Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa

淨土大經解演義

Phần 46

Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo duyệt: Huệ Trang và Đức Phong

 

Tập 91

 

      Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải trang một trăm lẻ ba, xem hàng thứ sáu kể từ dưới lên.

      “Bổn kinh tiên liệt Thanh Văn, hậu chương Bồ Tát, chánh như Phật Địa Luận đệ nhị vân: - Tiên thuyết Thanh Văn, hậu thuyết Bồ Tát. Thanh Văn chúng giả, cận đối Thế Tôn, thân thọ hóa cố. Hựu chư Thanh Văn, thường tùy Phật cố, h́nh đồng Phật cố. Thị cố, chư kinh đa thị tiên Thanh Văn, nhi hậu Bồ Tát” (Kinh này trước là liệt kê Thanh Văn, sau nêu bày hàng Bồ Tát. Đúng như Phật Địa Luận, quyển thứ hai đă nói: “Trước nói Thanh Văn, sau nói Bồ Tát. V́ hàng Thanh Văn thân cận đức Thế Tôn, được Ngài đích thân giáo hóa. Lại nữa, các vị Thanh Văn thường theo đức Phật, có h́nh dáng giống như Phật. Do vậy, các kinh phần nhiều liệt kê chúng Thanh Văn trước, sau đó mới nói đến hàng Bồ Tát”). Trong phần trước, chúng ta đă nói tới ư nghĩa này. Khi kết tập Kinh Tạng, Sáu Thứ Thành Tựu trong phần trước chính là lời mào đầu của đức Thế Tôn, liệt kê các vị Thượng Thủ hoàn toàn nhằm biểu thị pháp. Từ các vị Thanh Văn và Bồ Tát, chúng ta liền biết tánh chất của bộ kinh này. Từ những vị biểu thị pháp, chúng ta sẽ thấy: Qua bộ kinh này, đức Thế Tôn muốn dạy chúng ta pháp môn nào. Như đă nói trong phần trước, ngài Liễu Bổn Tế tượng trưng cho tự tánh, Bổn Tế là là bổn tánh, Liễu là hiểu rơ. Nói theo cách bây giờ, [Liễu Bổn Tế] chính là “minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật”, biểu thị ư nghĩa này, thành tựu trong một đời. Thông thường, ta thấy [những vị Thượng Thủ được nêu tên] nhiều nhất là Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên, gần như mỗi bộ kinh đều có hai Ngài, điều đó tượng trưng cho trí huệ và thần thông trong tự tánh, đồng thời [biểu thị] bản năng (năng lực sẵn có) của sáu căn chẳng có chướng ngại. Mắt thấy th́ chúng ta có thể thấy khắp pháp giới hư không giới, có thể thấy tự tánh, có năng lực to dường ấy, căn tánh của sáu căn đều chẳng thể nghĩ bàn. Ngài Ca Diếp biểu thị Thiền Tịnh bất nhị, tôn giả A Nan biểu thị đa văn đệ nhất, khiến cho chúng ta trông thấy những vị ấy liền biết tánh chất trọng yếu của bộ kinh này, chúng ta học tập bộ kinh này sẽ có thể đạt tới cảnh giới như thế nào!

      Hôm nay chúng ta xem tới phần Bồ Tát Chúng. “Hựu hữu Phổ Hiền Bồ Tát” (lại có Phổ Hiền Bồ Tát), xếp Phổ Hiền trước Văn Thù giống như trong kinh Hoa Nghiêm, kinh Hoa Nghiêm cũng xếp ngài Phổ Hiền đầu tiên, Văn Thù thứ hai. Phổ Hiền tượng trưng Hành môn, Văn Thù tượng trưng Giải môn. Nói cách khác, bộ kinh này chú trọng thực hành, phải thật sự làm, chú trọng Hành môn. Chúng ta đọc lời chú giải của Hoàng lăo cư sĩ, “Bồ Tát năi Phạm ngữ chi lược tồn” (Bồ Tát là nói tắt của tiếng Phạn), đây là nói tới [nguyên gốc của chữ Bồ Tát] trong tiếng Phạn, người Trung Quốc chuộng đơn giản, nên đă rút gọn [từ ngữ ấy], “cụ túc ưng vân Ma Ha Bồ Đề Chất Đế Tát Đỏa” (nói đầy đủ phải là Ma Ha Bồ Đề Chất Đế Tát Đỏa). Phía trước c̣n thêm chữ Ma Ha, Ma Ha có nghĩa là Đại. “Bồ Đề Chất Đế Tát Đỏa”, Ma Ha dịch là Đại, Bồ Đề dịch là Đạo, Chất Đế (Citta) dịch thành Tâm, Tát Đỏa (Sattva) dịch thành Chúng Sanh hoặc Hữu T́nh, gộp lại là Đại Đạo Tâm Chúng Sanh, trong giáo pháp Đại Thừa, cách này được gọi là Cổ Dịch. [Nói đến] cổ hay kim bèn lấy Huyền Trang đại sư làm đại biểu, [những nhà dịch kinh] trước thời ngài Huyền Trang đại sư gọi là Cổ Dịch, sau Huyền Trang đại sư gọi là Kim Dịch. Chúng ta đọc chú giải thấy nói Cổ Dịch hay Kim Dịch là theo ư nghĩa này, [chứ Kim Dịch] chẳng phải là [dịch thuật theo lối] hiện đại. Thời cổ dịch [Bồ Tát] là Đại Đạo Tâm Chúng Sanh, Huyền Trang đại sư dịch từ ngữ này thành Giác Hữu T́nh, v́ Bồ Đề (Bodhi) là giác ngộ, Tát Đỏa (Sattva) là hữu t́nh chúng sanh. T́nh của họ chưa đoạn, [tức là] chưa đoạn t́nh thức, vẫn chưa thể chuyển A Lại Da thành Đại Viên Kính Trí, chưa chuyển tám thức thành bốn trí. Bậc Bồ Tát như vậy được gọi là Bồ Đề Tát Đỏa, đă giác ngộ. Nếu Ngài chuyển tám thức thành bốn trí sẽ gọi là Ma Ha Tát. Ma Ha Tát là Pháp Thân đại sĩ, Pháp Thân đại sĩ là Phật. Cho nên “giản xưng Bồ Đề Tát Đỏa, nghĩa vi Giác Hữu T́nh” (gọi đơn giản là Bồ Đề Tát Đỏa, nghĩa là Giác Hữu T́nh). Giác Hữu T́nh là do Huyền Trang đại sư dịch, trước thời Huyền Trang đại sư, [từ ngữ ấy] được dịch là Đại Đạo Tâm Chúng Sanh.

      “Đồng Phật sở chứng chi vị Giác, vô minh vị tận chi vị T́nh” (sở chứng giống như Phật th́ gọi là Giác, chưa hết vô minh nên gọi là T́nh). Ở chỗ này, hoàn toàn nói về hàng Pháp Thân Bồ Tát. Cớ sao nói Pháp Thân Bồ Tát chưa hết vô minh? Tập khí vô minh chưa hết, chứ vô minh đă thật sự đoạn xong, chẳng khởi tâm, không động niệm, nhưng tập khí vẫn có. Các Ngài ở nơi đâu? Các Ngài không ở trong mười pháp giới, mà ở ngoài mười pháp giới, trụ trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm của chư Phật Như Lai. Nói chư Phật Như Lai, nhưng thật ra là nói tới cơi Thật Báo Trang Nghiêm của chính ḿnh, vô minh đă đoạn, chứng đắc Pháp Thân, bốn cơi [Tịnh Độ] ấy đều rơ ràng, rành rẽ. Quư vị đến cơi Phương Tiện, hay đến cơi Đồng Cư, nhằm hóa độ chúng sanh. Ấy là do chúng sanh có cảm, tức là chúng sanh trong mười pháp giới có cảm, bốn thánh pháp giới là cơi Phương Tiện, lục đạo là cơi Phàm Thánh Đồng Cư. Do chúng sanh có cảm, Bồ Tát bèn ứng, cảm ứng đạo giao trọn chẳng sai chạy, rất chuẩn xác, hễ có cảm bèn có ứng. Cảm ứng có bốn loại, trong phần trước chúng tôi đă nói rồi, có bốn loại là hiển cảm hiển ứng, hiển cảm minh ứng, minh cảm hiển ứng, minh cảm minh ứng (cảm và ứng rơ rệt; cảm rơ rệt, ứng ngấm ngầm; cảm âm thầm, ứng rơ rệt; cảm và ứng đều âm thầm). Phàm phu chúng ta phiền năo quá nặng, tập khí quá sâu, chúng ta có thể cảm Phật, Bồ Tát hay không? Có cảm, các Ngài sẽ ứng, tuy có ứng nhưng chúng ta không biết. Chúng ta là hiển cảm, các Ngài là minh ứng (ứng ngấm ngầm), minh cảm minh ứng (cảm lẫn ứng đều ngấm ngầm) chúng ta cũng không biết, đều chẳng thể nhận biết, nên Phật, Bồ Tát âm thầm gia tŕ và che chở chúng ta. Nếu là hiển ứng th́ sẽ rất rơ rệt, quư vị thấy, nghe, trong tâm cảm nhận, rất rơ rệt! Có [những trường hợp cảm ứng] rơ rệt, chẳng phải là không có, trong các đồng tu thường có những người như vậy, [những trường hợp như vậy] đều thuộc loại cảm ứng. V́ thế, chúng ta phải hiểu câu “vô minh vị tận” này có nghĩa là vị ấy chưa đoạn hết tập khí.

      “Hựu Giác thị sở cầu Phật đạo, Hữu T́nh thị sở hóa chúng sanh” (lại nữa, Giác là Phật đạo được mong cầu, Hữu T́nh là chúng sanh được hóa độ). Đây là một ư nghĩa khác của Giác Hữu T́nh, nói theo phương diện giáo hóa chúng sanh. Phần trước là Tự Thọ Dụng, ở đây là Tha Thọ Dụng. Dùng ǵ để giáo hóa chúng sanh? Dùng Phật pháp. V́ thế, chúng ta thấy ở đây [kinh điển] đă ban cho chúng ta một tấm gương rất hay: Bồ Tát giáo hóa chúng sanh, chẳng tách ĺa giáo huấn của đức Phật. Bồ Tát có thể nói không giống hệt như Phật, tức là lời lẽ có thể khác nhau, nhưng ư nghĩa chẳng khác! Đó là “y nghĩa, bất y ngữ” trong Tứ Y Pháp như đức Phật đă nói, chẳng giống như phức giảng. Phức giảng nhất định phải vừa y nghĩa lại c̣n y ngữ. Bồ Tát giáo hóa chúng sanh có thể y nghĩa, chẳng y ngữ th́ quư vị mới có thể khế cơ; nếu không, sẽ chẳng khế cơ! Vừa y nghĩa vừa y ngữ là ǵ? Đó là phức giảng kinh do Phật, Bồ Tát đă nói nhằm tạo tín tâm cho đại chúng, ta chẳng thay đổi một chữ nào do Phật, Bồ Tát đă nói, hoàn toàn nói đúng như thế, nhằm kiến lập tín tâm, mang ư nghĩa này. Nếu giúp chúng sanh lư giải bèn sống động, linh hoạt, hăy nên thuận theo nghĩa, chứ không lập lại y hệt từ ngữ. Giải thích cho họ, kinh văn tuyệt đối chánh xác, chẳng thêm vào một chữ nào, nhưng giảng giải th́ sống động, linh hoạt, phải giảng ư nghĩa rơ ràng ngơ hầu người khác sẽ thật sự thấu hiểu. Do vậy, “hữu t́nh” là những chúng sanh được giáo hóa, những hữu t́nh chúng sanh ấy đều chưa đoạn tập khí phiền năo.

      “Lợi sanh vi cấp, quảng độ quần sanh đồng đăng Đại Giác, cố vị Giác Hữu T́nh” (gấp rút lợi sanh, rộng độ quần sanh chứng lên Đại Giác, nên [Bồ Tát] được gọi là Giác Hữu T́nh), ư nghĩa này hay hơn ư nghĩa trong phần trước. Bồ Tát thật sự phát tâm đại Bồ Đề, lấy chuyện giúp đỡ và thành tựu người khác làm đầu, mong mỏi người khác được thành tựu trước, hy vọng người khác sớm thành tựu. Địa Tạng Bồ Tát đại diện chuyện này, “địa ngục bất không, thệ bất thành Phật” (địa ngục chẳng trống, thề chẳng thành Phật). Quư vị đọc kinh Địa Tạng, mở quyển kinh ra, sẽ thấy một điều chẳng hề thấy trong hết thảy các kinh khác: Trong số các vị thượng thủ của đại chúng [tham dự pháp hội của] Địa Tạng Bồ Tát, mười phương chư Phật Như Lai đều đến tham gia pháp hội. Chư Phật Như Lai là ai? Toàn bộ đều là học tṛ của Địa Tạng Bồ Tát. Hết thảy học tṛ của Địa Tạng Bồ Tát đều đă thành Phật, Ngài vẫn c̣n làm Bồ Tát. Điều này nhằm bảo chúng ta: Bồ Tát phải nên có tâm lượng như vậy, chính ḿnh th́ cần ǵ phải lo [sớm được] thành tựu? Đúng là toàn tâm toàn lực giúp đỡ người khác. Giúp đỡ chúng sanh căn cơ chín muồi, khiến cho họ thành Phật trước; giúp kẻ căn tánh chưa chín muồi được chín muồi, giúp kẻ thiếu căn tánh gieo thiện căn. Tâm nguyện của Bồ Tát viên măn; đúng là chẳng bỏ một ai! Hữu duyên th́ Bồ Tát độ kẻ ấy; vô duyên, Bồ Tát bèn kết duyên với kẻ đó để đời sau, kiếp sau [trở thành] hữu duyên, chúng ta phải học tập chuyện này. Đặc biệt là trong Đại Thừa, nhất là Tịnh Tông, Tịnh Tông phải lấy bổn nguyện của Phật Di Đà làm nguyện lực của chính ḿnh, A Di Đà Phật đúng là chẳng bỏ một ai. V́ thế, Bồ Tát có nghĩa là Giác Hữu T́nh. “Bồ Tát nhị tự tắc thị tối lược giả dă” (hai chữ Bồ Tát là giản lược nhất), đó là tỉnh lược, người Hoa chuộng đơn giản, cho nên chỉ nói là Bồ Tát, lược bớt âm cuối.

      Tiếp đó, [lời chú giải] ghi: “Vân hà vi Đại Đạo Tâm Chúng Sanh” (v́ sao gọi là Đại Đạo Tâm Chúng Sanh?), đây là giải thích cho chúng ta [ư nghĩa của chữ Bồ Tát theo lối] cổ dịch. “Dĩ cụ tứ chủng đại cố” (do có đủ bốn thứ Đại), Bồ Tát nhất định trọn đủ bốn thứ Đại ấy. “Tứ chủng giả” (bốn thứ là), Thanh Lương Sớ giảng rất khéo. “Nhất giả, nguyện đại, cầu đại Bồ Đề cố” (một là nguyện đại v́ cầu đại Bồ Đề). Đây là điều kiện đầu tiên của Bồ Tát, chúng ta thường gọi đại nguyện này là “phát Bồ Đề tâm”, đấy là “nguyện đại”. Đối với Bồ Đề tâm, nay chúng tôi nói rơ ràng hơn, thêm vào mấy chữ nữa. Tâm chân thành là Thể của Bồ Đề tâm; bổn thể của Bồ Đề tâm là chân thành, chân thật, chẳng giả. “Thành () là chẳng hư ngụy. Học Phật, nếu là học Đại Thừa, đối với hết thảy người, đối với hết thảy sự, đối với hết thảy vạn vật, chúng ta nhất định phải dùng tâm chân thành. Tâm chân thành là Tự Thọ Dụng, tức là Thanh Tịnh, B́nh Đẳng, Chánh Giác như đă nói trong tựa đề kinh chính là Tự Thọ Dụng. Đối với chính ḿnh, dùng tâm chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, giác, đối người khác là đại từ đại bi. Từ là ban vui, Bi là dẹp khổ. Chúng ta cần phải dùng trí huệ như thế nào, phương pháp ra sao để giúp người khác ĺa khổ được vui, đó là Bồ Đề tâm.

