưởng khác nhau, nên sai biệt to lớn. Trong tâm quý vị tưởng thiện, thứ gì trong thế giới này cũng đều tốt đẹp. Trong tâm quý vị nghĩ đến tham, sân, si, mạn, nghĩ đến tự tư tự lợi, thị phi, nhân ngã, chẳng có gì trong thế giới này là thiện. Trong kinh, đức Phật đã giảng rất hay, tướng tùy tâm sanh, cảnh chuyển theo tâm, ý niệm của quý vị có thể chuyển biến thế giới. Tôi nghĩ dăm ba năm nữa, Lượng Tử Lực Học sẽ phổ biến khắp cả thế giới, sau khi đại chúng đều có thể tiếp nhận, địa cầu là nơi chúng ta cư trụ sẽ biến đổi, vì sao? Con người liễu giải, hiểu rõ chân tướng sự thật, chỉ cần ý niệm của chúng ta là thiện, tất cả tai nạn trên địa cầu đều không có, vì nó là cảnh giới, cảnh giới do tâm hiện, thức biến.

      Vì sao trước đây hoàn cảnh tốt đẹp như vậy, sau khi khoa học phát triển, bèn có lắm tai nạn dường ấy? Cũng vì trước kia, tâm con người thuần hậu, dục vọng rất thấp. Thích Ca Mâu Ni Phật biểu diễn cho chúng ta thấy Ngài gần như không có dục vọng, suốt đời sống một cuộc đời đơn giản nhất, ba y, một bát, tối nghỉ dưới cội cây, giữa trưa ăn một bữa, cả đời lão nhân gia đã làm cho chúng ta thấy. Thứ gì cũng đều không có, thứ gì Ngài cũng chẳng cần, mỗi ngày giảng kinh, giáo học, mang thân phận gì? Thầy, nói theo cách chúng ta, Ngài mang chức nghiệp giáo sư. Ba mươi tuổi khai ngộ, sau khi khai ngộ bèn dạy học, chẳng gián đoạn ngày nào, bảy mươi chín tuổi viên tịch. Vì thế, trong kinh thường nói lão nhân gia cả đời giảng kinh hơn ba trăm hội, thuyết pháp bốn mươi chín năm. Hội giảng kinh giống như hiện thời chúng ta mở khóa học, Ngài tổ chức các khóa học hơn ba trăm lần, thời gian có lúc dài, lúc ngắn, nhỏ thì là mấy người, [giảng] mấy giờ, lớn là mấy năm, thảo luận một chuyên đề lớn. Pháp hội lớn hay nhỏ như vậy rất nhiều, Ngài thị hiện cho chúng ta, chẳng chấp trước mảy may, hết sức cởi mở. Có những quốc vương hay đại thần có hoa viên, có biệt thự, thỉnh Ngài đến đó, trụ ở nơi ấy giảng kinh, Ngài cũng nhận lời. Ngài cũng chẳng nhất định cần [phải có nơi chốn u tịch để giảng dạy], ta nhất định phải trụ trên núi, chẳng phải vậy, tùy duyên, vô cùng tùy thuận, hòa đồng. Kinh giảng xong, nơi khác có người mời đi, Ngài bèn đến nơi khác. Sống động, hoạt bát, tự tại lắm, chẳng có mảy may trói buộc gì!

      Chúng ta phải quan sát sâu xa, liễu giải, học tập những điều ấy. Bởi lẽ, lão nhân gia thật sự tùy duyên tự tại, mảy may dục vọng đều chẳng có. Vì sao? Ngài thật sự đạt được vô ngã; vì thế, vô ngã mới là thật sự nhập môn Phật giáo. Quý vị thấy Tu Đà Hoàn đã phá Thân Kiến, chẳng còn nghĩ thân là ta. Phá Biên Kiến, phá Biên Kiến sẽ chẳng thấy đối lập, Biên () là nhị biên (hai bên), tức đối lập. Đối lập mới có mâu thuẫn, mới có xung đột. Do vậy, những điều ấy thảy đều không có. Không có thành kiến, Kiến Thủ Kiến và Giới Thủ Kiến đều thuộc về thành kiến, thành kiến được nói thành hai loại. Đức Phật giảng sâu hơn một chút, một là thành kiến nơi nhân, hai là thành kiến nơi quả, hai thứ. Giới Thủ Kiến là thành kiến nơi nhân. Kiến Thủ Kiến là thành kiến nơi quả. Loại cuối cùng là Tà Kiến, tức cách nhìn sai lầm, nên gọi là Tà Kiến. Những thứ ấy đều buông xuống hết, đều đoạn sạch hết, sẽ chứng quả Tu Đà Hoàn. Trong Đại Thừa, theo kinh Hoa Nghiêm, đó là địa vị Sơ Tín Bồ Tát, chính là thánh nhân, mới nhập môn! Nhập môn rất khó, sau khi nhập môn sẽ dễ dàng, đúng là thuận buồm xuôi gió, từng bước tiến cao hơn.

