Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa

淨土大經解演義

Phần 45

Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo duyệt: Huệ Trang và Đức Phong

 

Tập 89

 

Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang chín mươi chín, hàng thứ bảy từ dưới đếm lên, đây cũng là đoạn thứ hai trong trang này:

      “Tôn giả Xá Lợi Phất, Phạn ngữ Xá Lợi, dịch vi Thu Lộ. Phạn ngữ Phất, dịch vi Tử, cố viết Thu Tử, nhân mẫu đắc danh” (“Tôn giả Xá Lợi Phất”: Chữ Xá Lợi trong tiếng Phạn là chim Thu Lộ, Phất (Putra) trong tiếng Phạn được dịch là Tử (con). Do vậy, tên Ngài được dịch là Thu Tử, do mẹ mà có tên ấy). Trước hết, giới thiệu tôn giả Xá Lợi Phất. Trong Phật pháp, ngài Xá Lợi Phất tượng trưng trí huệ bậc nhất, trong các kinh Đại, Tiểu Thừa thường thấy nhắc đến Ngài. [Hai vị đại đệ tử thường được nhắc đến nhiều nhất là] Xá Lợi Phất và Đại Mục Kiền Liên, Đại Mục Kiền Liên tượng trưng thần thông bậc nhất. Trong hết thảy các kinh do đức Phật đă nói đều có trí huệ, đều có thần thông, “thần thông” là thông đạt, hiểu rơ. Xá Lợi (Śāri) là tiếng Phạn, dịch sang nghĩa tiếng Hán là Thu Lộ, là tên một loài chim, người Hoa gọi [loài chim ấy] là Lộ Tư (鷺鷥). Chữ Phất (Putra) trong tiếng Phạn dịch sang nghĩa tiếng Hán là Tử; v́ thế, danh hiệu Xá Lợi Phất dịch sang nghĩa tiếng Hán là Thu Tử, tức là con bà Thu Lộ, “nhân mẫu đắc danh” (do mẹ mà có tên ấy). “Kỳ mẫu thân h́nh đoan chánh, nhăn tịnh như Thu Lộ, năi danh Thu Tử” (Bà mẹ Ngài thân h́nh đoan chánh, mắt trong trẻo như mắt chim Thu Lộ, nên Ngài có tên là Thu Tử). Nêu ra nguyên do Ngài mang tên ấy, mẹ Ngài vô cùng xinh đẹp, vô cùng đoan chánh, trang nghiêm, đặc biệt là tṛng mắt vô cùng trong sáng giống như [mắt] chim Thu Lộ, nên người ta gọi bà là Thu Lộ và con bà được gọi là Thu Tử. “Vị thị Thu Lộ chi tử. Hựu danh Châu Tử, diệc biểu kỳ mẫu nhăn tịnh như châu. Hựu danh Thân Tử, biểu mẫu thân đoan chánh” (Ư nói Ngài là con bà Thu Lộ. Ngài lại c̣n được gọi là Châu Tử, cũng là ư nói mắt mẹ Ngài trong trẻo như hạt châu. Ngài lại c̣n được gọi là Thân Tử, biểu thị ư nghĩa thân mẹ Ngài đoan chánh). Tên họ Ngài có liên quan đến mẹ, mẹ Ngài tướng mạo vô cùng đoan trang. “Xá Lợi Phất tại Phật Thanh Văn đệ tử trung, trí huệ đệ nhất” (Trong các hàng đệ tử Thanh Văn của đức Phật, ngài Xá Lợi Phất trí huệ bậc nhất).

Tiếp theo đó là một câu chuyện nhỏ, ở đây bèn tiện dịp nhắc tới: “Tại mẫu thai thời, năng linh mẫu đắc diệu biện, thắng ư năi cữu Câu Hy La” (Lúc c̣n trong thai, Ngài đă khiến cho mẹ nói năng hùng hồn hơn cả ông cậu Câu Hy La), vị này về sau cũng chứng A La Hán. Trong kinh Lăng Nghiêm có kể câu chuyện này. Cậu của Ngài là tôn giả Câu Hy La (Kaustthila) biện tài vô ngại, chị của vị này là mẹ ngài Xá Lợi Phất. Mỗi lần biện luận, bà đều căi thua em trai, người em trai bà ta quả thật rất tài giỏi. Nhưng sau khi bà có mang Xá Lợi Phất, đột nhiên biện tài nâng cao trên một mức độ to lớn; hễ cùng Câu Hy La biện luận, Câu Hy La thường thua cuộc! Do vậy, Ngài nghĩ: “Nói chung, đây chẳng phải là biện tài của chị, bà ta mang thai đứa bé này nhất định nó là người hết sức có trí huệ”. Ngài nói với chị như vậy, sau này quả nhiên chẳng sai! Đứa bé ấy đúng là trí huệ bậc nhất.

      Quư vị thấy phần kế tiếp nêu lên hành trạng của ngài Xá Lợi Phất. “Bát tuế đăng tọa” (tám tuổi lên giảng ṭa), lên ṭa giảng kinh là một tiểu Sa Di, tiểu Sa Di giảng kinh, A La Hán đều ở bên cạnh nghe. “Thập lục xuất quốc, nghị luận vô song. Thất nhật chi nội, biến đạt Phật pháp” (mười sáu tuổi đi các nước, nghị luận chẳng ai sánh bằng. Trong ṿng bảy ngày, hiểu trọn Phật pháp). Ở đây, “biến đạt Phật pháp” bao hàm ư nghĩa đại triệt đại ngộ. Mười sáu tuổi vẫn c̣n là một thiếu niên, đă thông đạt trọn khắp Phật pháp. V́ vậy, phàm phu thành Phật đúng là trong một niệm. Tại Trung Quốc, Thiền Tông Lục Tổ Huệ Năng thông hiểu trọn khắp Phật pháp lúc hai mươi bốn tuổi, c̣n ngài Xá Lợi Phất là mười sáu tuổi. Trong kinh Đại Thừa, đức Thế Tôn cũng bộc lộ thân phận của tôn giả: Ngài là cổ Phật tái lai, cùng với Mục Kiền Liên, hai vị ấy đều đă thành Phật, đến thị hiện trong thế gian này, thị hiện làm đệ tử Thanh Văn của Thích Ca Mâu Ni Phật. Đấy là các vị Pháp Thân đại sĩ, hoặc chư Phật Như Lai, nên dùng thân ǵ để độ được bèn hiện thân ấy. Các Ngài là những người đến giúp đỡ, đúng là “một vị Phật ra đời, ngàn vị Phật ủng hộ”, từ chỗ này chúng ta có thể thấy [điều ấy]. Những bậc giác ngộ trong Phật pháp, họ chẳng có ư niệm ham cao, chuộng xa, chẳng bị ghen ghét chướng ngại. Pháp duyên của Thích Ca Mâu Ni Phật chín muồi, đến xuất hiện trong thế gian này dưới thân phận Phật, Ngài xuất hiện một ḿnh có thể độ nổi chúng sanh hay chăng? Lúc ấy sẽ chẳng thể độ, nhất định phải có rất nhiều người phối hợp với Ngài, đến giúp đỡ, những ai sẽ giúp đỡ? Nhất định là những vị nội hạnh (thông hiểu, lăo luyện), chứ những kẻ lơ mơ ngoài ŕa sẽ chẳng thể giúp được! Những vị [nội hạnh] ấy tuyệt đại đa số là chư Phật Như Lai, một số ít là Pháp Thân Bồ Tát, Pháp Thân Bồ Tát đều là Địa Thượng Bồ Tát.

      Tức là trong bốn mươi mốt địa vị như kinh Hoa Nghiêm đă nói, các Ngài thuộc tầng lớp cao nhất là Thập Địa Bồ Tát, chẳng phải là Tam Hiền. Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng được gọi chung là Tam Hiền, tập khí vô thỉ vô minh của Tam Hiền Bồ Tát vẫn c̣n nồng đậm, Thập Địa Bồ Tát rất mỏng, ngày càng gần với quả vị Diệu Giác viên măn rốt ráo, [các đệ tử Phật] là những vị ấy. Chúng ta hiểu rơ, kinh đă nói tỉ mỉ, Sơ Trụ Bồ Tát thị hiện trong lục đạo, hay trong mười pháp giới, có năng lực thị hiện ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp, thị hiện thân Phật trong lục đạo để phổ độ chúng sanh. Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện thân Phật, Lục Tổ Huệ Năng đại sư thị hiện thân tỳ-kheo, ở đây, tôn giả Xá Lợi Phất cũng thị hiện thân tỳ-kheo. Chúng ta phải biết, phải học tập điều này, phải có tâm rất hoan hỷ, tâm thanh tịnh, tâm b́nh đẳng, tâm giúp cho người khác thành tựu những điều tốt đẹp. Người ta làm chuyện tốt đẹp cần có kẻ khác chạy việc vặt, cần có người phục vụ, thấy không có ai [làm những chuyện đó] th́ chúng ta phải đến [giúp đỡ]. C̣n có những vị thị hiện làm quốc vương, đại thần, trưởng giả, cư sĩ để ngoại hộ, những vị ấy chẳng phải là phàm nhân!

      “Bổn kinh thuyết thử nhất thiết thế gian nan tín chi pháp, duy đại trí giả thỉ năng thâm tín bất nghi. Cố liệt Thượng Thủ, cẩn thứ Kiều Trần Như” (Kinh này nói đến pháp hết thảy thế gian khó tin được, chỉ có bậc đại trí mới có thể tin tưởng sâu xa chẳng nghi ngờ. V́ vậy, tên Ngài được kể trong các vị Thượng Thủ, ngay sau ngài Kiều Trần Như). Ngài được xếp vào thứ hai, trong hội này, đức Thế Tôn thuyết pháp ǵ? Pháp môn này là vô thượng vi diệu pháp trong [hết thảy các pháp] thế gian lẫn xuất thế gian. V́ sao? Có thể làm cho chúng sanh chưa đoạn tập khí phiền năo thành Phật trong một đời, đúng là khó tin. Một phẩm tập khí phiền năo chưa đoạn, làm sao có thể thành Phật ngay trong thân này? Khó tin th́ ai có thể tin? Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát chẳng tin. V́ thế, họ phải đi ḷng ṿng, ḷng ṿng là “thụ xuất” (thoát khỏi tam giới theo chiều dọc). Con đường này là hoành xuất, tức là thoát ra từ ngay trong lục đạo! Quư vị nghĩ thử xem thoát ra theo chiều dọc khó dường nào? Quư vị phải trải qua Dục Giới Thiên, Sắc Giới Thiên, Vô Sắc Giới Thiên, Tứ Thiền, Bát Định. Quư vị c̣n phải trải qua tứ thánh pháp giới mới có thể thoát ra. Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật trong tứ thánh pháp giới phải đoạn sạch sành sanh vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, mới có thể vượt thoát mười pháp giới. Chuyện này cần thời gian bao lâu, thời gian lâu chừng nào? Kinh Phật thường nói là vô lượng kiếp. Trên thực tế, thời gian chẳng phải là một pháp cố định, pháp do đức Phật nói là viên dung. Đối với vô lượng kiếp, có thể nói là kẻ kém may mắn sẽ thật sự phải trải vô lượng kiếp. Vô lượng kiếp nên nói như thế nào? Nhân đạo trong lục đạo là chỗ mấu chốt, hễ chuyển biến chỗ đó, sẽ nhất định thành Phật trong nhân đạo. Trong lục đạo, chưa hề nghe nói Phật có thể thị hiện thân Phật để thuyết pháp trong đường nào khác, không có! Lục đạo chúng sanh có cảm, Phật đều ứng, nhưng chẳng thể dùng thân Phật để xuất hiện, chỉ có trong nhân gian, nhân gian là mấu chốt!

      Con người tạo tác các thứ nghiệp. Người tạo thiện nghiệp, quả báo là trong ba đường lành, v́ sao vào trong ba đường lành? Để tiêu phước báo. Phước chẳng phải là chuyện tốt, người thế gian nghĩ nó là chuyện tốt đẹp, nhưng người tu đạo biết nó chẳng phải là chuyện tốt. Tạo tác hết thảy nghiệp bất thiện th́ sao? Vào trong tam ác đạo để tiêu nghiệp bất thiện. Do vậy, quư vị biết nhân gian, cơi trời, lục đạo luân hồi, nói xuyên suốt là chẳng qua để “tiêu nghiệp” mà thôi. Nếu quư vị chẳng tạo nghiệp, lục đạo sẽ chẳng có, quư vị vĩnh viễn thoát ĺa lục đạo, thật đấy, chẳng giả tí nào. Chẳng tạo “chấp trước” như kinh Hoa Nghiêm đă nói, tức là chẳng c̣n chấp trước hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian, đoạn Kiến Tư phiền năo, lục đạo bèn chẳng c̣n. Lục đạo không có, tứ thánh pháp giới sẽ hiện tiền, vẫn là bốn tầng bậc. Thấp nhất là Thanh Văn A La Hán, ở nơi ấy, toàn bộ đều là A La Hán. Lên cao hơn là Bích Chi Phật, lên cao hơn nữa Bồ Tát, lên cao hơn nữa là Phật, Phật ở đây là Phật trong mười pháp giới. Trong Tịnh Độ, tứ thánh pháp giới được gọi là cơi Phương Tiện Hữu Dư, lục đạo được gọi là cơi Phàm Thánh Đồng Cư; vượt thoát mười pháp giới mới là cơi Thật Báo Trang Nghiêm. Những cơi ấy do đâu mà có? Toàn là do tâm của chính ḿnh biến hiện, phải nhớ điều này! Bốn cơi, mười pháp giới toàn là do “tâm hiện, thức biến”, ngoài tâm không có pháp, ngoài pháp chẳng có tâm, thật đấy, chẳng giả đâu! Chính ḿnh biến hiện cho chính ḿnh thụ dụng, ngay cả địa ngục A Tỳ cũng do chính ḿnh biến hiện. Tâm hạnh quư vị bất thiện bèn biến hiện cảnh giới ấy, quư vị đến đó chịu khổ, đấy là tự làm, tự chịu!

      V́ thế, hiểu đạo lư này, chúng ta bèn hiểu rơ ư niệm có quan hệ quá lớn, khởi tâm động niệm chớ nên có ác niệm, ác niệm là phiền năo. Đừng nên sanh phiền năo, sanh phiền năo sẽ có quả báo, chẳng phải là sanh xong rồi thôi! Dẫu thân và miệng chúng ta chưa làm, mới dấy lên một niệm, niệm ấy đă kết thành nghiệp, chẳng cần đến thân và miệng. Hễ khởi tâm động niệm, quư vị đă tạo nghiệp. Trong A Lại Da có chủng tử của nghiệp tập ấy, gặp duyên, quả báo sẽ hiện tiền. Do vậy, chẳng đoạn một phẩm phiền năo, cớ sao có thể thành Phật? Há có đạo lư ấy? Ngay cả Tu Đà Hoàn mà c̣n chưa đạt được, làm sao có thể thành Phật cho được? Thật vậy! Trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư của Tây Phương Cực Lạc thế giới, chưa đoạn phiền năo, chữ “phiền năo” [ở đây] nhằm nói tới Kiến Tư phiền năo chưa đoạn. Sanh đến thế giới Cực Lạc, dẫu là hạ hạ phẩm văng sanh trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư, vẫn là A Duy Việt Trí Bồ Tát. Trong lời nguyện thứ mười hai, A Di Đà Phật đă nói như vậy, A Di Đà Phật chẳng nói lời giả! A Duy Việt Trí là Bồ Tát như thế nào? Bồ Tát đă đạt ba món Bất Thoái. Chúng ta biết Vị Bất Thoái, vừa mới chứng đắc Vị Bất Thoái là Tu Đà Hoàn; do vậy, Tu Đà Hoàn là thánh nhân; tuy là vị thánh nhỏ nhoi mới đoạn hết tám mươi tám phẩm Kiến Hoặc, chứng Vị Bất Thoái, Vị Bất Thoái là ǵ? Chẳng lui sụt thành phàm phu, chẳng đọa trong tam ác đạo. Tuy chưa thoát khỏi lục đạo luân hồi, vị ấy đă được đảm bảo chẳng đọa trong tam đồ, bảy lần sanh tử trong cơi trời hay trong nhân gian, bất luận có Phật xuất hiện trên thế gian hay không, vị ấy đều có thể chứng đắc quả A La Hán, luôn có thể chứng quả. Cũng tức là tuy vị ấy chưa vượt thoát lục đạo luân hồi, Ngài là thánh nhân, chẳng phải là phàm nhân, Vị Bất Thoái mà! Hạnh Bất Thoái là Bồ Tát. Bồ Tát phát Bồ Đề tâm, Hạnh bèn chẳng thoái; chẳng phát Bồ Đề tâm sẽ thoái chuyển. Bồ Đề tâm chẳng dễ phát. Địa vị cao nhất là Niệm Bất Thoái, chúng ta thường nói [Niệm Bất Thoái] là “một mục tiêu, một phương hướng, dũng mănh tinh tấn”, đấy là ai? Pháp Thân Bồ Tát, vượt thoát mười pháp giới.

      Từ giáo pháp Đại Thừa, chúng ta thấy chân tướng sự thật ấy, mới hiểu pháp môn này thật sự khó tin. Thật sự khó tin nhưng chúng ta tin, chúng ta tin vào khái niệm ấy có đúng hay không? Ḷng tin ấy có tầng cấp, quư vị thấy phàm nhân chúng ta thường nói “mê tín, chánh tín, và chân tín”, tức là ba cấp bậc. Kẻ mê tín đông đảo, thấy kẻ khác tin nên chúng ta cũng tin, trong kinh luận Tịnh Độ rốt cuộc giảng lư luận ǵ, không biết! Do không biết, nên gọi là mê tín. Quư vị thật sự hiểu rơ ràng, minh bạch kinh giáo th́ gọi là chánh tín. Chánh tín vẫn chưa phải là chân tín. Tuy hiểu minh bạch, rơ ràng, vẫn chưa muốn sanh về, vẫn c̣n rất lưu luyến thế gian này, đó chẳng phải là chân tín; chẳng thể nói quư vị mê tín, v́ quư vị thật sự hiểu rơ ràng, minh bạch. Khi nào t́nh chấp của quư vị đối với lục đạo, cơi trời, nhân gian đều buông xuống hết, quư vị sẽ thật sự tin tưởng, chỉ có người chân tín mới có thể thành tựu trong một đời, v́ sao? Người ấy chắc chắn văng sanh. Nếu quư vị hỏi v́ sao người ấy có thể chắc chắn văng sanh? Người ấy chẳng hề có mảy may vướng mắc thế gian này, đạo lư là như thế đó! Không ai chướng ngại quư vị, mà là chính ḿnh chướng ngại chính ḿnh. V́ sao quư vị vẫn tham luyến thế gian này? Nói thật ra, do tập khí đấy! Cổ thánh tiên hiền Trung Quốc gọi [tập khí] là “tập tánh”, bổn tánh vốn thiện, tập tánh bất thiện. Tập tánh là từ vô thỉ kiếp cho tới nay, đời đời kiếp kiếp dưỡng thành, chẳng phải chỉ trong một đời này, mà là đời đời kiếp kiếp, rất phiền phức. Do vậy, phải có tâm dũng mănh mới có thể đoạn dứt chuyện ấy, cắt đứt hoàn toàn. Thật sự nhận biết Tây Phương Cực Lạc thế giới, mảy may hoài nghi đều không có, quyết tâm sanh về thế giới Cực Lạc trước để thân cận A Di Đà Phật.

      Thân cận để làm ǵ? Một mục tiêu là đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh trong hội của A Di Đà Phật, tới thế giới Cực Lạc để làm chuyện ấy. Triệt ngộ th́ quư vị sẽ sanh vào cơi Thật Báo Trang Nghiêm trong Tây Phương Cực Lạc thế giới; nhưng thế giới Cực Lạc rất kỳ diệu, bốn cơi chẳng chướng ngại, bốn cơi dung hội cùng một chỗ, đấy là chỗ chẳng thể nghĩ bàn. Thích Ca Thế Tôn cũng có bốn cơi, nhưng bốn cơi của Ngài có chiều không gian khác nhau, Ngài ngự trong cơi Thật Báo. Pháp Thân Bồ Tát trong cơi Thật Báo biết chúng ta tồn tại, nhưng chúng ta chẳng biết các Ngài ở đâu. Đó là có chướng ngại, không chỉ Lư Sự chướng ngại, mà c̣n là Sự Sự chướng ngại; nhưng trong cơi Thật Báo bèn hoàn toàn đột phá [những chướng ngại ấy]. Trong cơi Phương Tiện, Lư Sự vô ngại, nhưng Sự Sự có ngại. Tới cơi Thật Báo, hết thảy chướng ngại đều không có! Trong đời này, chúng ta có duyên phận thù thắng như vậy, cho thấy thiện căn trong đời quá khứ sâu dầy. Nếu chẳng phải là thiện căn rất sâu dầy, quư vị làm sao có thể gặp gỡ pháp môn này? Người học Phật đông lắm, nhưng mấy kẻ gặp gỡ pháp môn này? Khi gặp gỡ, có nhận biết hay không? Có liễu giải hay chăng? Nhận biết, liễu giải, thật sự liễu giải, chẳng ai không phát tâm. Phát nhất niệm tâm cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, tâm ấy được gọi là Vô Thượng Bồ Đề tâm, trong Di Đà Kinh Yếu Giải, Ngẫu Ích đại sư đă giảng như vậy. Ấn Quang đại sư đọc câu ấy, bội phục năm vóc sát đất, [bảo]: “Chẳng phải là bậc tái lai sẽ chẳng thể thốt lên lời ấy”. Chúng ta hiểu Bồ Đề tâm, nói theo cách hiện thời, [Bồ Đề tâm] là trọn đủ chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác, từ bi, nhất niệm chân tâm hướng tới Tịnh Độ, năm thứ ấy thảy đều trọn đủ. V́ thế, danh tự của ngài [Xá Lợi Phất được ghi] ở đây nhằm nói rơ, chẳng phải là đại trí huệ th́ làm sao có thể tin tưởng sâu đậm, chẳng nghi ngờ pháp môn này? “Danh liệt đệ nhị” (tên được nêu thứ hai): Đệ nhất đương nhiên quan trọng hơn, trong phần trước chúng ta đă học, vị thứ nhất là tôn giả Kiều Trần Như. Tôn giả Kiều Trần Như tượng trưng cho đệ tử bậc nhất của đức Thế Tôn. Tại Lộc Dă Uyển, Thích Ca Mâu Ni Phật vừa mới thuyết pháp, tại Lộc Dă Uyển độ năm tỳ-kheo, Ngài là người đầu tiên chứng A La Hán, nói rơ pháp môn này là pháp thành Phật bậc nhất, chẳng phải là chứng A La Hán, mà là thành Phật bậc nhất. V́ thế, tên của Ngài được xếp vào bậc nhất.