      Hiện thời, chúng sanh trong thế gian này gặp quá nhiều khổ nạn, khổ nạn do đâu mà có? Do mê hoặc mà có. Đă biết như thế, chúng ta dùng phương pháp ǵ để giúp họ? Hăy giúp họ giác ngộ. Dùng phương pháp ǵ để giúp họ giác ngộ? Thân hành và ngôn giáo. Thích Ca Mâu Ni Phật suốt đời nêu gương, chúng ta nh́n vào đó phải hiểu, phải học theo Ngài. “Thân hành” tức là những ǵ Ngài đă nói Ngài đều làm được toàn bộ, chẳng giả tí nào, trong và ngoài như nhau. Đức Phật có v́ chính ḿnh hay chăng? Nói  thật cùng quư vị, v́ chính ḿnh! Hết thảy chúng sanh là chính ḿnh, ta và người chẳng hai, v́ người khác mới là thật sự v́ chính ḿnh. V́ chính ḿnh mà chẳng biết v́ chính ḿnh, như vậy là sai rồi. V́ thế, dạy chúng ta giác ngộ, giác ngộ điều ǵ? Giác ngộ pháp môn Bất Nhị. Toàn thể vũ trụ là một Thể! Trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật dạy chúng ta: Hết thảy chúng sanh và chư Phật Như Lai có cùng một tâm, một nguyện, một trí huệ, cho đến mười lực, bốn vô úy, mười tám pháp Bất Cộng, không có ǵ chẳng giống nhau. Trong giáo pháp Đại Thừa, đức Phật dạy chúng ta hăy thật sự nhận thức chính ḿnh, chính ḿnh và toàn thể vũ trụ là một, chẳng hai, vĩnh viễn chẳng tách rời. Chúng sanh gặp nạn là chính ḿnh bị khổ nạn, chúng sanh ĺa khổ là chính ḿnh ĺa khổ, chúng sanh được vui là chính ḿnh được vui, ta và người chẳng hai. Do vậy, như thế nào th́ quư vị sẽ có thể nhập Phật môn? Quư vị thấy trong kinh luận đă dạy: Buông tám mươi tám phẩm Kiến Hoặc trong tam giới xuống, quư vị sẽ nhập môn. Tám mươi tám phẩm Kiến Hoặc chia thành năm loại lớn, đầu tiên là Thân Kiến, chấp trước thân này là ta; thân chẳng phải là ta, trật mất rồi! Chư Phật Như Lai minh tâm kiến tánh, minh tâm kiến tánh là chứng đắc Pháp Thân, Pháp Thân là ǵ? “Pháp” là hết thảy các pháp, hết thảy các pháp đều là thân của ta, đó là Pháp Thân. Chấp trước thân này là ta, vứt bỏ thân khác, giống như đối với cái thân của quư vị, chấp trước một sợi lông là ta, những thứ khác đều chẳng phải là ta! Chúng ta nói kẻ ấy mê mất rồi. Nay chúng ta là kẻ mê, chẳng biết vạn sự vạn vật trong toàn thể vũ trụ và chính ḿnh là một thể, một tâm, một trí huệ.

      Người kiến tánh mới thật sự hiểu rơ, chẳng c̣n có phân biệt nữa, chăm sóc hết thảy chúng sanh giống như chăm sóc chính ḿnh, coi hết thảy chúng sanh như người nhà, quyến thuộc của chính ḿnh. [Cách nh́n như vậy] vẫn c̣n cách biệt một tầng, trên thực tế là chăm sóc chính ḿnh. Mỗi vị Pháp Thân Bồ Tát đều có cách nh́n và cách nghĩ như vậy, v́ sao? Chân tướng sự thật [là như vậy]. Trước kia, chúng ta đă học bộ Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán của Hiền Thủ đại sư, chẳng phải là chuyện này đă được Ngài giảng rất rơ ràng, minh bạch rồi hay sao? Từ một Thể khởi hai tác dụng, một Thể là tự tánh. Quư vị thấy đầu kinh này nêu tên ngài Liễu Bổn Tế, tức tôn giả Kiều Trần Như. Bổn Tế là lư thể, sách Hoàn Nguyên Quán [gọi Bổn Tế] là “tự tánh thanh tịnh viên minh thể”, đó là Bổn Tế. Y báo và chánh báo trang nghiêm đều do tự tánh biến hiện, cùng một Thể, cớ sao quư vị nói chúng chẳng phải là chính ḿnh? Há có lẽ ấy! Trong giáo pháp Đại Thừa, đức Phật thường bảo: “Hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng”. Tâm là chính ḿnh, thức là chính ḿnh, tâm là chân tâm của chính ḿnh, thức là vọng tâm của chính ḿnh, chân - vọng chẳng hai! Đức Phật bảo chúng sanh đă mê rồi, mê ở chỗ nào? Mê ở chỗ này, chẳng biết hết thảy các pháp do tánh thức của chính ḿnh biến hiện, dấy lên phân biệt, chấp trước, đối lập ở trong ấy, nẩy sanh mâu thuẫn, trật mất rồi, lầm lẫn quá đỗi! Kinh Phật dạy những đạo lư này, nói về những chân tướng sự thật này. Nếu những nhà khoa học hiện thời có thể t́m hiểu kinh Phật, tôi tin tưởng cảnh giới của họ sẽ được nâng cao với một mức độ lớn, nhập vào cảnh giới của Phật, Bồ Tát. Trong Lượng Tử Lực Học đă nói đến A Lại Da, chỉ cần chuyển A Lại Da thành Đại Viên Kính Trí, họ bèn viên thành Phật đạo. Cách chuyển ra sao? Buông xuống là chuyển, buông khởi tâm động niệm xuống, thông đạt, hiểu rơ hết thảy các pháp, đấy là quả vị của Như Lai, trong Phật pháp gọi chuyện này là “chứng đắc”.

      Nguyện đại th́ chẳng thể không có đại nguyện. Nghĩ đến chính ḿnh, nhất định phải nghĩ đến chúng sanh, nhất là chúng sanh đang mê hoặc, điên đảo, chúng ta dùng phương pháp ǵ để giúp họ giác ngộ? Hiện thời chúng sanh tham đắm, tham tài, tham sắc, bản thân chúng ta hăy buông những thứ ấy xuống, buông tự tư tự lợi xuống, buông tiếng tăm, lợi dưỡng xuống, rất muốn buông xuống, nhưng buông chẳng được là do nguyên nhân nào? Trong Phật pháp thường nói: “Nghiệp chướng của chính ḿnh quá nặng”, thật đấy, chẳng giả đâu! Nguyên nhân thứ hai là do chưa hiểu rơ chân tướng sự thật! Nghiệp chướng sâu nặng là Phiền Năo Chướng, chưa hiểu rơ chân tướng là Sở Tri Chướng, đó là Nhị Chướng. Thích Ca Mâu Ni Phật v́ chúng ta thị hiện thân hành, ngôn giáo; thân hành giúp chúng ta phá Phiền Năo Chướng, ngôn giáo giúp chúng ta phá Sở Tri Chướng. Ân đức của Phật đối với chúng ta quá lớn, vấn đề là chúng ta phải khéo học, phải biết học, biết học th́ quư vị sẽ tiến bộ rất nhanh. Thế nào là biết học? Biết học là quư vị hiểu rơ rồi thật sự làm, đó gọi là “biết”. “Thật sự làm” là ǵ? Buông xuống là thật sự làm, thấy thấu suốt là hiểu rơ. Chúng ta hăy nghĩ xem Thích Ca Mâu Ni Phật có thứ ǵ chẳng buông xuống được? Ngài suốt đời nêu gương cho chúng ta, thật sự buông xuống. Quư vị thấy bản thân Ngài có tự tư tự lợi hay chăng? Có thấy tiếng tăm, lợi dưỡng hay chăng? Nơi thân đức Phật có tập khí tham, sân, si, mạn hay không? C̣n có hiện tượng tham luyến ngũ dục, lục trần hay chăng? Chúng ta nh́n kỹ lưỡng, hoàn toàn chẳng có! Thuở tại thế, đức Thế Tôn thường ở dưới cội cây, chẳng ở trong nhà. Toàn bộ đều làm cho chúng ta thấy, đắc đại tự tại. Nếu nói theo cách bây giờ, sự tự tại ấy chính là trong tâm chẳng lo nghĩ, chẳng có áp lực tinh thần, thân tâm khỏe mạnh, đắc đại tự tại.

      Điều thứ hai là Hạnh Đại, Hạnh Đại chính là “nhị lợi thành tựu cố” (do thành tựu tự lợi và lợi tha), thật sự làm, y giáo tu hành. Nhị lợi là tự lợi và lợi tha, là cùng một chuyện, lợi tha chính là tự lợi, tự lợi chính là lợi tha, quyết định chẳng tách rời! Nay chúng ta chưa làm được, tự và tha tách rời, giới hạn rạch ṛi; đấy là nguyên nhân khiến cho chúng ta vĩnh viễn chẳng nhập môn. Nếu chúng ta thật sự biết tự tha bất nhị, sẽ nhập môn chẳng khó! Nay ta tự lợi, nay ta nói cuộc sống của cá nhân ta là tự lợi, ta ăn uống mỗi ngày chỉ nhằm duy tŕ thân mạng, quần áo nhằm giữ cho ta ấm áp. Đó là tự lợi, chẳng sai! Nhưng v́ sao ta cần tới thân thể này? Cần tới thân thể này nhằm phục vụ người khác. Đó là lợi tha, là bất nhị. V́ sao ta hiện thời dũng mănh học hành khó nhọc ở nơi đây? Ta học thành công, sẽ nêu gương cho kẻ khác nh́n vào, giảng giải những đạo lư và chân tướng sự thật ấy cho kẻ khác nghe, đó là lợi tha, là một, chẳng hai! Nếu sau khi ta học thành công, trong tương lai làm đại pháp sư, trong tương lai sẽ đạt được tiếng tăm, lợi dưỡng trong Phật môn, trật rồi! Như vậy là quư vị đă hoàn toàn đi ngược lại Phật pháp, v́ sao? Quư vị có hai, Phật pháp chẳng hai; hăy vĩnh viễn ghi nhớ: Nhập pháp môn Bất Nhị. Ta thấy người khác nay đang chịu khổ mắc nạn, chính ḿnh phải dụng công gấp bội, v́ sao? Ta thành tựu sớm một ngày, kẻ ấy sẽ chịu khổ ít hơn một ngày, ta thành tựu chậm một ngày, người ấy phải chịu khổ thêm một ngày! Người khổ nạn đông như thế đang ở trước mặt, đốc thúc quư vị ngay lập tức dụng công, quư vị trông thấy, chẳng thể không phát phẫn, chẳng thể không nghiêm túc. V́ thế, những chúng sanh khổ nạn ấy đang thị hiện trước mặt chúng ta, đốc thúc chúng ta nghiêm túc thật sự tu tập ḥng sớm có ngày thành tựu. Quư vị nói xem họ là phàm phu hay là Phật? Chẳng phải là Phật, chẳng phải là phàm phu, tùy thuộc quư vị có cách nh́n như thế nào! Nếu quư vị có cách nh́n giống như Thiện Tài đồng tử, trừ chính ḿnh ra, hết thảy chúng sanh đều là thiện tri thức, đều là thầy của chính ḿnh th́ sau khi thành tựu cũng giống hệt như chư Phật, Bồ Tát, thị hiện đủ mọi h́nh tướng ḥng giúp đỡ chúng sanh có căn cơ chín muồi. Ta và người phân chia theo cách nào? Thật sự là chẳng tách rời! Đây là cửa ải đầu tiên để người thật sự học Phật khế nhập cảnh giới của Phật, rất khó đột phá cửa ải này, không có đại nguyện và đại hạnh sẽ rất khó khăn.

      Thứ ba, “thời đại, kinh tam vô số kiếp cố” (thời đại, v́ trải qua ba vô số kiếp). Kiếp (kalpa) là đơn vị thời gian rất dài, phải trải qua bao nhiêu kiếp? Vô số kiếp, lại c̣n phải trải qua ba lần vô số kiếp nên đây là một công việc lâu dài, chẳng phải là một khoảng thời gian ngắn ngủi. Chúng ta phải biết: Tu hành trong thế giới này phải trải qua thời gian dài ngần ấy. Chúng ta mong sớm có ngày thành tựu, ḥng sớm có ngày giúp đỡ chư Phật Như Lai hóa độ chúng sanh, giống như Văn Thù, Phổ Hiền, Ca Diếp, A Nan. Chúng ta thấy người khác thành Phật, bèn thị hiện làm đệ tử hay làm ngoại hộ của người ấy, khẳng định là như thế, thành tựu đại nghiệp hóa độ chúng sanh của Phật Đà. Phải mong rút ngắn thời gian, phải nghe lời đức Phật khuyến cáo, cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, gần gũi A Di Đà Phật, thời gian sẽ được rút ngắn với một mức độ to lớn. Quư vị thấy ở đây là “trải qua ba vô số kiếp”, kinh Quán Vô Lượng Thọ nói niệm Phật văng sanh thế giới Cực Lạc sẽ đạt phẩm vị ǵ? Hạ phẩm hạ sanh trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư, là phẩm vị thấp nhất trong thế giới Cực Lạc, tu hành trong thế giới Cực Lạc, phải tu bao lâu mới viên măn thành Phật? Trong kinh, đức Phật bảo là mười hai kiếp. Kẻ hạ hạ phẩm văng sanh về cơi Phàm Thánh Đồng Cư, đến thế giới Cực Lạc, mười hai kiếp sẽ viên măn, chứng đắc Vô Thượng Bồ Đề. Ba vô số kiếp so với mười hai kiếp, thời gian rút ngắn khiến chúng ta chẳng dám tưởng tượng nổi! Thật đấy, chẳng giả đâu! Đức Phật chắc chắn chẳng vọng ngữ, chúng ta phải tin tưởng!

      Do vậy, sau khi hiểu rơ chân tướng sự thật này, nhiều vị cổ đại đức xưa kia đă buông hết những kinh giáo và pháp môn khác xuống, suốt đời hành một môn này. Rất nhiều vị cổ đại đức cả đời niệm một bộ kinh Vô Lượng Thọ, niệm một câu A Di Đà Phật, những vị đó ai nấy đều văng sanh. C̣n nữa, tuyệt đại đa số trong ấy, có thể nói là đến tám hay chín phần trong mười phần, tỷ lệ như vậy đó, ba năm đă làm xong. Căn cứ vào đâu mà chúng ta có con số ấy? Từ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, từ Văng Sanh Truyện trong Đại Tạng Kinh, quư vị thấy người xuất gia, kẻ tại gia niệm Phật văng sanh phải niệm bao lâu? Ba năm hoặc năm năm bèn thành công, đă văng sanh. Chúng ta hiểu rất rơ ràng, nhất định chẳng phải là họ niệm Phật ba năm hoặc năm năm, do đă hết tuổi thọ [nên văng sanh], chẳng phải vậy! Mà do chính ḿnh công phu đă thành tựu, thỉnh cầu A Di Đà Phật đến tiếp dẫn sớm hơn. Các điều kiện đă hội đủ rồi, đă thực hiện Tín - Nguyện - Hạnh viên măn, thật sự tin tưởng, thật sự phát nguyện cầu sanh thế giới Cực Lạc, thân cận A Di Đà Phật, ta muốn học hết thảy kinh luận, pháp môn th́ đến thế giới Cực Lạc sẽ lại học. Trước tiên, ở thế giới này, chỉ giữ lấy thế giới Cực Lạc, hoàn toàn chẳng quan tâm đến những điều khác. Như thế th́ sẽ thành tựu với tốc độ nhanh chóng ngần ấy. Chuyện này là thật, chẳng giả. Ngoài Văng Sanh Truyện, Tịnh Độ Thánh Hiền Lục và bút kư của cổ nhân ra, trong một đời này, chúng tôi đă thật sự thấy chuyện này: Người đứng văng sanh, ngồi văng sanh, đều là biết trước lúc mất, lâm chung chẳng ngă bệnh, ra đi tự tại và tiêu sái dường ấy, chẳng phải là lừa người. Họ là hạng nhất trong những người học Phật, ngài Kiều Trần Như làm đại biểu, là đệ tử bậc nhất của Như Lai.

      Điều kiện thứ tư là “đức đại, cụ túc Nhất Thừa chư công đức cố” (đức đại, do trọn đủ các công đức Nhất Thừa). Nh́n vào bốn điều đại này, đức đại khó lắm! Chúng ta phải như thế nào mới trọn đủ hết thảy công đức Nhất Thừa? Thưa quư vị, thật sự phát Bồ Đề tâm, một bề chuyên niệm, tôi chẳng nói nhất tâm, nhất tâm chẳng dễ ǵ làm được, mà là nhất hướng (một bề), nhất hướng chuyên niệm quư vị sẽ trọn đủ các công đức Nhất Thừa. Nhất Thừa là một Phật Thừa. Chỉ cần trong tâm quư vị có A Di Đà Phật, sẽ trọn đủ các công đức Nhất Thừa, chẳng phải là Đại Thừa, Đại Thừa chẳng sánh bằng Nhất Thừa, Đại Thừa là Bồ Tát, Nhất Thừa là chư Phật Như Lai. Công đức thù thắng khôn sánh, chẳng khó khăn ǵ!