      Thuở ấy, lúc tôi mới học Phật, người xuất gia tôi được tiếp xúc lần đầu tiên là Chương Gia đại sư, tôi hướng về lão nhân gia thỉnh giáo: “Tiên sinh Phương Đông Mỹ giới thiệu Phật pháp cho con, nên con biết trong ấy có đại học vấn, triết học cao cấp, có phương pháp nào khiến cho chúng ta khế nhập rất nhanh hay chăng?” Chương Gia đại sư bảo: “Thấy thấu suốt, buông xuống, anh sẽ khế nhập!” Đúng vậy, Ngài chẳng nói lời giả, ngày đầu tiên đã giãi bày toàn bộ. Tôi học nhiều năm như thế mới biết, từ sơ phát tâm cho đến địa vị Như Lai, dùng công phu gì? Thấy thấu suốt giúp buông xuống, buông xuống giúp thấy thấu suốt. Hai thứ này giúp lẫn nhau thành tựu mãi cho đến địa vị Như Lai. Bắt đầu từ chỗ nào? Trước hết, bắt đầu từ buông xuống, buông tự tư tự lợi xuống, buông tiếng tăm, lợi dưỡng xuống, buông ngũ dục, lục trần xuống, quý vị bắt đầu từ chỗ ấy. Quý vị chẳng thực hiện từ chỗ ấy, sẽ chẳng có cách nào thấy thấu suốt. Sau khi thấy thấu suốt, nó sẽ giúp quý vị buông xuống sâu hơn, đó là công phu giúp đỡ, thành tựu lẫn nhau. Đấy là bí quyết trong Phật pháp, không có gì khác, nói xuyên suốt, chẳng có tí ti hiếm hoi, lạ lùng nào, siêu phàm nhập thánh! Hiện thời, các nhà khoa học Lượng Tử nói hết thảy các pháp đều thuộc về “trong Không sanh ra Có”, sanh rồi bèn diệt, sanh diệt đồng thời, đấy là nói chúng ta đã hiểu rõ Bổn Tế, nên gọi là Liễu Bổn Tế.

      “Kiều Trần Như ư Thế Tôn sơ chuyển pháp luân, độ ngũ tỳ-kheo thời, thủ tiên ngộ đạo” (lúc đức Thế Tôn chuyển pháp luân lần đầu tiên, độ năm tỳ-kheo, ngài Kiều Trần Như ngộ đạo đầu tiên). Ngài chứng quả A La Hán, người đầu tiên chứng quả A La Hán chính là Ngài. Trong Pháp Hoa Văn Cú, Pháp Hoa Văn Cú do Trí Giả đại sư soạn, có nói: “Thị Thích Ca pháp trung đệ nhất đệ tử” (là đệ tử thứ nhất trong pháp của Thích Ca Mâu Ni Phật), câu này rất quan trọng. Trong kinh này, nếu đã ghi tên của Ngài, tức là biểu thị pháp: Kinh này là kinh bậc nhất để Phật Thích Ca độ chúng sanh, biểu thị ý nghĩa ấy. “Tăng Nhất A Hàm Kinh Đệ Tử phẩm trung, Phật xưng vi chi: - Ngã Thanh Văn trung đệ nhất tỳ-kheo, khoan nhân, bác thức, thiện năng khuyến hóa, tương dưỡng thánh chúng, bất thất oai nghi” (Trong phẩm Đệ Tử của kinh Tăng Nhất A Hàm, đức Phật đã khen ngợi [ngài Kiều Trần Như]: “Tỳ-kheo bậc nhất trong các Thanh Văn của ta, lòng nhân rộng lớn, kiến thức rộng rãi, khéo khuyên răn, giáo hóa, dẫn dắt bồi dưỡng thánh chúng, oai nghi chẳng thiếu sót”). Đây là Thích Ca Mâu Ni Phật tán thán tôn giả, giống như Khổng lão phu tử tán thán những người thành tựu trong các môn đệ, phu tử thường khen ngợi Nhan Hồi. Điều khó có nhất của Nhan Hồi là “bất nhị quá” (chẳng tái phạm lầm lỗi), điều này rất khó thực hiện, thật sự sám hối. [Ngài Kiều Trần Như] là tỳ-kheo bậc nhất trong các đệ tử Thanh Văn, là người chứng A La Hán đầu tiên. “Khoan nhân”: Khoan hồng, độ lượng, nhân từ, bác ái; lại hiếu học. “Bác thức” là hiếu học, chúng ta nói là tri thức uyên bác. “Thiện năng khuyến hóa”: Ngài giáo học vô cùng thành công. Đệ tử Thích Ca Mâu Ni Phật thuở ấy không có khoa học kỹ thuật hiện đại, đức Phật muốn phổ độ chúng sanh nhất định phải có các đệ tử giúp sức. Những môn đệ hằng ngày đi khất thực đều nhằm giáo hóa chúng sanh. Khi khất thực, nhất định phải thuyết pháp cho trai chủ, chẳng thể nào xin xong bèn bỏ đi, chẳng có đạo lý ấy. Người ta dùng tài bố thí, bố thí quý vị một bát cơm, người xuất gia báo đền thí chủ bằng pháp bố thí. Nếu người ta hỏi vấn đề gì, nhất định quý vị phải giải đáp giúp người ấy. Lúc chẳng có câu hỏi nào, quý vị phải biết quan sát căn cơ, thuyết pháp cho người tức là “vô vấn tự thuyết” (không hỏi mà tự nói), phải thuyết pháp cho người ấy. Nếu chẳng có gì hết, thì cuối cùng tối thiểu là phải chúc phước cho người ấy, chúng ta nói là “kỳ đảo chúc phước”, phải chúc phước cho thí chủ thì mới có thể tiếp nhận sự cúng dường của người ta. Chẳng nói tức là đã tiếp nhận cúng dường suông, sau đó chẳng có gì hết, không thể được! Vì thế, hễ gặp dịp bèn giáo dục, giáo dục trọn khắp cõi đời.