      Chúng ta lại xem vị thứ ba, “tôn giả Đại Mục Kiền Liên, tức A Di Đà kinh trung Ma Ha Mục Kiền Liên” (tôn giả Đại Mục Kiền Liên, tức Ma Ha Mục Kiền Liên trong kinh A Di Đà), Ma Ha là tiếng Phạn, dịch sang nghĩa tiếng Hán là Đại. Ma Ha có nghĩa là lớn, “Mục Kiền Liên thị tánh, dịch vi” (Mục Kiền Liên là họ, dịch là), Mục Kiền Liên là tiếng Phạn, dịch sang chữ Hán có nghĩa là Tán Tụng, thông thường rất ít nhắc đến ư nghĩa này, mà nói là “Thái Thục, Lai Bặc Căn đẳng” (Thái Thục, Lai Bặc Căn v.v...), đấy mới là ư nghĩa gốc trong tiếng Phạn, nêu ra nguyên do danh xưng của ḍng họ Ngài. Thục () thuộc loại đậu[1], chúng ta thường gọi Lai Bặc (萊菔) là La Bặc (蘿蔔: củ cải). Chúng ta biết ḍng họ của Ngài là nông dân. Nh́n từ ư nghĩa này, nay chúng ta nói họ là “thái nông”, tức nông dân trồng rau. “Kỳ tộc xuất gia nhân đa, cố ư tôn giả tánh thị quán dĩ Đại tự, viết Đại Thái Thục (Đại Mục Kiền Liên) dĩ giản biệt chi” (ḍng họ ấy có nhiều người xuất gia, nên trước tên họ của tôn giả, thêm chữ Đại, thành Đại Thái Thục (Đại Mục Kiền Liên) để phân biệt). Thời cổ, nông dân rất khổ cực, cũng chẳng thể rất giàu có, người Trung Quốc bảo “nhờ trời kiếm miếng ăn”, chắc chắn họ là người thật thà, thuần phác. Người đến thế gian này, xuất hiện trong thế gian này để theo đuổi công việc ấy, suốt đời làm việc, ít tạo bất thiện nghiệp, thiện nghiệp tích lũy dần dần. Thiện nghiệp là ǵ? Những nhà nông ấy trồng trọt, thâu hoạch mùa màng, nuôi sống hết thảy đại chúng trong xă hội, âm thầm cày cấy. Con người có tập khí này, động vật cũng có tập khí này. Họ chỉ mong mùa màng sung túc, hằng ngày đều nghĩ tới chuyện ấy. V́ thế, đối với nghề nghiệp này, có thể là cả mấy đời đều làm nghề ấy, chẳng nghĩ đổi nghề, mà cũng có thể là hoàn cảnh khách quan cũng không cho phép. Do đức Phật nói “hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng”, chúng ta có thể lư giải: [Ḍng họ ấy] có nhiều người xuất gia, chắc chắn là xuất gia tu hành thành tựu thù thắng, mọi người thấy vậy nhất định rất hâm mộ, có mấy vị thành tựu sẽ khơi gợi rất nhiều người học tập theo. V́ thế, trong danh xưng của tôn giả, phải thêm chữ Đại vào trước chữ Mục Kiền Liên để phân biệt, gọi “Đại Mục Kiền Liên” là tôn xưng Ngài.

      “Kỳ danh vi Câu Luật Đà, phụ vi Tướng Quốc” (Tên Ngài là Câu Luật Đà (Kolita), cha làm Tướng Quốc), chúng ta biết thuở ấy Trung Quốc chưa thống nhất, đời Châu có tám trăm chư hầu, đều là những bộ lạc nhỏ. Ấn Độ cũng giống như thế. Cha của Thích Ca Mâu Ni Phật là quốc vương, tức quốc vương nước Ca Tỳ La Vệ (Kapilavatsu). Nước này hiện thời thuộc địa bàn nước Ni Bạc Nhĩ (Nepal), dấu tích xưa hăy c̣n. Đến Ấn Độ triều thánh, rất nhiều người nhất định đến thăm nơi Thích Ca Mâu Ni Phật giáng sanh. Nước ấy không lớn, nói chung c̣n nhỏ hơn một huyện hiện thời. Một hương, một trấn của chúng ta hiện thời vào thuở ấy là một tiểu quốc. Cha của ngài Đại Mục Kiền Liên làm Tướng Quốc, cũng là trợ thủ của quốc vương, có thân phận giống như Tổng Lư (Thủ Tướng) hiện thời. “Tùng Câu Luật Đà thụ thần kỳ cầu đắc tử, nhân dĩ danh chi” (do cầu khấn thần cây Câu Luật Đà mà có con; v́ thế, đặt tên như vậy). Cha Ngài cầu con từ thần cây, kết quả sanh được một con trai, nên dùng chữ Câu Luật Đà để đặt tên. “Ư Phật đệ tử, thần thông đệ nhất” (thần thông bậc nhất trong các vị đệ tử đức Phật), trong các vị đệ tử đức Phật, Ngài có thần thông đệ nhất. Các đệ tử đức Phật có thần thông [nhưng không bộc lộ], riêng Ngài thường thể hiện thần thông; nhưng trong kinh giáo, Thích Ca Mâu Ni Phật dạy chúng ta chẳng được dùng thần thông để làm Phật sự. V́ sao? Nếu dùng thần thông để làm Phật sự, sẽ có kẻ giả mạo Phật, Bồ Tát, sẽ có chuyện ấy phát sanh. Yêu ma, quỷ quái đều có thần thông. Đức Phật dùng giảng kinh, giáo học, bọn chúng sẽ chẳng có cách nào. Đức Phật dùng giới luật, giảng kinh, giáo học, dùng các phương pháp ấy để giáo hóa chúng sanh, đấy là chánh pháp tồn tại trong thế gian, tà môn, ngoại đạo chẳng thể làm được.

       Trong Trí Độ Luận có mấy câu như thế này: “Như Xá Lợi Phất ư trí huệ trung đệ nhất, Mục Kiền Liên thần túc đệ nhất” (như Xá Lợi Phất là trí huệ bậc nhất, Mục Kiền Liên thần túc bậc nhất). Người Trung Quốc thường gọi Thần Túc là “thông linh”, thuộc loại cảm ứng. Trong sáu thứ thần thông, Thần Túc Thông cao nhất, có thể phi hành, biến hóa. Người Hoa đọc Tây Du Kư, thấy Tôn Ngộ Không thị hiện thần thông, bất quá thần thông rất bé. Quư vị thấy sách viết hắn chỉ có bảy mươi hai phép biến hóa. Đúng ra, bảy mươi hai chẳng phải là con số. Nếu là con số, năng lực của hắn vô cùng hữu hạn. Nếu nói theo ư nghĩa biểu thị pháp, sẽ nói thông suốt, thần thông rộng lớn, đúng là tự tại vô ngại. Trong các đệ tử đức Phật, Mục Kiền Liên có năng lực ấy. “Hựu Xá Lợi Phất thị Phật hữu diện đệ tử, Mục Kiền Liên thị Phật tả diện đệ tử” (Lại nữa, Xá Lợi Phất là đệ tử bên phải Phật, Mục Kiền Liên là đệ tử bên trái Phật). Bên phải là trí huệ, bên trái là thần thông, trí huệ và thần thông hợp lại bèn viên măn, năng lực giáo hóa chúng sanh đúng là tự tại vô ngại. “Tôn giả thần thông thậm quảng, lệ như cử nhất thành Thích chủng, thượng thăng Phạm thiên” (Tôn giả thần thông rất rộng, chẳng hạn như đem toàn bộ người họ Thích trong một thành bay lên trời Phạm thiên). Chuyện này là do Lưu Ly Vương (Virūdhaka) diệt ḍng họ Thích Ca[2], đương nhiên đức Thế Tôn cũng rất đau buồn, nhưng không có hành động ǵ, v́ sao? Thích Ca Mâu Ni Phật biết đấy là nhân quả, quá khứ tạo tác cái nhân bất thiện, đời này nhất định phải chịu quả báo ấy, không thể tránh được. Ngài Mục Kiền Liên không biết cái nhân ấy [th́ cái nhân ấy] nhất định là đă rất lâu, v́ như thường nói “A La Hán có thể biết năm trăm đời quá khứ, và năm trăm đời vị lai”. Chuyện này chắc chắn phải lâu hơn năm trăm đời, nên sức thần thông của A La Hán chẳng thấu đạt. Đức Phật biết, hiểu rất rơ ràng, khuyên dạy người trong họ hăy tránh né. Do lẽ đó, khi ấy, ngài Mục Kiền Liên bèn cứu năm trăm người, đặt trong bát, đem bát ấy lên cơi Đại Phạm Thiên. Đại Phạm Thiên là Sơ Thiền, đặt ở nơi ấy để lánh nạn, chờ cho chuyện ấy qua đi. C̣n ḍng họ Thích Ca th́ sao? Nghe lời Thích Ca Mâu Ni Phật, một nhóm bỏ trốn. Nhóm này trốn sang Tây Tạng v́ Nepal ở phía Nam núi Himalayas, vượt sang bên kia núi là Tây Tạng. Sau khi họ trốn tới Tây Tạng, từ đấy chẳng c̣n trở lại nữa. V́ thế, ḍng họ Thích Ca c̣n có một chi họ hiện đang sống ở vùng Hậu Tạng[3]. Năm xưa, Chương Gia đại sư kể cho tôi biết chuyện này. Ngài Mục Kiền Liên cứu những người ấy, đưa lên Đại Phạm Thiên. Thích Ca Mâu Ni Phật bảo Ngài: “Ông hăy đi xem coi người trong bát hiện thời như thế nào?” Ngài lên xem, hoàn toàn hóa thành máu loăng, không ai c̣n sống. Đức Phật dạy: “Định nghiệp! Phật cũng chẳng có năng lực xoay chuyển!”

      Những sự thị hiện này cũng nhằm bảo chúng ta: Chúng ta là người thật sự học Phật, sống trong thế gian này, từng ly, từng tư, bất luận thuận cảnh, nghịch cảnh, thiện duyên, ác duyên, thảy đều là chư Phật Như Lai đang thị hiện, hay năm mươi ba lần tham học của Thiện Tài đồng tử, [cách nghĩ như vậy] quyết định là chính xác. Thị hiện điều ǵ vậy? Quư vị giết người khác, chắc chắn người ta sẽ giết quư vị, oán hận chẳng giải trừ, đời đời kiếp kiếp oan oan tương báo chẳng xong. Thích Ca Mâu Ni Phật khuyên người trong họ nhất định đừng chống lại [Tỳ Lưu Ly], chớ nên có oán hận, món nợ ấy đến đây kết liễu, sau này chẳng c̣n đối địch nữa. Điều ấy chắc chắn là chính xác. Mấy ai có trí huệ như vậy, thấy địch thủ đến xâm phạm mà chẳng chống cự? Chỉ có Phật pháp biết. Chiến tranh ắt phải có nhân, có cuộc chiến tranh nào chẳng do cái nhân trước đó gây ra hay chăng? Không thể nào có chuyện ấy! Chúng ta biết quá khứ đă tạo tác tội nghiệp, những người bị sát hại trong chiến tranh, nếu chẳng giết người, mà bị kẻ khác giết, sẽ sanh lên trời, chẳng đọa tam đồ; kẻ sát nhân có tội, trong tương lai đọa tam đồ. Quư vị thấy kẻ ấy đọa tam đồ, đưa quư vị sanh lên trời. Đức Phật thấy rơ ràng chuyện này, A La Hán, Bồ Tát thấy rơ ràng: Trốn chẳng được, giết người phải đền mạng, thiếu nợ phải trả tiền, trốn chẳng được! Thiếu nợ bèn hoan hỷ trả nợ. Cách trả nợ cũng khác nhau. Có lúc quư vị cho kẻ khác mượn tiền, hắn chẳng trả lại, có thể là ǵ? Kiếp trước quư vị đă vay tiền hắn, sau khi mượn, quư vị chẳng trả, nên kẻ ấy cũng lấy lại bằng cùng một cách. Vậy th́ sao? Hoan hỷ, chớ nên ghim chuyện này trong ḷng nữa, coi như thiếu nợ hắn, đưa cho hắn. Nếu chẳng phải là thiếu nợ hắn, đời sau hắn phải trả lại quư vị. Chúng ta có muốn [như vậy] hay là không? Chớ nên! V́ sao? Nếu muốn, quư vị vẫn phải luân hồi. Quư vị chẳng luân hồi, hai bên chẳng gặp nhau, không thể tháo gỡ được! Quư vị có chịu luân hồi nữa hay không? Nếu chẳng muốn luân hồi nữa, nay ta sang thế giới Cực Lạc làm Phật, hăy một nét bút sổ toẹt. Thiếu hắn, bèn trả cho hắn; chẳng thiếu hắn th́ chẳng cần đến nữa! Tặng cho hắn, như vậy là xong! Điều ǵ cũng chẳng cần so đo, buông xuống vạn duyên, chúng ta mới tới thế giới Cực Lạc được. Chỉ cần có một chuyện, có mảy may vướng mắc sẽ chẳng xong. V́ thế, nay chúng ta sống trên thế gian này, bất luận kẻ nào đối xử với ta ra sao, chúng ta đều phải tiếp nhận, chớ nên có chút ư kiến nào, sao cũng được, chuyện ǵ cũng đều gật đầu. Đó là ǵ? Đó là đại đạo để chúng ta về Tây Phương thành Phật. Nếu chuyện tí tẹo mà vẫn so đo th́ mỗi ngày mười vạn câu Phật hiệu vẫn chẳng đáng trông cậy, tới lúc đó, quư vị không đi được! Một niệm cuối cùng vẫn so đo cùng kẻ khác, c̣n làm sao được nữa? Chúng ta nói học Phật có tiến bộ, tiến bộ là ǵ? Hết thảy đều chẳng so đo, điều ǵ thấy cũng chấp nhận được, điều ǵ cũng đều tốt đẹp, đó là tiến bộ. Đây là một ví dụ [về thần thông của ngài Mục Kiền Liên].

      Tiếp đó, lại nói đến ví dụ thứ hai: “Ngoại đạo di sơn, chế chi bất động” (ngoại đạo dời núi, ngăn trở chẳng cho lay động). Có thể dời núi hay không? Có thể dời núi, lấp biển. Hiện thời dùng máy móc, xưa kia, thật sự có thể dùng pháp thuật để thực hiện. Hiện tại, các nhà Lượng Tử Lực bảo chúng ta: Nếu ư niệm của con người có thể thật sự tập trung tại một chỗ, sức mạnh của nó sẽ chẳng thể nghĩ bàn. Nói theo lư luận là “cảnh chuyển theo tâm”. V́ thế, trên địa cầu có tai nạn, chúng ta là những kẻ sống trên đó, sức một người chẳng đủ, nhưng ư thức của tập thể sẽ có sức mạnh to lớn. Bao nhiêu người? Có thể là mấy chục người, hoặc một trăm người, sức mạnh ấy vô cùng đáng kể. Chúng ta thấy một thí dụ thực tế từ tiến sĩ Giang Bổn Thắng của Nhật Bản. Hồ Tỳ Bà (Biwa Ko)[4] là một eo biển, trong khoảng hơn hai mươi năm, eo biển ấy rất bẩn thỉu, mùi vị rất khó ngửi. Ông ta t́m hơn một trăm người, dùng phương pháp kỳ đảo. Kỳ đảo là tập trung ư niệm, t́m một vị lăo ḥa thượng cầm đầu mọi người. Văn kỳ đảo rất đơn giản: “Nước hồ trong sạch, ta yêu mến ngươi”. Quư vị thấy một câu nói đơn giản dường ấy, khiến cho mọi người thảy đều buông xuống ư niệm, trong tâm tưởng ư niệm ấy, miệng đọc câu ấy, nước hồ trong sạch. Hơn một trăm người: “Nước hồ trong sạch, ta yêu mến ngươi”, đọc câu này tiếp nối câu kia, tập trung ư niệm suốt một giờ, làm suốt một giờ. Quả nhiên ba ngày sau, nước eo biển ấy thật sự sạch sẽ, chẳng c̣n mùi hôi. Truyền thông và TV Nhật Bản đều đăng tin. Giữ được nửa năm lại trở lại t́nh trạng cũ, lại dơ bẩn. Tôi bảo ông ta: “Tốt nhất là cứ hai tháng quư vị tới đó cầu nguyện một lần, eo biển ấy nói chung sẽ có thể suốt năm chẳng dơ bẩn, chẳng có mùi hôi”. V́ thế, cầu đảo hữu dụng! Những kinh sám Phật sự trong Phật môn chúng ta, kể cả Tam Thời Hệ Niệm do chúng tôi đề xướng đều thuộc loại này, nhưng loại này trị đằng ngọn, chứ chẳng trị tận gốc. Trị tận gốc là phải chuyển biến ư niệm của chúng ta, đoạn hết thảy ác, tu hết thảy thiện; đấy là trị tận gốc. Trị tận gốc mới có năng lượng hóa giải nhiều tai nạn trên địa cầu. Trị tận gốc đ̣i hỏi giáo dục; giáo dục luân lư, đạo đức, nhân quả, tôn giáo sẽ có thể làm được. Ngài Mục Kiền Liên có thể dùng pháp thuật để chế ngự, khiến núi ấy bất động, ngoại đạo dời núi nhưng chẳng dời được, v́ ngài Mục Kiền Liên đă giằn xuống.

Tiếp đó, nói: “Cập hàng phục độc long đẳng đẳng, nan dĩ cụ thuật” (và những chuyện như hàng phục rồng độc v.v... khó thể thuật trọn). Sự tích thần thông của Ngài rất nhiều. Miệng rồng nhả hơi độc tổn hại con người, Ngài có năng lực bắt nó hàng phục. Đây là nêu ra rất nhiều ví dụ về thần thông. V́ sao đức Phật cần có đệ tử như vậy? Trong khi hướng dẫn, giáo hóa chúng sanh, có những lúc cần phải dùng đến. Bản thân đức Phật chẳng hiện thần thông, thần thông của đức Phật to hơn Mục Kiền Liên, nhưng chẳng hiện, mà để ngài Mục Kiền Liên thị hiện; khiến cho hết thảy đại chúng, từ bản thân của đệ tử Phật, sẽ liễu giải chính ḿnh sẵn có năng lượng chẳng hạn chế. Đó là bản năng trong tự tánh, là Tánh Đức của tự tánh.

      Lại xem vị thứ ba: “Tôn giả Ca Diếp, Ca Diếp tánh dă, thử dịch vi Quy hoặc Ẩm Quang, danh Tất Ba La, diệc thụ danh” (Tôn giả Ca Diếp: Ca Diếp (Kāśyapa) là họ, Hán dịch là Quy, hoặc Ẩm Quang. Ngài tên Tất Ba La (Pippali), cũng là tên một loài cây), cũng là tên một loài cây. Nhân phụ mẫu đảo ư cai thụ thần nhi sanh, cố dụng dĩ vi danh” (Do cha mẹ cầu đảo nơi thần cây ấy sanh ra Ngài, nên lấy tên cây để đặt tên). Vị này đại diện cho người truyền pháp của Tông Môn. Phật pháp phân chia tổng quát th́ có hai chi phái: Một là Tông Môn, hai là Giáo Hạ. Ngài Ca Diếp truyền Thiền Tông, ngài A Nan truyền Giáo Hạ. Bốn mươi chín năm giáo học dùng hai phương pháp ấy. Đức Phật dạy kẻ thượng thượng căn học Thiền, c̣n đối với kẻ trung hạ căn, đức Phật dạy họ học Giáo; thuở ấy, có hai loại căn tánh như thế. Nay chúng ta gọi người thượng thượng căn là “học tṛ thiên tài”, ngộ tánh đặc biệt cao, thật sự là “nghe một, ngộ cả ngàn”. Loại học tṛ này rất dễ dạy, giống như ngài Đại Ca Diếp là “nghe một, ngộ cả ngàn”. Ba căn thượng, trung, hạ giống như chúng ta đi học trong nhà trường hiện thời, từ Tiểu Học, Trung Học, Đại Học tiến dần theo thứ tự. Quư vị thấy đức Phật suốt đời giảng kinh, lúc đại triệt đại ngộ, giảng bộ kinh đầu tiên là Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, giảng kinh ấy trong Định. Người thế gian chúng ta không thấy, người thế gian thấy Thích Ca Mâu Ni Phật ở dưới cội Tất Bát La (Pippala Vrksha), tức là loại cây hiện thời gọi là cây Bồ Đề, Ngài nhập Định dưới cội cây. Kinh chép là mười bốn ngày, cũng có kinh nói là hai mươi mốt ngày, đức Phật nhập Định dưới cội cây. Ai biết Ngài đang giảng kinh Hoa Nghiêm tại đó? V́ vậy, hiện thời Nam Truyền Tiểu Thừa chẳng thừa nhận có Đại Thừa, họ bảo Đại Thừa chẳng phải do đức Phật nói. Họ thừa nhận Đại Thừa Phật pháp do ai tạo? Long Thọ Bồ Tát, [Tiểu Thừa cho rằng] kinh Hoa Nghiêm do Long Thọ Bồ Tát giảng, chẳng phải do đức Phật nói.