      Hiện thời mọi người đều biết, trên quả địa cầu này phát sanh tai nạn. Các khoa học gia thuộc cơ quan vũ trụ và hàng không của Mỹ, đúng ra là các khoa học gia thuộc cơ quan quản trị vũ trụ (NASA) của Mỹ, đă cho biết rất có thể là Ngân Hà sẽ thẳng hàng[1], giống như người Mă Nhă (Maya) đă tiên đoán, họ nói vào năm 2012. Các khoa học gia thuộc cơ quan quản trị vũ trụ nói không phải là 2012 mà là 2013, họ cũng cảnh cáo, một cơn băo mặt trời có thể gây tổn hại nghiêm trọng cho địa cầu. Tất cả các thiết bị khoa học rất có thể bị mất điện, toàn thể địa cầu mất điện. Phàm những máy móc dùng điện, như máy bay, tàu thủy trong hiện thời, hệ thống thông tin, vệ tinh truyền thông hoàn toàn chẳng sử dụng được, giống như ṭa cao ốc chúng ta đang ở, thang máy chẳng chạy, những đồ dùng bằng điện trong gia đ́nh đều ngưng hoạt động, đèn điện chẳng thắp sáng, điện thoại chẳng hoạt động, mang lại ngần ấy khó khăn cho chúng ta! Tai nạn ấy phỏng chừng mất bao lâu mới có thể khắc phục? Phỏng đoán là phải mười năm mới có thể khôi phục, chuyện này phiền phức rất lớn. Chúng ta ban ngày chẳng nh́n thấy mặt trời, một bầu đen kịt[2], họ nói trong khoảng thời gian phỏng chừng từ ba bốn tháng đến nửa năm chẳng thể thấy mặt trời, có thể sẽ gặp tai nạn như vậy. V́ thế, người học Phật chúng ta, tôi thường nói với mấy đồng tu khá gần gũi đôi chút, trong tâm chúng ta chẳng kinh hăi tí nào, chẳng hề hoảng sợ, chúng ta chẳng tham sống, sợ chết, chúng ta phải định kỳ hạn văng sanh vào lúc nào? Nhằm cuối năm 2012. Nếu chuyện ấy phát sanh th́ chúng ta đă đi trước rồi, tai nạn ấy hữu ích cho chúng ta, giúp chúng ta tiến hơn, thúc chúng ta phải nhanh chóng tu hành, kẻo trễ tràng chẳng kịp, lại phải luân hồi. Luân hồi rất khổ, ta chẳng c̣n luân hồi nữa! Thời gian của chư vị c̣n dài lắm, sống thọ cả trăm tuổi, [hăy nghĩ] thọ mạng của ta chỉ có hai năm, thời gian đă định rồi, cũng là biết trước lúc mất, triệt để buông xuống, chuyện đáng làm là hăy nhanh chóng tích công lũy đức, chớ nên làm chuyện hồ đồ nữa! V́ thế, tôi dùng thời gian này để cùng mọi người học kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ, hy vọng bộ kinh này có thể lưu truyền hậu thế, tôi tin tưởng [kinh này sẽ] phổ độ các chúng sanh trong hơn tám ngàn năm nữa. Pháp sẽ chẳng bị diệt, chúng sanh quay đầu th́ Phật, Bồ Tát bèn đến! Chúng ta liễu giải kinh Vô Lượng Thọ và danh hiệu A Di Đà Phật có công đức chẳng thể nghĩ bàn!

      Chúng ta xem tiếp đoạn dưới, “thử diệc hàm nhiếp Pháp Hoa chi lục đại” (điều này cũng bao gồm [giáo nghĩa] sáu đại trong Pháp Hoa), [trong bản chú giải] kinh Pháp Hoa [của Trí Giả đại sư] có nói tới sáu đại. Điều thứ nhất trong sáu đại là “tín đại pháp”. Pháp môn này là đại pháp, không có pháp môn nào có thể phổ độ chúng sanh trong chín ngàn năm cuối thời Mạt Pháp của đức Thế Tôn, chỉ có pháp này. Cổ đại đức đă chứng minh cho chúng ta thấy Hoa Nghiêm và Pháp Hoa đến cuối cùng đều quy vào Tịnh Độ, đều quy vào kinh Vô Lượng Thọ, chứng tỏ pháp này là đại pháp, phải tin tưởng, quyết định đừng hoài nghi. [Điều thứ hai là] “giải đại nghĩa”, ngày nay chúng ta may mắn dường ấy, suốt hai ngàn năm qua, kinh Vô Lượng Thọ chẳng có một bản hoàn thiện, quư vị đọc các bản dịch gốc cảm thấy rất khó khăn, đâu có bản nào đọc trôi chảy, thông suốt, hoan hỷ, chẳng có chướng ngại như bản này! Lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ lại viết lời giảng nghĩa để giảng giải, [đó là] giải đại nghĩa. [Điều thứ ba là] “phát đại tâm”, phát đại tâm là thật sự phát tâm cầu sanh Tịnh Độ. [Điều thứ tư là] “xu đại quả” (tiến đến đại quả), tức là một phương hướng, một mục tiêu, một bề chuyên niệm, hết thảy thời, hết thảy chỗ, trong tâm thường nghĩ đến A Di Đà Phật, trong tâm thật sự có Phật. [Điều thứ năm và sáu là] “tu đại hạnh, chứng đại đạo”, mỗi ngày đọc tụng, niệm Phật chính là tu đại hạnh. Văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, cho dù là hạ hạ phẩm văng sanh trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư cũng là chứng đại đạo, v́ sao? Mười hai kiếp bèn viên măn. “Dĩ cụ thượng thuật chư đại cố, danh vi Đại Đạo Tâm Chúng Sanh” (do trọn đủ các điều đại như đă nói trên đây, nên gọi là Đại Đạo Tâm Chúng Sanh), giải thích chữ Bồ Tát như vậy đó.

      Tiếp đó, cụ Niệm Tổ giới thiệu Phổ Hiền Bồ Tát (Samantabhadra). “Phổ Hiền diệc danh Biến Cát” (Phổ Hiền c̣n gọi là Biến Cát), Biến () là phổ biến, trọn khắp pháp giới hư không giới; Cát () là cát tường. “Thanh Lương Sớ vị Phổ Hiền hữu tam” (Thanh Lương Sớ giảng có ba loại Phổ Hiền), nói đến ba loại, nhưng trên thực tế, Phổ Hiền rất nhiều. Thưa quư vị, người thật sự phát tâm niệm Phật cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, người ấy chính là Phổ Hiền Bồ Tát. V́ sao? Tựa đề của phẩm thứ hai trong kinh này là Đức Tuân Phổ Hiền, chúng ta biết Tây Phương Cực Lạc thế giới là cảnh giới của pháp môn Phổ Hiền, những vị Bồ Tát trong thế giới Cực Lạc đều có thể gọi là Phổ Hiền Bồ Tát. Chúng ta phát nguyện cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới bèn là Phổ Hiền Bồ Tát. Chúng ta chưa tu mười đại nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát, nhưng một câu A Di Đà Phật đă gồm trọn mười đại nguyện, chẳng thể nghĩ bàn. Đức đại, [tức là] đức của Phổ Hiền đại sĩ ở ngay trong một câu danh hiệu này, nói cặn kẽ là trong bộ kinh Vô Lượng Thọ này toàn là nói về đức của Phổ Hiền đại sĩ, tuyệt diệu thay! Chữ “Thanh Lương” chỉ bộ Hoa Nghiêm Kinh Sớ Sao, [trong bộ sớ giải kinh] Tứ Thập Hoa Nghiêm [của ngài Thanh Lương] có câu: “Đệ nhất cá vị tiền, đản phát Phổ Hiền tâm” (thứ nhất là Vị Tiền, chỉ phát tâm Phổ Hiền). Nay chúng ta phát tâm niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, đó là tâm Phổ Hiền, nay chúng ta là Vị Tiền Phổ Hiền. Thứ hai là “vị trung”, tức là đang thuộc vào địa vị này, đó là Đẳng Giác Bồ Tát. Thứ ba là “vị hậu”, vị hậu là đă thành Phật, “thành Phật bất xả nhân hạnh”, có nghĩa là “vị thành Phật nhưng bất xả nhân địa đích tu hành” (ư nói đă thành Phật, vẫn chẳng bỏ sự tu hành trong lúc tu nhân). Thành Phật, đắc quả tức là thành Phật; sau khi thành Phật, vẫn dùng thân phận Bồ Tát để giúp A Di Đà Phật tiếp dẫn chúng sanh trong mười phương cơi nước. Dùng thân phận Bồ Tát v́ thân phận Bồ Tát thuận tiện, thân phận Phật chẳng thuận tiện. Phật là sư đạo, sư đạo là tôn sư trọng đạo, chẳng thuận tiện; Bồ Tát là đồng học, [Bồ Tát và chúng sanh sẽ được hóa độ] là đồng học lớp trước và lớp sau, thuận tiện rất nhiều! V́ thế, chư Phật Như Lai giáo hóa chúng sanh, rất ít khi dùng thân phận Phật, mà dùng thân phận Bồ Tát, như ba mươi hai ứng thân đă nói trong Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm, nên dùng thân ǵ để độ kẻ khác bèn thị hiện thân ấy. Thảy đều là Phổ Hiền Bồ Tát.

      “Sớ vị Phổ Hiền chi nghĩa vi: Quả vô bất cùng viết Phổ, bất xả nhân địa viết Hiền” (Lời sớ giảng ư nghĩa của [danh hiệu] Phổ Hiền: “Quả không ǵ chẳng cùng tột là Phổ, chẳng bỏ sự tu hành trong lúc tu nhân là Hiền”), tách hai chữ ra để giảng. “Thử tức Vị Hậu chi Phổ Hiền, thị vi Như Lai chi hóa hiện dă” (Đấy là Vị Hậu Phổ Hiền, do Như Lai hóa hiện). Hóa Thân của Phật, toàn bộ ba mươi hai ứng thân là Hóa Thân của Phật, dẫu hóa hiện làm Phật, vẫn là Hóa Thân. Thuở tại thế, thân của Thích Ca Mâu Ni Phật là thân ǵ? Ứng Hóa Thân, chẳng phải là Báo Thân. Chúng ta chẳng thấy Báo Thân, Báo Thân quá lớn. Báo Thân của Phật có vô lượng tướng, mỗi tướng có vô lượng hảo. Đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, sẽ thấy Báo Thân của A Di Đà Phật, quư vị phải biết: Thấy được Báo Thân của A Di Đà Phật tức là bản thân quư vị đă chứng đắc Báo Thân. Nếu quư vị chẳng chứng đắc Báo Thân, sẽ chẳng thể thấy Báo Thân của Phật. Do vậy, nói chung, thấy Phật trong cơi Đồng Cư th́ vẫn là thấy Ứng Hóa Thân, tới khi nào sẽ thấy Báo Thân của Phật? Minh tâm kiến tánh. Cũng chính là như tôi vừa mới nói: Hạ hạ phẩm văng sanh trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư, tu hành nơi ấy mười hai kiếp, quư vị chứng đắc Báo Thân; do quư vị đă thành Phật nên trong Tây Phương Cực Lạc thế giới quư vị thấy Báo Thân của A Di Đà Phật. Lúc ấy mới thật sự là A Duy Việt Trí Bồ Tát. Trước lúc đó, A Duy Việt Trí Bồ Tát của quư vị là do bổn nguyện và oai thần của A Di Đà Phật gia tŕ, chẳng phải là quư vị thật sự đạt được, nhưng trí huệ, thần thông, và đạo lực của quư vị chẳng khác A Duy Việt Trí Bồ Tát. Trong thế giới của mười phương chư Phật chẳng có điều tốt đẹp này, chỉ riêng thế giới Cực Lạc là có, quư vị hăy suy nghĩ, có nên sang nơi ấy hay chăng? Không chỉ nên đi, mà c̣n nên đi ngay cho nhanh. Đừng lưu luyến thế gian này nữa! Lưu luyến thế gian này, nếu chính ḿnh chẳng vững vàng, quư vị chẳng thể nào không tạo nghiệp. Do đó, quư vị phải suy nghĩ cẩn thận về sự khác biệt một trời một vực giữa lẽ lợi - hại, được - mất trong hai chỗ tu hành này, kẻ thông minh phải nên biết chọn lựa như thế nào!

      “Chí ư Hội Sớ vân” (C̣n như sách Hội Sớ nói), Hội Sớ là bản chú giải kinh Vô Lượng Thọ của người Nhật, có những câu như thế này cũng nhằm giải thích [danh hiệu] Phổ Hiền: “Thể biến pháp giới” (Thể trọn khắp pháp giới), đó là ư nghĩa Phổ, “vị lân cực thánh” (địa vị gần với đấng thánh tột bậc), nên gọi Hiền. Đây cũng là Vị Trung Phổ Hiền, tức Đẳng Giác Bồ Tát. Giảng rơ cho chúng ta biết ư nghĩa của Phổ Hiền Bồ Tát. “Hội Sớ hựu vân: Năng đạo ngự nhất thiết” (sách Hội Sớ lại nói: “Có thể hướng dẫn, chế ngự hết thảy”), đạo () là dẫn đạo (引導: hướng dẫn), chỉ đạo, ngự () là thống ngự (統御: cai quản, kiềm chế), mang ư nghĩa dẫn dắt, lănh đạo, chữ “nhất thiết” chỉ chúng sanh. Đối với chúng sanh thuộc mười pháp giới trong hết thảy các cơi Phật đều có năng lực giúp đỡ, chỉ dạy, d́u dắt chúng sanh. “Phát thập đại nguyện vương, nguyện Tây Phương văng sanh, đặc dực tán Di Đà” (phát ra mười đại nguyện vương, nguyện văng sanh Tây Phương ḥng đặc biệt khen ngợi, giúp đỡ đức Di Đà), giúp đỡ A Di Đà Phật, “cố ư thử kinh thị vi thượng thủ” (nên trong kinh này, Ngài là thượng thủ). Trong kinh này, Ngài đứng đầu trong các vị Bồ Tát nhằm biểu thị pháp, chúng ta đọc đến những đoạn này sẽ hiểu: “Hựu Thám Huyền Kư viết: Đức châu pháp giới viết Phổ, chí thuận điều thiện viết Hiền” (lại như sách Thám Huyền Kư giảng: “Đức bao trùm pháp giới là Phổ, hiếu thuận, nhu ḥa đến cùng cực là Hiền”)[3]. Thám Huyền Kư là tác phẩm chú giải bộ Lục Thập Hoa Nghiêm của quốc sư Hiền Thủ, [Lục Thập Hoa Nghiêm] là bản dịch [kinh Hoa Nghiêm] đời Tấn. Trong tác phẩm ấy, lăo nhân giảng: “Đức châu pháp giới”, tánh đức viên măn là Phổ. “Chí thuận điều thiện”, Thuận () là ǵ? Người Trung Quốc nói là hiếu thuận, “điều” (調) là điều lư (調理: điều ḥa, giữ cho cân bằng), Thiện là Chí Thiện (tốt lành tột bậc), người Hoa nói “minh đức, thân dân, chỉ ư chí thiện”[4], đó là ư nghĩa của chữ Hiền.

      “Đại Nhật Kinh Sớ nhất viết” (Đại Nhật Kinh Sớ[5] quyển một nói), đây là sách Mật Tông, “Phổ Hiền Bồ Tát giả, Phổ thị biến nhất thiết xứ, Hiền thị tối diệu thiện nghĩa, vị Bồ Đề tâm sở khởi nguyện hạnh, cập thân khẩu ư, tất giai b́nh đẳng, biến nhất thiết xứ, thuần nhất diệu thiện, bị cụ chúng đức, cố dĩ vi danh” (Phổ Hiền Bồ Tát: Phổ là khắp hết thảy các chỗ, Hiền nghĩa là sự lành mầu nhiệm nhất; tức là nguyện hạnh do tâm Bồ Đề khởi lên và thân, miệng, ư thảy đều b́nh đẳng, trọn khắp hết thảy các chỗ đều là thuần nhất diệu thiện, đầy đủ các đức. V́ vậy, lấy đó làm tên). Cách giải thích này cũng rất rơ ràng, rành rẽ. Hai chữ Phổ và Hiền đều là tánh đức viên măn, hết thảy chúng sanh chẳng ai không có, thảy đều có. Nay chúng ta mê mất tự tánh, tánh đức có c̣n hay không? Vẫn c̣n, chỉ là ẩn, chẳng hiện. Đă mê th́ trí huệ biến thành phiền năo, đức hạnh biến thành tạo nghiệp, chúng ta tạo nghiệp thiện, nghiệp ác, đức hạnh biến thành tạo nghiệp, tướng hảo biến thành lục đạo. Cũng có nghĩa là trí huệ và đức tướng trong tự tánh của chúng ta sau khi mê bèn bị biến dạng. Sự biến dạng ấy cũng chẳng thật sự là biến dạng, khi nào chúng ta quay đầu, sự biến dạng ấy cũng sẽ khôi phục b́nh thường, khôi phục b́nh thường chính là tánh đức Phổ Hiền. V́ thế, câu kế tiếp [trong sách Chú Giải] rất hay: “Vị Bồ Đề tâm sở khởi nguyện hạnh” (tức là nguyện hạnh do tâm Bồ Đề khởi lên), câu này rất quan trọng, nguyện và hạnh của quư vị phải tương ứng với Bồ Đề tâm. V́ vậy, mười sáu chữ “chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác, từ bi” là quan trọng, trong hết thảy lúc, hết thảy chỗ, khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo tác đều phải tương ứng với chúng, chúng ta sẽ thuộc vào Bồ Đề đạo. Chúng ta dùng tâm ǵ để niệm Phật? Dùng Bồ Đề tâm để niệm Phật, Bồ Đề tâm sung măn thân, khẩu, ư của chúng ta, giống như Thích Ca Mâu Ni Phật đă v́ chúng ta mà thị hiện thân hành, ngôn giáo, hiển thị Bồ Đề tâm nơi thân tâm của chính ḿnh, dùng tâm chân thành đăi người, tiếp vật, dùng thanh tịnh, b́nh đẳng, giác, dùng đại từ đại bi, tự tha bất nhị. “Tất giai b́nh đẳng, biến nhất thiết xứ” (thảy đều b́nh đẳng, trọn khắp hết thảy các chỗ), tín, giải, hành, chứng của chúng ta cũng trọn hết thảy các nơi, một chính là hết thảy, hết thảy chính là một, đấy là cảnh giới Hoa Nghiêm. “Thuần nhất diệu thiện”, thuần nhất diệu thiện là nói tổng quát. V́ sao Phật, Bồ Tát pháp hỷ sung măn, thường sanh tâm hoan hỷ? Nếu chúng ta nhập cảnh giới ấy, quư vị nói xem quư vị có hoan hỷ hay không? Giống như chư Phật, Bồ Tát, pháp hỷ sung măn. “Bị cụ chúng đức” (trọn đủ các đức), Bị () là chẳng khuyết, những đức năng vốn sẵn có trong tự tánh thảy đều hiện ra. Đó là ư nghĩa của Phổ Hiền.