Lời đức Phật làm cách nào để truyền đến tai quần chúng, khiến cho quần chúng nghe sự giáo hóa của Phật bèn y pháp phụng hành? Kinh thường nói những vị đệ tử ấy là một ngàn hai trăm năm mươi lăm người, kinh này nói có một vạn hai ngàn vị tỳ-kheo, nhiều quá, giống như kinh Pháp Hoa. Vì thế, quý vị hiểu thuở Phật Đà tại thế, Phật giáo là gì? Là giáo dục, giáo dục chính cống! Đức Phật chẳng thay đổi, mãi cho đến khi Ngài viên tịch lúc bảy mươi chín tuổi, hoàn toàn là giáo học, chúng ta phải biết điều này. Hiện thời, Phật giáo biến thành tôn giáo, thế hệ chúng ta những kẻ học trò đời sau, là kẻ đại bất hiếu, cớ sao biến [giáo hóa] của thầy thành tôn giáo và mê tín? Dựa vào điều này, chúng ta đáng đọa địa ngục, lẽ nào chẳng có lỗi đối với thầy? Vì thế, ngày hôm nay, chúng ta có sứ mạng phải thay thầy đảo ngược tình thế, xoay ngược lại cục diện bằng cách nào? Bản thân chúng ta làm gương, chúng ta đi theo phương hướng giáo dục của đức Phật, khiến cho mọi người thấy chúng ta chẳng phải là tôn giáo. Trong tôn giáo có thần, trong Phật giáo chẳng có thần. Chúng tôi tiếp xúc rất nhiều tôn giáo, các tôn giáo đều nói trong vũ trụ chỉ có một chân thần, chúng ta gọi chân thần là bổn tánh, chân tâm là tự tánh, vũ trụ do tâm hiện, thức biến. Họ nói chân thần tạo ra vũ trụ, tạo ra vạn vật, [còn Phật giáo bảo vạn vật do] tâm hiện, thức biến, chúng ta nói với họ như vậy, họ có thể tiếp nhận thì rất khó có. Vì thế, tôi hy vọng các tín ngưỡng tôn giáo hãy khéo học tập giáo dục tôn giáo. Dùng tiếng Hán để giải thích hai chữ Tôn Giáo sẽ thấy hay tột bực. Tiếng ngoại quốc truyền tới Trung Quốc, thuở ấy, người Trung Quốc đúng là có trí huệ, học vấn, đức hạnh, đã dùng hai chữ “tôn giáo” (宗教)[10] để dịch [chữ Religion] rất hay! Phải giảng chữ Tôn như thế nào? Quý vị tra tự điển sẽ thấy nó có ba ý nghĩa: Chủ yếu, trọng yếu, tôn sùng. Giáo là giáo dục, giáo học, giáo hóa. Hợp lại để nhìn, tôn giáo sẽ trở thành gì? Giáo dục chủ yếu, giáo học trọng yếu, giáo hóa đáng tôn sùng. Chúng ta đem những ý nghĩa trong danh từ này để nói rõ với các tôn giáo trên thế giới, chẳng có ai không hoan hỷ.

Kinh chẳng phải để cho quý vị tụng. Thuở Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế, chưa có kinh sách, chúng ta biết kinh có từ lúc nào? Sau khi Thích Ca Mâu Ni Phật vãng sanh, các môn đệ trong quá khứ đã từng nghe thầy giáo huấn, ghi chép lại theo trí nhớ thành văn tự, lưu truyền cho hậu thế, đấy là kinh điển. Kinh điển do vậy mà có! Thuở ấy, thầy dạy học toàn là nói miệng, ngay cả bản thảo bài giảng cũng không có, đại cương cũng không có. Quý vị nghe hiểu rõ ràng, thông suốt, phải làm theo, phải thực hiện, y giáo phụng hành. Cuối mỗi bài giảng đều là “y giáo phụng hành”, hoặc “tín thọ phụng hành” (tin nhận vâng làm), thường dùng bốn chữ ấy, tin tưởng thầy chẳng hoài nghi, hoàn toàn tiếp nhận, tiếp nhận là làm theo, đó gọi là học Phật. Chỉ niệm kinh suông, chẳng thể thực hiện những giáo huấn và nghĩa lý trong kinh thì sẽ là mê tín, tôn giáo ấy có ích gì cho xã hội? Tháng trước, vào đầu tháng Sáu, tôi đã theo phái đoàn tôn giáo Mã Lai đến thăm Phạm Đế Cương (Vatican), gặp gỡ Giáo Hoàng và các giám mục thuộc Tòa Thánh, nghe họ báo cáo. Hồng Y Đào Nhiên (Jean-Louis Tauran) bảo tôi: “Trong thời đại này, người tín ngưỡng tôn giáo mỗi năm một ít hơn”. Họ đã thống kê, người chẳng tin tưởng tôn giáo mỗi năm một đông hơn, họ rất lo ngại. Trong lúc trao đổi, tôi cũng có trình bày, báo cáo, tôi nói vì sao thuở giáo chủ lập giáo có nhiều người tin tưởng dường ấy, có nhiều tín chúng ngần ấy, học trò đều có thể y giáo phụng hành? Do giáo dục tốt! Quý vị xem nhé: [Tôn giáo] là giáo dục trọng yếu, giáo học chủ yếu, giáo hóa đáng tôn sùng, ai chẳng hoan hỷ? Trải qua các đời mãi cho đến hiện thời, trên cả thế giới, đạo Thiên Chúa có hơn mười ức tín đồ, nếu tính cả đạo Cơ Đốc, họ là một nhà, gộp thành hơn hai mươi ức; đây là tôn giáo lớn nhất trên thế giới. Phỏng đoán Y Tư Lan giáo (Islam) tối thiểu cũng có hơn mười ba ức [tín đồ], Phật giáo ít hơn một chút, khoảng chừng bảy sáu ức. Đó là những tôn giáo lớn trên thế giới, số người của ba tôn giáo gộp lại sẽ chiếm đến hai phần ba số người trên cả thế giới.