      Sau khi đức Phật diệt độ sáu trăm năm, tại Ấn Độ xuất hiện ngài Long Thọ. Trong kinh, đức Phật có tiên đoán, có bài kệ tiên đoán đến lúc ấy sẽ xuất hiện ngài Long Thọ là Sơ Địa Bồ Tát. Ngài quả thật thông minh, trong ba tháng thông đạt hết thảy các pháp, đối với các pháp do Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói trong bốn mươi chín năm, Ngài học xong trong ba tháng. Thế là tâm ngạo mạn dấy lên, cảm thấy trọn khắp Ấn Độ, hiện thời nói là “cả thế giới”, chẳng ai có thể hơn nổi chính ḿnh. Do vậy, Đại Long Bồ Tát, Đại Long là Đẳng Giác Bồ Tát, dẫn ngài Long Thọ vào trong cung rồng. Đến cung rồng, thấy Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh do Thích Ca Mâu Ni Phật lúc mới thành đạo đă giảng trong Định suốt mười bốn ngày. Phân lượng bao nhiêu? “Mười tam thiên đại thiên thế giới vi trần kệ, một tứ thiên hạ vi trần phẩm!” Ngài vừa nh́n bèn choáng váng, tập khí ngạo mạn ngay lập tức chẳng c̣n nữa, những thứ Ngài đă học quá ít. V́ sao? Trong Định, thời gian và không gian đều chẳng có. V́ thế, một niệm có thể triển khai thành vô lượng kiếp, vô lượng kiếp có thể rút gọn thành một niệm. Long Thọ Bồ Tát đến nh́n, lại xem đến Trung Bổn Hoa Nghiêm, nhân gian vẫn chưa thể tiếp nhận, phân lượng quá lớn. Lại xem tới Hạ Bổn, Trung Bổn giống như bản tinh hoa, Hạ Bổn là mục lục đề yếu (tóm tắt những điểm chánh yếu). Ngài thấy bản ấy, được! Mười vạn bài kệ, bốn mươi phẩm, bèn lưu truyền bộ này trong nhân gian. Người ta rất tài giỏi, sau khi đọc xong một lần, có thể ghi nhớ toàn bộ; v́ thế, [kinh Hoa Nghiêm] do Ngài chuyển thuật (thuật lại). Đương nhiên, Ngài chẳng thêm một chữ nào vào kinh văn, Ngài có thể tụng thuộc ḷng, kinh Hoa Nghiêm do Ngài truyền. V́ thế, Nam Truyền Phật giáo chẳng thừa nhận, cho kinh ấy do chính Long Thọ Bồ Tát soạn ra, mạo nhận danh nghĩa Thích Ca Mâu Ni Phật để lưu thông.

      Đại Thừa và Tiểu Thừa cách biệt hơn một ngàn năm, mà cũng chẳng kính phục nhau! Đại Thừa coi thường Tiểu Thừa, Tiểu Thừa nói Đại Thừa chẳng đúng pháp, giả trất, chẳng thật! Chúng ta nói theo Lục Ḥa Kính, đấy là bất ḥa, Đại Thừa và Tiểu Thừa bất ḥa, đều do Thích Ca Mâu Ni Phật truyền lại mà quư vị thấy con cháu đời sau bất ḥa. Trên thực tế, nếu đều học, vấn đề bèn có thể giải quyết, chớ nên vạch giới hạn, không chịu học tập, đó là trật mất rồi! Nếu đều chịu học tập sẽ có thể dung thông. Nam Truyền Tiểu Thừa khá chấp trước, năm xưa, h́nh như là lần thứ hai hay lần thứ ba tôi sang Cát Long Ba (Kuala Lumpur), gặp một pháp sư Tiểu Thừa rất có tiếng tăm tại Nam Dương (Indonesia), bước đến hỏi tôi, trách móc Thích Ca Mâu Ni Phật, rất chẳng phục. Tôi hỏi v́ sao? Ông ta nói: “Đức Phật đă nói nếu Ngài chẳng độ hết chúng sanh sẽ chẳng thành Phật, nay tôi vẫn chưa thành Phật, cớ sao Ngài đă thành Phật trước?” Vặn hỏi tôi chuyện như thế. Tôi nói: “Thuở Phật tại thế, Ngài đă độ hết các chúng sanh, thật sự đă độ hết, ông cũng đă được Ngài độ rồi!” Ông ta ngơ ngác: “Độ tôi như thế nào?” “Ngày nay ông luôn miệng nói đến Phật, trong A Lại Da Thức của ông đă có Phật, ông có biết hay không? Đức Phật do độ chúng sanh nên đến thế gian này, chẳng phải là đă nói rất rơ ràng ư? Độ chúng sanh căn cơ chín muồi! Ông chưa chín muồi!” Giống như trồng cây, trồng một cây đào [chẳng hạn]. Tôi xách giỏ tới cây ấy hái trái đào, tôi hái quả nào? Đương nhiên hái quả chín trước. Trái nào chín trước, tôi bẻ lấy, trái chưa chín bèn đợi hai hôm sau”. Tôi nói: “Ông vẫn chưa chín muồi, lại qua hai, ba đời sau, ông sẽ chín muồi, sẽ được hái đi, chẳng phải là không độ ông, mà do ông chưa chín muồi! V́ sao chưa chín muồi? Thấy ông hời hợt, bộp chộp, chẳng phục, [đương nhiên] biết ông chưa chín muồi. Hễ chín, đức Phật sẽ đến độ ông!” Đấy là lời thật, Phật độ chúng sanh quả thật là như vậy. Căn cơ chín muồi sẽ giúp cho quư vị thành Phật, chưa chín muồi sẽ giúp quư vị chín muồi; nếu không có thiện căn, sẽ giúp quư vị gieo thiện căn, chia ra khá nhiều tầng lớp. Mỗi lần Ngài đến đều là độ khắp ba căn, lợi căn lẫn độn căn đều gồm thâu, thật sự chẳng sót một ai! Hiện thời, trên thế giới này, rất nhiều người chẳng tin Phật, bài xích Phật giáo, quư vị nói xem Phật có độ họ hay không? Thảy đều đắc độ. V́ sao? Trong đầu họ có một chữ Phật, miệng họ có thể nói đến chữ Phật. Đó là đắc độ, [do đă] có chủng tử Phật trong A Lại Da Thức. Hủy báng Phật, hăm hại Phật, trong tương lai thảy đều được độ, kinh Đại Thừa thường nói như thế!

Tiếp đó, [sách Chú Giải] trích dẫn Pháp Hoa Văn Cú, Pháp Hoa Văn Cú do Trí Giả đại sư soạn. “Kỳ tiên đại học đạo” (đời trước học đạo), đây là nói về tổ tiên của tôn giả Ca Diếp, tổ tiên Ngài học đạo, “linh quy phụ tiên đồ dĩ ứng, tùng đức mạng tộc, cố vân Quy thị” (rùa thiêng đội bản đồ của tiên ứng hiện. Tên ḍng họ được đặt theo đức hạnh, nên gọi là họ Quy). Có chuyện như thế đấy! V́ thế, tổ tông của Ngài gọi bộ tộc của ḿnh là Ca Diếp. Ca Diếp là tiếng Phạn. “Hựu vân Ẩm Quang, nhân ư Tỳ Bà Thi Phật thời” (c̣n dịch là Ẩm Quang v́ trong thời Tỳ Bà Thi Phật), đây là thời gian xa xưa, Ngài là vị Phật thứ nhất trong bảy vị Phật quá khứ. Trong thời Tỳ Bà Thi Phật (Vipashyin), đức Thế Tôn (Thích Ca Mâu Ni Phật) là Bồ Tát, đă có thành tựu kha khá. Từ kinh Phật, chúng ta đọc thấy: Trước khi thành Phật, Bồ Tát nhất định phải dùng thời gian một trăm kiếp để tu tướng hảo. Đấy chẳng phải là chấp tướng, tướng hảo thuộc về phước báo, thành Phật là trí huệ. Trí huệ viên măn, nhưng phước báo chưa viên măn sẽ không được, khi quư vị độ chúng sanh sẽ có chướng ngại. Nếu phước báo rất viên măn, người ta trông thấy ai nấy đều ưa thích quư vị, muốn tiếp xúc quư vị, sẽ độ họ dễ dàng. Nếu vừa nh́n liền chán ghét, tránh xa quư vị, quư vị chẳng thể độ họ được! V́ thế, tướng hảo là một loại phương tiện nhằm tiếp dẫn chúng sanh. Quư vị thấy thị hiện kiểu ấy, không ǵ khác, chỉ là thị hiện nhằm dạy chúng ta chẳng thể không tu phước, phước huệ viên măn mới gọi là Phật. Có huệ thiếu phước chẳng được, có phước thiếu huệ cũng không được, nhất định phải là phước huệ viên măn, biểu thị ư nghĩa này.

      Vào thuở đó, tức nhằm thời Tỳ Bà Thi Phật, tôn giả Ca Diếp “vi dă kim sư” (là thợ luyện kim). Nay chúng ta gọi là người làm đồ trang sức, giống như người hành nghề làm các món trang sức bằng vàng hiện thời. Trên đường phố Hương Cảng, chúng ta thường thấy tiệm Châu Đại Phước bán đồ trang sức, kinh doanh ngành vàng bạc, trang sức. Tôn giả là thợ kim hoàn, “dữ nhất bần nữ, cộng dĩ hoàng kim trang nghiêm Phật tượng” (cùng một cô gái nghèo dùng vàng ṛng trang hoàng tượng Phật). Dùng vàng ṛng trang nghiêm tượng Phật, tức là thếp vàng, dùng những mảnh vàng để thếp tượng Phật. “Tự nhĩ dĩ lai, cửu thập nhất kiếp, thân như hoàng kim, quang sắc hoảng diệu, yểm tế dư sắc, cố danh Ẩm Quang” (Từ đấy trở đi, trong chín mươi mốt kiếp, thân như vàng ṛng, quang sắc chói ḷa che lấp các sắc khác nên gọi là Ẩm Quang). Từ ấy tới nay, trong chín mươi mốt kiếp, Ngài đạt được quả báo. Quư vị thấy: Dùng vàng ṛng cúng dường Phật, cúng dường Phật là ǵ? Trang hoàng tượng Phật, thếp vàng tượng Phật. Hiện thời, tại Thái Lan, [tập quán này] cũng rất phổ biến. Tại Thái Lan, đối với những tượng Phật được thờ bên ngoài chùa, bên cạnh có bán vàng lá, có rất nhiều người đến mua, mua xong tự ḿnh thếp vàng, đấy là do có điển cố vậy. V́ thế, tôn giả được quả báo thân kim sắc, đắc quả báo ấy. Kim sắc có quang minh, màu sắc, quang minh chói ngời, rất mạnh, che lấp, phủ trùm các sắc khác; do đó gọi là Ẩm Quang. Ẩm () giống như nuốt, “quang thốn chư sắc, tức Ẩm Quang nghĩa” (ánh sáng nuốt mất các sắc khác, chính là ư nghĩa của chữ Ẩm Quang).

      Ở đây, trọng yếu nhất là ngài Ca Diếp biểu thị Thiền Tịnh bất nhị. Trong kinh Đại Tập, Thích Ca Mâu Ni Phật có nói một câu, xưng niệm một câu Nam Mô A Di Đà Phật là tu ǵ? Chính là tu vô thượng thâm diệu Thiền. Thích Ca Mâu Ni Phật bảo niệm Phật là vô thượng thâm diệu Thiền. Mục tiêu chung cực của Thiền là “minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật”; mục tiêu chung cực của niệm Phật cũng là điều ấy, chỉ là tới Tây Phương Cực Lạc thế giới, trong hội của A Di Đà Phật sẽ chứng đắc viên măn rốt ráo. Điều này cũng có nghĩa là tu hành trong thế giới Sa Bà có quá nhiều chướng duyên, quá nhiều chướng ngại, tam căn thượng trung hạ đều chẳng có cách nào hóa giải những chướng nạn và chướng duyên ấy. Tới thế giới Cực Lạc sẽ chẳng có chướng ngại, ở nơi ấy, mỗi ngày ở cùng một chỗ với A Di Đà Phật, quư vị tiếp xúc toàn là chư Phật Như Lai, chư thượng thiện nhân. Chúng ta biết những vị thượng thiện nhân là các Pháp Thân đại sĩ thuộc bốn mươi mốt địa vị, những người quư vị được tiếp xúc toàn là những người như vậy. V́ sao biết toàn bộ đều là [thượng thiện nhân]? Chính ḿnh cũng vậy! Sanh về thế giới Cực Lạc đều là A Duy Việt Trí Bồ Tát. A Duy Việt Trí Bồ Tát chính là bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ. Tuy người ấy chưa đoạn phiền năo, khi chưa đoạn sẽ được trí huệ và oai thần của A Di Đà Phật gia tŕ, nên trí huệ, thần thông và đạo lực của người ấy chẳng khác A Duy Việt Trí Bồ Tát, mang ư nghĩa này! Đó là pháp khó tin!

     Tiếp đó, vẫn chưa giới thiệu xong. “Tôn giả, Đầu Đà hạnh đệ nhất”, ư nghĩa này rất trọng yếu. “Đầu Đà giả, Phạn ngữ” (Đầu Đà (Dhuta) là tiếng Phạn), dịch sang nghĩa tiếng Hán là Đẩu Tẩu, hoặc Đào Thải, Đẩu Tẩu là ǵ? Khi trên thân chúng ta có tro bụi, lắc ḿnh tro bụi bèn rơi rớt, v́ thế, cũng có nghĩa là “đào thải” (gạt bỏ). “Dĩ thập nhị hạnh đào thải trần lao phiền năo” (dùng mười hai hạnh ấy để trừ bỏ trần lao phiền năo), mười hai hạnh ấy là khổ hạnh. Nói thật ra, tôn giả Đại Ca Diếp sanh trong gia đ́nh phú quư, có địa vị rất cao trong xă hội, là con em nhà giàu sang, nhưng tu khổ hạnh, đại diện cho những người tu khổ hạnh. Lúc diệt độ, đức Phật cũng dạy chúng ta “lấy khổ làm thầy, lấy giới làm thầy”, tôn giả Ca Diếp là một tấm gương tốt.

Mười hai hạnh, ở đây nói tới mười hai hạnh của Ngài, thứ nhất là “trụ A Lan Nhă”. A Lan Nhă (Aranya) là tiếng Phạn, dịch sang nghĩa tiếng Hán là Tịch Tĩnh Xứ (nơi yên vắng). A là Vô, Lan Nhă là nơi thanh tịnh, tức là nơi chẳng ồn ào. Nơi chẳng bị hoàn cảnh bên ngoài quấy nhiễu sẽ gọi là Lan Nhă. Vào thời cổ, nói chung, tiếng kêu [của động vật] là âm thanh lớn nhất, v́ nơi Phật hoạt động đều ở ngoài thành, Ngài chẳng trụ trong đô thị, luôn ở núi, rừng, bên bờ sông, những nơi ấy đều là nơi đức Phật thường du hóa. Do trong nông thôn, xă hội nông nghiệp nuôi gia súc, tiếng trâu kêu lớn nhất, Ngài lấy điều này làm tiêu chuẩn. Nơi các Ngài ở không nghe thấy tiếng trâu kêu trong thôn làng, cũng rất an tĩnh, lấy chuyện này làm tiêu chuẩn; đấy là “trụ Lan Nhă”.

Thứ hai là “thường hành khất thực”, đây là phương cách sinh hoạt của họ, mỗi ngày ra ngoài khất thực.

Thứ ba là “thứ đệ khất” (khất thực theo thứ tự), cách khất thực b́nh đẳng. Nhà này bố thí cúng dường quư vị một ít cơm, không nhất định là đầy một bát, có người chỉ cúng dường chút ít, chẳng hạn như cúng dường chừng một muỗng, ít xịt, chắc chắn chẳng đủ, sang khất thực ở nhà thứ hai, nhà thứ hai vẫn chưa đủ, đến nhà thứ ba. Đức Phật cho phép quư vị khất thực bảy nhà. Bảy nhà không đủ, chẳng thể đến nhà thứ tám. Đến nhà thứ tám là quư vị có tâm tham. Nếu một nhà, hai nhà đă đủ, quư vị chẳng thể đến nhà thứ ba. Đây là quy củ khất thực, phải tuân theo quy củ này. Khất thực theo thứ tự là b́nh đẳng.

      Thứ tư là “nhật trung nhất thực” (giữa trưa ăn một bữa), mỗi ngày chỉ có một lần ra ngoài khất thực.

Thứ năm là “tiết lượng thực” (ăn có chừng mực); bởi lẽ, Phật pháp thật sự là pháp b́nh đẳng. Khất thực trong Phật pháp, xin được một bát cơm có phải là xin được bèn ăn ngay hay không? Vừa đi vừa ăn trông không đẹp mắt, chắc chắn người ta sẽ coi thường quư vị. Sau khi xin xong, trở về tăng đoàn, chẳng hạn như cùng tụ tập dưới cội cây, dồn cơm chung lại, sau đó, chính ḿnh cần bao nhiêu bèn xớt lấy bấy nhiêu, ăn có chừng mực. Do vậy, đúng như cổ nhân Trung Quốc đă nói: “Nhất bát thiên gia phạn” (một bát cơm ngàn nhà), chẳng phải là giả. Quư vị thấy chúng thường trụ trong tăng đoàn, Thường Tùy Chúng một ngàn hai trăm năm mươi lăm người, kể thêm Thích Ca Mâu Ni Phật thành một ngàn hai trăm năm mươi sáu người, thảy đều ra ngoài khất thực, đúng là “cơm ngàn nhà”, khi trở về, dồn chung một chỗ, lợi ḥa đồng quân! Quư vị xin được bát cơm ngon, người kia xin được cơm dở hơn một chút, gộp chung lại, thực hiện lợi ḥa đồng quân, là tăng đoàn Lục Ḥa Kính.

Thứ sáu, “quá trung bất ẩm tương”, điều này chẳng thể hiểu là giờ Ngọ, v́ nếu hiểu là giờ Ngọ sẽ không thích đáng. “Quá trung” là sau giữa trưa, nếu hiểu là giờ Ngọ th́ tại Trung Quốc giờ Ngọ từ mười một giờ sáng đến một giờ chiều. Hơn nữa, thời gian giữa trưa mỗi ngày khác nhau, phải sai lệch vài phút, sai lệch từ ba đến bốn phút, mỗi ngày đều có chênh lệch. Trước kia, dùng Nhật Quỹ (Sundial, đồng hồ mặt trời) để đo bóng nắng coi khi nào là giữa trưa. Hiện thời th́ sao? Hiện thời, đài thiên văn phát hành nhật lịch, tức thiên văn nhật lịch (astronomical almanac), mỗi ngày đều ghi chép rất rơ ràng, giữa trưa ngày hôm nay là mấy giờ, mấy phút, mấy giây. “Quá trung bất ẩm tương” (sau giữa trưa không được uống chất tương), có thể uống nước, Tương (漿) là ǵ? Có chất trầm lắng, như sữa ḅ, hoặc nói như người Trung Quốc là sữa đậu nành, loại này có chất trầm lắng. Nước đường th́ được, nước đường chẳng trầm lắng, mật ong pha với nước, có thể dùng. Sau giữa trưa, hết thảy những thứ trầm lắng đều không ăn.

      Thứ bảy, “trước phấn tảo y” (mặc áo phấn tảo), phấn tảo y (糞掃衣) là ǵ? Quần áo của người khác đă mặc rách, chẳng cần nữa, vứt đi, quư vị nhặt lấy, lượm lấy những thứ nhất định c̣n có thể dùng, lọc ra, những chỗ rách nát không thể dùng bèn cắt bỏ, chỗ có thể dùng th́ giữ lại, trong tương lai, đă gom góp được khá nhiều, bèn chằm từng miếng lại; đấy chính là ca-sa hiện thời. Với những miếng vải nhỏ th́ quư vị may được y hai mươi lăm điều, miếng lớn th́ may y bảy điều, hoặc y năm điều. V́ thế, y sau khi may xong phải đem nhuộm màu. Chẳng nhuộm màu sẽ rất khó coi, chất liệu khác nhau, màu sắc khác nhau. Nhuộm cho chúng có cùng màu là được rồi. Nhuộm thành màu cà-phê nên gọi là “nhiễm sắc y”.

Thứ tám, “đản tam y” (chỉ có ba y), Ấn Độ là xứ nhiệt đới, không có bốn mùa, chỉ có một mùa, nên ba y là đủ rồi. Buổi tối nghỉ dưới gốc cây, ba y có thể dùng làm mền đắp giữ ấm, đến sáng, khi đi khất thực, khất thực là một môn công khóa trọng yếu, cho nên phải mặc lễ phục, ba y đều phải khoác trên thân. B́nh thường, ở trong đoàn thể, nghe kinh bèn đắp y bảy điều là được rồi. Khi làm việc, đắp y năm điều, một cái y năm điều là đủ rồi. V́ thế, y năm điều được gọi là “công tác y”, tức quần áo lao động.

Thứ chín là “trủng gian tọa” (ngồi nơi mồ mả), “trủng” () là phần mộ, đến nơi nào để tọa Thiền? Đến bên cạnh mộ phần, để quư vị thường nghĩ đến cái chết, có thể giúp quư vị buông xuống vạn duyên, buông tham, sân, si, mạn xuống, Ngài chọn nơi ấy để ngồi.

Thứ mười là “thụ hạ túc” (nghỉ dưới cội cây), buổi tối, lúc nghỉ ngơi bèn ở dưới cội cây.

Thứ mười một là “lộ địa tọa” tức ngồi nơi trên mặt đất.

Thứ mười hai là “đản tọa bất ngọa” (chỉ ngồi không nằm), trong Phật môn gọi là “bất đảo đơn” (chẳng ngả ḿnh xuống đơn). Lúc nghỉ ngơi bèn ngồi, tĩnh tọa, chẳng nằm xuống ngủ.