      “Phổ Hiền, Văn Thù năi Thích Ca Như Lai chi nhị hiếp sĩ” (Phổ Hiền và Văn Thù là hai vị hiếp sĩ của Thích Ca Như Lai), “hiếp sĩ” (脅士)[6] chính là [vị Bồ Tát thân cận ở] hai bên. “Thị Phật tả hữu” (hầu hai bên Phật). Phía sau chúng tôi là tượng Tam Tôn Phật, chính giữa là Tỳ Lô Giá Na Như Lai, Tỳ Lô Giá Na là Pháp Thân, Lô Xá Na là Báo Thân, Thích Ca Mâu Ni Phật là ứng thân, tam thân là một thân, một thân là tam thân. Nói theo Thể, Tỳ Lô Giá Na là Pháp Thân; nói theo Dụng, trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm, bèn gọi là Lô Xá Na, tức Báo Thân; ứng hóa trong mười pháp giới là Ứng Thân, Thích Ca Mâu Ni Phật là Ứng Thân. Một tức là ba, ba tức là một, chẳng tách rời! Phía sau chúng tôi, Văn Thù và Phổ Hiền ở hai bên Phật. “Năi Thích Tôn hội trung thượng thủ, tại Hoa Nghiêm hội thượng diệc thị thượng thủ. Hựu, Phổ Hiền Bồ Tát vi nhất thiết chư Phật chi trưởng tử” (là Thượng Thủ trong hội của đức Thích Ca. Trong hội Hoa Nghiêm, họ cũng là Thượng Thủ. Phổ Hiền Bồ Tát c̣n là con trưởng của hết thảy chư Phật), “trưởng tử” là danh hiệu chung. Trong Tứ Thập Hoa Nghiêm Kinh Tứ Thập Tụng có câu: “Nhất thiết Như Lai hữu trưởng tử, bỉ danh hiệu viết Phổ Hiền tôn” (Hết thảy Như Lai có trưởng tử, danh hiệu của Ngài là Phổ Hiền). V́ thế, quư vị phải biết, danh hiệu của Bồ Tát chẳng phải là danh xưng chuyên biệt của một người nào. Quư vị học pháp môn này bèn gọi là Phổ Hiền Bồ Tát. Trong kinh Hoa Nghiêm, người học kinh Hoa Nghiêm là Phổ Hiền Bồ Tát, mà cũng là Văn Thù Bồ Tát. Quư vị lư giải, tức là hiểu rơ, lư giải kinh Hoa Nghiêm, sẽ là Văn Thù; quư vị áp dụng những điều đă lư giải vào cuộc sống, thực hiện trong công việc, áp dụng vào sự đăi người, tiếp vật, bèn gọi là Phổ Hiền. Phổ Hiền tượng trưng Hạnh môn, Văn Thù tượng trưng Giải môn, giải hạnh bất nhị, đều là nói theo mặt Dụng. Về Thể th́ Tỳ Lô Giá Na tượng trưng bản thể, tượng trưng cho thanh tịnh viên minh thể của tự tánh, đều là biểu thị pháp.

      “Khả kiến Phổ Hiền chánh thị Như Lai Pháp Thân chi sở lưu hiện, hóa tác Đẳng Giác đại sĩ, tương tán Thích Tôn, diễn xướng thánh giáo. Nhược cứ Mật giáo, Phổ Hiền tức thị Mật giáo Sơ Tổ Kim Cang Tát Đỏa. Kim Cang Tát Đỏa tức thị Kim Cang Thủ Bồ Tát Ma Ha Tát” (có thể thấy Phổ Hiền chính là từ Pháp Thân của Như Lai xuất hiện, hóa thành vị Đẳng Giác Đại Sĩ tán trợ Thích Tôn, xướng diễn thánh giáo. Trong Mật giáo, Phổ Hiền chính là Kim Cang Tát Đỏa, Sơ Tổ của Mật giáo. Kim Cang Tát Đỏa chính là Kim Cang Thủ Bồ Tát Ma Ha Tát). Ở đây, Ngài được xếp đứng đầu các vị Bồ Tát; trong phần trước, chúng ta thấy tôn giả Ca Diếp biểu thị Thiền Tịnh bất nhị, ở chỗ này, Phổ Hiền Bồ Tát cũng nhằm biểu thị Mật Tông và Tịnh Độ bất nhị. Trong Mật Tông, Phổ Hiền Bồ là Sơ Tổ của Mật Giáo, Mật Tông do Ngài truyền thừa, nhưng trong Mật Tông Ngài được gọi là Kim Cang Tát Đỏa (Vajrasattva) hay Kim Cang Thủ Bồ Tát Ma Ha Tát (Vajrapāni). Tiếp đó, “Thánh Vô Động Tôn Đại Oai Nộ Vương Bí Mật Đà La Ni Kinh viết: Thử Kim Cang Thủ thị Pháp Thân đại sĩ, thị cố danh Phổ Hiền” (Thánh Vô Động Tôn Đại Oai Nộ Vương Bí Mật Đà La Ni Kinh chép: “Ông Kim Cang Thủ này là Pháp Thân Đại Sĩ; v́ vậy, tên là Phổ Hiền”), sự biểu thị pháp của Ngài ở đây có ư nghĩa sâu xa, có thể nói là sâu rộng không ngằn mé. “Hựu Kim Cang Trí chi Ngũ Bí Tát Quyết viết: Kim Cang Tát Đỏa giả, tức thị Phổ Hiền Đại Bồ Tát dị danh dă, diệc danh nhất thiết Như Lai trưởng tử, diệc danh Đại A Xà Lê” (Sách Ngũ Bí Tát Quyết của ngài Kim Cang Trí cũng ghi: “Kim Cang Tát Đỏa chính là tên khác của Phổ Hiền Đại Bồ Tát, Ngài cũng được gọi là con trưởng của hết thảy Như Lai, cũng gọi là Đại A Xà Lê”). Chúng ta xem mấy câu này, Kim Cang Tát Đỏa chính là biệt danh của Phổ Hiền Bồ Tát, là danh xưng trong Mật Tông. “Diệc danh Như Lai trưởng tử” (cũng gọi là con trưởng của Như Lai), đây là danh xưng trong kinh Hoa Nghiêm. “Diệc danh Đại A Xà Lê”, Đại A Xà Lê là danh xưng trong Mật Giáo. A Xà Lê (Ācārya) là tiếng Phạn, dịch sang nghĩa tiếng Hán là Quỹ Phạm Sư, [có nghĩa là] tư tưởng và ngôn hạnh của vị ấy có thể làm gương mẫu, khuôn phép cho người tu hành. Bất luận quư vị tu pháp môn nào hay tông phái nào, Phổ Hiền Bồ Tát là gương mẫu chung. Mỗi nguyện trong mười đại nguyện vương đều hàm nhiếp chín nguyện kia; do vậy, mười nguyện biến thành một trăm nguyện, một trăm nguyện ấy nếu lại triển khai sẽ gồm trọn vô lượng vô biên hoằng nguyện của Bồ Tát, chẳng sót một nguyện nào; từ tâm Bồ Đề mà sanh, chân thật, chẳng dối!

      “Lễ kính chư Phật”, chư Phật là ǵ? Tự tánh là chư Phật, Thể của hết thảy chúng sanh, nói theo Triết Học là bản thể, Lư Thể có thể sanh, có thể hiện chính là tự tánh. Trong Phật pháp có nói: “Ngoài tâm chẳng có pháp, ngoài pháp chẳng có tâm”. Nói cách khác, tâm và pháp là một, chẳng hai. Tâm đă là Phật, lẽ nào pháp chẳng phải là Phật? Chúng ta bèn hiểu rơ ư nghĩa của “lễ kính chư Phật”, lễ kính chư Phật là hết thảy cung kính, như vậy th́ mới có thể đoạn sạch sành sanh những tập khí ngạo mạn cực kỳ vi tế từ vô thỉ kiếp đến nay, v́ sao? Lễ kính chư Phật th́ Lễ là h́nh thức bề ngoài, Kính là trong tâm. Trong tâm thật sự có ư kính trọng, cung kính hết thảy. Cung kính hết thảy mọi người, như vậy th́ đối với hết thảy chư Phật, Bồ Tát chẳng cần phải nói nữa, v́ sao? Hết thảy mọi người là vị lai Phật. Cung kính hết thảy động vật, muỗi, trùng, kiến, những loài cựa quậy, ḅ trườn trong giới động vật, nay chúng ta biết vi khuẩn là động vật nhỏ nhất. Nh́n dưới kính hiển vi, vi khuẩn giống như tiểu trùng, chúng cử động, đó là chư Phật, phải lễ kính chúng. Cây cối, hoa, cỏ cũng do tâm hiện, tâm sanh. Đá, bùn, cát, các khoáng vật cũng do tâm hiện, thức biến, cho đến hư không, chẳng có một pháp nào chẳng phải là tâm hiện, thức biến, toàn là chư Phật. Do vậy, kinh Hoa Nghiêm nói: “T́nh dữ vô t́nh, đồng viên chủng trí” (t́nh và vô t́nh cùng viên măn Chủng Trí), “t́nh” là hữu t́nh chúng sanh, “vô t́nh” là thực vật, khoáng vật, hư không, đại địa như chúng ta thường nói. Trong pháp Đại Thừa, toàn bộ đều do tự tánh hiện, không có thứ ǵ chẳng phải là tự tánh. Tự tánh ở nơi đâu? Tùy tiện lấy một pháp nào cũng đều là nó, người minh tâm kiến tánh bèn biết [điều này]. Do đó, lễ kính chẳng có ngằn mé, đúng là vật to lớn chẳng ra ngoài, vật nhỏ bé không ǵ chẳng ở trong, đấy là Tánh Đức của tự tánh, là Tánh Đức viên măn. Nếu chúng ta muốn kiến tánh, quư vị làm như thế sẽ kiến tánh rất dễ dàng. Quư vị chẳng tu theo cách như vậy, kiến tánh rất khó, v́ sao? Quư vị có nghiệp chướng. Nghiệp chướng là ǵ? Bất kính! Tự tánh của quư vị vốn trọn đủ lễ kính, nay quư vị ngạo mạn đối với kẻ khác, thấy kẻ ấy chẳng vừa mắt, đấy chính là nguyên nhân v́ sao quư vị chưa thể kiến tánh! Phổ Hiền Bồ Tát đă nói rơ ràng, đă dạy quư vị rồi, nhưng quư vị chẳng tin tưởng, không chịu y giáo phụng hành, ai thua thiệt? Chính ḿnh bị thiệt tḥi, chứ Phổ Hiền Bồ Tát chẳng bị thiệt tḥi. Pháp Tánh và Pháp Tướng chẳng bị thiệt tḥi, mà chính ḿnh bị thiệt tḥi to lớn! Sau khi mê, chưa tỉnh lại, không có cách nào giác ngộ. Nếu muốn giác ngộ, phải khởi đầu bằng lễ kính, Phổ Hiền Bồ Tát dạy như thế đó!

      Thứ hai là “xưng tán Như Lai”, thứ ba là “quảng tu cúng dường”, quảng tu cúng dường chính là Cộng Sản chủ nghĩa, chính là “lợi ḥa đồng quân” trong Lục Ḥa Kính. Tiếp theo đó là “sám trừ nghiệp chướng”. Chưa làm được ba điều trước, sẽ chẳng thể sám trừ hết sạch nghiệp chướng. Sám thế nào cũng chẳng sạch, vẫn c̣n lưu lại khúc đuôi! Ba điều trước đă làm được, nghiệp chướng sẽ sám trừ sạch sành sanh. Quư vị bèn suy nghĩ, ta đối với hết thảy người, sự, vật, hễ c̣n có tí xíu tâm chẳng cung kính, đó là nghiệp chướng, ta thấy kẻ khác làm chuyện tốt mà chẳng khen ngợi, nghiệp chướng đấy! Thấy người khác làm chuyện bất hảo bèn rêu rao, đó cũng là nghiệp chướng. Do vậy, khen ngợi là khen ngợi điều thiện, chẳng khen ngợi sự ác. Ta thấy chúng sanh chịu khổ bị nạn, cuộc sống của bản thân ta c̣n khá, sau khi đă thấy, [nếu chính ḿnh] có nhân duyên để giúp đỡ họ mà chẳng chịu làm, đó là nghiệp chướng! Quư vị làm thế nào để sám trừ nghiệp chướng? Do vậy, ba điều trước có đạo lư rất sâu! Mười đại nguyện ấy, mỗi điều sau sâu hơn điều trước, điều sau có thể bao gồm điều trước, nguyện thứ hai bao gồm nguyện thứ nhất, nguyện thứ nhất chẳng bao gồm nguyện thứ hai, cuối cùng là “phổ giai hồi hướng” gồm trọn các điều khác. Nhất định phải hiểu đạo lư này, nhất định phải thật sự làm, thực hiện bằng tâm chân thành của chính ḿnh, như vậy là đúng! “Tác A Xà Lê” (làm A Xà Lê), A Xà Lê chính là nêu gương, đúng là “học làm thầy người, hạnh làm gương cho đời”, học làm thầy người là ngôn giáo, hạnh làm khuôn mẫu cho đời, đó là thân hành, phải thật sự làm mới được.

      “Kim thử kinh trung, Phổ Hiền đại sĩ, liệt tối thượng thủ, chánh hiển Mật Tịnh bất nhị” (Nay trong kinh này, Phổ Hiền Đại Sĩ được kể tên là bậc Thượng Thủ cao nhất, chính là để hiển thị Mật, Tịnh bất nhị), ư nghĩa này hay lắm, nói thật hay! “Cố tiên sư Hạ lăo vân” (V́ vậy, tiên sư là Hạ lăo cư sĩ nói), tức là lăo cư sĩ Hạ Liên Cư, Tịnh Độ tức thị Mật giáo hiển thuyết” (Tịnh Độ chính là hiển thuyết của Mật giáo), câu này nghĩa là ǵ? Khuyên kẻ học Mật hăy trở về Tịnh Độ. V́ sao? Mật chẳng dễ ǵ thành tựu! Cụ Hoàng Niệm Tổ bảo tôi, nước Trung Hoa mới[7] thành lập đă nhiều năm như thế, nhưng tu Mật Tông chỉ có sáu người thành tựu. Lăo nhân gia kể cho tôi biết chuyện này, quá khó khăn! Tu Thiền Tông, theo lăo pháp sư Đàm Hư cho biết, Ngài nói suốt đời Ngài chưa thấy một ai tham Thiền khai ngộ, chưa hề thấy, mà cũng chưa hề nghe nói đến, đắc Thiền Định th́ có, như lăo ḥa thượng Hư Vân đắc Thiền Định, nhưng chẳng khai ngộ, quư vị bèn biết Thiền khó lắm! Ở đây, tôn giả Ca Diếp biểu thị pháp “Thiền Tịnh bất nhị”. Nếu quư vị mong thật sự thành tựu, hăy tu Tịnh Độ, Thiền có thể tu kèm, “có Thiền, có Tịnh Độ”. Câu ấy nói rơ chẳng thể thành tựu nơi Thiền, bèn có thể thành tựu nơi Tịnh. Học Mật cũng giống như vậy, ở đây, Phổ Hiền Bồ Tát biểu thị pháp, chẳng thể thành tựu nơi Mật th́ thành tựu bằng Tịnh. Lăo cư sĩ Hạ Liên Cư cũng học Thiền và Mật, cuối cùng niệm Phật văng sanh thế giới Cực Lạc. Lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ cũng học Thiền và Mật, cụ học Thiền với lăo ḥa thượng Hư Vân, học Mật với Cống Cát lăo nhân[8], cụ cũng tu Tịnh Độ. Cuối cùng, trong lúc ngă bệnh, cụ bảo tôi: Mỗi ngày niệm Phật mười bốn vạn câu, ngày đêm chẳng giải đăi, niệm Phật văng sanh Tịnh Độ. Những vị ấy đều là đại thiện tri thức, đă nêu gương cho chúng ta trong thời kỳ Mạt Pháp này! V́ sao [các Ngài] thị hiện những chuyện như thế? Đấy là ḷng từ bi vô tận, dạy chúng ta đừng đi theo đường ṿng, các Ngài đă đi đường ṿng cho chúng ta thấy, cuối cùng các Ngài đều trở về Tịnh Độ, đạt được thành tựu. Chúng ta c̣n phải học Thiền hay học Mật nữa hay chăng? Chẳng cần! Chúng ta trực tiếp tu Tịnh Độ là được rồi, theo đường thẳng, không đi loanh quanh, biểu thị ư nghĩa ấy. “Tạng Mật Hồng giáo tổ sư Liên Hoa Sanh Đại Sĩ, tức A Di Đà Phật chi hóa thân Phật, cố Hồng giáo tôn sùng Di Đà, khuyến sanh Cực Lạc, viễn thịnh ư kỳ tha giáo phái. Mật Tịnh bất nhị chi chỉ, ư bổn giải trung tạm bất tường luận” (tổ sư Liên Hoa Sanh Đại Sĩ (Padmasambhava) của Hồng giáo[9] Mật tông Tây Tạng chính là hóa thân của A Di Đà Phật. V́ vậy, Hồng giáo tôn sùng A Di Đà Phật, sốt sắng khuyên sanh về Cực Lạc hơn các tông phái khác. Trong bản giải thích kinh này, tạm chẳng bàn luận chi tiết về yếu chỉ “Mật, Tịnh bất nhị”). Sự thị hiện này, đặc biệt là một chiêu cuối cùng của Niệm công lăo nhân (cụ Hoàng Niệm Tổ) nhằm bảo chúng ta, hăy chuyên niệm A Di Đà Phật, nhất tâm cầu sanh Tịnh Độ bèn thành công.