      Hiện thời, ta thấy có hiện tượng suy yếu, vì sao bị suy yếu? Trước đây, tôn giáo là giáo học, lên lớp. Đặc biệt là Phật giáo, Phật giáo truyền tới Trung Quốc, tự viện, am đường là trường học, chẳng phải là miếu thờ; miếu là nơi cúng tế quỷ thần. Phật giáo gọi là Tự, mọi người hãy hiểu nguồn gốc của Tự là gì? Cơ quan làm việc của chính phủ, trực tiếp cai quản bởi hoàng thượng được gọi là Tự. Tự có địa vị cao nhất trong các cơ quan làm việc của chánh phủ. Lại còn, được vĩnh viễn thiết lập, chẳng thể thay đổi. Nếu quý vị có dịp đến thăm Cố Cung tại Bắc Kinh, sẽ thấy trong Cố Cung có chín Tự, tức chín cơ sở làm việc, treo biển đề bên ngoài [cho biết đó là] cơ cấu trông nom việc gì. [Những cơ quan công quyền] thuộc về Tể Tướng gọi là Bộ. Bộ có thể dẹp đi, hay thay đổi, có thể tăng thêm, tức là lập thêm, mà cũng có thể phế trừ; nhưng Tự thì không thể, Tự được thiết lập vĩnh cửu. Bởi lẽ, Phật giáo truyền đến Trung Quốc được đế vương tôn trọng như vậy, nên gọi cơ cấu ấy là Tự. Vì thế, dưới hoàng đế có mười Tự, cũng viên mãn. Trước kia là chín Tự, thêm vào Phật Tự, trở thành mười Tự, viên mãn. Hoàng thượng dẫn đầu, dân chúng tôn kính hoàng thượng, cho nên giáo dục của Phật giáo phổ cập nhanh hơn Nho và Đạo, khắp mọi nơi trên cả nước đều có, ảnh hưởng rất lớn. Trong Tự luôn luôn là giáo học, Thích Ca Mâu Ni Phật dạy suốt một đời. Vì thế, những người xuất gia trong chùa chiền có đức hạnh, có học vấn, thật sự dạy! Dạy ai? Quá nửa là người đọc sách; bởi lẽ, trước kia không có trường học, quốc gia chẳng lập trường học, trường học rất ít, những kẻ thích đọc sách đến đâu? Đến chùa miếu. Quý vị thấy Trung Quốc trải các đời, bao nhiêu Trạng Nguyên, Tể Tướng, toàn là học hành trong chùa miếu. Mọi người đều biết Phạm Trọng Yêm, ông ta là điển hình, học ở đâu? Trong chùa miếu. Chùa miếu bồi dưỡng nhân tài cho quốc gia, học khá rồi bèn đi thi, thi cử để lấy học vị. Trước kia học vị cấp huyện là Tú Tài, ở tỉnh là Cử Nhân, thi ở trung ương gọi là Điện Thí (thi Đình), [thi đậu sẽ có học vị] Tiến Sĩ, giống như Tiến Sĩ, Thạc Sĩ và Học Sĩ hiện thời. Thi lấy công danh, [thuở ấy] gọi là công danh, công danh là học vị. Giành được học vị, chánh phủ bổ nhiệm quý vị phục vụ đất nước, giao phó chức vụ. Do vậy, [nhà chùa] là trường học. [Các cơ cấu] của Nho, Thích, Đạo đều là trường học.

      Lần này, tôi tham gia hoạt động của họ vì nghe những tin tức ấy; lúc đó, tôi nói: “Tôn giáo nhất định phải khôi phục giáo dục, thật sự có cống hiến đối với xã hội, chẳng còn là mê tín. Làm chuyện hình thức là không được rồi! Chỉ có những nghi thức suông, không có giáo học, chắc chắn sẽ đi vào con đường diệt vong. Người ta không tin quý vị, cầu đảo có ích lợi hay không? Hữu dụng, nhưng người ta nói quý vị chẳng hợp khoa học, là phường mê tín. Nhất định phải là dạy học. Thuở tại thế, Gia Tô dạy ba năm, Ngài bị kẻ khác hại chết. Lúc còn sống, Mục Hãn Mặc Đức dạy hai mươi bảy năm. Thích Ca Mâu Ni dạy bốn mươi chín năm, có vị nào chẳng dạy học? [Các Ngài] đều là những vị thầy vô cùng tốt, thật sự có đức hạnh, có học vấn, chúng ta nhất định phải biết điều này. Đi theo con đường cũ của Thích Ca Mâu Ni Phật là giáo dục Phật giáo, không có những nghi thức siêu độ như trong nhà chùa hiện thời. Thời đức Phật hoàn toàn không có, ngay cả khóa tụng sáng tối cũng không có, quý vị tự mình tu hành như thế nào là chuyện của quý vị. Thích Ca Mâu Ni Phật mỗi ngày cùng đại chúng lên lớp, quý vị có nghi vấn có thể nêu ra để thảo luận, trong kinh Phật là một bên hỏi, một bên đáp. Vì thế, muốn duy trì tôn giáo tồn tại, nhất định phải coi trọng giáo học và giáo dục tôn giáo. Hiện thời, do khoa học kỹ thuật phát triển, giao thông thuận tiện, nhanh chóng, địa cầu đã biến thành người một nhà, chẳng thể giống như trong quá khứ, dẫu đến già chết chẳng qua lại với nhau, thời đại ấy đã qua rồi! Vì thế, hiện thời, cần phải nghĩ đến những vị thánh hiền, đại thánh đại hiền đã giáo hóa chúng sanh, nay chúng ta hiểu rõ, phương hướng là một, mục tiêu là một, nhưng phương pháp khác nhau. Do vậy, chúng ta tiếp xúc kinh điển của mỗi tôn giáo, phải chọn lấy những điểm tương đồng, chấp nhận những điểm dị biệt, nhằm phong phú hóa sự giáo học trong hiện tại của chúng ta, giúp chính mình nâng cao cảnh giới nhằm giải quyết vấn đề xã hội, đặc biệt là hóa giải xung đột, xúc tiến xã hội an định, thế giới hòa bình. Tôn giáo như vậy sẽ có cống hiến lớn nhất đối với thế giới và nhân loại, ai chẳng ủng hộ quý vị? Ai chẳng tán thán? [Điều ấy] sẽ dẫn đến các sự nghiệp đều có thể cùng tồn tại. Phật giáo theo hình thức tôn giáo cũng có thể tồn tại, chẳng cần phải biến đổi nó. Hiện thời, tại Trung Quốc còn có Phật giáo kiểu du lịch ngoạn cảnh, Phật giáo học thuật đã có từ rất lâu. Các đại học thường dùng kinh điển Phật giáo để giảng dạy, đó là Phật giáo theo kiểu học thuật. Hiện tại, nghe nói còn có Phật giáo theo mô hình xí nghiệp, [những hình thức ấy] đều được, đều có thể cùng tồn tại, nhưng Phật giáo theo kiểu giáo dục là cội rễ, đó là nguyên thủy Phật giáo, trọng yếu hơn bất cứ hình thức Phật giáo nào khác!