“Dĩ tư khổ hạnh, tảo trừ trần lụy, trừng tịnh thân tâm, Ca Diếp niên lăo, bất xả Đầu Đà. Phật mẫn kỳ suy, khuyến mạng hưu tức, Ca Diếp Đầu Đà như cố” (Dùng các khổ hạnh ấy để quét sạch trần lụy, lắng trong thân tâm. Ca Diếp tuổi già chẳng bỏ hạnh Đầu Đà. Đức Phật thương Ngài suy yếu, khuyên hăy thôi nghỉ, Ca Diếp vẫn giữ hạnh Đầu Đà như cũ). Đến lúc tuổi già, đức Phật khuyên Ngài chẳng cần tu khổ hạnh như vậy, nhưng ngài Ca Diếp vẫn chẳng thay đổi, suốt đời tu khổ hạnh nêu gương tốt cho các đồng học. Mọi người thấy vậy đều phấn chấn tinh thần, sốt sắng, nỗ lực tu hành. “Phật năi thâm tán vân: ‘Hữu Đầu Đà hạnh, ngă pháp cửu tồn’. Cố vân Đầu Đà đệ nhất” (đức Phật bèn ca ngợi sâu xa: “Có hạnh Đầu Đà, pháp của ta sẽ tồn tại lâu dài”. V́ thế, Ngài được gọi là bậc Đầu Đà đệ nhất). Do vậy, trong di giáo dạy bảo các đệ tử đời sau, đức Phật chỉ nói hai câu: “Lấy giới làm thầy, lấy khổ làm thầy”. Giới được đặt vào hàng thứ nhất, v́ sao? Không có giới, Phật pháp sẽ tiêu diệt. Chư vị phải biết Phật pháp tiêu diệt chẳng phải do không có chùa miếu hay không có kinh Phật, chẳng phải vậy! Chùa miếu càng tráng lệ, giàu có, nguy nga hơn, [nhưng là nơi để] ngắm cảnh, du lịch, vẫn tồn tại, kinh điển hăy c̣n, nhưng kinh điển bị các trường học trong thế gian coi như học thuật để nghiên cứu, gọi bằng danh xưng đẹp đẽ là “Phật học”. Quư vị thấy Phật pháp đă biến thành Phật học, c̣n lại thứ ấy. Điều ǵ chẳng có? Người tŕ giới chẳng có, người khổ hạnh chẳng có, Phật pháp bèn diệt. Chúng ta phải hiểu đạo lư này. Điều ǵ khiến cho chánh pháp tồn tại lâu dài? Ai nấy đều tŕ giới, ai nấy chẳng sợ khổ, bằng ḷng tu khổ hạnh, trong cuộc sống bằng ḷng chịu khổ một chút, tốt lắm, v́ sao? Khiến cho chúng ta chẳng tham luyến thế gian này. Nếu cuộc sống quá giàu có, dư dả, sống rất khá, quư vị chẳng nỡ rời khỏi thế gian này, A Di Đà Phật duỗi tay mời quư vị sang thế giới Cực Lạc, quư vị vẫn thưa với Ngài: “Con ở đây khá lắm, sợ rằng chẳng kém thế giới Cực Lạc”. Quư vị sẽ nghĩ như vậy, chẳng muốn ra đi. Do vậy, quư vị thấy Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện, tôn giả Đại Ca Diếp là cổ Phật tái lai, nêu gương cho chúng ta. V́ sao chúng ta khó đoạn phiền năo dường ấy? Rất nhiều đồng tu đă rất cảm khái nói với tôi, rất muốn đoạn, nhưng v́ sao chẳng thể đoạn nổi? Quư vị chẳng thể chịu khổ, nên chẳng đoạn được! Quư vị chẳng thể tŕ giới, sẽ đoạn không được, đơn giản như thế đấy! V́ sao người trước kia đều có thể làm được, nhưng nay chúng ta chẳng thể làm? Người hiện thời học khoa học, chú trọng dinh dưỡng, ăn uống bèn chú trọng màu sắc, hương vị. Đó là ǵ? Mỗi ngày đều tăng trưởng phiền năo, làm sao quư vị có thể đoạn phiền năo được? Quư vị đă đi theo đường lối trái ngược!

      V́ thế, quư vị lắng ḷng tư duy sẽ biết, hiện thời chúng ta tu hành bị chướng ngại chỗ nào? Do chính ḿnh tạo tác, chẳng có người nào khác chướng ngại chính ḿnh. Thật sự muốn Phật pháp hưng vượng, mà chẳng tuân thủ lời răn dạy của Phật Đà, sẽ chẳng có cách nào thành tựu. V́ thế, trong Kim Cang Kinh Giảng Nghĩa, lăo cư sĩ Giang Vị Nông vẫn đề xướng khất thực; trong quá khứ, tôi giảng kinh Kim Cang có tham khảo bộ Giảng Nghĩa của cụ. Hiện thời, có thể khất thực hay không? Có thể, nhưng chắc là chẳng thể nào khất thực theo thứ tự được! Ở Hương Cảng, quư vị đi khất thực bảy nhà, sợ rằng chẳng có ai cúng dường quư vị. Nếu quư vị đi hết một con đường, có lẽ sẽ gặp được một người, người học Phật ở Hương Cảng chẳng ít. Thật sự học Phật, sẽ có long, thiên, thiện thần, Phật, Bồ Tát gia hộ, quư vị sẽ gặp người thiện tâm tới cúng dường quư vị. Nói chung, phải h́nh thành một phong khí mới được, sẽ bớt nhiều việc lắm; nhưng chúng ta ở nơi này thuộc vùng ôn đới, chẳng phải là nhiệt đới, ba y chẳng đủ. V́ thế, Phật pháp truyền tới Trung Quốc, ba y tại Trung Quốc hoàn toàn biến thành lễ phục. Người Trung Quốc vẫn mặc y phục của chính ḿnh. Áo hải thanh rộng tay chính là y phục đời Hán. Phật giáo được truyền vào từ đời Hán, vẫn y như cũ ǵn giữ trang phục đời Hán, điều này rất tốt. Áo rộng tay to là lễ phục của chúng ta. B́nh thường chúng ta mặc “trường quải” (áo tràng tay hẹp, áo nhật b́nh) là y phục đời Minh, làm việc khá thuận tiện, áo hải thanh đời Hán dùng làm lễ phục. Trong khi làm Phật sự, cũng như trong học tập, về phương diện lễ tiết, chúng ta đắp y. Y ấy là y hai mươi lăm điều, là đại lễ phục, y bảy điều là lễ phục thông thường, b́nh thường. Y ấy (y hai mươi lăm điều) là đại lễ phục, khi giảng kinh, lên lớp là đại lễ, bèn mặc lễ phục đại lễ. Khi lạy Phật là đại lễ. B́nh thường, trong sinh hoạt hằng ngày, ăn cơm, y bảy điều là được rồi. Tiếp đăi tân khách th́ thông thường y bảy điều là được rồi. Đó là lễ phục chia theo đẳng cấp. Y năm điều là quần áo lao động, nhưng tại Trung Quốc đă chẳng c̣n thích hợp, chỉ giữ lại làm kỷ niệm, chẳng thích hợp để sử dụng. V́ thế, Phật pháp sống động, hoạt bát, trọn chẳng khô khan. Như tôn giả Ca Diếp v́ chúng ta thị hiện mười hai hạnh Đầu Đà ấy, có những điều chúng ta có thể làm được, có những điều không bắt buộc [phải làm theo], sống động, cũng chẳng chết cứng. Nhưng chúng ta phải hiểu dụng ư của Ngài ở chỗ nào, v́ sao Ngài phải làm theo cách như vậy? Thật sự quét sạch trần lụy, lắng trong thân tâm, phương pháp ấy rất có hiệu quả.

      Đoạn tiếp theo là “vưu ưng thâm tỉnh giả” (càng phải nên phản tỉnh sâu xa), chúng ta càng phải nên phản tỉnh sâu xa. “Đại Ca Diếp tôn giả, tức truyền Phật tâm ấn chi Thiền Tông Sơ Tổ” (tôn giả Đại Ca Diếp là Sơ Tổ Thiền Tông truyền tâm ấn của Phật), công án và điển cố này xuất phát từ quyển thứ ba của bộ Đại Phạm Thiên Vương Vấn Phật Quyết Nghi Kinh, [điển cố] “niêm hoa vi tiếu” (giơ cành hoa, mỉm cười) xuất phát từ kinh ấy. “Phạm vương chí Linh Sơn” (Phạm vương đến Linh Sơn), Đại Phạm thiên vương, Linh Sơn là núi Kỳ Xà Quật thuộc thành Vương Xá, “dĩ kim sắc Bát La hoa hiến Phật” (dùng hoa sen[5] sắc vàng dâng lên đức Phật), dùng hoa cúng dường Phật. “Xả thân vi ṭa” (xả thân làm ṭa), Đại Phạm Vương cũng đến biểu diễn pháp. Nếu chẳng phải là cổ Phật tái lai th́ tối thiểu là Thập Địa Bồ Tát, tức Pháp Vân Địa Bồ Tát tới biểu diễn. “Xả thân vi ṭa”, quư vị thấy thiên vương rất cung kính đức Phật, thỉnh Phật ngồi trên người ông ta. “Thỉnh Phật vị chúng sanh thuyết pháp” (xin đức Phật hăy v́ chúng sanh mà thuyết pháp), Đại Phạm Vương chẳng phải là người thường. “Thế Tôn đăng tọa, niêm hoa thị chúng” (đức Thế Tôn lên ṭa, cầm cành hoa giơ lên cho đại chúng thấy), đức Thế Tôn cũng cho ông ta được măn nguyện liền ngồi đôi chút, chẳng thể ngồi quá lâu. Ngồi quá lâu là chẳng thông hiểu nhân t́nh. Do có vấn đề t́nh người trong ấy, nên thời gian càng ngắn càng hay. Được thỉnh thuyết pháp, đức Phật bèn giơ cành hoa lên, hoa ấy là ǵ? Chính là đóa hoa do Đại Phạm Thiên Vương cúng dường, “niêm hoa thị chúng”, đưa lên cho mọi người xem. “Nhân thiên bách vạn” (trời và người trăm vạn), người chẳng đông lắm, nhưng thiên thần đông đảo, do các Ngài theo Đại Phạm Vương đến nơi ấy. “Tất giai vơng thố” (thảy đều ngơ ngác), mọi người chẳng hiểu ư nghĩa cầm hoa của đức Phật, chẳng ai biết! “Độc hữu Kim Sắc Đầu Đà phá nhan vi tiểu” (chỉ ḿnh Kim Sắc Đầu Đà lộ vẻ mỉm cười), chỉ có tôn giả Ca Diếp mỉm cười. “Thế Tôn vân: Ngô hữu chánh pháp nhăn tàng, Niết Bàn diệu tâm, Thật Tướng vô tướng, vi diệu pháp môn, phó chúc Ma Ha Ca Diếp” (đức Thế Tôn nói: “Ta có chánh pháp nhăn tàng, diệu tâm Niết Bàn, Thật Tướng vô tướng, pháp môn vi diệu, phó chúc Ma Ha Ca Diếp”). Đức Phật trao cành hoa ấy cho ngài Ca Diếp; đây là công án đầu tiên trong Thiền Tông. Tôn giả Ca Diếp lộ vẻ mỉm cười là v́ Ngài đă hiểu rơ, minh bạch, khai ngộ, từ một động tác của đức Thế Tôn, Ngài bèn đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh. Về sau, Ngài truyền y bát của Thích Ca Mâu Ni Phật. Thoạt đầu, Thích Ca Mâu Ni Phật truyền cho Ca Diếp chẳng phải là y bát, mà là đóa hoa do Đại Phạm Vương cúng dường. Đấy là công án “niêm hoa vi tiếu”.

      Tiếp đó, sách viết: “Thử tức thế truyền chi niêm hoa công án. Thế Tôn truyền tâm ư Ca Diếp, vi Thiền Tông Sơ Tổ, Ca Diếp tái truyền ư A Nan (Đấy chính là công án “niêm hoa” được lưu truyền trong cơi đời, đức Thế Tôn truyền tâm cho ngài Ca Diếp, làm Sơ Tổ Thiền Tông. Ca Diếp lại truyền cho A Nan). A Nan là Nhị Tổ. “Kim Thượng Thủ trung, tiêu cử Đại Ca Diếp, chánh biểu Thiền Tịnh bất nhị chi thâm ư” (Nay nêu tên ngài Đại Ca Diếp trong các vị Thượng Thủ chính là biểu thị ư nghĩa sâu xa “Thiền Tịnh chẳng hai”). Quư vị xem thấy ư nghĩa biểu thị pháp của Ngài. Phật giáo truyền tới Trung Quốc th́ Thích Ca Mâu Ni Phật đă diệt độ một ngàn năm. Đức Phật có tiên đoán, Ngài nói một ngàn năm sau khi pháp hội này truyền đến nước Chấn Đán ở phương Đông, Chấn Đán là Trung Quốc. Trong pháp vận của đức Phật, đức Phật đă nói Chánh Pháp là một ngàn năm, Tượng Pháp một ngàn năm, Mạt Pháp một vạn năm. Chánh Pháp, giới luật thành tựu, người có thể tŕ giới sẽ có thể chứng quả. Thời Tượng Pháp, tŕ giới không được, căn khí của con người chẳng tốt đẹp như trước kia, phải tu Thiền Định. V́ thế, một ngàn năm trong thời kỳ Tượng Pháp là Thiền Định thành tựu. Mạt Pháp một vạn năm, Tịnh Độ thành tựu. Đức Phật nói lời ấy trong kinh Đại Tập. Phật pháp truyền tới Trung Quốc nhằm đúng một ngàn năm sau khi đức Phật diệt độ, bắt đầu thời Tượng Pháp. Tượng Pháp là Thiền thành tựu, nên Thiền Tông hưng vượng tại Trung Quốc, đúng là một ngàn năm. Thiền Tông Trung Quốc vượt trỗi Ấn Độ rất nhiều; do vậy, nhiều người tu Thiền, đông đảo người ngưỡng mộ Thiền, phong khí Thiền học rất hưng thịnh. Cũng có kẻ hiểu biết Thiền Tông nửa vời, số ấy càng đông, những kẻ ấy càng kiêu căng, ngă mạn, không chỉ coi thường Tịnh Độ, ngay cả Giáo Hạ cũng không để vào mắt, toàn là nẩy sanh hiểu lầm, nhưng trong xă hội đă tạo thành ảnh hưởng trái nghịch. Phải làm như thế nào để hưng khởi pháp môn thù thắng như vậy ḥng thật sự lợi ích chúng sanh? V́ vậy, các vị tổ sư đại đức thiện xảo phương tiện, quư vị thấy bao nhiêu vị giống như Vĩnh Minh Diên Thọ đă làm như vậy. Trước hết, Ngài tham Thiền, đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh trong nhà Thiền rồi quay về tu Tịnh Độ. Sự thị hiện ấy nhằm dụng ư ǵ? Biết có rất nhiều kẻ học Thiền chẳng thể thành tựu, quư vị quay về tu Tịnh Độ sẽ có thể văng sanh, chắc chắn thành tựu. Cho nên Ngài mới nói: “Hữu Thiền, hữu Tịnh Độ, do như đới giác hổ” (Có Thiền, có Tịnh Độ, giống như hổ mọc sừng), câu này nhằm khuyên lơn người học Thiền, chẳng phải dành cho người tu Tịnh Độ. Tu Tịnh Độ lại muốn tập Thiền, quư vị sai mất rồi! Thấy tu Thiền chẳng thể thành tựu, khuyên họ, họ chẳng tiếp nhận, không chịu nghe. V́ thế, nói quư vị đă có Thiền, lại c̣n thêm Tịnh Độ càng hay hơn! Phương tiện thiện xảo như vậy để dẫn dắt, tiếp dẫn kẻ ấy, mang ư nghĩa như thế đó. V́ thế, người tu Tịnh Độ, quư vị đă tu Tịnh Độ, chớ nên đi theo đường ṿng, nếu học Thiền là trật rồi, mật ư ở chỗ này, nhất định phải hiểu! Chẳng phải là những vị tổ sư đại đức xưa kia kiếm chuyện phiền phức, bảo quư vị phải học hai pháp môn. Ta thâm nhập một môn, quư vị phải hiểu đạo lư này, phải hiểu lời ấy tổ sư dùng để nói với ai, chẳng phải là nói với chúng ta! Ngàn muôn phần đừng nên thấy [chư tổ] dạy người khác thứ ǵ, chúng ta bèn vớ lấy để dùng, lầm rồi, chẳng thích hợp cho chúng ta. Thật sự hiểu rơ cái gọi là “Thiền Tịnh bất nhị”, khăng khăng một mực một câu Phật hiệu niệm đến cùng. Thật vậy, Thích Ca Mâu Ni Phật bảo một câu A Di Đà Phật là vô thượng thậm thâm vi diệu Thiền. Ngày hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng ta học tập tới đây.

 

Tập 90

 

Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang một trăm lẻ một, ḍng thứ năm đọc từ dưới lên, xem từ câu “tôn giả A Nan đẳng” (tôn giả A Nan v.v...):

      “Tôn giả A Nan đẳng, Đường, Tống dịch tác A Nan Đà, lược xưng A Nan, dịch viết Khánh Hỷ, Hoan Hỷ, hựu vân Vô Nhiễm, năi Bạch Phạn Vương chi tử, Phật chi đường đệ dă. Sanh ư Phật thành đạo nhật, Tịnh Phạn Vương kư văn Thái Tử thành Phật, hựu văn cung trung đản tử, cánh tăng hoan hỷ, năi viết: ‘Kim nhật đại cát, thị hoan hỷ nhật’. Ngữ lai sứ ngôn, thị nhi đương tự vi A Nan” (“Tôn giả A Nan v.v...”: Đời Đường, Tống dịch là A Nan Đà (Ānanda), gọi tắt là A Nan, Hán dịch là Khánh Hỷ, Hoan Hỷ, c̣n dịch là Vô Nhiễm. Ngài là con của vua Bạch Phạn (Śuklodana), em họ của Phật, sanh nhằm ngày Phật thành đạo. Vua Tịnh Phạn (Śuddhodana) nghe tin Thái Tử thành Phật, lại nghe trong cung sanh con trai càng thêm hoan hỷ, bèn phán: “Hôm nay đại cát, là ngày hoan hỷ”, bảo với sứ giả: “Đứa trẻ ấy nên đặt tên là A Nan”). Chúng ta xem tới đây. Ở đây, sau “tôn giả A Nan” có chữ Đẳng (), Đẳng là c̣n có những người khác, v́ trong năm bản dịch gốc, bản kể tên nhiều nhất có hơn ba mươi vị, khi cụ Hạ hội tập, đă chọn lấy những vị mang tính chất biểu thị pháp trọng yếu, những vị khác đều tỉnh lược; v́ thế, dùng chữ Đẳng. Bản Đường dịch và Tống dịch đều phiên âm là A Nan Đà, Đà là âm cuối, người Trung Quốc, đặc biệt là cổ nhân Trung Quốc chuộng đơn giản, nên lược bớt âm cuối. Giống như chữ Phật, sau chữ Phật có âm cuối, tức Phật Đà Da, âm cuối cũng bị tỉnh lược. V́ thế, gọi gọn là A Nan, dịch sang nghĩa tiếng Hán là Khánh Hỷ, hoặc Hoan Hỷ, cũng có nghĩa là Vô Nhiễm, Ngài là con của vua Bạch Phạn. Cha của đức Thế Tôn là vua Tịnh Phạn có bốn anh em, mỗi người đều có hai con trai. V́ thế, Phật Thích Ca có tám người anh em họ. Trong số tám người anh em họ, đức Phật lớn nhất, A Nan nhỏ nhất, đứng vào hàng thứ tám. A Nan sanh nhằm ngày đức Phật thành đạo, Thích Ca Mâu Ni Phật ba mươi tuổi thành đạo, người em này nhỏ hơn đức Phật ba mươi tuổi, v́ đức Phật thành đạo lúc ba mươi tuổi. Sanh nhằm ngày hôm ấy, cũng là ngày đức Phật thành đạo, tin vui báo về hoàng cung, vua Tịnh Phạn nghe tin Thái Tử thành Phật, chứng quả, lại nghe trong cung sanh ra đứa bé này, là em họ của đức Phật, tức là cháu trai của nhà vua, nên vô cùng hoan hỷ. Vua bèn nói: “Hôm nay là ngày đại cát, là ngày hoan hỷ”, bảo người đến báo tin: “Đứa bé ấy nên đặt tên là A Nan”, tức A Nan Đà, mang ư nghĩa hoan hỷ.

      “Hựu tôn giả đoan chánh, thanh tịnh, như hảo minh kính, kiến kỳ tướng giả, văn kỳ thanh giả, đổ kỳ oai nghi giả, mạc bất hoan hỷ, cố dĩ vi danh” (Hơn nữa, tôn giả đoan chánh, thanh tịnh như tấm gương trong vắt. Trông thấy h́nh dạng Ngài, nghe tiếng Ngài, xem oai nghi của Ngài, không ai chẳng hoan hỷ, nên đặt tên như vậy). Cái tên này vô cùng thích hợp. A Nan cũng là bậc tái lai, chẳng phải là phàm nhân. Đức Phật có ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp, A Nan có ba mươi tướng; v́ thế, rất hiếm có. “Đoan chánh, thanh tịnh, như hảo minh kính”, gương sáng đặc biệt đẹp đẽ; v́ thế, có người thấy đứa bé ấy, hoặc nghe tiếng nó nói, thấy động tác của nó, không ai chẳng hoan hỷ, ai trông thấy cũng yêu mến đứa bé ấy. V́ thế, bác cả đặt tên cho đứa bé là A Nan, danh tương xứng thực. “Hựu tôn giả tùy Phật nhập thiên cung, long cung, tâm vô nhạo trước, cố danh Vô Nhiễm” (Ngoài ra, tôn giả theo Phật vào long cung, thiên cung, tâm không ham đắm, nên gọi là Vô Nhiễm). Sau khi xuất gia, Thích Ca Mâu Ni Phật từng dẫn Ngài lên xem thiên cung, tức Dục Giới Thiên, cũng đă từng đến thăm cung rồng, là nơi Đại Long Bồ Tát ở, bất luận tại long cung hay thiên cung, Ngài đều chẳng bị nhiễm ô, tâm địa thanh tịnh. V́ thế, danh hiệu ấy cũng có nghĩa là Vô Nhiễm. “Phật thọ ngũ thập ngũ tuế thời, A Nan xuất gia” (Khi đức Phật đă năm mươi lăm tuổi, A Nan mới xuất gia), A Nan xuất gia lúc hai mươi lăm tuổi, “thị Phật nhị thập ngũ niên” (hầu Phật hai mươi lăm năm) th́ gặp lúc Thích Ca Mâu Ni Phật diệt độ. Người Trung Quốc nói theo tuổi ta [nên bảo đức Phật diệt độ lúc] tám mươi tuổi, người ngoại quốc nói theo tuổi thật sự, tuổi thật sự là bảy mươi chín tuổi. Ngài làm thị giả cho đức Phật hai mươi lăm năm, chăm sóc đức Phật hai mươi lăm năm. “Phật sở tuyên thuyết, tất năng ức tŕ, bất vong nhất tự” (các pháp do đức Phật tuyên thuyết Ngài đều nhớ giữ, chẳng quên một chữ). Trong các vị đệ tử của đức Phật, Ngài có trí nhớ tốt nhất, sức lư giải đặc biệt mạnh mẽ. Từ hội Lăng Nghiêm chúng ta có thể thấy, đức Thế Tôn giảng kinh Lăng Nghiêm, Ngài có thể hoàn toàn lư giải những ư nghĩa do đức Phật đă nói. Cùng lúc ấy, tôn giả Phú Lâu Na đă đắc Tứ Quả La Hán, nhưng nghe chẳng hiểu, mà ngài A Nan có thể nghe hiểu, chứng tỏ căn tánh của Ngài chẳng giống người khác! V́ thế, Ngài truyền thừa pháp tạng của đức Phật. Tôn giả Ca Diếp truyền Thiền Tông của đức Phật, c̣n Giáo Hạ do ngài A Nan truyền. “Thảy đều có thể ghi nhớ, chẳng quên một chữ” vô cùng khó, nên Ngài đương nhiên là bậc tái lai. “Niết Bàn xưng A Nan đa văn sĩ. Hựu Ca Diếp tán viết: ‘Phật pháp đại hải thủy, lưu nhập A Nan tâm’. Cố viết, đa văn đệ nhất” (Kinh Niết Bàn gọi A Nan là bậc Đa Văn. Ngài Ca Diếp cũng khen rằng: Nước biển cả Phật pháp chảy vào tâm A Nan”, nên gọi Ngài là đa văn bậc nhất). Trong mười vị đại đệ tử, Ngài là đa văn đệ nhất.