      Chúng ta lại xem đoạn kế tiếp, “Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát”. “Văn Thù Sư Lợi, diệc vân Mạn Thù Thất Lợi” (Văn Thù Sư Lợi c̣n gọi là Mạn Thù Thất Lợi), đây là dịch âm tiếng Phạn, cách dịch khác nhau, âm thanh cũng chẳng sai khác mấy, cũng rất gần gũi, dịch sang nghĩa tiếng Hán là Diệu Thủ, hoặc c̣n dịch là Diệu Cát Tường, “diệc vân Diệu Đức, thị chư Phật chi sư” (c̣n dịch là Diệu Đức, Ngài là thầy của chư Phật). Trong kinh có nói Ngài là thầy của bảy vị Phật quá khứ. Quư vị thấy bảy người học tṛ đều đă thành Phật mà lăo nhân gia vẫn thuộc địa vị Bồ Tát, giúp người khác thành tựu Vô Thượng Bồ Đề, nêu gương cho chúng ta thấy. “Phóng Bát kinh viết: Kim ngă đắc Phật, giai thị Văn Thù Sư Lợi chi ân dă. Quá khứ vô ương số chư Phật, giai thị Văn Thù Sư Lợi đệ tử. Đương lai giả diệc thị kỳ oai thần lực sở trí. Thí như thế gian tiểu nhi hữu phụ mẫu” (Kinh Phóng Bát chép: “Nay tôi được thành Phật đều do ơn của Văn Thù Sư Lợi. Quá khứ vô ương số chư Phật đều là đệ tử của Văn Thù Sư Lợi. Các vị [Phật trong] tương lai cũng cậy vào sức oai thần của Ngài mà thành. Ví như trẻ nít trong cơi đời có cha mẹ”). Những người nương cậy Bồ Tát, bao nhiêu Bồ Tát trong quá tŕnh tu hành đều được Văn Thù Bồ Tát chiếu cố. Trên thực tế, Văn Thù Bồ Tát cũng đă thành Phật trong kiếp số lâu xa, nhưng luôn dùng thân phận Bồ Tát, tuy đă thành Phật, nhưng giống như Phổ Hiền Bồ Tát, đă thành Phật vẫn chẳng bỏ nhân địa. Chúng ta thấy kinh chỉ nói Ngài là thầy của bảy vị Phật, ở đây, chúng ta thấy, “quá khứ vô ương số chư Phật đều là đệ tử của Văn Thù Sư Lợi”, trong kinh đức Phật đă dạy điều này! “Văn Thù giả, Phật đạo trung phụ mẫu dă” (Văn Thù là cha mẹ trong Phật đạo), trong Phật đạo và trong Bồ Tát đạo, Ngài giống như cha mẹ, chiếu cố những kẻ tu hành phát tâm học đạo.

      “Tâm Địa Quán Kinh viết: - Tam thế giác mẫu Diệu Cát Tường” (Kinh Tâm Địa Quán nói: “Mẹ giác ngộ của ba đời là Diệu Cát Tường”), Diệu Cát Tường là Văn Thù Sư Lợi. “Tam thế giác mẫu”, Giác là Phật, [tam thế giác mẫu] là mẹ của ba đời chư Phật. “Hựu Diệu Đức giả, Pháp Hoa Gia Tường Sớ nhị” (Lại nữa, Diệu Đức, theo quyển hai trong tác phẩm sớ giải kinh Pháp Hoa của ngài Gia Tường), “nhị” là quyển thứ hai, “viết: Văn Thù, thử vân Diệu Đức” (nói: “Văn Thù, cơi này dịch là Diệu Đức”), Văn Thù là dịch âm tiếng Phạn, Văn Thù Sư Lợi dịch sang tiếng Hán là Diệu Đức hay Diệu Cát Tường. “Dĩ liễu liễu kiến Phật Tánh cố, đức vô bất viên, quả vô bất tận, xưng Diệu Đức dă” (do thấy rơ ràng Phật Tánh, đức không ǵ chẳng viên măn, quả không ǵ chẳng cùng tột, nên xưng là Diệu Đức). V́ sao dịch là Diệu Đức? Đức đă trọn vẹn, quả đă chứng đến địa vị cùng tột, “quả vô bất tận” là đă chứng đến địa vị cùng tột, cũng tức là công đức viên măn, nên gọi là Diệu Đức. “Hội Sớ viết: Cụ tam đức bí tạng, thần hóa bất tư nghị, cố danh Diệu Đức” (Hội Sớ chép: “Trọn đủ ba đức bí tạng, thần thông và giáo hóa chẳng thể nghĩ bàn, nên gọi là Diệu Đức”). Trong kinh Đại Thừa thường nói đến tam đức bí tạng, Pháp Thân, Bát Nhă, và Giải Thoát được gọi là Tam Đức. “Cụ” () là đầy đủ, đây là nói đến sự chứng đắc. Chứng đắc tam đức bí tạng là Pháp Thân Bồ Tát. Trong tam đức bí tạng, A La Hán chỉ có một đức là giải thoát, A La Hán vẫn chưa có Bát Nhă và Pháp Thân, giải thoát [của A La Hán] thường nói là giải thoát một nửa, giải thoát chẳng viên măn. Quyền Giáo Bồ Tát cũng chưa chứng đắc Bát Nhă và Pháp Thân, Pháp Thân Bồ Tát mới chứng đắc, người Trung Quốc thường nói là “minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật”, đấy là chứng đắc, kiến tánh thành Phật là chứng đắc. Theo kinh Hoa Nghiêm, Sơ Trụ trong Viên Giáo đă chứng đắc [tam đức bí tạng], nhưng chẳng thể nói là viên măn. V́ sao? Các Ngài chưa đoạn tập khí, tập khí vô thỉ vô minh vẫn c̣n. Trong phần trước, tôi đă nói, phải mất ba đại A-tăng-kỳ kiếp mới đoạn hết tập khí, đoạn hết tập khí bèn trở về tự tánh viên măn, đó là Thường Tịch Quang Tịnh Độ. V́ vậy, Ngài trọn đủ tam đức bí tạng, cũng tức là đă thật sự chứng quả từ lâu, nhưng chẳng bỏ hạnh đă tu nơi nhân địa, giống như Phổ Hiền. V́ thế, nói Ngài là thầy của chư Phật, thần hóa chẳng thể nghĩ bàn, [tức là] thần thông và giáo hóa chẳng thể nghĩ bàn, cho nên gọi là Diệu Đức.

      “Diệu Cát Tường giả, Viên Trung Sao viết: - Vi diệu tam đức, đồng Phật sở chứng, cố diệc vân Diệu Cát Tường. Hoặc nghiệp khổ tam, hữu thiểu phần tại, giai vị cát tường” (Diệu Cát Tường: Sách Viên Trung Sao giảng: “Chứng ba đức vi diệu giống như Phật nên cũng gọi là Diệu Cát Tường. Ba thứ Hoặc, Nghiệp, Khổ nếu c̣n có chút phần đều chẳng phải là Cát Tường”). Chúng ta phải ghi nhớ câu này, Hoặc là mê hoặc, Nghiệp là tạo nghiệp, Khổ là chịu báo, đó là ǵ? Là những thứ trong lục đạo luân hồi. Mê hoặc, tạo nghiệp, chịu báo, ba chuyện này hễ c̣n chút phần, đều chẳng thể gọi là Cát Tường. Trong quá khứ, người thế gian chúng ta khen ngợi người khác bèn nói “cát tường”, thật ra là lời lẽ khen ngợi hữu danh vô thực! Tiêu chuẩn Cát Tường theo nhà Phật có mức độ thấp nhất là A La Hán, v́ sao? A La Hán đă đoạn hết Hoặc, Nghiệp, Khổ, đă đoạn xong, vượt thoát lục đạo luân hồi, đối với bốn thánh pháp giới được gọi là Cát Tường, nhưng chưa thể thêm vào chữ Diệu! Diệu là Pháp Thân Bồ Tát th́ mới có thể xưng là Diệu Cát Tường. “Vi diệu tam đức, đồng Phật sở chứng” (chứng ba đức vi diệu giống như Phật), này là Diệu Cát Tường. “Vị cư cứu cánh, tam đức viên chương, cố hựu hiệu Diệu Cát Tường dă”ịa vị đạt đến rốt ráo, ba đức hiển lộ trọn vẹn, nên lại có hiệu là Diệu Cát Tường). Quư vị thấy địa vị đạt đến rốt ráo. Đạt đến rốt ráo là Diệu Giác, chẳng phải là Đẳng Giác, Ngài thị hiện thân phận Đẳng Giác, Đẳng Giác là Ngài thả chiếc bè Từ, chứ thật ra Ngài đă thành Phật từ rất lâu rồi! “Văn Thù ư Bồ Tát chúng trung, trí huệ đệ nhất, bổn vi Long Chủng Tôn Vương Như Lai” (Trong các vị Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát là bậc trí huệ bậc nhất. Ngài vốn là Long Chủng Tôn Vương Như Lai), Ngài đă thành Phật xưa kia, đấy là Phật hiệu của Ngài. Hiện tại Bắc phương Thường Hỷ quốc thành Phật, hiệu Bảo Tích Như Lai” (hiện tại Ngài thành Phật trong cơi Thường Hỷ thuộc phương Bắc, hiệu là Bảo Tích Như Lai), nguyên lai Bảo Tích Như Lai cũng là Ngài. Theo như kinh Đại Bảo Tích đă nói, [Bảo Tích Như Lai] vốn vẫn là Ngài. “Vị lai thành Phật, hiệu Phổ Kiến Như Lai” (trong tương lai thành Phật, hiệu là Phổ Kiến Như Lai), trong tương lai, Ngài lại thị hiện thành Phật, đắc đại tự tại.

      Ở đây, đă thấu lộ cho chúng ta một tin tức, tin tức ǵ vậy? Đoạn hết tập khí vô thỉ vô minh, cơi Thật Báo Trang Nghiêm cũng không có, đúng là “phàm những ǵ có h́nh tướng đều là hư vọng”, cơi Thật Báo cũng chẳng thật, chỉ có Thường Tịch Quang là thật. Có người hỏi, trong Thường Tịch Quang, ta có khởi tác dụng hay chăng? Quư vị đọc đến đây, [sẽ thấy] có khởi tác dụng. Trong Thường Tịch Quang, khi nào chúng sanh hữu duyên có cảm, Ngài sẽ ứng, “ứng” ở đây là có thể thật sự hiện thân Phật, xuất hiện. Văn Thù Bồ Tát là một thí dụ, Ngài chẳng cần phải thị hiện tám tướng thành đạo, có thể thị hiện quả vị rốt ráo để xuất hiện. Đấy chính là “có cảm”, nói chung là người nào cảm? Pháp Thân Bồ Tát hễ có cảm bèn ứng. “Cố tri Văn Thù đại sĩ năi quá hiện vị tam thế thành Phật giả, kim thị hiện hội trung, đại trí độc tôn, biểu thử pháp môn duy đại trí phương năng tín nhập” (Do vậy biết: Đại Sĩ Văn Thù thành Phật trong ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai. Nay Ngài thị hiện làm bậc đại trí độc tôn trong hội này, biểu thị chỉ có người đại trí mới có thể tín nhập pháp môn này). Thật vậy! Chẳng phải là bậc đại trí, đại thiện căn, đại phước đức thật sự sẽ chẳng thể ngay lập tức tiếp nhận pháp môn này. “Hựu Diệu Đức giả, liễu liễu kiến Phật tánh cố, kim lân Phổ Hiền vị liệt thượng thủ, chánh biểu Thiền Tịnh bất nhị” (Hơn nữa, Diệu Đức là thấy rành rẽ Phật tánh nên kinh văn đặt Ngài làm Thượng Thủ tiếp ngay theo Phổ Hiền chính là để biểu thị ư chỉ “Thiền, Tịnh bất nhị”). V́ Văn Thù Bồ Tát cũng là tổ sư của Thiền Tông, nên núi Ngũ Đài cũng là đại bản doanh, là tổ đ́nh của Thiền Tông. Ở đây, chúng ta thấy ư nghĩa biểu thị pháp của Văn Thù và Phổ Hiền.

      Tôi giảng kinh Hoa Nghiêm kinh được một nửa, nghĩ Văn Thù và Phổ Hiền tu pháp nào? Do thuở ấy, tôi chưa có tín tâm đối với Tịnh Độ, nhưng cũng chẳng hoài nghi, cũng chẳng phản đối, không muốn tu Tịnh Độ, vẫn là muốn học Giáo. Kết quả là lật xem phần sau kinh Hoa Nghiêm, đều thấy [các vị Bồ Tát] phát nguyện cầu sanh về Tịnh Độ. Lại đọc phần năm mươi ba lần tham học của Thiện Tài đồng tử, đúng là đều dạy thâm nhập một môn, huân tu lâu dài. Tuy tham phỏng mỗi vị thiện tri thức, đến cuối cùng đều là lễ từ, tức là “luyến đức lễ từ”, cảm ơn đại đức đă giáo huấn. “Lễ từ”: [Lễ] là lễ tạ, Từ là chẳng học pháp môn ấy, Ngài vẫn là một câu Di Đà niệm tới cùng, từ đầu tới cuối chẳng thay đổi pháp môn. Lúc ấy, tôi mới nghiêm túc xem xét chỗ vi diệu của Tịnh Tông, như vậy rồi mới tiếp nhận. V́ thế, rất khó khăn, Hoa Nghiêm, Pháp Hoa và Lăng Nghiêm đă dẫn tôi về Tịnh Độ. Hôm nay thời gian đă hết rồi, chúng ta học tới chỗ này.

 

Tập 92

 

      Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang một trăm lẻ sáu, xem từ ḍng thứ tám, cũng là đoạn thứ hai.

      “Di Lặc Bồ Tát, cập Hiền kiếp trung nhất thiết Bồ Tát, giai lai tập hội” (Di Lặc Bồ Tát và hết thảy Bồ Tát trong Hiền kiếp đều đến nhóm hội). Đối với câu kinh văn này, trong Chú Giải, cụ Niệm Tổ đă giới thiệu, Di Lặc (Maitreya) là tiếng Phạn, dịch sang nghĩa tiếng Hán là Từ Thị, tức là từ bi. “Bồ Tát chi tánh dă, danh A Dật Đa” (là họ của Bồ Tát, Ngài tên là A Dật Đa). A Dật Đa (Ajita) là tiếng Phạn, dịch sang nghĩa tiếng Hán là Vô Năng Thắng (không ai có thể trỗi hơn được), có nghĩa là thù thắng khôn sánh. “Cụ túc tắc vi Từ Thị Vô Năng Thắng” (nói đầy đủ là Từ Thị Vô Năng Thắng), cũng có nghĩa là trong các vị Bồ Tát, Di Lặc Bồ Tát từ bi nhất. Trên thực tế, Phật Phật đạo đồng, chư Phật Như Lai, Pháp Thân Bồ Tát chẳng hề bất b́nh đẳng. Trí huệ, đức năng, và tướng hảo đều b́nh đẳng. Những danh hiệu như vậy trong kinh điển không ǵ chẳng nhằm thể hiện ư nghĩa biểu thị pháp, pháp môn nào sẽ dùng vị Bồ Tát nào làm đại diện, mang ư nghĩa biểu thị pháp. Di Lặc đặc biệt biểu thị ḷng từ bi thù thắng, như Văn Thù tượng trưng trí huệ thù thắng, Phổ Hiền tượng trưng sự thực hành thù thắng, Địa Tạng tượng trưng “hiếu thảo cha mẹ, tôn trọng thầy” thù thắng. Thật ra, đều là b́nh đẳng, chúng ta phải hiểu điều này! Hiện thân, làm việc, ngôn ngữ, danh hiệu trong Phật pháp, không ǵ chẳng nhằm biểu thị pháp. Nói cách khác, hết thảy đều là phương tiện dạy học, mục đích là không ǵ chẳng khiến cho hết thảy chúng sanh thấy h́nh tượng Bồ Tát, đó là thân hành, nghe Bồ Tát giáo huấn, có thể đạt giác ngộ, trở về tự tánh, đấy là mục tiêu chung cực trong học tập Phật pháp.

      Tiếp đó, cụ Hoàng dẫn chứng: “Di Đà Sớ Sao vân” (sách Di Đà Sớ Sao viết). Sớ Sao do Liên Tŕ đại sư soạn, trong Sớ Sao có một đoạn như vậy, những điều được nói trong đoạn ấy đều là những điều được nói trong kinh điển. “Dĩ tại mẫu thai trung, tức hữu từ tâm, cố dĩ danh tộc” (Do khi Ngài c̣n trong thai, mẹ liền có tâm Từ, nên lấy đó làm họ): Khi mẹ có thai Ngài, tâm từ bi vô cùng rơ rệt; v́ thế, bộ tộc của Ngài lấy tên là Di Lặc. Di Lặc là họ của Ngài, ḍng họ là bộ tộc, tại cổ đại Ấn Độ là như vậy, mà ở Trung Quốc cũng là như thế. Trung Quốc cổ đại thường lấy ḍng họ làm danh xưng của bộ tộc. “Hựu quá khứ sanh trung, ngộ Đại Từ Như Lai, nguyện đồng thử hiệu, tức đắc Từ Tâm tam-muội” (Lại nữa, trong đời quá khứ, gặp Đại Từ Như Lai, nguyện có cùng danh hiệu ấy, liền đắc Từ Tâm tam-muội). Trong kiếp trước lâu xa, Bồ Tát gặp Phật nghe pháp, gặp được một vị Phật có hiệu là Đại Từ Như Lai, Ngài làm đệ tử của Đại Từ Như Lai, phát nguyện đời đời kiếp kiếp mong có cùng danh hiệu với thầy. Danh và thực nhất định tương xứng, danh hiệu giống nhau, trí huệ, đức năng, hành tŕ nhất định chẳng khác thầy, đó là “thầy tṛ đạo hợp”, là truyền nhân của thầy. Do phát nguyện ấy bèn đắc Từ Tâm tam-muội. Tam, đúng mực, c̣n dịch là Chánh Định, tâm đă định, định trong đại từ đạ-muội (Samādhi) là tiếng Ấn Độ, dịch sang nghĩa tiếng Hán là Chánh Thọ, tức sự hưởng thụ chánh đáng, c̣n dịch là Chánh Định, tâm đă định rồi, định trong đại từ đại bi.