      Người Trung Quốc coi trọng giáo dục nhất: “Kiến quốc, quân dân, giáo học vi tiên” (dựng nước, cai trị nhân dân, giáo hóa làm đầu). Trước đây là gia tộc, tức đại gia đình, trong gia đình trọng yếu nhất là giáo dục, tức gia giáo! Tư thục là trường học dành cho con em trong gia đình, [gia đình theo kiểu] đại gia đình. Một gia đình giống như trong Hồng Lâu Mộng đã viết là một gia đình thông thường, nói chung là nhân số trong một gia đình gồm khoảng ba trăm người, rất bình thường. Nhân đinh hưng vượng thì sáu bảy trăm người, rất suy cũng có một hai trăm người, đại gia đình! Vì thế, chẳng có giáo dục sẽ không được, nhất định là coi trọng giáo dục, coi trọng quy củ. Đệ Tử Quy là gia quy. Vì lẽ đó, người Trung Quốc nói “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Có thể tề gia, sẽ có thể trị quốc. Quý vị cai quản gia đình tốt đẹp, sẽ có thể chăm lo những chuyện quốc gia, mở rộng ra là được rồi! Hiện thời, chúng ta đáng thương, không có gia tộc. Sau chiến tranh Trung - Nhật, chúng ta bị tổn thất lớn nhất không phải là sanh mạng hay tài sản, mà là truyền thống gia tộc của Trung Quốc bị xóa sạch, chẳng còn. Trước Kháng Chiến thì có, sau Kháng Chiến chẳng tìm thấy nữa. Đó là chuyện khiến chúng tôi đau lòng nhất. Gia tộc của Trung Quốc khiến cho xã hội ổn định bền vững mấy ngàn năm qua; tìm khắp thế giới chẳng thấy [có điều gì khác giống như] sự cống hiến của gia tộc đối với đất nước. Nó phát huy hiệu quả thật to, gia tộc quá tốt đẹp. Bởi lẽ, người yêu mến gia đình, yêu mến quê hương, tự nhiên sẽ ái quốc. Gia tộc không có, quý vị nói đến chuyện hiếu thảo cha mẹ, tôn kính thầy, nói đến chuyện yêu thương người khác sẽ rất khó khăn.  

Sáng hôm nay, tôi thức dậy, tôi chẳng đọc báo, mấy chục năm qua, tôi chẳng xem báo, nhưng chúng tôi hiện thời ở chung cư, mở cửa ra, cách vách là một nhà khác, sáng ra là báo được đặt ở cửa nhà họ. Tôi đi qua, liếc qua tờ báo đặt ở cửa, tin thứ nhất là gì? Một đứa trẻ mười lăm tuổi giết mẹ và em gái, còn ra thể thống chi nữa! Mỗi ngày đều thấy chuyện như vậy, trước kia chẳng thể nào như vậy được! Xưa kia, thầy Lý giảng kinh có kể cho chúng tôi nghe một chuyện, dường như là vào đời Thanh, có một huyện thành, nẩy ra một đứa con bất hiếu giết cha. Triều đình biết chuyện, đây là chuyện lớn, phải tâu lên triều đình. Huyện trưởng bị cách chức, tri huyện bị cách chức, tri phủ bị ghi [trong hồ sơ là] hai lần phạm lỗi lớn, tuần phủ (là tỉnh trưởng) bị ghi một lần. Ngoài ra còn như thế nào? Trước kia là [mỗi thành thị] có tường thành, tường thành bị phá một góc, triệt một góc thành, xấu hổ, nhục nhã quá! Cớ sao thành ấy lại nẩy nòi một kẻ tồi bại dường ấy! Hiện thời quý vị đọc báo, giết mẹ vẫn chẳng sao! Xưa nay nghe nói có chuyện giết cha, chưa nghe nói giết mẹ! Xã hội hiện thời đến nông nỗi này, do nguyên nhân nào? Con người không hiểu luân lý, không biết đạo đức, không biết nhân quả, cả thế giới hiện thời thiếu sót những điều này. Khéo sao tôn giáo đảm nhận ba loại giáo dục ấy, trong kinh điển của bất luận tôn giáo nào cũng đều nhấn mạnh giáo dục luân lý, giáo dục đạo đức, giáo dục nhân quả. Trong tôn giáo cao cấp, có giáo dục triết học và giáo dục khoa học. Tôn giáo có thể gánh vác sự nghiệp hoằng dương rực rỡ giáo học, chính mình nghiêm túc học tập, cảm hóa chúng sanh, tôn giáo thật sự có cống hiến đối với xã hội. Xưa kia, những vị giáo chủ sáng lập tôn giáo đã dụng tâm như thế, chúng ta chớ nên không biết!