       “Đẳng giả, Ngụy dịch trung liệt tam thập nhất nhân” (Chữ “đẳng”: Trong bản Ngụy dịch nêu tên ba mươi mốt vị [Thượng Thủ]), đấy là bản dịch của ngài Khang Tăng Khải đời Ngụy, kể tên ba mươi mốt vị Thượng Thủ; trong quá khứ, bản này lưu thông rộng nhất. Trong năm bản dịch gốc, bản dịch này hoàn bị nhất, phiên dịch rất khá; v́ thế, mọi người học tập kinh Vô Lượng Thọ đều dùng bản này. Trong quá khứ, tôi học bộ kinh này tại Đài Trung, thầy Lư giảng từ đầu đến cuối một lần, giảng bản dịch của ngài Khang Tăng Khải. Lần đầu tiên Ngài giảng chỉ dùng bản của lăo cư sĩ Hạ Liên Cư. Lần thứ hai chỉ dùng bản của ngài Khang Tăng Khải. “Kim hội bản cẩn liệt cử kỳ trung Thượng Thủ ngũ nhân chi danh, cố viết A Nan đẳng, dĩ khái kỳ dư” (nay bản hội tập chỉ nêu tên năm vị Thượng Thủ trong số ấy, nên viết là “A Nan đẳng” để chỉ chung các vị c̣n lại), những vị khác đều tỉnh lược, [nêu tên năm vị như đă nói trên] nhằm biểu thị pháp. Trong pháp môn này, A Nan biểu thị niệm Phật là đa văn đệ nhất. Chúng ta chớ nên không biết ư nghĩa này. Học rộng nghe nhiều liên quan ǵ với niệm Phật? Có liên quan! Niệm Phật mà có thể niệm tới mức đạt Niệm Phật tam-muội, đấy là nhập Định, đă đắc Thiền Định. Sau khi đắc Thiền Định, công phu định lực đạt tới một tŕnh độ nhất định, hoát nhiên đại ngộ, người ấy sẽ khai ngộ. Sau khi khai ngộ sẽ là đa văn, đối với các kinh, quư vị chưa từng nghe, vừa nghe liền hiểu rơ, vừa đọc liền hiểu rơ. V́ thế, sáu căn vừa tiếp xúc bèn thông đạt; đó đúng là đa văn bậc nhất!

       Đối với trường hợp này, chúng ta không nói đến các đệ tử đức Thế Tôn, mà nh́n vào Thiền Tông Lục Tổ Huệ Năng thuộc đời Đường của Trung Quốc, đó là một thí dụ rất hay. Ngài chưa nghe kinh, Huệ Năng đại sư không biết chữ, đương nhiên chẳng thể đọc kinh, nhưng Ngài nghe [liền hiểu]. Quư vị thấy người đầu tiên gặp Ngài là tỳ-kheo-ni Vô Tận Tạng. Vị tỳ-kheo-ni này suốt đời thọ tŕ kinh Đại Niết Bàn. Kinh Đại Niết Bàn phân lượng cũng rất nhiều, có hai loại bản dịch: Một là bản bốn mươi quyển, hai là bản ba mươi sáu quyển[6]. Sau khi được truyền y bát, thầy bảo Huệ Năng đại sư hăy đi lánh nạn, ẩn cư, đi xuống phương Nam. Ngài hỏi thầy: “Con nên đi ẩn cư nơi đâu?” Thầy nói: “Ông từ đâu đến, hăy trở lại nơi đó”. Trên đường, Tổ gặp tỳ-kheo-ni Vô Tận Tạng, nghe bà ta đọc kinh Niết Bàn; sau khi nghe xong, bèn giảng bộ kinh ấy cho tỳ-kheo-ni Vô Tận Tạng, tức là giảng kinh Đại Niết Bàn. Tỳ-kheo-ni Vô Tận Tạng nghe giảng, vô cùng hoan hỷ, bèn cầm kinh hướng về Tổ thỉnh giáo. Tổ bảo bà ta: “Ta không biết chữ”. Ni sư hỏi: “Ngài không biết chữ, cớ sao có thể giảng hay như thế?” Tổ nói: “Chuyện ấy chẳng dính dáng ǵ đến biết chữ hay không”. Câu nói này vô cùng trọng yếu, minh tâm kiến tánh, đấy là điều khẩn yếu! Chỉ cần kiến tánh, hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian đều là tâm hiện, thức biến. Quư vị kiến tánh, sự nhận biết cũng chẳng có vấn đề ǵ, thông suốt toàn bộ. Sự nhận biết do đâu mà có? A Lại Da. A Lại Da vẫn do tâm hiện. Hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian đều hoàn toàn hiểu rơ. Ngài ở nơi đó vài ngày, tỳ-kheo-ni Vô Tận Tạng niệm kinh cho Ngài nghe, Ngài bèn giảng cho bà ta nghe, tỳ-kheo-ni Vô Tận Tạng nghiễm nhiên khai ngộ. Trong đời Huệ Năng đại sư, có tất cả bốn mươi ba người đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh dưới tay Ngài, trong đó có một nữ nhân là vị tỳ-kheo-ni này, v́ sao? Chúng ta phải hiểu một câu nói của cổ nhân: “Thâm nhập một môn, huân tu lâu dài”. Tâm tỳ-kheo-ni thanh tịnh, nếu bà ta niệm bộ kinh ấy năm năm, mười năm, tâm sẽ thanh tịnh. Tâm thanh tịnh sanh trí huệ, tâm thanh tịnh đoạn phiền năo, tối thiểu là khuất phục phiền năo, phiền năo chẳng thể dấy lên hiện hành. Thật sự gặp gỡ cao nhân, gặp thiện tri thức, đối với bộ kinh quư vị đang thọ tŕ, đúng vào lúc mấu chốt bèn chỉ điểm một chút, quư vị sẽ thông, [được chỉ điểm] đôi chút bèn quán thông.

Huệ Năng đại sư chưa từng đọc kinh, đi bán củi ngẫu nhiên nghe có người đọc kinh, Ngài ở ngoài cửa sổ nghe tiếng đọc kinh bên trong, nghe rất hoan hỷ. Đứng nghe một hồi lâu, nghe xong, tiến vào gơ cửa. Vị cư sĩ đọc kinh ấy mở cửa, gặp Ngài, giảng cho Ngài nghe ư nghĩa của bản kinh Ngài vừa mới nghe, Ngài nghe xong, vô cùng kinh ngạc. Vị lăo cư sĩ ấy cũng chẳng phải là phàm nhân, tṛ chuyện cùng Ngài, nhận biết Ngài, nói theo cách chúng ta bây giờ là “thiện căn thật sự sâu dầy, chẳng phải là phàm nhân”, bèn khuyên Ngài đến Hoàng Mai[7], bái ḥa thượng Ngũ Tổ Nhẫn [làm thầy]. Ngài kể với ông ta t́nh cảnh khó khăn của chính ḿnh: Trong nhà c̣n mẹ già, mỗi ngày phải cậy vào Ngài bán củi để sống qua ngày; Ngài ra đi, sẽ không có ai chăm sóc mẹ già. Vị cư sĩ ấy hết sức nhiệt tâm, mời mấy đồng tu họp lại, [quyên góp], tặng cho Ngài mười lượng bạc để làm chi phí lo liệu việc nhà: “Mẹ anh đă có người chăm sóc”. Ngài bèn yên tâm ra đi, đến núi Hoàng Mai ở tám tháng, chẳng hề bước vào giảng đường, cũng chẳng vào Thiền đường. Lăo ḥa thượng chỉ giao cho Ngài công việc giă gạo và chẻ củi trong xưởng xay gạo. Đó là việc chính của Ngài, đúng với nghề cũ, bảo Ngài làm công quả suốt tám tháng. Tới khi truyền pháp lại nghiễm nhiên truyền cho Ngài, chẳng ai ngờ được! Truyền pháp vào một đêm khuya, nửa đêm canh ba trong phương trượng thất, hai Ngài là “tâm tâm tương ấn”[8]. Nhẫn ḥa thượng giảng đại ư kinh Kim Cang cho Ngài nghe, chắc chắn không dùng đến sách, chúng tôi phỏng đoán chẳng thể lâu hơn hai giờ, giảng đến câu “ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm”, Ngài bèn khai ngộ. Một ngộ, toàn bộ thông, hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian đều thấu suốt. Quư vị chỉ cần đem kinh điển nhà Phật đọc cho Ngài nghe, Ngài có thể giảng cho quư vị nghe. Há chẳng phải là đa văn đệ nhất ư? Bí quyết trong sự truyền pháp của Phật pháp là ở chỗ này, nhưng quư vị phải có căn bản. Quư vị thấy đó: Do Giới đắc Định, do Định khai Huệ.

Trong một đời này, có thể nói là chúng tôi nhận thấy sau khi Kháng Chiến nổ ra, trong thời chiến tranh, từ lúc chiến tranh bắt đầu măi cho đến hiện thời, trong Phật môn, bất luận tại gia hay xuất gia chẳng có ai khai ngộ. Lăo pháp sư Đàm Hư đă nói lời này, thuở trước, tại Hương Cảng, cụ Đàm Hư là học tṛ của lăo pháp sư Đế Nhàn, suốt đời cũng là pháp sư giảng kinh. Ngài sáng lập Trung Hoa Phật Giáo Đồ Thư Quán tại Hương Cảng. Năm 1977, tôi giảng kinh Lăng Nghiêm suốt hai tháng tại đó. Tôi giảng tất cả bốn tháng, hai tháng sau, tôi giảng tại giảng đường Quang Minh của lăo ḥa thượng Thọ Dă tại đường Lam Đường (Blue Pool road), Hương Cảng, giảng suốt hai tháng. Cụ Đàm nói cả đời Ngài chưa nghe nói có ai khai ngộ, đắc Định th́ có như lăo ḥa thượng Hư Vân đắc Định, đắc Thiền Định, nhưng chưa nghe nói có ai khai ngộ. Trong thời đại hiện tại, lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ bảo tôi: “Ngay cả tu Thiền đắc Định cũng chưa hề nghe nói có ai!” Đối với chuyện học Mật th́ cụ là Kim Cang Thượng Sư bên Mật Tông. Cụ bảo tôi, từ thời Kháng Chiến măi cho đến nay, trước lúc văng sanh, cụ nói với tôi như vậy, người học Mật Tông tại Trung Quốc thành tựu, tam mật tương ứng chỉ có sáu người! V́ vậy, cụ bảo tôi: “Từ nay về sau, chẳng có cách nào học Mật và học Thiền, chẳng thể thành tựu. Thật sự có thể thành tựu chỉ có pháp môn Niệm Phật”. Bởi vậy, lúc lăo nhân gia văng sanh, thân thể chẳng khỏe lắm, cụ cho tôi biết mỗi ngày cụ niệm mười bốn vạn câu Phật hiệu, chuyên niệm A Di Đà Phật, ngày đêm chẳng gián đoạn. Hễ mệt mỏi bèn nghỉ ngơi đôi chút, mỗi ngày là mười bốn vạn câu, lúc lâm chung cũng biết trước khi mất. Quư vị thấy học Thiền, học Mật, nhưng đến lúc khẩn yếu sẽ thảy đều buông xuống, chỉ giữ một câu A Di Đà Phật. Đấy là lăo nhân gia thị hiện cho chúng ta.

       Chúng ta sanh nhằm thời Mạt Pháp, hiện thời chưa phải là lúc cuối cùng của thời Mạt Pháp, Mạt Pháp hăy c̣n chín ngàn năm nữa. Trong chín ngàn năm ấy, Phật pháp có lúc hưng thịnh, có khi suy vi, lên xuống như h́nh sóng. Trước kia, Chương Gia đại sư đă bảo tôi điều ấy. Hiện thời, suy đến cùng cực, có người tu hành thật sự hay không? Chúng tôi tin chắc là có! Tuy không ai biết, nhưng có người chân tu. V́ sao biết? Nếu không có người tu hành chân chánh, người tu hành chân chánh có đại phước báo, chúng sanh trên địa cầu tạo nghiệp nhiều dường ấy, nhưng người tu hành chân thật có thể khống chế khiến địa cầu chẳng đến nỗi bị hủy diệt, đó là người có đại phước đức. Chúng ta chẳng biết những người ấy, họ ở trong núi sâu, không có duyên th́ quư vị gặp gỡ cũng chẳng thể thấy. Trong tương lai, Phật giáo lại hưng thịnh. Hưng thịnh trong tương lai, chẳng phải là Thiền hay Mật, mà là Giáo. Trong Giáo, chúng ta biết, có thể là Tịnh Tông hưng vượng nhất. Trong kinh Đại Tập, Thích Ca Mâu Ni Phật đă dạy chúng ta điều ấy, Ngài thọ kư, người hiện thời bảo là “dự ngôn”, thời kỳ Mạt Pháp Tịnh Độ thành tựu. Thời kỳ Chánh Pháp, Giới Luật thành tựu; thời kỳ Tượng Pháp, Thiền Định thành tựu, và thời kỳ Mạt Pháp, Tịnh Độ thành tựu.

      Kinh Vô Lượng Thọ là kinh điển trọng yếu trong Tịnh Độ, là kinh điển căn bản của Tịnh Tông như vậy, nhưng trước nay chẳng có một bản tiêu chuẩn, đấy là điều khiến cho những người tu học pháp môn này từ xưa đến nay đều cảm thấy tiếc nuối. Phiên dịch thật nhiều, trong hết thảy các kinh, chẳng có kinh nào có nhiều bản dịch như kinh này, tới mười hai bản dịch! Từ đời Hán đến đời Bắc Tống có mười hai lần phiên dịch trong khoảng tám trăm năm, nhưng những bản dịch ấy nay chỉ c̣n giữ được năm loại, thất truyền bảy loại, rất đáng tiếc! Gộp chung năm bản dịch lại để xem, trong ấy sai biệt rất lớn. V́ thế, cổ đại đức phán đoán, không phải chỉ có một bản gốc. Nh́n vào năm bản dịch gốc hiện thời, nguyên bản tiếng Phạn tối thiểu phải có ba loại, nên các Ngài đoán định thuở Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế, tối thiểu phải giảng kinh Vô Lượng Thọ ba lượt, cho nên có ba phiên bản khác nhau. Hăy c̣n bảy thứ thất truyền, nếu thật sự có thể t́m được bảy loại ấy, rất có thể là sẽ phát hiện bản gốc c̣n nhiều hơn nữa! Điều này cho thấy Thích Ca Mâu Ni Phật thuở tại thế, mỗi kinh chỉ giảng một lần, chẳng giảng lần thứ hai, nhưng kinh này tối thiểu giảng ba lượt, từ ba lượt trở lên. Nhiều lần tuyên giảng, cho thấy kinh này trọng yếu. Thời Mạt Pháp tính đến sau này, hăy c̣n có chín ngàn năm nữa, kinh này có thể độ hết thảy chúng sanh thành tựu trong một đời, chẳng tuyệt lắm ư?

V́ vậy, các vị đại đức xưa nay đều có ư nghĩ phải hội tập. Người hội tập đầu tiên là cư sĩ Vương Long Thư, là người đời Tống. Người hội tập thứ hai là cư sĩ Ngụy Mặc Thâm trong niên hiệu Hàm Phong nhà Thanh trước kia. Cư sĩ Hạ Liên Cư hội tập lần thứ ba, v́ hội tập không dễ dàng. Những điều được chọn giữ lại hay bỏ đi từ năm bản dịch gốc là đại học vấn, biên tập cũng là học vấn. Những bản hội tập trong quá khứ, chọn lọc, biên tập đều chưa được viên măn cho lắm, đều có những điểm đáng tiếc nuối. Lăo cư sĩ Hạ Liên Cư bỏ ra mười năm công phu, hội tập trọn ba năm, bế quan ba năm, chỉnh lư thành một bản hội tập. Sau đấy, lại tốn thời gian bảy năm, qua mười lần san đính, tạo thành bản hoàn thiện cuối cùng. Bản chúng ta thấy hiện thời là bản hoàn thiện cuối cùng. Những bản biên soạn lúc đầu, chúng ta c̣n t́m được. Bản đầu tiên là bản hoàn thành sau ba năm, cụ Hạ bế quan ba năm hoàn thành bản hội tập. Gần đây, chúng tôi cũng ấn hành bản ấy để làm kỷ niệm cho các đồng học. Bản gốc là ba mươi bảy phẩm, bản hiện thời chúng ta đang đọc là bốn mươi tám phẩm. Trong lời tựa, cụ Mai Quang Hy cho biết, thuở ấy, lăo pháp sư Từ Châu đă giảng bản hội tập tại Bắc Kinh, Ngài cũng giảng tại Tế Nam, lại c̣n soạn khoa phán. Đó là bản ba mươi bảy phẩm thuở ấy, chẳng phải là bản hiện tại. Đối chiếu hai bản ấy, chúng ta biết lăo cư sĩ Hạ Liên Cư đă thật sự dụng tâm khổ nhọc, ta thấy ḷng kiên tŕ, cảnh giới, cũng như văn tài của cụ, cuối cùng đă biên soạn thành một bản kinh viên măn, soạn thành một bản kinh tiêu chuẩn.

      Cụ đă giảng bản ấy một lần, học tṛ cụ là lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ cũng giống như A Nan, đă nghe thầy giảng, lại c̣n ghi bút kư tỉ mỉ. Cụ bảo tôi, trong cách mạng Văn Hóa, bản bút kư ấy bị [Hồng Vệ Binh] vứt bỏ. V́ thế, khi viết bản [Chú Giải] này, cụ hoàn toàn dựa vào kư ức, tham khảo hơn một trăm loại kinh, luận, chú giải, trích dẫn những lời chú giải trong ấy, biên soạn thành một bản chú giải kinh hoàn thiện. Chúng ta có phước báo, có duyên phận, ngày nay có thể gặp gỡ, vô cùng khó có! Tôi và kinh này quả thật có duyên phận, vừa thấy liền hoan hỷ, hết sức hoan hỷ, trong quá khứ đă giảng mười lượt, lần này là lần thứ mười một. Lần thứ mười một bèn quyết định chọn Vô Lượng Thọ Kinh Chú Giải, giảng bản chú giải của cụ, khiến cho chúng ta lư giải Tịnh Tông càng thâm nhập hơn, mới có thể phát khởi tâm nguyện cầu sanh Tịnh Độ, chẳng c̣n nghi hoặc, thâm nhập một môn, huân tu lâu dài, lẽ đâu chẳng thành tựu! Người trẻ tuổi hạ quyết tâm dùng thời gian mười năm để bài trừ hết thảy khó khăn. Khó khăn là ǵ? Là xóa bỏ vọng niệm, chuyên dốc công sức nơi một môn, sau mười năm, quư vị sẽ là đệ tử truyền thừa Tịnh Tông của đức Thế Tôn, là đệ tử bậc nhất của Thích Ca Mâu Ni Phật. Ngài Kiều Trần Như đă biểu thị pháp ở chỗ này. Đời này, chúng ta đến thế gian này đáng giá, làm những chuyện khác đều là giả, làm chuyện này là thật.

      Hăy nghiêm túc học tập cư sĩ Lưu Tố Vân, bà ta đă đem lại ḷng tin cho mọi người chúng ta. Tới lúc năm mươi lăm tuổi bà ta mới bắt đầu học Phật, khi học Phật duyên phận cũng vẫn là khá lắm. Một đồng tu tặng cho bà ta một bộ kinh Vô Lượng Thọ, nên biết đấy là bộ tôi giảng năm 1999 tại Tân Gia Ba, sáu mươi giờ, tôi giảng một tháng, mỗi ngày hai tiếng. Khi ấy, chỉ dùng băng cassette để thâu. Sau này, làm thành đĩa từ, tức CD, không có h́nh ảnh. Bà ta kể với tôi, bà ta học bộ kinh ấy, niệm một câu A Di Đà Phật, mười năm giống như một ngày. Mỗi ngày nghe kinh mười tiếng, nghe như thế nào? Nghe một đĩa, tức là nghe băng giảng một giờ, nghe một đĩa suốt mười lần. Dẫu công việc bận rộn cũng nghe tối thiểu bốn lần, không hề ít hơn bốn lần, thông thường thời gian mỗi ngày đều là mười biến. Tâm tín nguyện của bà ta do đấy phát khởi, tín, giải, hành, chứng bà ta đều làm được. Những nghĩa lư trong kinh biến thành tư tưởng của chính ḿnh, những răn dạy trong kinh biến thành hành vi của chính ḿnh. Năm nay bà ta sáu mươi lăm tuổi, [làm như thế suốt] mười năm. Quư vị thỉnh bà ta giảng kinh Vô Lượng Thọ, bà ta chẳng cần dùng đến cuốn kinh, mà giảng rành rẽ, mỗi ngày giảng tám tiếng hay mười tiếng chẳng hề mệt nhọc.