      “Hựu tích vi Bà La Môn, hiệu Nhất Thiết Trí, ư bát thiên tuế, tu tập Từ hạnh” (Xưa kia, Ngài lại là Bà La Môn có hiệu là Nhất Thiết Trí, tu tập hạnh Từ trong tám ngàn năm). Trong đoạn này nói đến rất nhiều thời đại, đấy cũng là sự tích tu hành của Di Lặc Bồ Tát trong đời quá khứ. Lại nữa, trong thời đại ấy, Ngài từng hiện thân làm Bà La Môn. Bà La Môn giáo của cổ Ấn Độ là một tôn giáo vô cùng xa xưa, lịch sử đă lâu đời, hậu thân của tôn giáo này chính là Hưng Đô Giáo (Hinduism) trong hiện tại, người Hoa gọi tôn giáo ấy là Ấn Độ giáo. Nghe nói tôn giáo ấy có hơn một vạn năm lịch sử, chúng ta có thể tin tưởng lời này, người Ấn Độ không coi trọng lịch sử cho lắm, họ chú trọng tu Định, khai ngộ. Điều này cũng có lư, tu Định, khai ngộ là thật; trừ chuyện này ra, như đức Phật đă dạy trong kinh: “Phàm những ǵ có h́nh tướng đều là hư vọng”, “hết thảy pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng”, những điều này đều là sự thật. Hiện thời, trên thế giới thừa nhận Ấn Độ giáo có lịch sử tối thiểu là tám ngàn năm trăm năm, họ nói Phật giáo chỉ có hơn hai ngàn năm trăm năm lịch sử. Nói như vậy, tối thiểu Ấn Độ giáo lâu hơn Phật giáo năm ngàn năm, thật sự là một tôn giáo cổ xưa. Bà La Môn giáo coi trọng tu Định, trong kinh điển, đức Phật thường nhắc tới Tứ Thiền Bát Định, những món Thiền Định ấy do Bà La Môn giáo của cổ Ấn Độ đề xướng. Thuở đó, ở Ấn Độ, tất cả các tôn giáo, kể cả các học phái đều coi trọng tu Thiền Định. Trong Định có thể đột phá các chiều không gian, có thể thấy quá khứ, mà cũng có thể thấy tương lai. Họ có năng lực thấy trạng huống trong toàn thể lục đạo, học thuyết lục đạo luân hồi do họ đề ra, đó là cảnh giới do họ đích thân chứng nghiệm trong Định. Nói theo hiện thời, điều này cũng thuộc về Triết Học và Khoa Học, bất quá họ chẳng dùng máy móc khoa học, mà dùng công phu Thiền Định để hoàn toàn thấy được, hoàn toàn thông đạt, hiểu rơ! Đây là giới thiệu đơn giản về Bà La Môn giáo.

      [Thuở ấy], Di Lặc Bồ Tát tu hành trong đạo Bà La Môn rất có thành tựu, phải thuộc vào hàng đại sư, nên có hiệu là Nhất Thiết Trí. Trong tám ngàn năm, Ngài thường tu hạnh Từ. Tám ngàn năm là thời gian, niên đại được nói ở đây cũng là niên đại trên địa cầu, Ngài tu đại từ đại bi. Chữ “hựu” (lại nữa) tiếp đó nhằm nói đến một thời đại nữa, tức là một thời đại khác, chỉ rơ Bồ Tát tu từ bi không chỉ một đời, một kiếp, mà là đời đời kiếp kiếp, vĩnh viễn tiếp tục không ngừng! V́ thế, ngày nay chúng ta vẫn lấy Di Lặc Bồ Tát tượng trưng cho ḷng từ bi trong Đại Thừa Phật pháp. Tiếp đó, nói “Phất Sa Phật thời” (thời Phất Sa Phật), đây là danh hiệu của một vị cổ Phật, “dữ Thích Ca Như Lai đồng phát Bồ Đề tâm, thường tập Từ Định” (cùng phát tâm Bồ Đề với Thích Ca Như Lai, thường tu tập Từ Định). Trong đời ấy, Ngài là bạn học của Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật, đều là học tṛ của Phất Sa Phật, cùng tu học có thành tựu, Di Lặc và Thích Ca đều mang thân phận Bồ Tát. Tiếp đó, sách Sớ Sao lại nêu ra: “Tư Ích Kinh vân: Chúng sanh kiến giả, tức đắc Từ Tâm tam-muội” (Kinh Tư Ích chép: “Chúng sanh trông thấy liền đắc Từ Tâm tam-muội”). Hết thảy chúng sanh trông thấy Bồ Tát, tâm từ bi đều sanh khởi. Do vậy, tại Trung Quốc, các vị tổ sư đại đức thờ Di Lặc Bồ Tát ngay tại cửa chùa. Chùa miếu được xây dựng theo lối chánh quy, bước vào đầu tiên là sơn môn, tức là Thiên Vương Điện. Tứ Đại Thiên Vương là thần hộ pháp trong Phật môn. Tứ Đại Thiên Vương được bày hai bên, chính giữa thờ Di Lặc Bồ Tát, nhưng Di Lặc Bồ Tát được tạc tượng khác với Ấn Độ. Tại Ấn Độ, Di Lặc Bồ Tát [được tạc tượng] rất giống Quán Thế Âm, Đại Thế Chí; ở Trung Quốc thờ tượng Bố Đại ḥa thượng.

      Trong lịch sử, thật sự có một vị Bố Đại ḥa thượng, trong Cao Tăng Truyện có chép truyện kư của Ngài. Ngài sanh nhằm thời đại Tống Cao Tông (1107-1187) nhà Nam Tống. Rất nhiều đồng học biết trong lịch sử Trung Quốc có danh nhân Nhạc Phi, tinh trung báo quốc. Bố Đại ḥa thượng cùng thời với Nhạc Phi, xuất hiện tại huyện Phụng Hóa, tỉnh Chiết Giang. Tuy truyện kư ghi chép rất tỉ mỉ, vẫn chẳng biết ḍng họ và lai lịch của Ngài. Rốt cuộc, Ngài là người nơi nào, không biết, tên họ ǵ cũng không biết, thậm chí đối với pháp danh xuất gia của Ngài cũng không biết, chẳng ai biết! Người ta gọi Ngài là Bố Đại ḥa thượng (ḥa thượng túi vải) do Ngài hằng ngày cầm một cái túi to đi khắp nơi hóa duyên, người ta cúng dường thứ ǵ Ngài đều bỏ vào túi. Mỗi ngày gặp người khác đều thật sự hoan hỷ, mặt tràn đầy vẻ tươi cười, người cũng rất mập mạp. V́ thế, tạo tượng Di Lặc Bồ Tát đều là tạo h́nh tượng của Bố Đại ḥa thượng. Theo truyền thuyết, khi văng sanh, Ngài bảo người khác Ngài là Di Lặc Bồ Tát thị hiện. Nói xong bèn tịch, chẳng sanh bệnh, nói ra thân phận bèn ngồi xếp bằng văng sanh. Vào thời cổ có chuyện như thế, là thật. Phật, Bồ Tát thị hiện trong nhân gian chúng ta, hễ thân phận bộc lộ bèn tịch, chẳng thể lưu lại trong nhân gian nữa. Nếu bộc lộ thân phận mà vẫn không tịch, vẫn sống trong nhân gian, tức là giả trất, chẳng thật! Các đồng học học Phật chúng ta phải hiểu điều này, sẽ chẳng bị kẻ khác lường gạt! Kẻ đó nói hắn là Bồ Tát hay Phật sống nào đó tái lai, nói xong vẫn chẳng tịch, vậy th́ mục đích của hắn là ǵ ta có thể đoán ra được, vẫn là tham cầu tiếng tăm, lợi dưỡng. Nói rồi bèn tịch th́ là thật, chẳng giả tí nào! Do vậy, từ đó trở đi, người Hoa đặt tượng lăo nhân gia ở ngay sơn môn, khiến cho hết thảy chúng sanh hễ bước vào sơn môn sẽ thấy vị đầu tiên là Ngài. V́ sao? Đấy là như kinh đă dạy: “Chúng sanh kiến giả, tức đắc Từ Tâm tam-muội” (chúng sanh trông thấy liền đắc Từ Tâm tam-muội), biểu thị pháp ấy, khiến cho hết thảy chúng sanh hễ bước vào cửa Phật, thấy Ngài đầu tiên, tâm từ bi sẽ sanh khởi. Quư vị thấy Bồ Tát hoan hỷ dường ấy, vẻ mặt tràn đầy vẻ tươi cười, bụng to đùng, tượng trưng điều ǵ? Có thể bao dung. Chớ nên so đo với bất cứ ai, mà có thể bao dung, có thể rộng ḷng tha thứ, có thể xử sự, đăi người, tiếp vật bằng đại từ đại bi, biểu thị những ư nghĩa này. Do vậy, đây là giáo dục, là lên lớp.

      Đă nói tới Thiên Vương Điện, chúng tôi cũng tiện dịp giới thiệu đôi chút về ư nghĩa biểu pháp của Tứ Đại Thiên Vương. Họ hộ tŕ Phật pháp, chớ nên không biết họ hộ tŕ chúng ta ra sao! Họ hộ tŕ bằng cách chỉ dạy chúng ta hộ tŕ chính ḿnh như thế nào, tức là hộ tŕ thân tâm của chính ḿnh. Có thể hộ tŕ thân tâm của chính ḿnh, hạng người như thế được gọi là “biết yêu thương chính ḿnh”. Yêu ḿnh th́ có thể yêu người; chẳng yêu thương chính ḿnh, làm sao có thể yêu thương người khác, há có lẽ ấy? Tứ Đại Thiên Vương tượng trưng cho sự yêu thương chính ḿnh, họ được chia thành bốn vị thiên vương Đông, Nam, Tây, Bắc:

      1) Đông Phương Thiên Vương có danh hiệu là Tŕ Quốc (Hộ Quốc thiên vương, Dhrtarāstra, Đề Đầu Lại Tra). Ư nghĩa Hộ Quốc được mở rộng thành hộ tŕ chính ḿnh, hộ tŕ gia đ́nh, hộ tŕ ḍng họ, hộ tŕ láng giềng làng xóm, hộ tŕ xă hội, hộ tŕ quốc gia, hộ tŕ dân tộc, hộ tŕ toàn thể thế giới, quư vị phải hiểu ư nghĩa này. [Cần phải lưu ư] một chuyện trọng yếu nhất trong hộ quốc, từ xưa tổ tiên đă dạy chúng ta đạo Trung Dung, điều kiện trọng yếu nhất là phải biết sử dụng Trung, chớ nên thái quá mà cũng đừng bất cập sẽ đạt đến chỗ tốt đẹp, đó chính là tốt lành nhất, “chỉ ư chí thiện”. Tiêu chuẩn của Trung là ǵ? Trong Phật pháp, [Trung được hiểu] sâu hay cạn khác nhau, quá nhiều. Sách Trung Dung[10] trong Tứ Thư của triết học Trung Quốc giảng về Trung, trong ấy tổ tiên Trung Quốc đă giảng về tiêu chuẩn [của Trung].

      Danh hiệu của thiên vương khiến chúng ta hiểu Ngài biểu thị ư nghĩa nào. Tay Ngài cầm đàn tỳ bà, tỳ bà là nhạc khí, không phải là nói vị thiên vương này thích ca hát, không phải là ư nghĩa ấy! Đàn tỳ bà biểu thị Trung Đạo. Nhạc khí sử dụng dây th́ dây đàn không thể rất căng, quá căng sẽ bị đứt, cũng chẳng thể quá chùng, quá chùng sẽ không phát ra tiếng, phải điều chỉnh thích đáng, phù hợp, âm sắc sẽ hay đẹp, mang ư nghĩa ấy! Quư vị phải điều chỉnh sao cho thích đáng, vừa phải. Trong Đại Thừa Phật pháp, [Trung] được gọi là Trung Đạo Đệ Nhất Nghĩa Đế, biểu thị ư nghĩa ấy. Ai có thể hành Trung Đạo Đệ Nhất Nghĩa Đế? Chư Phật Như Lai, Pháp Thân đại sĩ, c̣n Phật và Bồ Tát thuộc trong mười pháp giới vẫn chưa làm được. Quư vị phải hiểu Trung, chẳng lệch, chẳng tà mới là Trung, người ở trong lục đạo chẳng làm được, v́ sao? Họ có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Vọng tưởng, phân biệt, chấp trước là lệch lạc, tà vạy, chẳng phải là chánh. Trung và Chánh có ư nghĩa giống nhau. Trung Đạo được hành trong bốn thánh pháp giới là tương tự, chưa thật, v́ sao? Đă đoạn phân biệt và chấp trước, nhưng chưa hết vọng tưởng, vẫn c̣n có khởi tâm động niệm, nên chẳng phải là Trung Chánh thật sự. Nhất định phải đạt đến minh tâm kiến tánh, trong cảnh giới sáu trần, sáu căn thật sự làm được “chẳng khởi tâm, không động niệm”, đấy mới là thật sự đạt được Trung Chánh, đó là tiêu chuẩn cao nhất của Trung Đạo. Pháp Thân Bồ Tát chứng đắc, chứng đắc bèn vượt thoát mười pháp giới, chứ không phải chỉ là lục đạo. Hộ Quốc thiên vương biểu thị ư nghĩa này. Chúng ta thấy tượng Hộ Quốc thiên vương bèn hiểu ư nghĩa biểu thị pháp, xử sự, đăi người, tiếp vật phải hành Trung Đạo, chẳng lệch lạc, chẳng tà vạy, mang ư nghĩa này.

      2) Nam Phương Thiên Vương có đức hiệu là Tăng Trưởng (Virūdhaka, Tỳ Lâu Lặc Xoa), danh hiệu của Ngài là Tăng Trưởng. Tăng Trưởng có nghĩa là không ngừng tiến lên, tiến bộ, mong cầu tiến bộ! Tổ tông Trung Quốc đă dạy: “Cẩu nhật tân, nhật nhật tân” (ngày một mới, mỗi ngày một mới mẻ hơn), chính là ư nghĩa này. Nói theo Phật pháp sẽ là Tinh Tấn Ba La Mật, Tinh Tấn là trọn chẳng thoái chuyển, mang ư nghĩa này. Tay Ngài cầm kiếm, tức bảo kiếm, bảo kiếm tượng trưng trí huệ, chỉ có trí huệ mới có thể thật sự giúp cho chúng ta tiến bộ, tiến bộ nhưng không để lại hậu quả. Tại Ấn Độ vào thời cổ và tại Trung Quốc xa xưa, tông chỉ giáo dục có mục tiêu chung cực là cầu trí huệ. Phật pháp sau khi truyền đến Trung Quốc đă thúc đẩy Nho và Đạo đều theo đuổi trí huệ. Trí huệ do đâu mà có? Kinh điển cho chúng ta biết: Tự tánh của chúng ta vốn trọn đủ trí huệ. Trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật dạy: “Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng của Như Lai”, nói rất rơ ràng, rất rành mạch. [Nói] “Như Lai” là nói tới tự tánh, chẳng phải là ai khác, trong tự tánh của chúng ta có trí huệ viên măn, đức năng viên măn, nay chúng ta nói là năng lực, năng lực kỹ thuật. Hiện thời, người b́nh phàm chúng ta gọi “tướng hảo” là phước báo, không có ǵ chẳng viên măn. Nay v́ sao chúng ta có sai biệt? Chúng ta so với Phật và Pháp Thân Bồ Tát khác biệt một trời một vực, v́ sao vậy? Đức Phật dạy: “Chỉ v́ vọng tưởng, chấp trước, nên không thể chứng đắc”, câu này đă nói toạc ra. Thật vậy, chúng ta có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, nên trí huệ và đức tướng sẵn có trong tự tánh chẳng thể hiện tiền, chúng bị những thứ ấy chướng ngại.    