      Đây là nói tôn giả Kiều Trần Như khéo khuyên răn, giáo hóa. Khéo khuyên răn, giáo hóa thì quan trọng nhất là lấy thân làm gương. Chính mình không làm được, bảo người khác làm, người ta chẳng tin tưởng, tự mình phải làm trước. “Tương dưỡng thánh chúng”, “tương” () có nghĩa là dẫn đầu, quý vị thấy Ngài nêu gương, dẫn đầu, xướng suất các đồng học, quả thật là đã thực hiện “học vi nhân sư, hành vi thế phạm” (học làm thầy người, hành vi làm khuôn mẫu cho cõi đời). Đoàn thể của Thích Ca Mâu Ni Phật không có tổ chức, quý vị thấy những học trò ưu tú đều là những tấm gương tốt cho các học trò bình phàm, chẳng đánh mất oai nghi. Đấy chính là “oai nghi hữu tắc” trong Tứ Đức như trong Hoàn Nguyên Quán đã nói.

      “Kim kinh thủ liệt tôn danh” (nay kinh này kể tên tôn giả đầu tiên), quý vị thấy trong bộ kinh này, nêu tên vị thượng thủ thứ nhất là Ngài. “Chánh biểu năng văn thọ thử kinh pháp giả, giai thị đệ nhất đệ tử” (nhằm biểu thị những người có thể nghe nhận kinh pháp này đều là đệ tử thứ nhất của đức Phật). Trong đây có hai tầng ý nghĩa:

1) Thứ nhất là quý vị có thể nghe. Nghe bộ kinh này là ai? Là đệ tử bậc nhất của Thích Ca Như Lai.

2) [Thứ hai là] quý vị có thể tiếp nhận, y giáo phụng hành, sẽ có thân phận giống như ngài Kiều Trần Như, là nhân vật giống hệt như ngài Kiều Trần Như.

“Bổn kinh Phi Thị Tiểu Thừa phẩm viết” (phẩm Chẳng Phải Là Tiểu Thừa trong kinh này có đoạn), kinh văn có một đoạn như thế này: “Đắc văn A Di Đà Phật danh hiệu, năng sanh nhất niệm hỷ ái chi tâm, quy y chiêm lễ, như thuyết tu hành. Đương tri thử nhân, phi thị Tiểu Thừa. Ư ngã pháp trung, đắc danh đệ nhất đệ tử” (Được nghe danh hiệu A Di Đà Phật, có thể sanh một tâm vui thích, quy y, chiêm lễ, tu hành đúng như lời dạy. Hãy nên biết người ấy chẳng phải là Tiểu Thừa. Ở trong pháp ta, được gọi là đệ tử bậc nhất). Đây là lấy kinh này để làm chứng, nhằm chứng tỏ những ý nghĩa bao hàm trong việc ngài Kiều Trần Như được nêu danh đầu tiên trong các vị thượng thủ, đây cũng chẳng phải là xếp đặt tùy tiện. Câu kinh văn này quan trọng, quý vị thấy đó: Được nghe danh hiệu A Di Đà Phật, danh hiệu A Di Đà Phật chẳng dễ gì được nghe, nghe xong, nếu có thể hiểu ý nghĩa, thì mới có thể tu hành. Nghe danh hiệu này, chẳng hiểu ý nghĩa, cũng gieo trồng thiện căn, cũng gieo chủng tử trong A Lại Da, nhưng trong đời này, [chủng tử ấy] chẳng dễ gì hiện hành, cũng chẳng dễ gì khởi tác dụng!