      Trước kia, chúng tôi không biết đến người này. Năm ngoái, tôi chữa răng tại Đài Loan, có một đồng tu gởi cho tôi một CD, đó là phim tài liệu do ngành truyền thông quay, dài nửa tiếng, tức là CD về bà Lưu Tố Vân. Người ta đi săn tin, chứ không phải đến phỏng vấn bà ta, đến chỗ bà ta, nghe nói có một người như thế, bị mắc chứng Hồng Ban Lang Sang (Systemic Lupus Erythematosus) vô cùng nghiêm trọng, v́ sao niệm Phật được lành bệnh, họ cảm thấy rất lạ lùng, bèn đến phỏng vấn bà ta, phỏng vấn nửa tiếng. Tôi xem CD ấy, cảm thấy rất kinh ngạc, và cũng vô cùng bội phục, bà ta dụng công vô cùng đúng phương pháp. Học Phật thật sự nhập cảnh giới, chẳng bận tâm đến căn bệnh, mỗi người đều lo lắng thay cho bà ta, c̣n bà ta ngày nào cũng vui sướng, mỗi ngày nghe kinh, niệm Phật chẳng gián đoạn. Bác sĩ bảo bà ta: “Bệnh ấy chẳng có cách nào trị”. Được rồi! Không có cách th́ khỏi cần trị, về nhà niệm Phật, niệm đến mức lành bệnh. Bác sĩ bảo bà ta, dẫu lành bệnh, dấu sẹo trên mặt chắc chắn chẳng thể mất đi. Kết quả là bác sĩ gặp mặt bà ta, chẳng có dấu sẹo nào hết, bèn hỏi: “Bà bôi thuốc ǵ mà ngay cả dấu sẹo cũng chẳng có?” Bà ta đáp: “Chẳng bôi ǵ hết, thứ ǵ cũng chẳng bôi”. Bà ta kể, lúc kết hôn có mua hai lọ Tuyết Hoa Cao để bôi chân, chứ chưa hề bôi lên mặt. Bà ta nói niệm Phật được lành bệnh, bác sĩ tin tưởng. V́ sao tin tưởng? Người này cả đời chẳng vọng ngữ, thật sự khó có! Suốt đời chẳng nói dối! C̣n một ưu điểm nữa là cả đời chẳng có tâm ham danh lợi, người ta luôn tranh danh đoạt lợi, c̣n bà vô cùng coi nhẹ danh lợi. V́ thế, tôi cảm thấy bà ta trong quá khứ là một người tu hành, có thiện căn sâu dầy dường ấy! Bà ta thị hiện phương pháp cho chúng ta, mười năm bèn thành công, thành công nơi một bộ kinh Vô Lượng Thọ, học tập bất luận kinh điển nào cũng chẳng có tí ti khó khăn nào! Đúng như Phật pháp đă nói: “Một kinh thông, hết thảy các kinh thông”, đấy là một tấm gương tốt.

      Từ tấm gương này, chúng tôi biết: Sau này, Phật pháp sẽ rất hưng vượng. V́ sao? Gương này được đề ra, học tập kinh giáo chẳng khó! Chỉ cần một bộ kinh, học kỹ càng suốt mười năm, chẳng phải là sẽ thấu suốt ư? Nếu quư vị muốn mọi người cùng học, chúng ta lập một Phật học viện, thành lập một lớp Phật học th́ cần phải có đại phước báo. Bản thân chúng ta có phước báo, mà chúng sanh cũng phải có phước báo. Chúng sanh không có phước báo sẽ chẳng thể thành công! V́ thế, nhân duyên chẳng dễ ǵ đạt được! Cả đời này, tôi mấy lần bỏ lỡ duyên phận, chẳng biết làm sao được, trong tâm tôi hiểu rất rơ, chẳng có cách nào! Lần đầu tiên là duyên phận của tôi với pháp sư Tinh Vân. Bốn mươi năm trước, Phật Quang Sơn vừa mới thành lập, trên núi ấy chỉ có một Phật học viện, tức Đông Phương Phật Giáo Học Viện. Sư mời tôi làm chủ nhiệm giáo vụ; khi ấy, học tṛ là một trăm ba mươi người. Tôi có ư nghĩ chia một trăm ba mươi người ấy thành nhiều tổ, cứ ba người một tổ, tức là chia thành bốn mươi tổ, mỗi tổ chuyên học một kinh. Thâm nhập một môn, huân tu dài lâu. Bốn mươi tổ là bốn mươi bộ kinh, học suốt mười năm, chẳng thể nói là một trăm ba mươi người đều thành tựu, nhưng một phần ba, tức bốn mươi người, mỗi người đều là chuyên gia của một bộ kinh. Quư vị nói người học kinh Di Đà mười năm là ǵ? A Di Đà Phật tái lai. Tiểu tổ ba người khác học phẩm Phổ Môn suốt mười năm, họ là Quán Thế Âm Bồ Tát tái lai. Chọn ra mười bộ kinh, nếu chúng ta cả đời chẳng rời khỏi Phật Quang Sơn, bao nhiêu năm qua, có nhiều nhân tài hoằng pháp như thế, có thể nói là tột đỉnh. Ai tu một bộ kinh mười năm? Đều đứng đầu, đúng là Phật quang chiếu khắp toàn cầu. Hết sức đáng tiếc, pháp sư Tinh Vân không chấp nhận đề nghị ấy. Sư bảo tôi: “Làm như vậy không giống như trường học”. Khi ấy, tôi thưa với Sư: - Trường học chưa chắc đă tạo nên nhân tài, nhưng biện pháp cố hữu ấy của Trung Quốc đă đào tạo nhân tài. V́ sao? Tôi học trong hội của lăo cư sĩ Lư Bỉnh Nam mười năm, học theo cách thức xưa cũ. Thầy Lư dùng phương pháp dạy học trong tư thục mà hữu hiệu! Một bộ kinh, giảng xong lần thứ nhất bèn giảng lần thứ hai, giảng xong lần thứ hai bèn giảng lần thứ ba, trọn chẳng dùng cùng một bài giảng, mỗi biến tự ḿnh đều phải tích cực chuẩn bị, mười lần sẽ đặt vững cơ sở. Nếu giảng mười năm, tối thiểu là giảng bốn năm chục lần, nhuyễn nhừ, cổ nhân nói đó là “quen tay thành khéo”, lẽ nào chẳng thành công! Nếu quư vị có thể vun bồi bền vững bốn căn cội (Cảm Ứng Thiên, Đệ Tử Quy, Thập Thiện Nghiệp Đạo và Sa Di Luật Nghi), Phật pháp sẽ hưng vượng, sẽ trở lại đời thịnh trị. Duyên phận đầu tiên ấy [chẳng thành], rất đáng tiếc, tôi rời khỏi Phật Quang Sơn.

      Duyên phận thứ hai là khi Hàn quán trưởng văng sanh. Trước khi bà ta văng sanh, chúng tôi đă dự định mở một lớp hướng dẫn hai ba chục đồng học chuyên tu. Nào ngờ, sau khi bà ta mất, con cái bà ta chẳng có hứng thú đối với chuyện ấy, chúng tôi cũng cảm thấy chính ḿnh phước đức, nhân duyên chẳng đủ. Lần thứ hai chúng tôi cũng thất vọng.

Lần thứ ba là tại Cư Sĩ Lâm của cư sĩ Lư Mộc Nguyên ở Tân Gia Ba. Trước tiên, chúng tôi làm thí nghiệm, mở lớp ngắn hạn trong ba tháng. Lớp ấy dạy được năm lần, rất có thành tích, chúng tôi trọn đủ ḷng tin, muốn mở lớp Phật học dài hạn, từ ba năm đến năm năm, nhưng lại có một người phá hoại trong ấy, khiến cho chúng tôi chẳng thể không rời khỏi Tân Gia Ba. Chúng tôi không thể trách móc bất luận kẻ nào, đó là duyên phận trong Phật pháp. Duyên phận Phật pháp đáng ở chỗ nào, chúng tôi không biết, chúng tôi là phàm phu tục tử. Tới Úc, sang năm, chúng tôi đến Úc được mười năm, Tịnh Tông Học Viện thành lập mười năm, hoàn cảnh tu học ổn định, nhưng trong các đồng học, bất luận xuất gia hay tại gia chẳng y giáo phụng hành, hiện thời có thể ép họ được hay không? Chẳng thể! Trong thời đại hiện tại, thời đại rộng lớn, hoàn cảnh rộng lớn, dân chủ, tự do, rộng mở, chúng ta chỉ có thể khuyên lơn, hướng dẫn, chẳng thể đ̣i hỏi quá mức. Khuyên lơn, hướng dẫn mọi người chuyên dốc công sức nơi một môn, thâm nhập một môn, huân tu lâu dài, khuyên mọi người vun bồi ba hay bốn căn cội. Họ đă học lung tung, chẳng học một thứ. Nếu học một thứ, chắc chắn mười năm sẽ có thành công, chẳng kém cư sĩ Lưu Tố Vân.

      V́ thế, Lưu cư sĩ đă nêu gương tốt nhất. Chỉ cần thật sự học, có một bộ CD, hoặc một bộ băng thâu âm, là được rồi! Thật sự buông tiếng tăm, lợi dưỡng, buông hưởng thụ ngũ dục lục trần xuống, chẳng sợ chịu khổ, ai nấy đều thành tựu. Ưu điểm của cư sĩ Lưu Tố Vân là có thể chịu khổ, có thể tŕ giới, điều này kẻ b́nh phàm chẳng dễ ǵ làm được, nhưng bà ta làm được. Tôi nghe bà ta nói trong CD, bà ta có một người bạn thân, mời người bạn thân ấy dùng cơm, chỉ có một món ăn, giá xào với đậu hũ sợi, một món thôi! Người bạn nói: “Mời tôi đến để ăn món này sao?” Đúng vậy! Bà ta hỏi: “Chẳng đủ ăn th́ tôi xào thêm một chút nữa”. “Vẫn là món đó hả?” “Đúng vậy, vẫn món đó”. Quư vị bèn hiểu b́nh thường người ta ăn cơm chỉ có một món, đơn giản, chẳng lăng phí thời gian, thời gian quư báu nhất! Chẳng thể chịu khổ, không được rồi! Tŕ giới chịu khổ, thâm nhập một môn, huân tu lâu dài, đấy là bí quyết thành công và hộ tŕ chánh pháp tồn tại lâu dài, chúng ta chớ nên không lưu ư.

      Chúng ta lại coi tiếp đoạn dưới: “Nhi vi Thượng Thủ, kim xưng Thủ Tọa vi Thượng Thủ” (“mà là Thượng Thủ”: Hiện tại gọi vị Thủ Tọa là Thượng Thủ). Trong Phật môn hiện thời, Thủ Tọa Ḥa Thượng được gọi là Thượng Thủ. “Các kinh trung Thượng Thủ nhân số bất đồng, lệ như Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ Kinh ư đại Bật Sô nhất thiên nhị bách ngũ thập nhân, liệt Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp, A Nê Luật Đà đẳng tứ nhân đẳng vi Thượng Thủ. Kim kinh tắc Kiều Trần Như ngũ nhân đẳng vi Thượng Thủ, thị năi nhất thiết đại thánh, thần thông dĩ đạt chi đại tôn giả trung chi Thượng Thủ” (Trong các kinh, số lượng Thượng Thủ khác nhau, chẳng hạn như Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ Kinh là một ngàn hai trăm năm mươi vị Đại Bật Sô, kể tên bốn vị Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp, và A Nê Luật Đà cùng làm Thượng Thủ; nay kinh này lấy năm vị như Kiều Trần Như v.v... làm Thượng Thủ, họ là Thượng Thủ trong các đại tôn giả hết thảy đại thánh, thần thông đă đạt”). Đặc biệt giới thiệu một chút. Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ Kinh là kinh A Di Đà do ngài Huyền Trang đại sư phiên dịch. Bản dịch của Cưu Ma La Thập đại sư có mười sáu vị tôn giả, trong ấy có tên họ của mười sáu vị, bản dịch của Huyền Trang đại sư chỉ kể tên bốn vị. Đây là do người phiên dịch, chúng ta biết Cưu Ma La Thập và Huyền Trang phải dịch từ cùng một nguyên bản, ư nghĩa trong hai bản dịch ấy đại đồng tiểu dị. Những vị này là Thượng Thủ của Thanh Văn chúng, trong Thanh Văn chúng các Ngài đều là Đại A La Hán. Chữ Đại trong “đại tỳ-kheo, đại A La Hán” là mấu chốt, Đại là ǵ? Đại Thừa. Tiểu Thừa A La Hán là Tiểu Thừa Tứ Quả, Đại Thừa A La Hán là Pháp Vân Địa Bồ Tát. V́ A La Hán dịch sang nghĩa tiếng Hán là Vô Học, Ngài đă học xong những khóa tŕnh (lớp học, môn học) cần phải học, tốt nghiệp rồi! Vô Học trong Tiểu Thừa gọi là A La Hán; Vô Học trong Đại Thừa cũng gọi là A La Hán. A Lan Hán có nghĩa là Vô Học, nhưng Vô Học trong Đại Thừa là Thập Địa Bồ Tát, tức Pháp Vân Địa Bồ Tát, được gọi là Đại A La Hán. Do kinh này là kinh Đại Thừa, quư vị thấy chữ Đại A La Hán có ư nghĩa khác biệt.

      Chúng ta xem tiếp đoạn kế đó: “Án ‘nhất thiết đại thánh, thần thông dĩ đạt’ chi cú” (xét ra, câu “hết thảy đại thánh thần thông đă đạt”), câu này, “bổn vị Bồ Tát thán đức” (vốn để ca ngợi đức hạnh của Bồ Tát), hai câu này vốn là để tán thán Bồ Tát. “Như Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ Kinh vân: - Dữ đại tỳ-kheo chúng tứ vạn nhị thiên câu, Bồ Tát bát vạn tứ thiên, nhất thiết đại thánh, thần thông dĩ đạt” (như kinh Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ[9] chép: Cùng với bốn vạn hai ngàn đại tỳ-kheo, tám vạn bốn ngàn Bồ Tát, hết thảy đại thánh thần thông đă đạt”). Đây là tham khảo lời Phật dạy trong kinh khác. “Kim thử kinh trung, dĩ tán thán Bồ Tát công đức chi ngữ, dĩ tán Thanh Văn” (Nay trong kinh này, dùng lời tán thán công đức của Bồ Tát để tán thán Thanh Văn). Câu tiếp đó là khẩn yếu, “chánh biểu thử đẳng thường tùy thánh chúng, bổn Pháp Thân đại sĩ, ẩn Bổn thùy Tích” (chính là nhằm biểu thị các vị thánh chúng thường theo hầu Phật vốn là Pháp Thân Đại Sĩ, ẩn Bổn thùy Tích). Những vị này là ai? Cổ nhân Trung Quốc đă nói rất hay: “Một vị Phật ra đời, ngàn vị Phật ủng hộ”. Giống như đóng tuồng, người này đóng vai chính, người khác đóng vai phụ; chẳng có những vai phụ diễn, tuồng sẽ hát không hay. Duyên của Thích Ca Mâu Ni Phật chín muồi, Ngài đến thế gian này thị hiện thành Phật, đóng vai chánh, những vai phụ diễn th́ sao? Vai phụ diễn có thể là thầy Ngài, hoặc có thể là giống như Ngài, đều đă thành Phật, đó gọi là “cổ Phật tái lai”, thật đấy! Trong giáo pháp Đại Thừa, đức Phật đă nói rơ: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên đă thành Phật từ kiếp lâu xa, đến tham gia pháp hội của Thích Ca Mâu Ni Phật, đến nơi đây gặp dịp đóng một vai, làm học tṛ của Thích Ca Mâu Ni Phật, các Ngài thật sự là đại thánh, cũng chẳng phải là tiểu thánh, giống như các vị Đẳng Giác Bồ Tát hoặc Thập Địa Bồ Tát rất nhiều!

Do vậy, trong hội này, há thật sự có phàm phu? C̣n có những vị hộ pháp thời đức Phật tại thế, những vị tại gia cư sĩ, [trong số ấy] cũng có rất nhiều chư Phật, Bồ Tát tái lai. Hoằng pháp lẫn hộ pháp đều là hạng nội hạnh, chẳng phải là bậc nội hạnh sẽ không được! Do vậy, chúng ta có thể hiểu, cư dân sống tại Ấn Độ thuở ấy phước báo to lớn, cảm chư Phật, Bồ Tát giáng lâm, v́ chúng sanh tuyên nói diệu pháp. Đặc biệt là pháp môn này tiếp dẫn đại chúng, thành tựu viên măn trong một đời, đến đâu để t́m pháp môn này? Bởi thế, những vị Pháp Thân đại sĩ này, như kinh Hoa Nghiêm đă nói, bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ, ẩn Bổn, tức là ẩn giấu quả vị sẵn có của chính ḿnh, “thùy tích” là biểu diễn, sắm một vai trên sân khấu, [đó là] ẩn Bổn thùy Tích. “Hoặc tha phương thánh chúng, trợ Phật hoằng hóa, vi Ảnh Hưởng Chúng” (hoặc thánh chúng từ phương khác, giúp Phật hoằng hóa, đóng vai tṛ làm những người gây ảnh hưởng). Cũng có những vị Phật từ thế giới phương khác, thấy Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện thành Phật tại nơi đây, cũng đến góp sức vào cuộc vui, đến sắm một vai diễn. Sắm vai ǵ không nhất định, có vị sắm vai tỳ-kheo xuất gia, có vị sắm vai tại gia Bồ Tát, chẳng nhất định, đúng là nên dùng thân ǵ đắc độ, bèn hiện thân ấy, đều nhằm giúp Thích Ca Mâu Ni Phật giáo hóa chúng sanh, đấy gọi là Ảnh Hưởng Chúng.

       “Nhất thiết đại thánh, chỉ kỳ bổn địa, bổn thị cứu cánh Bồ Đề chi nhân cố” (Câu “hết thảy đại thánh” chỉ Bổn Địa của họ: Vốn là bậc Bồ Đề rốt ráo). Rốt ráo Bồ Đề là người đă chứng đắc địa vị Diệu Giác. Trong kinh Hoa Nghiêm, đây là địa vị Bồ Tát tối cao. Diệu Giác c̣n cao hơn Đẳng Giác một cấp, đấy là rốt ráo Bồ Đề. “Thần thông dĩ đạt giả” (Thần thông đă đạt là...) đó là “thị quyền tích”, tức là thần thông biến hóa, mang thân phận Thanh Văn trong hội này. Quư vị thấy bốn vị trước đă chứng đắc địa vị A La Hán, c̣n ngài A Nan là Sơ Quả Tu Đà Hoàn, đấy là sắm những vai biểu diễn khác nhau, “du hư thần thông lai thử độ cố” (do du hư thần thông mà đến cơi này). Các vị này đều có duyên với chúng sanh trong thế giới Sa Bà, không có duyên sẽ chẳng đến, đều là hữu duyên. V́ thế, chúng sanh có cảm, toàn bộ các Ngài đều đến, cùng theo Thích Ca Mâu Ni Phật đến đây. “Cố tri sở liệt chi Thanh Văn chúng, giai thị đại quyền thị hiện, trợ ngă Thế Tôn, khai hiển Tịnh Độ pháp môn dă” (Do vậy, biết các hàng Thanh Văn vừa được nêu trên đều là bậc đại quyền thị hiện hỗ trợ đức Thế Tôn ta khai hiển pháp môn Tịnh Độ). Nhất định phải hiểu ư nghĩa này; v́ thế, đọc kinh quư vị chớ nên không liễu giải sự quyền biến thị hiện, chớ nên chẳng liễu giải Ẩn và Hiện, tức Ẩn Bổn Hiện Tích, “thùy tích” là hiện ra h́nh tướng, dấu vết.

      “Tổng thượng ngũ thánh” (Xét chung, năm vị thánh [nói trên]), sau khi giới thiệu riêng từng vị xong, bèn gộp chung lại để nói, chúng ta xem năm vị [Thượng Thủ được nêu tên] trong phần trước. “Liễu Bổn Tế”, tức tôn giả Kiều Trần Như, “vị liễu tri kỳ cửu viễn chi bổn tế, cố thủ liệt chi” (do biết rơ Bổn Tế lâu xa nên được nêu tên đầu tiên). Liễu là hiểu rơ, Bổn Tế là bổn tánh, người Trung Quốc thường gọi Liễu Bổn Tế là “đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật”. Kiến tánh là chân Phật, chẳng phải là giả Phật. Người kiến tánh thoát ly mười pháp giới. C̣n bị giới hạn trong mười pháp giới là chưa giác ngộ, chưa kiến tánh, kiến tánh bèn thoát ĺa. Người [kiến tánh] vẫn ở lại trong mười pháp giới, nên gọi là đại quyền thị hiện, giống như những vị này, ẩn Bổn thùy Tích, là thật, chẳng giả. Chư vị nhất định phải biết, trong kinh Đại Thừa, đức Phật thường nói “tướng chuyển theo tâm, cảnh chuyển theo tâm”. Tâm quư vị vừa chuyển, bèn là Pháp Thân Bồ Tát. Trong giáo pháp Đại Thừa, chúng ta thấy thân tướng của Pháp Thân Bồ Tát: “Thân có vô lượng tướng, tướng có vô lượng hảo”, chẳng phải là ba mươi hai tướng, tám mươi thứ hảo. Hoàn cảnh cư trụ của các Ngài là cơi Thật Báo Trang Nghiêm, là Nhất Chân pháp giới, chẳng phải là uế độ.