      Do đó, đức Phật dạy chúng ta ba phương pháp nhằm phá ba thứ chướng ngại ấy. Ngài dạy Giới, nếu tŕ giới thanh tịnh sẽ phá được Kiến Tư phiền năo. Kiến Tư phiền năo là chấp trước, có thể phá chấp trước, khôi phục tâm thanh tịnh, tâm thanh tịnh hiện tiền. Tâm thanh tịnh là bổn tâm, tâm thanh tịnh là phước báo. Chư vị phải ghi nhớ, chúng ta mong cầu phước th́: Tâm chẳng thanh tịnh sẽ chẳng có phước; tâm đă thanh tịnh, phước báo bèn hiện tiền. Thật đấy, chẳng giả đâu! Có phước, sẽ có địa vị và của cải trong xă hội; nếu tâm không thanh tịnh, phước ấy là giả, chẳng thật. Có địa vị và của cải mà tâm thanh tịnh, phước đó là thật, người ấy thật sự hưởng phước. Thứ hai là dạy chúng ta tu Định, tu Định có thể phá Trần Sa phiền năo, tức là phân biệt, đạt được ǵ? Được b́nh đẳng, đấy là như kinh Vô Lượng Thọ kinh đă nói “thanh tịnh b́nh đẳng giác”, đạt được b́nh đẳng. Tâm b́nh đẳng hiện tiền, b́nh đẳng là Đại Định, chẳng nổi sóng gió, b́nh lặng rồi, đấy là cảnh giới của Bồ Tát, đă tiến cao hơn. Cuối cùng đức Phật dạy chúng ta giác, chánh giác, giác chứ không mê, giác có thể phá căn bản vô minh, thành Phật, trở về tự tánh. Đức Phật dạy chúng ta ba phương pháp Giới - Định - Huệ. V́ vậy, trong kinh Phật thường nói: “Cần tu Giới, Định, Huệ, tức diệt tham, sân, si” (siêng tu Giới, Định, Huệ, dứt bặt tham, sân, si). Thứ nghiêm trọng nhất trong Tham là chấp trước, thứ nghiêm trọng nhất trong Sân là phân biệt, thứ nghiêm trọng nhất trong Si là vọng tưởng, đức Phật dạy chúng ta phương pháp phá ba thứ chướng ngại ấy, trí huệ và đức năng sẵn có trong tự tánh của chúng ta đều hiện tiền, chẳng phải là hướng ra ngoài để cầu. Do vậy, Phật pháp được gọi là Nội Học, kinh Phật được gọi là Nội Điển, chẳng hướng ra ngoài cầu mà cầu từ bên trong là trí huệ, hướng ra ngoài để cầu bèn là tri thức. Tri thức và trí huệ là hai chuyện [khác hẳn nhau]. Giáo dục của người phương Tây nhằm cầu tri thức, chẳng phải là cầu trí huệ. Trí huệ do Giới, Định, Huệ mà có, c̣n tri thức thật sự là từ tâm ư thức của chúng ta, chúng ta dụng tâm nghiên cứu, làm như vậy càng chẳng ăn khớp với Giới, Định, Huệ, trong ấy chẳng có Giới, Định, Huệ. Giáo dục phương Đông coi trọng Giới, Định, Huệ, đặc biệt là Phật giáo.

      Sau khi Phật giáo truyền đến Trung Quốc, đúng như tiến sĩ Thang Ân Tỷ (Toynbee) đă nói, nó đă phong phú hóa nền văn hóa bản địa của Trung Quốc. Nho gia coi trọng Giới, Định, Huệ, Đạo gia cũng xem trọng Giới, Định, Huệ, tăng trưởng mà! Nâng cao Giới, Định, Huệ, đó là tăng trưởng, Giới, Định, Huệ thúc đẩy hết thảy tiến bộ trong xă hội. Giới, Định, Huệ cũng có thể thúc đẩy quư vị thăng quan, phát tài, nó là chánh đáng, chẳng để lại hậu quả, cao minh hơn phương Tây nhiều. Ở phương Tây, tri thức, khoa học, kỹ thuật phát triển, đến hiện thời chúng ta có thể thấy, chẳng qua là ba trăm năm, chúng ta thấy ǵ? Thấy ngày tàn của thế giới. V́ vậy, hiện thời họ cũng dần dần giác ngộ, học theo Trung Quốc, học tập Ấn Độ. Trong mấy năm gần đây, họ t́m cầu hóa giải xung đột, khôi phục sự an định trong xă hội và thế giới, chung sống ḥa b́nh. Họ chẳng làm được điều này, khiến cho xă hội rối loạn, địa cầu bị tổn hại. Địa cầu đă bị tổn hại, theo họ nói, tức theo lời các nhà khoa học, hiện thời địa cầu triển khai sự trả thù đối với nhân loại, sự trả thù ấy chính là tai nạn. V́ sao? Các nhà Lượng Tử Học hiện đại đă biết, hết thảy tất cả hiện tượng vật chất, giống như vi trần được nói tới trong kinh Phật, một hạt vi trần là vật chất, nó có Thọ, Tưởng, Hành, Thức, có thể thấy, nghe, hiểu ư nghĩ, ư niệm, hành vi của con người. Nó có ưa, ghét. Ngôn hạnh của con người tốt đẹp, nó sẽ ưa chuộng. Tâm hạnh của con người tạo ác, nó sẽ chán ghét, chẳng phải là vô tri. Do vậy, trong Phật pháp nói vạn sự vạn vật trong toàn bộ vũ trụ đều là thể hữu cơ, sống động, chẳng chết cứng! Hiện thời, các nhà khoa học Lượng Tử phát hiện điều này, là thật, chẳng giả.

      Hiện nay, tư tưởng và hành vi của loài người chúng ta có lỗi với địa cầu! Phá hoại sự cân bằng sinh thái tự nhiên, phạm lỗi với nó, nó phải báo thù. Có thể hóa giải tai nạn hay không? Các nhà Lượng Tử Học nói “có thể”, Phật pháp cũng giống như vậy, cũng có cách nói như thế. Chúng ta chỉ cần thay đổi tâm thái, nhận biết chân tướng của hiện tượng tự nhiên, điều chỉnh tâm thái của chính ḿnh, vứt bỏ tham, sân, si, mạn, đoạn hết thảy ác, tu hết thảy thiện. Hết thảy vạn vật ưa chuộng thiện pháp, chúng ta t́m lại mười hai chữ “hiếu đễ, trung tín, lễ nghĩa, liêm sỉ, nhân ái, ḥa b́nh” của tổ tông, khởi tâm, động niệm, ngôn ngữ, tạo tác đều tương ứng với đức hạnh, xă hội sẽ ḥa hài, chẳng có tai nạn. V́ sao? Cảnh chuyển theo tâm, “cảnh” là hoàn cảnh. Đối với đại hoàn cảnh của chúng ta, địa cầu là đại hoàn cảnh, vô lượng vô biên tinh hệ trong không gian cũng là đại hoàn cảnh của chúng ta. Khoa học gia đă đưa cảnh cáo nghiêm trọng nhất, năm 2012, Ngân Hà thẳng hàng, người Maya đă tính như vậy. Chúng tôi thấy có một tài liệu tức là bài phát biểu của tổng cục vũ trụ của Mỹ tuyên bố chuyện Ngân Hà thẳng hàng là có thật, nhưng họ nói không phải là năm 2012, mà là năm 2013, sai khác một năm. Chúng ta có thể hóa giải tai nạn này hay không? Có thể, v́ sao? Trong hoàn cảnh cư trụ, tâm chúng ta chánh đáng, không chỉ địa cầu chẳng có tai nạn, mà các tai nạn trong các tinh hệ (hệ thống tinh tú) thuộc vũ trụ cũng có thể hóa giải. Người thâm nhập Đại Thừa biết [như vậy], có tín tâm, chẳng hoài nghi tí nào!

      Trong quá khứ đă từng có người bảo cho tôi biết, hy vọng người học Phật chúng ta sẽ nghiêm túc, nỗ lực tu học, thay đổi quỹ đạo của các tinh hệ trong vũ trụ. Lúc đó, tôi nghe xong, hết sức ngơ ngác, há có loại năng lực ấy? Phật, Bồ Tát cũng làm không được, lẽ đâu chúng ta có năng lực như vậy? Học kinh Hoa Nghiêm, học bộ Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán của Hiền Thủ đại sư, chúng tôi hoảng nhiên đại ngộ “thật sự có loại năng lực ấy”. Các nhà khoa học cận đại đă phát hiện ư niệm có năng lượng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng có bất cứ năng lượng nào có thể sánh bằng năng lượng sanh bởi ư niệm; nhưng trong kinh điển, chúng ta thường đọc thấy điều ǵ? Không thể liễu giải thấu triệt ư nghĩa của nó. Quư vị thấy trong kinh Phật, từ lúc mới học Phật, chúng ta đă đọc đến rồi, vũ trụ sanh ra như thế nào? “Duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”. Đều đọc nhuyễn nhừ cả rồi, nhưng ư nghĩa thật sự được bao hàm [trong câu nói ấy] chẳng biết; v́ vậy, chẳng thể sử dụng được, vẫn mê trong cảnh giới y như cũ, chẳng biết chân tướng sự thật của cảnh giới, không biết Thật Tướng của các pháp, rất oan uổng, rất đáng tiếc! Trời cao đă cho chúng tôi sống thọ, chúng tôi rất cảm kích! Nếu tôi chết từ năm năm trước, sẽ chẳng biết đến chuyện này, tôi thật sự biết là đă đọc đến nằm ḷng rồi, nhưng chẳng thấu triệt, chẳng thật sự hiểu, chẳng dùng được! Thật sự hiểu, vận dụng được, ứng dụng điều ấy vào đời sống, công việc, xử sự, đăi người, tiếp vật, học sống động, dùng sống động, tức là quư vị đă thật sự học được! Sách Hoàn Nguyên Quán giảng rơ ràng, minh bạch, lại c̣n đọc các báo cáo khoa học hiện thời, đối chiếu những điều này, tín tâm của chúng tôi mười phần đầy đủ. Các khoa học gia đă phát hiện, tuy phát hiện, họ chẳng nói rơ ràng và thấu triệt như trong Phật pháp.

      Do vậy, chúng tôi nghĩ, tiên sinh Phương Đông Mỹ giới thiệu Phật pháp với tôi, bảo tôi: “Triết học trong kinh Phật là đỉnh cao nhất trong triết học toàn thế giới”, lăo nhân gia giới thiệu điều này với tôi. Nay tôi nhận thấy, không chỉ là đỉnh cao nhất trong triết học toàn thế giới, mà đồng thời cũng là đỉnh cao nhất của khoa học toàn thế giới. Ngày nay, có những vấn đề mà khoa học chưa thể giải quyết, nhưng Đại Thừa Phật pháp đă giải quyết toàn bộ! Quư vị nghĩ xem, các nhà khoa học biết chuyện Ngân Hà xếp thẳng hàng, nhưng bó tay không có cách giải quyết! Phật pháp biết có biện pháp để thay đổi nó, v́ sao? Toàn thể vũ trụ do tâm hiện, thức biến, ta muốn sửa đổi một chút khuyết điểm chẳng phải là chuyện thực hiện dễ dàng ư? Ta có thể sáng tạo nó, lẽ đâu chẳng thể thay đổi nó? Phải tin tưởng chuyện này! Trong Tịnh Độ Tông nói tới Tín, Nguyện, Hạnh, tuyệt đối tin tưởng, chẳng có mảy may hoài nghi nào. Sức của một người chúng ta chẳng đủ! Đúng vậy, lời này có lư lắm, chẳng phải là vô lư! Nếu nay chúng ta thật sự chứng đắc địa vị Pháp Thân Bồ Tát th́ được, chúng ta có năng lực, một người là được rồi! Chắc sẽ có người hỏi, chư Phật Như Lai rất nhiều, Pháp Thân Bồ Tát càng nhiều hơn nữa, v́ sao các Ngài chẳng sử dụng thần thông và pháp thuật để hóa giải tai nạn cho chúng ta? Nếu các Ngài chẳng hóa giải tai nạn, từ bi ở chỗ nào? Chúng ta hỏi, Phật, Bồ Tát sẽ bảo: “Tâm, Phật, chúng sanh, ba thứ chẳng sai biệt”, tâm, Phật, chúng sanh có sức mạnh b́nh đẳng. Nghiệp này do chúng ta tự làm, tự chịu, quư vị tạo tội nghiệp th́ người khác sẽ chẳng thể chịu thay, quư vị gây ra sai sót này th́ chính ḿnh phải bù đắp, hóa giải, Phật, Bồ Tát chẳng thể hóa giải giùm quư vị. Phật, Bồ Tát nói cho quư vị biết lư luận và phương pháp hóa giải, quư vị phải hiểu rơ lư luận, nương theo phương pháp ấy, sẽ thật sự có thể hóa giải vấn đề, đó là chánh lư.

      Sự rối loạn hiện thời do chúng ta gây ra, trong cảnh giới của Phật, Bồ Tát có tai nạn hay không? Không có. Tôi nói với quư vị những câu này đều là lời thật, trong cảnh giới của các Ngài chẳng có tai nạn, nhưng trong cảnh giới của chúng ta có tai nạn. Trong kinh điển thường nói điều này, mỗi người tự lo chuyện sống chết, mỗi người tự nhận lănh nghiệp báo. Đă làm sai, đừng sợ, nhất niệm hồi đầu, vấn đề lập tức được giải quyết. Cổ nhân Trung Quốc nói: “Hành hữu bất đắc, phản cầu chư kỷ” (làm không được th́ hăy quay lại xét ḿnh), câu này quan trọng lắm! Oán trời, trách người, tội càng thêm tội, không chỉ chẳng thể giải quyết vấn đề, mà c̣n khiến cho vấn đề càng thêm nghiêm trọng, chỉ có quay lại tự vấn, vấn đề sẽ thật sự được giải quyết. Kẻ khác chẳng có lầm lỗi, thiên nhiên chẳng có lầm lỗi. V́ sao thiên nhiên biến hiện tai nạn nhiều ngần ấy? Do tâm bất thiện của chúng ta cảm vời, chẳng phải là thiên nhiên cố ư, nó vô t́nh. Thiên nhiên biến hóa theo lệnh của ai? Nghe theo ư niệm của chúng ta! Ư niệm của chúng ta tốt lành, thiên nhiên trở thành tốt lành, ư niệm của chúng ta bất thiện, thiên nhiên trở thành bất thiện, đạo lư là như thế đó. Ư niệm làm chủ tể hết thảy, ư niệm thay đổi hết thảy. Quư vị bắt thiên nhiên trở thành thiện hay ác đều do ư niệm. Ư niệm của Phật là thanh tịnh, b́nh đẳng, giác, nên trong cảnh giới của Ngài không có tai nạn. Ư nghĩa biểu thị pháp của Tăng Trưởng Thiên Vương rất sâu, rất rộng, chúng ta phải nghiêm túc học tập. Giới, Định, Huệ trọng yếu hơn bất cứ ǵ khác, do Giới đắc Định, do Định đắc Huệ.

      3) Vị thiên vương thứ ba là Quảng Mục Thiên Vương (Virūpāksa, Tỳ Lâu Bác Xoa) ở phương Tây. Phương Tây và phương Bắc nhắc nhở chúng ta tâm thái tu học. Chúng ta phải làm như thế nào để thật sự đạt được trí huệ? V́ mấu chốt của toàn bộ chính là trí huệ, mục tiêu là hộ quốc, có trí huệ th́ mới có thể hộ quốc. Thiếu trí huệ sẽ chẳng thể hộ quốc. Hộ quốc là đại nguyện, tăng trưởng trí huệ là đại đức, đại năng, cầu bằng cách nào? Đa văn, quảng học đa văn, thành tựu trí huệ chân thật. Ở đây, coi trọng Hậu Đắc Trí, không ǵ chẳng biết, quư vị đạt được quảng học đa văn. Quư vị thấy đạo cụ do Ngài cầm trên tay: Một tay cầm rồng hoặc rắn, rồng và rắn tượng trưng cho lắm nỗi thay đổi, quan hệ giữa con người lắm nỗi thay đổi, xă hội lắm chuyện thay đổi, vạn vật có nhiều điều thay đổi, thiên biến vạn hóa. Tay kia cầm một viên châu, châu biểu thị điều ǵ? Biểu thị “chẳng thay đổi”. Trong nhiều nỗi thay đổi, quư vị nắm giữ sự chẳng thay đổi. Thường thay đổi là Sự, chẳng thay đổi là Lư, thường biến đổi là Tướng, chẳng biến đổi là Tánh. Cũng có thể nói quư vị dùng “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác”, vĩnh hằng chẳng thay đổi để quan sát thế giới này và vũ trụ, trí huệ bèn hiện tiền, biết dùng phương pháp ǵ để an định xă hội này. Thật sự lưu lộ ḷng từ bi viên măn vốn có trong tự tánh, giúp đỡ hết thảy chúng sanh khổ nạn ĺa khổ, được vui, phá mê, khai ngộ.

      Giúp đỡ họ ĺa khổ được vui như thế nào? Chẳng phải là người ta không có tiền bèn cho tiền, họ không có ăn bèn cho ăn, kẻ ấy không có cái mặc bèn cho [quần áo], từ bi cứu tế như thế là nhỏ nhoi, nhỏ bé nhất! Phật là đại từ đại bi, đức Phật dùng phương pháp ǵ để giúp đỡ hết thảy chúng sanh trong thế gian và xuất thế gian? Giáo học, phải hiểu đạo lư này! V́ sao? Khổ do đâu mà có? Khổ do mê mà có, quư vị chẳng liễu giải Thật Tướng của các pháp (tức chân tướng của vạn pháp trong vũ trụ), đă mê rồi. Do mê nên quư vị suy nghĩ loạn xạ, làm càn, làm quấy, tạo đủ mọi điều bất thiện, chống trái pháp tắc trong thiên nhiên, phá hoại quy luật thiên nhiên, khiến cho hết thảy bị mất cân bằng, tai nạn bèn xảy ra. Vốn không có tai nạn, chúng ta chưa hề nghe nói thế giới Cực Lạc có tai nạn, cũng chẳng hề nghe nói thế giới Hoa Tạng có tai nạn. Cơi trời có tai nạn th́ có nghe nói, chứ đối với nơi Phật, Bồ Tát ngự, chưa hề nghe nói có tai nạn, do nguyên nhân nào? Mỗi ngày đều là giáo học, mỗi ngày đều lên lớp. Đạo lư ở chỗ này, chúng ta chớ nên không biết.