Do vậy, chúng ta học Phật phải biết: Nghe kinh quan trọng hơn bất cứ điều gì khác! Thuở ấy, Thích Ca Mâu Ni Phật giảng suốt bốn mươi chín năm, những vị thường tùy đệ tử nghe chẳng thiếu buổi nào, một ngàn hai trăm năm mươi lăm vị ấy, chẳng thiếu một buổi giảng nào! Đây là kinh nghiệm của bản thân chúng tôi trong một đời này, nhân duyên khiến tôi xuất gia là do tiếp nhận lời khuyến cáo của Chương Gia đại sư, lão nhân gia khuyên tôi xuất gia. Lại còn khuyên tôi học theo Thích Ca Mâu Ni Phật, tôi nghe lời, thật sự đi theo con đường của Thích Ca Mâu Ni Phật, suốt đời học tập, dạy học. Tôi học tập bảy năm, bắt đầu dạy học. Học tập bảy năm rồi xuất gia. Vừa xuất gia bèn dạy trong Phật học viện, cũng nhận lời mời giảng kinh bên ngoài, bắt đầu dạy học, [đến nay là] năm mươi hai năm! Trong xã hội như vậy, tôi đến rất nhiều nơi trên các quốc gia, chẳng bị lui sụt, không trở thành tệ hại, nhờ vào đâu? Nhờ vào kinh điển, mỗi ngày chẳng rời khỏi kinh điển. Chẳng rời khỏi kinh điển là chẳng rời khỏi Thích Ca Mâu Ni Phật, mỗi ngày ở cùng một chỗ với Phật, tận hết sức đoạn tuyệt ngoại duyên. Ngoại duyên có sức dụ dỗ, mê hoặc con người lớn nhất. TV, thời chúng tôi chưa có Internet, hiện thời có Internet, radio, TV, nhật báo, tạp chí. Tôi một mực cự tuyệt những phương tiện truyền thông ấy, vài chục năm chẳng tiếp xúc những thứ ấy. Người ta hỏi tôi, tôi cảm thấy thế giới này khá lắm, mỗi ngày đều thái bình, đều chẳng có chuyện gì phát sanh, chẳng nghe, chẳng hỏi tới, mỗi ngày tiếp xúc Thích Ca Mâu Ni Phật, mỗi ngày tiếp xúc chư đại Bồ Tát. Vì thế, tâm yêu thích sự giáo dục của đức Phật ngày một tăng trưởng, pháp hỷ sung mãn, đúng là thường sanh tâm hoan hỷ, thấu hiểu lời cổ nhân đã nói: “Thế vị chẳng nồng đậm bằng pháp vị” [nghĩa là] ý vị trong nhân gian thiên thượng lục đạo chẳng thể sánh bằng pháp vị. Nếu quý vị thật sự nếm được, sẽ nẩy sanh tâm hoan hỷ. Quy y, chiêm lễ, tu hành đúng như lời dạy, nhất định tuân theo giáo huấn của đức Phật, những khuyết điểm, tập khí, hành vi bất thiện thảy đều uốn nắn, sửa sai. Đấy là nói về Tịnh Tông. Hãy nên biết người ấy chẳng phải là Tiểu Thừa, ở trong pháp ta được gọi là đệ tử bậc nhất. Tức là trong pháp Tịnh Độ, chứ chẳng phải pháp môn nào khác. Hôm nay đã hết thời gian rồi, chúng ta học tới đây. Hãy ghi nhớ ý nghĩa biểu thị pháp của ngài Kiều Trần Như.

Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa

Phần 44 hết

 



[1] Xuất tướng nhập tướng (出將入相): Ra ngoài là một vị tướng cầm quân, về triều là người đứng đầu trăm quan. Chữ Tướng () thứ nhất là tướng quân, chữ Tướng () thứ hai là Thừa Tướng hoặc Tể Tướng. Về sau, đến đời nhà Thanh, các vị quan được phong làm Đại Học Sĩ, hoặc tuyển vào Bí Thư Các cũng gọi “bái tướng” vì được trực tiếp bàn định triều chánh, xử lý chánh sự hằng ngày nên rất có thế lực.

[2] Đường Minh Hoàng (695-762) chính là Đường Huyền Tông, tên thật là Lý Long Cơ, con trai thứ ba của Đường Duệ Tông (Lý Đán). Sử thường gọi là Minh Hoàng vì sau khi nhà vua mất, các văn quan xu phụ đã dâng một thụy hiệu dài dằng dặc là Chí Đạo Đại Thánh Đại Minh Hiếu Hoàng Đế. Lý Long Cơ anh tuấn, oai vệ, lắm tài nghệ, thuở trẻ là một vị vua rất tận tụy. Trước đó, khi Lý Trị (Đường Cao Tông, chồng Võ Tắc Thiên) chết, Võ Tắc Thiên đã đưa con trai là Lý Hiển lên ngôi làm vua bù nhìn, tức Đường Trung Tông, rồi lấy cớ phế vị vua này chỉ trong một tháng, đưa em trai của Lý Hiển là Lý Đán lên ngôi, tức Đường Duệ Tông. Đường Duệ Tông làm vua được sáu năm thì bị Võ Tắc Thiên ép phải nhường ngôi cho bà ta lên làm vua nhà Đại Châu Lý Đán bị giáng xuống làm Thái Tử và đổi tên thành Võ Luân. Trong giai đoạn ấy, Lý Long Cơ đã ngấm ngầm tuyển mộ dũng sĩ chờ thời. Khi Võ Tắc Thiên bị ép thoái vị, quần thần lại tôn Lý Hiển làm vua lần nữa. Vi hoàng hậu muốn trở thành Võ Tắc Thiên thứ hai, nên ngấm ngầm hạ độc Lý Hiển, lập Lý Trọng Mậu lên thay, tức Đường Thương Đế. Lý Long Cơ liền liên kết với Thái Bình công chúa (con gái Võ Tắc Thiên) đập tan âm mưu này, hạ ngục Vi Hậu, giáng Lý Trọng Mậu xuống làm Ôn Vương, đón cha là Lý Đán về làm vua như cũ. Nhà Đường đạt đến thời thịnh trị Khai Nguyên khi Lý Long Cơ làm vua. Vua chỉnh lý hệ thống hành chánh, trừ diệt tham quan, trọng dụng hiền tài, trừng trị quý tộc chiếm đoạt đất của dân lành. Về già, ông sủng ái Dương Quý Phi, bỏ mặc cho anh trai Dương Quý Phi là Dương Quốc Trung lũng đoạn triều chính dẫn đến chuyện An Sử (An Lộc Sơn và Sử Tư Minh) làm loạn, đến nỗi vua tôi phải chạy vào đất Thục (Tứ Xuyên). Mãi cho đến khi thái tử Lý Hanh được quần thân tôn lên ngôi hoàng đế ở Linh Châu, tức Đường Túc Tông, tập trung quân lực đập tan An Lộc Sơn mới đón Đường Minh Hoàng về lại Trường An, tôn Đường Minh Hoàng làm Thái Thượng Hoàng.