      Những người minh tâm kiến tánh trong thuở Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế, cùng ở với chúng ta, chúng ta thấy họ giống hệt như chúng ta, chẳng có ǵ khác biệt. Khác nhau ở chỗ chúng ta là phàm phu mắt thịt thấy Phật, Bồ Tát toàn là phàm phu mắt thịt, c̣n Phật, Bồ Tát thấy chúng ta thảy đều là Phật, Bồ Tát, mỗi người có cách nh́n khác nhau. V́ sao? Chư Phật, Bồ Tát nh́n vào tự tánh của chúng ta, tự tánh của quư vị là Phật. Chúng ta nh́n Phật, Bồ Tát, chẳng thấy tánh, chỉ thấy tướng của các Ngài, chấp tướng, cho nên các Ngài chẳng giống bọn phàm phu chúng ta. Mỗi ngày ăn cơm, đi ra ngoài khất thực, người ta cho ǵ ăn nấy, chúng ta thấy như vậy, không có cách nào lư giải họ. Họ ra ngoài xin được một bát cơm, cơm ấy chẳng dễ ăn cho lắm. Có thể là kẻ ăn mày ra ngoài xin một chút đồ ăn. Trong kinh A Hàm thường nói cơm ấy như thế nào? Thiu rồi, hư rồi, bốc mùi. Kẻ ăn xin rất đáng thương, xin được một chút đồ, gặp Phật, Phật có phước báo, bèn lấy bát cơm ấy cúng dường Phật để tu phước. Đức Phật cũng rất vui vẻ, ăn ngay trước mặt người ấy, chúc phước cho kẻ ấy. Cơm ấy kẻ b́nh phàm chẳng thể nuốt trôi, nhưng Phật có thể ăn. Phật ăn vào mùi vị ra sao? Thiên trù diệu cúng (đồ cúng dường mầu nhiệm từ bếp cơi trời). V́ sao? Cảnh chuyển theo tâm. Tâm người ăn mày ô nhiễm, nên cơm dơ bẩn. Khi dâng lên Phật, Phật là thân tâm thanh tịnh, thứ ấy liền biến thành thứ tốt đẹp nhất, thật đấy, chẳng giả đâu! Thần thông diệu dụng mà! Chúng ta thấy đức Phật ngồi dưới cội Bồ Đề, dưới gốc cây lót cỏ, tĩnh tọa nơi ấy. Bồ Tát chẳng thấy như vậy, mà sẽ thấy phía trên có lọng báu, phía dưới là ṭa báu Kim Cang. Thân tướng đức Phật chẳng phải là ba mươi hai tướng, mà là thân có vô lượng tướng, mỗi tướng có vô lượng hảo, các Ngài thấy như vậy. Cảnh chuyển theo tâm, tướng do tâm sanh, chúng ta xem nhiều kinh luận, sẽ dần dần thấu hiểu chuyện ấy là thật, chẳng giả. V́ thế, tôn giả Kiều Trần Như tượng trưng minh tâm kiến tánh. Trong kinh này, điều đó có nghĩa là kinh này là kinh điển để minh tâm kiến tánh trong một đời. Trong đời này, quả thật chúng ta chưa minh tâm kiến tánh, nhưng văng sanh thế giới Cực Lạc sẽ minh tâm kiến tánh. Tổ sư đại đức đă nói: “Đản đắc kiến Di Đà, hà sầu bất khai ngộ?” (Chỉ cần thấy Di Đà, lo chi chẳng khai ngộ), lẽ đâu chẳng khai ngộ? Kể tên Ngài đầu tiên nhằm làm cho chúng ta phát khởi ḷng tin, tức là ḷng tin đối với Tịnh Tông, sanh khởi nguyện tâm.

      “Thân Tử trí huệ đệ nhất”, Thân Tử là Xá Lợi Phất, “biểu Di Đà chi Phật trí, bất tư nghị trí, bất khả xưng trí, Đại Thừa quảng trí, vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí chi thâm quảng vô nhai” (biểu thị Phật trí, trí chẳng nghĩ bàn, trí chẳng thể nói, trí Đại thừa rộng lớn, trí thù thắng tối thượng không ǵ bằng, không chi sánh, sâu rộng không bờ bến của Phật Di Đà), tượng trưng điều ǵ? Tượng trưng trí huệ Bát Nhă viên măn vốn sẵn có trong tự tánh. Ở nơi đâu? Trong bộ kinh này! Nếu chúng ta muốn khai phát trí huệ Bát Nhă sẵn có trong tự tánh của chính ḿnh th́ kinh này là một phương pháp. Trí huệ ấy đúng như đức Thế Tôn đă nói trong kinh Hoa Nghiêm: “Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng của Như Lai”. Năm thứ trí được nói đến ở đây chính là trí huệ vốn sẵn có của Như Lai, nói Như Lai là nói tới tự tánh của chúng ta. Trong tự tánh của chúng ta vốn có năm thứ trí huệ viên măn ấy. Năm thứ trí huệ được dành lại để giảng trong phần sau, nên ở đây chẳng chú giải, trong phần sau sẽ có.

       “Mục Liên chi thần thông đệ nhất, hiển du hư thần thông chi thệ nguyện” (Mục Liên thần thông bậc nhất, hiển thị thệ nguyện du hư thần thông). Trong lúc tu nhân, Bồ Tát đă phát nguyện “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”, muốn độ chúng sanh, nhưng quư vị chẳng có năng lực, sẽ không thể độ được. Vừa có trí huệ vừa có năng lực, ở đây năng lực được biểu hiện ra chính là thần thông. Thần là chẳng có chướng ngại, kinh Hoa Nghiêm giảng bốn thứ vô ngại, Lư vô ngại, Sự vô ngại, Lư Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại. Đó là thần thông, Thông là thông đạt. Nói gộp lại, pháp giới chẳng chướng ngại, quư vị mới có thể phổ độ chúng sanh, mới có thể thực hiện Tứ Hoằng Thệ Nguyện đă phát trong lúc tu nhân. Trong lục đạo, trong mười pháp giới, nên dùng thân ǵ đắc độ, quư vị có thể hiện thân ấy, hiện thân vô ngại. Nên dùng phương pháp ǵ để giúp người ấy giác ngộ, bèn dùng phương pháp đó. Thân chẳng phải là thân nhất định, pháp cũng chẳng có định pháp (pháp nhất định), sống động, hoạt bát; như kinh Lăng Nghiêm đă nói: Bồ Tát hiện thân, “tùy chúng sanh tâm, ứng sở tri lượng” (thuận theo tâm chúng sanh, ứng với khả năng tiếp nhận của họ). Chính Ngài không có thân, chúng sanh thích thân ǵ Ngài bèn hiện thân ấy. Chúng sanh mong Phật đến độ họ, hoặc là Bồ Tát đến độ họ, bèn thuận theo ḷng quư vị mong muốn mà hiện thân. Quư vị hoan hỷ sẽ dễ đắc độ, chẳng hoan hỷ sẽ khó khăn!

       “Đại Ẩm Quang”, đây là tôn giả Ca Diếp, tức ngài Đại Ca Diếp, “hiển Di Đà thù thắng quang minh, vô bất chiếu kiến, quang trung cực tôn, Phật trung chi vương” (Đại Ẩm Quang hiển thị quang minh thù thắng của Phật Di Đà không ǵ chẳng chiếu tỏ, là tôn quư nhất trong các quang minh, là vua của các đức Phật). Hai câu này là lời đức Thế Tôn tán thán A Di Đà Phật đến tột bậc. Chúng ta biết, Phật Phật b́nh đẳng, trong pháp b́nh đẳng, đức Thế Tôn vẫn tán thán A Di Đà Phật như vậy, “quang trung cực tôn, Phật trung chi vương”. Ngài Đại Ẩm Quang trong quá khứ, chín mươi mốt kiếp trước, dùng vàng ṛng cúng dường Phật, thếp vàng tượng Phật, nên cảm chín mươi mốt kiếp quang minh kim sắc, mang ư nghĩa này, hiển thị quang minh thù thắng của A Di Đà Phật.

      “Hựu Ca Diếp thị Tông Môn Sơ Tổ, A Nan vi Nhị Tổ” (lại nữa, Ca Diếp là Sơ Tổ Thiền Tông, ngài A Nan là Nhị Tổ). Trong Thiền Tông, Thiền Tông do Thích Ca Mâu Ni Phật truyền cho Ma Ha Ca Diếp, tôn giả Ca Diếp lại truyền cho A Nan. A Nan là Sơ Tổ Giáo Hạ, là Nhị Tổ của Thiền Tông. “A Nhă Kiều Trần Như biểu đương nhân chi Bổn Tế” (A Nhă Kiều Trần Như biểu thị Bổn Tế của hành nhân). Bổn Tế là bổn tánh, tượng trưng cho bổn tánh của chúng ta. “Xá Lợi Phất biểu chúng sanh bổn cụ chi trí huệ” (Xá Lợi Phất tượng trưng trí huệ vốn có của chúng sanh). Kinh nói tới năm thứ trí huệ viên măn. “Mục Liên tức chúng sanh bổn hữu chi thần thông” (Mục Liên chính là thần thông vốn có của chúng sanh). Quư vị thấy: Đều là trở về tự tánh. Ẩm Quang biểu thị “linh quang độc diệu, huưnh thoát căn trần” (linh quang riêng chiếu, vượt thoát căn trần), hai câu ấy là của Thiền Tông. Linh quang là trí huệ trong tự tánh, Căn là sáu căn, Trần là sáu trần. Huưnh () là xa xôi, [“huưnh thoát”] là vượt thoát xa ĺa lục căn, lục trần, đấy là vượt thoát mười pháp giới. “Khánh Hỷ biểu khánh khoái b́nh sanh, tâm tâm tương kế” (Khánh Hỷ biểu thị luôn luôn vui sướng, tâm tâm tiếp nối). Gặp gỡ Phật pháp, hoan hỷ, tin nhận phụng hành hoan hỷ, chứng đắc Vô Thượng Bồ Đề hoan hỷ, niệm niệm liên tiếp, chánh pháp thường trụ thế gian, vĩnh viễn bất đoạn.

      Khi pháp vận của Thích Ca Mâu Ni Phật kết thúc, tức là một vạn hai ngàn năm sau, nói thật ra, thời gian trọn chẳng dài. Một vạn hai ngàn năm Phật pháp bèn kết thúc, chẳng c̣n nữa! Vị Phật kế tiếp, tức vị Phật thứ năm, [chính là] Di Lặc Bồ Tát đến thành Phật trong thế gian này, khi nào Ngài sẽ giáng hạ? Trong bản chú giải này, cụ Niệm Tổ cũng [cho biết]: Năm mươi bảy ức sáu ngàn vạn năm sau, Di Lặc Bồ Tát mới đến thành Phật trong thế gian này. Bởi vậy, hiện thời có kẻ nói Di Lặc Bồ Tát đă chưởng quản thiên bàn, đó là nói dối, chẳng thật, chẳng có lẽ ấy! Cách tính toán thời gian như thế nào? Tính theo [thời gian trên] cơi trời Đâu Suất. Một ngày trên trời Đâu Suất bằng bốn trăm năm trong nhân gian, thời gian sai biệt rất lớn, một ngày trên trời Đâu Suất bằng bốn trăm năm trong nhân gian! Một năm [trên cơi trời ấy] cũng giống như chúng ta, v́ họ tính theo độ số của một ṿng tṛn là ba trăm sáu mươi độ, nên một năm là ba trăm sáu mươi ngày. Họ có thọ mạng dài bao lâu? Bốn ngàn năm. [Tuổi thọ] trên cơi trời Đâu Suất là bốn ngàn năm. Quư vị hăy tính toán từ từ, sẽ tính ra thời gian khớp với thế gian này là năm mươi bảy ức sáu ngàn vạn năm, khi ấy, Ngài sẽ giáng thế. Trong thời gian rất dài ấy, chẳng có Phật pháp. Không có Phật pháp, con người rất khổ. V́ thế, đức Phật từ bi đến tột bậc, không có Phật th́ kiếm người thay mặt Phật. Có người thay mặt đức Phật, người thay mặt đức Phật là ai? Người thay mặt đức Phật là Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát. Thời gian Địa Tạng Vương Bồ Tát độ chúng sanh c̣n dài hơn Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật độ chúng sanh mới là một vạn hai ngàn năm. Quư vị thấy Địa Tạng Vương độ chúng sanh phải trải qua thời gian bao lâu? Phàm khi Phật chẳng xuất thế, thảy đều do Địa Tạng Bồ Tát thay mặt. V́ thế, quư vị thấy mở đầu kinh Địa Tạng thật sự náo nhiệt, kinh này chẳng sánh bằng, kinh Hoa Nghiêm cũng chẳng sánh bằng. Mười phương hết thảy chư Phật đều tới tham gia pháp hội. V́ sao? Trong quá khứ, mười phương chư Phật đều là học tṛ của Địa Tạng Bồ Tát. Học tṛ chẳng quên ân thầy, ngày hôm nay thầy mở pháp hội, lẽ nào tṛ chẳng đến? Đă thành Phật cũng phải đến để trang nghiêm đạo tràng. V́ vậy, pháp hội Địa Tạng trang nghiêm thù thắng khôn sánh.

      “Cố tri nhất bộ đại kinh, chánh thị phó pháp truyền tâm” (V́ vậy, biết một bộ Đại kinh đúng là phó pháp, truyền tâm), bốn chữ ấy (phó pháp truyền tâm) trọng yếu! Ngày nay chúng ta tiếp nhận bản kinh này, chẳng khác nào Thích Ca Mâu Ni Phật đem vô thượng diệu pháp truyền cho quư vị. “Phó pháp” là A Nan, tức truyền Giáo. Người “truyền tâm” là truyền Thiền Tông, tức tôn giả Ca Diếp. Trao một bộ kinh này cho quư vị, pháp và tâm đều truyền cho quư vị. Đó là Tông Môn lẫn Giáo Hạ thảy đều truyền cho quư vị. “Nhất cú danh hiệu, trực hiển bổn lai diện mục” (một câu danh hiện hiển lộ thẳng thừng diện mạo vốn có). Bổn lai diện mục là ǵ? Thường Tịch Quang! Vô Lượng Thọ! Trong kinh Di Đà, đức Phật nói rơ câu danh hiệu ấy biểu thị ư nghĩa Vô Lượng Quang và Vô Lượng Thọ. Vô Lượng Quang là Thường Tịch Quang, Vô Lượng Thọ là bất sanh bất diệt, chính là như khi Huệ Năng đại sư khai ngộ đă nói: “Nào ngờ tự tánh, vốn chẳng sanh diệt”. Vốn chẳng sanh diệt là Vô Lượng Thọ. Ai nhận biết một câu A Di Đà Phật? Người niệm rất nhiều, nhưng chẳng nhận biết. Thật sự nhận biết, quư vị sẽ khăng khăng một câu Phật hiệu, thật sự buông xuống vạn duyên. Một câu Phật hiệu là bổn tánh của quư vị, là hết thảy kinh giáo do Như Lai đă nói. Trong hội Hoa Nghiêm, chúng tôi đă giảng điều này rất rơ ràng, chẳng giả tí nào, những vị tổ sư đại đức xưa kia đă phân tích. Mười phương ba đời hết thảy chư Phật Như Lai độ vô lượng vô biên chúng sanh, nói vô lượng vô biên Phật pháp, cuối cùng nói gọn một câu là A Di Đà Phật để tổng kết.

      “Ư thử tiến đắc, thỉ xưng đới giác chi hổ” (Lănh hội được điều này th́ mới đáng xưng là “hổ mọc thêm sừng”), phải hiểu đây là một thứ phương tiện thiện xảo để tổ sư tiếp dẫn người học Thiền Tông. V́ sao tổ sư nói như vậy? Dường như do Vĩnh Minh Diên Thọ đại sư nói, đúng rồi, Ngài nói trong Tứ Liệu Giản. Vĩnh Minh Diên Thọ đại sư đại triệt đại ngộ trong Thiền Tông, quay trở lại chuyên tu Tịnh Độ, chuyên niệm A Di Đà Phật, Ngài là tổ sư đời thứ sáu của Tịnh Độ Tông, tức Tịnh Tông Lục Tổ, là A Di Đà Phật tái lai. Quư vị thấy thuở ấy, phong thái Thiền vô cùng hưng thịnh, coi rẻ tu Tịnh Độ, Ngài đến biểu diễn, trước hết là tu Thiền, đại triệt đại ngộ nơi Thiền rồi tu Tịnh, nhằm bảo với người khác ư nghĩa ǵ? Tịnh c̣n thù thắng hơn Thiền, làm sao có thể khinh mạn cho được? V́ thế, Ngài khuyên những kẻ tu Thiền, “có Thiền, có Tịnh Độ, giống như cọp thêm sừng”. Quư vị tu Thiền, lại c̣n thêm Tịnh, tuyệt lắm! Vốn là cọp mà cọp lại mọc sừng. Khuyên người học Thiền, biết kẻ ấy chẳng phải là căn tánh Thiền Tông, mê nơi Thiền, chẳng thể khai ngộ, mà cũng chẳng đắc Định, dùng phương pháp ấy để dẫn dắt, tiếp dẫn kẻ ấy. Quư vị bảo kẻ ấy trực tiếp bỏ Thiền tu Tịnh, hắn sẽ chẳng cam ḷng, chẳng vâng chịu, chẳng thể tiếp nhận, nên dùng phương tiện thiện xảo như thế để khuyên chỉ hắn. Lại c̣n đích thân nêu gương. “Ư thử tiến đắc” (lănh hội điều này), giống như thiền sư Trung Phong, quư vị thấy thiền sư Trung Phong v́ người đời sau soạn một bản nghi thức Tam Thời Hệ Niệm, tác phẩm ấy do chính Ngài biên soạn. Trong ấy, có một câu trọng yếu: “A Di Đà Phật tức thị ngă tâm, ngă tâm tức thị A Di Đà Phật, Tịnh Độ tức thử phương, thử phương tức Tịnh Độ” (A Di Đà Phật chính là tâm ta, tâm ta chính là A Di Đà Phật. Tịnh Độ chính là phương này, phương này chính là Tịnh Độ). Hễ mê, quư vị thấy có sanh, có diệt. Sau khi ngộ, sẽ là bất sanh bất diệt. Do mê hay ngộ nên [cảm nhận] cảnh giới sai khác, chứ cảnh giới chẳng có mê hay ngộ, mê hay ngộ là do tự tâm của chúng ta. Sự thật là chẳng có sanh diệt.

      V́ thế, các vị tổ sư đại đức khuyên dạy chúng ta, “đản đương mạch trực niệm khứ, tiện thị vô thượng thâm Thiền” (chỉ nên thẳng thừng mà niệm sẽ là vô thượng thâm Thiền). Câu “vô thượng thâm Thiền” là do chính Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói, nhất tâm tŕ danh, tức là niệm một câu A Di Đà Phật, chính là vô thượng thâm diệu Thiền, h́nh như câu này được chép trong kinh Đại Tập. “Vô luận định tŕ, tán niệm, quyết định công bất đường quyên” (Chẳng nệ định tŕ hay tán niệm, quyết định chẳng phí uổng công lao). “Định tŕ” là định khóa (ấn định thời hạn, giờ khắc nhất định), “tán niệm” là chẳng thuộc về định khóa, hễ có dịp bèn niệm Phật. Tán niệm chẳng phải là tâm tán loạn. Tâm tán loạn niệm Phật chẳng được, phải nhất tâm, phải dùng cái tâm cung kính để niệm Phật. “Tán” có nghĩa là chẳng thuộc vào lúc thực hiện định khóa, định khóa của chúng ta là khóa tụng sáng tối. Nhằm lúc chẳng phải là định khóa, trong hết thảy thời, hết thảy chỗ, Phật hiệu chẳng gián đoạn th́ gọi là “tán niệm”, chắc chắn chẳng phí uổng công phu định lực. Những lời này đều do lăo cư sĩ đă trích lược từ kinh văn và ngữ lục của tổ sư đại đức, đúng là chẳng giả tí nào!

      “Bổn kinh tiên liệt Thanh Văn, hậu chương Bồ Tát” (Kinh này trước nêu Thanh Văn, sau kể Bồ Tát). “Chương” () là nêu rơ, trước hết, nêu bày chúng Thanh Văn, sau đó là Bồ Tát chúng. “Chánh như Phật Địa Luận đệ nhị” (đúng như trong quyển hai của Phật Địa Luận), điều này được nói trong quyển thứ hai [của bộ luận ấy]: “Tiên thuyết Thanh Văn, hậu thuyết Bồ Tát. Thanh Văn chúng giả, cận đối Thế Tôn, thân thọ hóa cố. Hựu chư Thanh Văn, thường tùy Phật cố, h́nh đồng Phật cố. Thị cố chư kinh đa thị tiên Thanh Văn, nhi hậu Bồ Tát” (Trước nói Thanh Văn, sau nêu Bồ Tát. Chúng Thanh Văn gần gũi Thế Tôn v́ được đức Phật đích thân giáo hóa. Hơn nữa, các Thanh Văn do thường theo đức Phật nên h́nh tướng giống với đức Phật. V́ vậy, phần nhiều các kinh thường nêu Thanh Văn rồi mới nói đến Bồ Tát). Đây là nói về sự biểu thị pháp của đại chúng, tŕnh bày đơn giản về sự sắp xếp theo thứ tự thuận của các Ngài. Thanh Văn là học tṛ chưa khai ngộ, tuy đắc Định, A La Hán là đắc Định, Cửu Thứ Đệ Định chứng quả A La Hán, nhưng chưa đại triệt đại ngộ, chưa minh tâm kiến tánh, chúng ta biết các Ngài chỉ đoạn Kiến Tư phiền năo. Trong kinh Đại Thừa thường nói đến tam giới trong lục đạo, tam giới là Dục Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới, đoạn tám mươi tám phẩm Kiến Hoặc, chứng Tiểu Thừa Sơ Quả Tu Đà Hoàn. Nếu đem Tư Hoặc, Tư Hoặc gồm tám mươi mốt phẩm, chia ra phối hợp với chín địa, mỗi địa gồm chín phẩm th́ chín lần chín thành tám mươi mốt phẩm Tư Hoặc. Đoạn hết Tư Hoặc, Tư Hoặc là tham, sân, si, mạn, nghi, gồm năm loại lớn ấy. V́ thế, Nghi là phiền năo rất nghiêm trọng, hoài nghi đấy! Đối với ǵ mà nói [là nghi]? Đối với thánh giáo mà nói, quư vị hoài nghi Thích Ca Mâu Ni Phật, hoài nghi kinh điển nhà Phật, hoài nghi giáo huấn của đức Phật. C̣n có một thứ nữa là hoài nghi chính ḿnh, bản thân ta tạo tác tội nghiệp quá nặng, ta có thể thành tựu trong một đời này hay không? Niệm ấy thuộc về nghi, đó là phiền năo rất nghiêm trọng.