[3] Trung Liệt Từ là nơi thờ các vị anh hùng trung lương liệt sĩ, còn được gọi bằng các danh xưng như Trung Hồn Từ, Anh Liệt Từ, Anh Hồn Từ, Anh Linh Từ, Trung Liệt Miếu, Chiêu Trung Từ, Hiển Trung Từ. Một nơi nổi tiếng nhất chính là Pháp Nguyên Tự ở Bắc Kinh. Ngôi chùa này do Đường Thái Tông hạ chiếu xây dựng với danh xưng Mẫn Trung Tự nhằm kỷ niệm, truy điệu tướng sĩ trận vong trong cuộc đông chinh Cao Ly, đến đời Thanh chùa được đổi tên thành Pháp Nguyên Tự.

[4] Hàm Phong (1831-1861) là vua thứ chín của nhà Thanh, tên thật là Ái Tân Giác La Dịch Trữ (Aisin-Gioro Iju), con thứ tư của Đạo Quang, lên ngôi năm mười chín tuổi. Triều đại của nhà vua bị lung lay bởi cuộc biến loạn Thái Bình Thiên Quốc do Hồng Tú Toàn khởi xướng, đồng thời miền Bắc Trung Hoa nổ ra cuộc biến loạn của Niệm Quân (một phong trào nông dân dấy loạn do Trương Lạc Hành lãnh đạo). Khi vừa dẹp yên hai cuộc biến loạn này, chiến tranh Nha Phiến nổ ra, liên quân Anh Pháp tấn công Thiên Tân, triều đình nhà Thanh phải bỏ chạy về hành cung ở Nhiệt Hà để lánh nạn. Vua chết tại hành cung Nhiệt Hà lúc 31 tuổi. Nói chung, nhà vua nhu nhược, thiếu quyết đoán và ham mê tửu sắc.

[5] Thùy liêm thính chánh (buông rèm nghe việc triều chánh): Khi vua còn quá nhỏ, thường mời Thái Hậu giúp việc cai trị. Do trong cổ lễ, phụ nữ không tiện lộ mặt trước nam giới nếu người ấy không phải là chồng, cha, anh, hay em trai ruột, nên triều thần thường kê ghế sau ngai vàng, căng rèm cho Thái Hậu ngồi. Trên thực tế, vua còn quá nhỏ nên Thái Hậu toàn quyền cai trị. Khi vua Hàm Phong chết, con là Đồng Trị (Ái Tân Giác La Tải Thuần, Dzai Šun) mới năm tuổi. Trước đó, Hàm Phong đã chỉ định tám vị đại thần làm Cố Mạng Phụ Chánh Đại Thần. Khi Hàm Phong chết, Tải Thuần được triều thần tôn lên ngôi vua, lấy niên hiệu là Kỳ Tường, nhưng Từ An Thái Hậu (Nữu Hỗ Lộc Thị), Từ Hy Thái Hậu (Diệp Hách Na La Thị) và Cung Thân Vương (Dịch Hân) đã đảo chánh (sử gọi sự kiện này là Tân Dậu Chánh Biến), hạ bệ tám vị đại thần, đoạt quyền phụ chánh, đổi niên hiệu từ Kỳ Tường sang Đồng Trị. Theo các sử gia Trung Hoa, Đồng Trị có nghĩa là “đồng quy ư trị”, hoặc “mẫu tử đồng trị thiên hạ”. Tuy mang tiếng là vua, Đồng Trị chỉ là bù nhìn trong tay Từ Hy, đến năm mười tám tuổi bèn chết. Tuy Từ An cũng mang tiếng cùng thùy liêm thính chánh với Từ Hy, nhưng hầu như trên thực tế chẳng có quyền lực gì.

[6] Người Mãn Châu và Tây Tạng tin Chương Gia đại sư là hóa thân của A La Hán Tôn Đạt, chuyển thế đến đời thứ năm bèn giáng sanh ở tỉnh Thanh Hải (Trung Hoa), từ đời thứ mười ba trở đi bèn có hiệu là Chương Gia Hoạt Phật (theo tên gọi của vùng ấy). Vì thế, Chương Gia đại sư (thầy của lão pháp sư Tịnh Không) được coi là đời thứ mười chín, tuy Ngài chỉ là vị Chương Gia đời thứ bảy. Chương Gia đời thứ năm và thứ sáu đều là quốc sư dưới thời Từ Hy.

[7] Để hình dung chữ Thị và chữ Thân viết theo lối triện như thế nào, xin quý vị xem hình ảnh trong các link sau:

- Chữ Thị (http://commons.wikimedia.org/wiki/File:%E7%A4%BA-bigseal.svg)

- Chữ Thân (http://en.wiktionary.org/wiki/File:%E7%94%B3-seal.svg)

[8] Thuyết Văn Giải Tự là một trong các bộ tự điển chữ Hán đầu tiên của Trung Quốc, do Hứa Thận biên soạn vào thời Hán Hòa Đế. Ông đã có những lập luận khá độc đáo về cách phân chia bộ thủ, phân loại cách hình thành chữ Hán, lập ra khái niệm Lục Thư (sáu cách cấu tạo chữ Hán). Nội dung nhằm giải thích 9.353 chữ thông dụng thời ấy và 1.163 chữ được xếp vào loại Dị Thể Tự. Cho đến hiện thời, tác phẩm này vẫn được coi là sách gối đầu giường cho các nhà nghiên cứu Hán tự. 

[9] Tức là bộ Kim Sơn Hoạt Phật Thần Dị Lục.

[10] Đúng ra phải đọc là Tông Giáo, nhưng chúng ta quen đọc chữ này thành “tôn giáo”.