      Đoạn hết tham, sân, si, mạn, nghi, tám mươi tám phẩm trong tam giới thảy đều đoạn hết, lục đạo sẽ chẳng c̣n. Lục đạo là giả, chẳng thật. Lục đạo giống như nằm mộng, quư vị đoạn được nó là tỉnh mộng. Vĩnh Gia đại sư nói rất hay: “Mộng lư minh minh hữu lục thú, giác hậu không không vô đại thiên” (trong mộng rành rành phô sáu nẻo, giác rồi ba cơi rỗng toang hoang), tỉnh rồi. Tỉnh giấc là cảnh giới ǵ? Là tứ thánh pháp giới, vẫn c̣n ở trong mộng. Bởi lẽ, lục đạo là mộng trong mộng, sau khi ra khỏi lục đạo, từ trong mộng tỉnh giấc, vẫn thuộc về giấc mộng này. Vẫn phải đoạn nữa, số lượng [phiền năo] cũng rất nhiều, kinh Hoa Nghiêm gọi chúng là “phân biệt”, phân biệt nhẹ hơn chấp trước, nhưng rất khó đoạn, v́ sao? Quá nhiều! Quư vị thấy ư niệm phân biệt, niệm trước diệt, niệm sau liền sanh. Phân biệt được gọi là Trần Sa phiền năo. Trần Sa là tỷ dụ rất nhiều, khởi tâm động niệm đều phân biệt. Đoạn phân biệt phiền năo th́ là Bồ Tát. Do vậy, trong tứ thánh pháp giới, chúng ta biết, Thanh Văn đoạn Kiến Tư, vẫn có tập khí Kiến Tư. Bích Chi Phật đoạn tập khí Kiến Tư, có Trần Sa phiền năo. Đoạn Trần Sa phiền năo, thành Bồ Tát, lại tiến cao hơn một cấp, nhưng vẫn có tập khí Trần Sa. Tập khí Trần Sa đoạn hết, sẽ thành Phật, tức là Phật trong mười pháp giới, là vị trí cao nhất trong mười pháp giới. Tuy thành Phật, hăy c̣n vô thỉ vô minh phiền năo, tức là khởi tâm động niệm. Phải đoạn hết vô minh phiền năo, chẳng khởi tâm, không động niệm, khi ấy, thật sự tỉnh giấc, tứ thánh pháp giới chẳng c̣n, mười pháp giới không có. Do vậy, tứ thánh pháp giới cũng chẳng phải là thật. Mười pháp giới không có, xuất hiện cảnh giới ǵ? Nhất Chân pháp giới. V́ sao gọi là Nhất Chân? Trong pháp giới ấy không có biến hóa, trong mười pháp giới có biến hóa, chứ pháp giới này không có biến hóa. V́ sao? Không có phân biệt, chấp trước. Biến hóa do phân biệt, chấp trước sanh ra, ngay cả thời gian và không gian cũng đều có biến hóa. V́ thế, hễ vào trong Nhất Chân pháp giới, thời gian lẫn không gian đều không có. Thời gian không có, chẳng có trước sau. Không gian không có, khoảng cách chẳng c̣n. Trọn khắp pháp giới hư không giới là Nhất Chân pháp giới. Thế giới Cực Lạc ở đâu? Ngay nơi đây. A Di Đà Phật thành Phật khi nào? Ngay giây phút này! Thời gian và không gian chẳng có, đó là thật sự thành Phật.

      Thiên Thai đại sư giảng: Phật trong mười pháp giới gọi là Tương Tự Tức Phật, vượt thoát mười pháp giới sẽ là thật, tức Phần Chứng Tức Phật. V́ sao phần chứng? Chưa viên măn. V́ sao chưa viên măn? Chẳng khởi tâm động niệm, nên vô thỉ vô minh chẳng c̣n, nhưng tập khí vô thỉ vô minh hăy c̣n. Tập khí ấy chẳng dễ đoạn, không giống với những thứ trước đó. Trước đó là tập khí Kiến Tư và tập khí Trần Sa đều dễ đoạn, đều có phương pháp đối trị, chỉ riêng vô thỉ vô minh là không có phương pháp đối trị. Quư vị chỉ có một phương pháp, nếu đối trị nó sẽ ngay lập tức lọt vào vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, toàn bộ đều có! V́ vậy, khi đó, cổ đại đức nói là “vô công dụng đạo”, để mặc nó, tuyệt đối chẳng quan tâm tới nó, tuyệt đối đừng khởi tâm động niệm, tự nhiên tập khí ấy sẽ bị đào thải từ từ. Phải mất thời gian bao lâu? Kinh nói ba đại A-tăng-kỳ kiếp, chúng sẽ chẳng c̣n. Do vậy, thành Phật phải mất ba đại A-tăng-kỳ kiếp là nói với ai? Chẳng phải là nói với kẻ phàm nhân! Nói theo phía người phàm sẽ là vô lượng kiếp! [Nói ba đại A-tăng-kỳ kiếp] là nói với Pháp Thân Bồ Tát, tức Viên Giáo Sơ Trụ, ngày nào quư vị minh tâm kiến tánh, đại triệt đại ngộ, tính từ lúc ấy, sẽ phải trải qua ba A-tăng-kỳ kiếp, tập khí vô thỉ vô minh sẽ tự nhiên chẳng c̣n. Do vậy, trong Nhất Chân pháp giới, đức Phật nói có bốn mươi mốt tầng cấp, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, bốn mươi mốt giai cấp, bốn mươi mốt giai cấp ấy do đâu mà có? Do tập khí vô minh dầy hay mỏng, do vậy mà có! Không có cách nào có thể đoạn tập khí vô minh. Hễ quư vị có một cách, quư vị thấy đó, nhất định là quư vị khởi phân biệt, khởi chấp trước, bèn đọa lạc. V́ thế, ở đây, chẳng thể khởi tâm động niệm. Trong cảnh giới ấy, quả thật không khởi tâm, không động niệm, chẳng phân biệt, chẳng chấp trước. V́ thế, chúng ta phải liễu giải, thế giới ấy là thế giới b́nh đẳng, bốn mươi mốt địa vị là b́nh đẳng. Không chỉ bốn mươi mốt địa vị b́nh đẳng, ngay cả Phật quả rốt ráo, tức địa vị Diệu Giác cũng b́nh đẳng, thật sự b́nh đẳng.

      Từ kinh Hoa Nghiêm chúng ta thấy, Sơ Trụ Bồ Tát vừa mới giác ngộ, đại triệt, đại ngộ, minh tâm kiến tánh, có năng lực: Chúng sanh trong mười pháp giới có cảm, Ngài có thể ứng. Nên dùng thân Phật để đắc độ, Ngài bèn có thể hiện ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp giống như Thích Ca Mâu Ni Phật, có thể hiện thân Phật. Nên dùng thân Bồ Tát đắc độ, có thể hiện thân Bồ Tát. Thân nào cũng đều có thể hiện, pháp ǵ cũng đều có thể giảng, chẳng có chướng ngại, có khác ǵ với địa vị Diệu Giác hay chăng? Đúng là chẳng sai biệt! Quư vị thấy: Khởi tác dụng, tự hành, hóa tha chẳng bị chướng ngại, chỉ có một chỗ khác biệt là chưa hoàn toàn thoát khỏi tập khí. Do vậy có Nhất Chân pháp giới, trong cảnh giới ấy, thân tướng quư vị vĩnh hằng không thay đổi, cũng có nghĩa là chẳng có sanh, lăo, bệnh, tử. Trong thế gian này, chúng ta có sanh, lăo, bệnh, tử, có biến hóa! Trong thế giới ấy chẳng có, cây cối, hoa, cỏ chẳng có Xuân sanh, Hạ tăng trưởng, Thu gặt hái, chẳng có! Hoa vĩnh viễn tươi tốt như vậy, vĩnh viễn đẹp đẽ như vậy, vĩnh viễn thơm tho như vậy. Núi, sông, đại địa, những thứ ấy đều chẳng thay đổi, là vĩnh hằng. V́ thế gọi là Nhất Chân, chẳng có biến hóa. Do vậy, phải biết: Biến hóa là do cái tâm chúng ta. Tâm chúng ta biến hóa, nên cảnh giới bên ngoài thảy đều có biến hóa. V́ vậy, người nhập Định, trong Định chẳng có biến hóa, cảnh giới trong Định chẳng biến hóa. Do đó, trong Định có thể thấy quá khứ, có thể thấy vị lai. V́ quư vị chẳng có biến hóa, nên có thể thấy cảnh giới bên ngoài biến hóa. Quư vị không có thời gian và không gian, nên có thể đến quá khứ, và cũng có thể đến tương lai. V́ thế, Định phát sanh thần thông, đó là đức năng, bản năng của quư vị bộc lộ.

      Nhất Chân pháp giới là thật ư? Thật ra, chẳng phải là thật. Nhất Chân pháp giới cũng chẳng thật. Nó là ǵ? Tập khí vô thỉ vô minh biến hiện, ngày nào đoạn hết tập khí vô thỉ vô minh, cảnh giới này sẽ chẳng thấy nữa! Sau khi không thấy th́ thứ ǵ hiện tiền? Thường Tịch Quang hiện tiền, Thường Tịch Quang là bổn tánh của chính ḿnh, hoàn toàn trở về tự tánh. Trong Thường Tịch Quang, quư vị chẳng thấy hiện tượng vật chất, mà cũng chẳng thấy hiện tượng tinh thần, một bầu quang minh. Do vậy, trong kinh có bốn chữ để h́nh dung nó, tức là Đại Quang Minh Tạng, đấy là Thường Tịch Quang. Huệ Năng đại sư nói sáu câu là nói về cảnh giới nào? Cảnh giới Thường Tịch Quang. Câu cuối cùng nói về cảnh giới trong pháp giới hư không giới. Quư vị thấy phần trước đă nói: Câu đầu tiên là “vốn tự thanh tịnh”, chẳng nhiễm ô, tự tánh chẳng có nhiễm ô. Nay chúng ta ở trong lục đạo, cho đến đọa trong tam đồ, có nhiễm ô hay không? Không có! Tự tánh vĩnh viễn chẳng bị nhiễm ô. Nhiễm ô là ǵ? Nhiễm ô là A Lại Da, đặc biệt là Mạt Na, Mạt Na gọi là “nhiễm ô ư”. Do tự tánh chẳng bị nhiễm ô, tự tánh không có sanh diệt, “vốn chẳng sanh diệt”, đấy mới là chính ḿnh, là linh tánh của chính ḿnh, là bổn tánh của chính ḿnh, chớ nên không biết điều này. “Vốn tự trọn đủ”, câu này nói về Ẩn, nó trọn đủ, nhưng chẳng hiển hiện. Trọn đủ ǵ vậy? Trọn đủ hết thảy y báo và chánh báo trang nghiêm trong pháp giới hư không giới, vốn tự trọn đủ. “Vốn chẳng dao động”, chưa từng lay động. Động là khởi hiện tướng, không động bèn chẳng hiện tướng.

      Như vậy th́ pháp giới do đâu mà có? Nhất niệm bất giác bèn có vô minh. Vô minh là A Lại Da, [hay nói rơ hơn] vô minh là nghiệp tướng của A Lại Da. Từ nghiệp tướng biến hiện một chuyển tướng, từ chuyển tướng biến hiện một cảnh giới tướng. Chúng được gọi là ba tế tướng của A Lại Da. Tốc độ chuyển biến quá nhanh, Di Lặc Bồ Tát bảo là trong một cái khảy ngón tay có bao nhiêu niệm? Bao nhiêu nghiệp tướng? Đối với nghiệp, chư vị phải biết nghiệp là chấn động, khoa học hiện tại gọi nó là chấn động, tức là nó động. Đối với nhất niệm của chúng ta, trong một cái khảy ngón tay có bao nhiêu chấn động, tần suất ra sao? Ngài bảo chúng ta, ba mươi hai ức trăm ngàn niệm, trăm ngàn là đơn vị, trăm ngàn là mười vạn, ba mươi hai ức nhân với mười vạn thành ba trăm hai mươi triệu, quư vị thấy một cái khảy ngón tay là ba trăm hai mươi triệu. “Niệm niệm thành h́nh”, “h́nh” là hiện tượng vật chất, mỗi một niệm đều có một hiện tượng vật chất. Trong một cái khảy ngón tay, sẽ thấy một hiện tượng vật chất, nó là ba trăm hai mươi triệu niệm, các h́nh tướng ấy tích lũy tại nơi đó, các khoa học gia dùng kính hiển vi trông thấy. Nếu quư vị nh́n trong một giây, sẽ thấy nó tồn tại một giây rồi bỗng nhiên không có, một giây tích lũy bao nhiêu? Tôi nghĩ khảy nhanh, có thể khảy năm lần, khảy năm lần là một ngàn sáu trăm triệu, quư vị thấy một ngàn sáu trăm triệu lượt tích lũy, để cho quư vị thấy hiện tượng ấy trong một giây, sau một giây sẽ chẳng c̣n th́ các khoa học gia có thể thấy được; chứ các khoa học gia chẳng có cách nào thấy một phần trong một ngàn sáu trăm triệu phần của một giây, họ chẳng nh́n thấy điều ấy; nhưng thấy được [trong một giây] là đă rất giỏi rồi, chúng tôi thật sự rất bội phục. Trong một giây họ có thể thấy chuyện này, biết trong Không sanh ra Có, sanh rồi liền lập tức diệt, tốc độ quá nhanh chóng!

      Chuyển tướng là thông tin, khoa học gia gọi nó là thông tin. Nghiệp tướng là năng lượng, dao động là năng lượng; cảnh giới tướng là vật chất. Do vậy, các khoa học gia, tức các khoa học gia Lượng Tử, nói trong vũ trụ chỉ có ba thứ ấy (năng lượng, thông tin và vật chất). Trừ ba thứ ấy ra, thứ ǵ cũng đều không có. Trong Phật pháp, quư vị thấy các vị đại sư thuộc Pháp Tướng Duy Thức nói trong vũ trụ thứ ǵ cũng đều chẳng có, chỉ có A Lại Da, đấy cũng là ba tế tướng của A Lại Da, nên gọi là Duy Thức. Chỉ có ḿnh Thức, ngoài Thức ra, toàn bộ đều là giả. Giống như kính vạn hoa; kính vạn hoa có ǵ? Có ba mảnh màu khác nhau. Chuyển động là năng lượng, năng lượng đang chuyển động. Nh́n từ chuyển động, quư vị thấy có vô lượng vô biên kiểu mẫu kết cấu (pattern) xuất hiện. Thật sự hiểu rơ th́ chúng đâu có nhiều ngần ấy! Chẳng qua là ba mảnh nhỏ màu sắc rực rỡ khác nhau mà thôi! Nay chúng ta thấy y báo và chánh báo trang nghiêm trong cả vũ trụ, tức là chúng đang động. Nếu chúng không động, sẽ biến thành ba thứ (nghiệp tướng, chuyển tướng, cảnh giới tướng). Khoa học Lượng Tử đối với Phật pháp rất hữu dụng. Dựa theo cách ghi chép năm tháng của Trung Quốc, cho đến năm nay, Thích Ca Mâu Ni Phật đă diệt độ ba ngàn năm, người Trung Quốc nói là ba ngàn lẻ ba mươi bảy năm. Từ khi đức Phật diệt độ cho đến hiện thời, khoa học gia phát hiện A Lại Da, cho thấy Pháp Tướng Tông nói chẳng sai tí nào! Ngày hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng ta học tập tới đây!

Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa

Phần 45 hết

 

 

 



[1] Thục là tên gọi chung các loại đậu.

[2] Tỳ Lưu Ly (c̣n phiên âm là Duy Lâu Lặc) là con trai thứ của vua Ba Tư Nặc (Prasenajit), em trai thái tử Kỳ Đà (Jetakumāra), và là vua nước Câu Tát La (Kosala). Sau khi vua A Xà Thế (Ajatasatru) hại chết cha là Tần Bà Sa La (Bimbisara), bèn tấn công Câu Tát La, chiếm vùng Kashi. Tỳ Lưu Ly thừa dịp hạ bệ Ba Tư Nặc, khiến cha phải chết trên đường lưu đày, trở thành vua nước Câu Tát La rồi tấn công Ca Tỳ La Vệ, sát nhập nước này vào Câu Tát La. Cuối cùng, nước Câu Tát La cũng bị A Xà Thế sát nhập vào nước Ma Kiệt Đà (Magadha). Theo kinh Tăng Nhất A Hàm, Tứ Phần Luật, Nghĩa Túc Kinh và Duy Lâu Lặc Vương Kinh, nguyên nhân gần khiến Tỳ Lưu Ly tàn sát ḍng họ Thích Ca là do vua Ba Tư Nặc muốn cưới một công chúa ḍng họ Thích Ca để tăng thêm thanh thế. Vợ của ngài Ma Ha Nam (trưởng tộc ḍng Thích Ca khi ấy) chê ḍng dơi Ba Tư Nặc chẳng xứng với ḍng họ thánh nhân của ḿnh bèn đem một tỳ nữ (tức cô Nāgamundā) giả danh là công chúa của ḍng họ Thích Ca gả cho Ba Tư Nặc, cô này trở thành phu nhân Vāsavakhattiyā. Lúc Tỳ Lưu Ly lên tám tuổi, vua cha bảo về quê ngoại thăm viếng họ hàng, đồng thời xin học bắn cung với ngài Ma Ha Nam (nổi tiếng thiện xạ thuở ấy). Lúc đó, họ Thích vừa kiến tạo một giảng đường mới, muốn thỉnh Phật đến cúng dường. Khi ấy, Tỳ Lưu Ly và năm trăm đồng tử vào giảng đường chơi, lên ṭa sư tử ngồi. Hoàng tộc Thích Ca trông thấy, chửi bới “ngươi là đồ tiện dân, con của mụ đầy tớ”, tống Tỳ Lưu Ly cổ ra ngoài. Hoàng tử ôm hận, thề quyết chí báo thù. Sau khi hạ được thành, Tỳ Lưu Ly giết đến chín ngàn chín trăm chín mươi vạn người họ Thích, máu chảy thành sông. Vua tuyển năm trăm mỹ nữ họ Thích làm thiếp, nhưng họ khảng khái chống cự, nên vua tức giận, sai chặt chân tay, khoét mắt, quăng xuống hầm sâu. Nghe thảm trạng ấy, đức Phật bèn dẫn các tỳ-kheo đến thành Ca Tỳ La, thuyết pháp cho năm trăm Thích nữ, khiến họ đắc pháp nhăn tịnh, sanh thiên (chuyện này cũng được chép trong kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân). Sau khi quay về Xá Vệ, vua sát hại anh là Kỳ Đà để trừ hậu họa. Đến ngày thứ bảy, vua dẫn quân đội và các cung nữ cắm trại vui chơi bên sông A Chi Hà, do sát nghiệp đă giết quá nhiều người, trong số đó có cả những vị tu hành chân chánh, nên nửa đêm cuồng phong bạo vũ, nước sông dâng lên nhấn ch́m toàn bộ đại quân và nhà vua.

[3] Hậu Tạng (Yü-Zang, hoặc Ü-Tsang, c̣n gọi là Vệ Tạng), bao gồm miền Tây và trung ương Tây Tạng hiện thời, bao gồm lưu vực sông Tsangpo, các quận phía Tây núi Kailash, và phần lớn đồng bằng Chang Tang. Thật ra vùng này gồm hai vùng là Ü và Tsang, thủ đô Lhasa nằm trong vùng Tsang.

[4] Hồ Biwa nằm ở phía Đông Bắc thành phố Kyoto (Kinh Đô) rất to, có diện tích đến 670 km2, đổ ra vịnh Osaka bằng sông Seta. Người Nhật tin hồ này là trụ xứ của Đại Biện Thiên trên mặt đất v́ hồ có tên là Tỳ Bà vốn là một nhạc cụ yêu thích của Đại Biện Thiên (Sarasvatī).

[5] “Bát La hoa” là gọi tắt của chữ “Ưu Bát La hoa” (Utpala), tức hoa sen.

[6] Bản bốn mươi quyển do ngài Đàm Vô Sấm dịch vào đời Bắc Lương. Khi bản này truyền đến phương Nam, các vị như Huệ Nghiêm, Huệ Quán, Tạ Linh Vận đă chiếu theo bản dịch mang tựa đề Nê Hoàn Kinh của ngài Pháp Hiển để hội tập thành bản gồm ba mươi sáu quyển. Do vậy, bản này được gọi là Nam Bổn Niết Bàn Kinh, c̣n bản dịch gốc của ngài Đàm Vô Sấm được gọi là Bắc Bổn Niết Bàn Kinh.

[7] Hoàng Mai nay thuộc thành phố Hoàng Cương, phía Đông tỉnh Hồ Bắc, thuộc vùng giáp ranh của ba tỉnh Hồ Bắc, An Huy và Giang Tây.

[8] Nguyên văn linh tê nhất điểm thông”, dựa theo một câu thơ cổ của Lư Thương Ẩn: “Thân vô thái phượng song phi dực, tâm hữu linh tê nhất điểm thông” ư nói tâm không đôi cánh như chim phượng để bay lượn, nhưng tâm linh giống như sừng con tê ngưu (tê giác), hễ có một điểm trắng bèn thông suốt. Theo truyền thuyết, có một loại tê ngưu tên là Thiên Tê, ḿnh có một vệt trắng kéo dài từ đầu đến đuôi nên được coi là một con vật thiêng, gọi là Linh Tê, chạm vào sừng nó, bất cứ điểm trắng nào trên sừng cũng có thể thông qua được phía bên kia sừng. Do đó sừng Linh Tê cũng được dùng để chỉ sự tương thông của đôi bên. Từ ngữ này về sau mở rộng với ư nghĩa là đôi bên tâm tương ứng chỉ cần nói một câu liền hiểu nhau ngay, và thường được coi là từ ngữ tương ứng của “tâm tâm tương ấn’.

[9] Đây là hội thứ ba, tức hội Kim Cang Mật Tích trong kinh Đại Bảo Tích, kinh này do ngài Bồ Đề Lưu Chí dịch.