      Chư Phật, Bồ Tát xuất hiện trên thế gian, có vị nào chẳng giáo học? Thích Ca Mâu Ni Phật đă nêu gương cho chúng ta, mười chín tuổi xuất gia, tham học, ba mươi tuổi thành đạo, học xong trong mười hai năm. Sau khi thành đạo, trong Phật pháp nói là “đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh” vào lúc ba mươi tuổi. Sau khi kiến tánh bắt đầu giáo học, măi cho đến khi chết già, lăo nhân gia bảy mươi chín tuổi viên tịch. Do vậy, kinh chép suốt đời đức Phật “giảng kinh hơn ba trăm hội, thuyết pháp bốn mươi chín năm”, mọi người đều biết rơ chuyện này. Phật giáo có phải là tôn giáo? Chẳng phải! Phật giáo là giáo dục. Chúng ta thấy rơ ràng thân phận của Thích Ca Mâu Ni Phật, suốt đời dạy học, mang chức nghiệp của một vị thầy, chẳng bỏ sót ngày nào, lăo nhân gia đúng là thân hành, ngôn giáo. Những ǵ Ngài dạy người khác, Ngài đều thực hiện toàn bộ, đó là một vị thầy tốt. “Học vi nhân sư, hành vi thế phạm” (học được làm thầy người, hạnh làm khuôn mẫu cho đời), tám chữ ấy Thích Ca Mâu Ni Phật thực hiện một trăm phần trăm, thực hiện viên măn, chúng ta phải nhận thức điều này. Ngài dạy học nhưng chẳng mở trường, không tạo lập cơ sở vật chất, dạy học ở chỗ nào? Phần lớn thời gian là trong núi rừng, dưới gốc cây, bên bờ nước, nơi phong cảnh tốt đẹp, thầy ngồi dưới gốc cây, tṛ cũng ngồi dưới cội cây, các Ngài chọn lựa những nơi ấy, học ngoài trời! Suốt đời Ngài chẳng xây cất, chúng tôi thường nghĩ v́ sao? Ngài muốn dựng đại đạo tràng thật là chuyện dễ dàng! Gia đ́nh, gia tộc đức Phật là vương tộc, đủ sức để dựng đạo tràng cho Ngài. Kinh điển ghi chép, thuở ấy ở Ấn Độ, vua mười sáu nước lớn, chẳng nhắc tới những vua nước nhỏ, mười sáu vị đại quốc vương đều là đệ tử Thích Ca Mâu Ni Phật, Ngài muốn tạo dựng một đạo tràng, chẳng phải là chuyện dễ dàng ư? Chỉ cần nói một chút, chẳng cần tốn sức nghĩ ngợi, đạo tràng bèn thành tựu, nhưng Ngài chẳng dựng. V́ sao? Đại từ đại bi, thể hiện ḷng từ bi khôn sánh. Có đạo tràng sẽ có kẻ tranh chấp, người đến học tập tâm chẳng thanh tịnh, chẳng thể nói là toàn thể, nhưng trong ấy nhất định có kẻ tâm chẳng thanh tịnh toan khống chế, chiếm hữu đạo tràng ấy! V́ vậy, Thích Ca Mâu Ni Phật không làm chuyện này, từ bi đến tột bậc. Một kẻ có ác niệm, Ngài đều ngăn chặn hắn.   

      Phương thức sống là mỗi ngày ăn một bữa, đêm nghỉ dưới cội cây, đoạn sạch sành sanh tham, sân, si, mạn, nghi, tâm đặt nơi Trung Đạo Đệ Nhất Nghĩa. Học tṛ Phật chẳng ít, chúng ta dựa theo tưởng tượng, sách vở cổ điển của Trung Quốc ghi chép đệ tử của Khổng Tử là ba ngàn người, trong số đó có bảy mươi hai người hiền (Thất Thập Nhị Hiền). Tôi tin Thích Ca Mâu Ni Phật chẳng kém Khổng Tử, kinh điển thường ghi chép một ngàn hai trăm năm mươi lăm người, [những vị ấy tương đương với] Thất Thập Nhị Hiền của Khổng Phu Tử, Thích Ca Mâu Ni Phật có hơn một ngàn vị [hiền nhân]. Mỗi buổi giảng, mọi người tới tham gia, chẳng phải là [những người] thường tiếp xúc [đức Phật], ở đây không ghi chép, chỉ nói là đại chúng rất đông, tôi nghĩ đại chúng sẽ chẳng ít hơn một ngàn năm trăm người, gộp thành ba ngàn. Chúng ta thấy kinh này nói tỳ-kheo tăng đến hai vạn người, chuyện này rất ít được nói tới. Chúng ta thấy trong hội Pháp Hoa và hội Vô Lượng Thọ người [tham dự] rất đông, do vậy, từ chỗ này ta có thể nhận biết: Đức Phật dạy học cả đời, học tṛ đông ngần ấy, nhưng chẳng có tổ chức, đức Phật chẳng chia thành mấy lớp, người nào thuộc lớp nào, mời ai làm trưởng lớp nào. Nếu thuở ấy mà có, kinh điển nhất định ghi chép, đây là đại sự [lẽ nào] chẳng ghi chép. Thầy chỉ có một, học tṛ đông đúc, các học tṛ ưu tú bèn giúp đỡ những học tṛ căn tánh kém cỏi hơn một chút, đều là tự động, tự phát, đều là người một nhà, đệ tử cùng một thầy, các đệ tử ở cùng nhau giống như anh em trai, chị em gái. Đây là nói tới luân lư trong Phật pháp, không chỉ là đem kinh điển dạy chúng ta, mà quư vị thấy Ngài nêu gương cho chúng ta xem, ai nấy đều thi hành Lục Ḥa Kính. Chúng tôi thường nghĩ thuở Phật Đà tại thế, thầy dạy mỗi ngày, tṛ học tập mỗi ngày. Thiên vương phương Tây tượng trưng cho chuyện này, ư nghĩa ấy quá sâu!

      4) Thiên vương ở phương Bắc là Đa Văn (Vaiśravana, Tỳ Sa Môn). Tây Phương Quảng Mục, Bắc Phương Đa Văn, xem nhiều, nghe nhiều. Bắc Phương Thiên Vương tay cầm lọng, lọng có dụng ư ngăn ngừa ô nhiễm. Hiện thời, trong xă hội đề xướng “hoàn bảo” (bảo vệ môi trường), lọng tượng trưng cho sự bảo vệ môi trường, dẫn khởi ư nghĩa ngăn ngừa ô nhiễm thân tâm. Quư vị thấy: Xem nhiều, nghe nhiều, ngăn ngừa ô nhiễm, khôi phục thanh tịnh, b́nh đẳng, giác, thật sự bảo vệ chính ḿnh. Ngài dạy chúng ta bảo vệ chính ḿnh ra sao. Đó chính là h́nh tượng được tạc của Tứ Đại Thiên Vương. Danh hiệu gia tŕ công đức của chúng ta, quư vị phải hiểu điều này. Họ dùng ǵ để che chở quư vị? Dùng danh hiệu này, dùng [h́nh tượng của bốn vị thiên vương] để biểu thị ư nghĩa này, quư vị đă thật sự hiểu rơ, sẽ biết trong cuộc sống hằng ngày, xử sự, đăi người, tiếp vật, tuân thủ những nguyên lư và nguyên tắc ấy, sẽ đạt được thân tâm an định, đạt được thanh tịnh, b́nh đẳng, đó là gia tŕ thật sự. Chẳng phải là thắp hương, lễ bái, dập đầu cầu nguyện, xin các Ngài phù hộ cho con, như thế là mê tín. Mê tín th́ làm sao có thể truyền được hai ngàn năm trăm năm? Nhưng hiện thời đúng là mê tín, vốn là trí huệ, nay biến thành mê tín. Trí huệ có thể truyền hai ngàn năm trăm năm; mê tín th́ sợ rằng hai mươi lăm năm cũng chẳng truyền được, thật đấy, chẳng giả đâu!

      Hai tháng trước, vào tháng Sáu, chúng tôi theo đoàn phỏng vấn tôn giáo của Mă Lai đến thăm Vatican ở La Mă, gặp gỡ Giáo Hoàng. Hồng Y Giáo Chủ Đào Nhiên (Jean-Louis Tauran) thuộc Ṭa Thánh cùng chúng tôi trao đổi, nghe ông ta báo cáo. Ông ta cho chúng tôi biết: Trong xă hội hiện thời, người tín ngưỡng tôn giáo mỗi năm một ít đi. Họ có thống kê, người chịu lễ rửa tội mỗi năm một ít hơn. Trong nhà Phật gọi là Quy Y, tức là người quy y [đạo Thiên Chúa] mỗi năm một ít hơn. Theo lập trường của một giáo sĩ, họ rất lo ngại, cứ như vậy, tôn giáo sẽ dần dần biến mất trên địa cầu. Lần lượt đến phiên tôi tŕnh bày, tôi cũng tha thiết thưa với mọi người, v́ sao lúc các vị giáo chủ sáng lập tôn giáo thuở ấy, cũng như thời các vị cổ thánh tiên hiền kế thừa truyền thống, một mực kéo dài mấy ngàn năm cho đến hiện thời là do nguyên nhân nào? Hiện thời chúng ta gặp gỡ quần chúng, quần chúng bỏ rơi, rời khỏi chúng ta. Trong quá khứ, giáo chủ, tổ sư đại đức truyền giáo ở nơi đâu, tín chúng từ phương xa tụ hội đến, nay chúng ta ở đây họ bèn bỏ đi, do nguyên nhân nào? Chúng ta suy nghĩ vào thời đại của Thích Ca Mâu Ni Phật là giáo học, một nền giáo dục tốt đẹp như vậy, người ta nghe thấy bèn hoan hỷ, nên người ta kéo đến, nay th́ sao? Chẳng có giáo học. Rất nhiều tôn giáo ở ngoại quốc lo cầu nguyện, Phật giáo tại Trung Quốc th́ lo làm kinh sám Phật sự, pháp hội, ngay như Tam Thời Hệ Niệm của chúng ta cũng giống như chuyện cầu nguyện của họ, những người trẻ tuổi trong xă hội trông thấy chẳng tin, [chê là] mê tín. Thôi rồi! Hễ nói đến mê tín th́ c̣n ai muốn đến nữa? Đương nhiên đều bỏ đi, đạo lư ở chỗ này!

      Chúng ta phải cứu văn tôn giáo như thế nào? Phải đưa tôn giáo trở về giáo học. Phải biết: Kinh điển chẳng phải để tụng! V́ sao? Thuở Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế, Ngài chẳng viết một bộ kinh nào! Kinh điển do đâu mà có? Sau khi Thích Ca Mâu Ni Phật viên tịch, các đệ tử nhớ lại các giáo huấn của Thích Ca Mâu Ni Phật mà họ đă được tiếp nhận trong một đời, cũng là hội tập, thỉnh tôn giả A Nan nhắc lại, đại chúng cùng nghe, xem A Nan có nói sai hay không. Năm trăm vị A La Hán chứng minh, chép lại thành văn tự lưu truyền hậu thế, đó là nguồn gốc của kinh điển. Chúng ta hiểu rơ kinh điển nhằm dạy chúng ta hiểu lư, vâng giữ quy củ, sống như thế nào, dùng tâm thái ǵ để làm việc, đăi người, tiếp vật, nhằm nâng cao linh tánh của chính ḿnh, đức Phật dạy chúng ta những điều ấy, chẳng dạy chúng ta niệm kinh, càng chẳng dạy chúng ta siêu độ. Siêu độ là phải đem công đức chân thật của chính ḿnh, đối với xă hội và hết thảy đại chúng dâng hiến công đức chân thật, hồi hướng cho thân nhân của quư vị. Phương pháp siêu độ trong Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh là như thế, chẳng có kinh sám Phật sự, nói theo Lư cũng thông suốt. V́ thế, chúng ta chớ nên không biết, chớ nên chẳng giác ngộ điều này. Chúng ta dạy học mỗi ngày, cùng nhau học tập mỗi ngày, biến các đạo lư được giảng trong kinh điển thành tư tưởng và kiến giải của chúng ta, và cũng biến rất nhiều lời khuyên bảo trong kinh điển thành hành vi trong cuộc sống của chính chúng ta, kinh điển có cống hiến quá lớn đối với chúng ta. Từ kinh điển, chúng ta học tập cách làm người, biết làm một người tốt, chính ḿnh làm được sẽ ảnh hưởng cả nhà, nhà chúng ta sẽ là một gia đ́nh thật sự hạnh phúc mỹ măn; hạnh phúc mỹ măn ấy do đức Phật dạy dỗ. Lại mở rộng ra, chúng ta sẽ có xă hội hài ḥa, thế giới ḥa hợp, đó là cống hiến chân thật của chư Phật, Bồ Tát đối với thế giới và nhân loại, chẳng giả tí nào! Phật giáo là như thế, mà các tôn giáo khác cũng đều như thế. Các tôn giáo học tập lẫn nhau, chỉ có học tập lẫn nhau mới có thể nâng cao chính ḿnh, giống như tại Trung Quốc, Nho và Đạo tiếp nhận Phật pháp, học tập kinh điển, nâng cao văn hóa bản địa, có cùng một đạo lư!

      Quảng Mục thiên vương đă thị hiện ngăn ngừa tạp loạn, Đa Văn thiên vương thị hiện ngăn ngừa ô nhiễm. Thiên Vương Điện gồm bốn vị thiên vương và Di Lặc Bồ Tát đă ban cho chúng ta bài học thứ nhất. Hết sức đáng tiếc là hiện thời mọi người đă bỏ sót, quên khuấy ư nghĩa này, coi Di Lặc Bồ Tát và các thiên vương như thần tiên, đốt hương, lễ bái cầu phước! Há có chuyện như thế ư? Mười phần mê tín. Sa sút như vậy, Phật giáo sẽ dần dần bị suy diệt, mà cũng có thể chẳng c̣n nữa! Phật giáo bị diệt trong đời này của chúng ta, người trong thời đại chúng ta có thể thành tựu hay chăng? Niệm Phật có thể văng sanh hay chăng? Tôi nghĩ chẳng thể nào, thảy đều vào địa ngục. Vị thầy tốt như thế, nhưng quư vị làm cho đại chúng trong xă hội nẩy sanh hiểu lầm nghiêm trọng đối với thầy, quư vị có tội lỗi hay không? Chúng ta làm sao để xứng với thầy? Phương pháp duy nhất là quay đầu. Thật sự quay đầu là bờ, nghiêm túc học tập kinh giáo, thực hiện trong cuộc sống, nâng cao phẩm chất cuộc sống, cống hiến chân thật, đấy là mới là Phật pháp tồn tại lâu dài trong nhân gian, chánh pháp tồn tại dài lâu. Thưa mọi người, trong ấy có giáo dục luân lư, giáo dục đạo đức, giáo dục nhân quả, giáo dục triết học, giáo dục khoa học viên măn. Những ǵ đại chúng trên thế gian đang theo đuổi trong hiện thời, trong kinh Phật đều có cả, đó là ḷng đại từ đại bi chân chánh. V́ thế, chúng sanh hễ trông thấy, nghe tên đều đắc Từ Tâm tam-muội.

      Tiếp theo là “hựu Bi Hoa kinh vân: Phát nguyện ư đao binh kiếp trung, ủng hộ chúng sanh” (lại nữa, kinh Bi Hoa nói: “Phát nguyện ủng hộ chúng sanh trong kiếp đao binh”). Nay chúng tôi đọc câu này, cảm xúc thật sâu! Trong nhiều tiên đoán về sự ngày tận thế, có một tiên đoán hầu như mọi người đều nhắc tới, chiến tranh thế giới lần thứ ba là vũ khí nguyên tử, hoặc chiến tranh sinh hóa, chúng là đại tai nạn hủy diệt địa cầu. Di Lặc Bồ Tát phát nguyện trong kiếp đao binh, tức là nói về thời đại này, Ngài sẽ đến ủng hộ chúng sanh, chúng ta thường nói: Ngài đến che chở, gia tŕ chúng sanh. Chúng ta mỗi ngày thắp hương, lạy lục Ngài có được hay chăng? Không được, sai lầm rồi, đó là mê tín. Phải nên như thế nào? Phát huy rộng lớn tinh thần đại từ đại bi của Di Lặc Bồ Tát; hiện thời trong thế gian này chẳng có ḷng yêu thương, Di Lặc Bồ Tát tượng trưng cho sự yêu thương. Quư vị nghĩ xem đại từ đại bi có thể nào chẳng hiếu thuận với cha mẹ ư? Bất hiếu với cha mẹ là thiếu từ bi. Có thể chẳng kính trọng sư trưởng ư? Bất kính sư trưởng là thiếu từ bi. Ḷng đại từ đại bi của quư vị thiếu năng lực mở rộng đến xóm giềng làng nước, đến quốc gia, dân tộc, đó chẳng phải là chân ái! Cổ nhân Trung Quốc đă nói: “Nhân dân cập vật” (nhân từ đối với dân và vật), “nhân” là nhân từ, đối đăi nhân từ với hết thảy mọi người, tâm yêu thương thanh tịnh, b́nh đẳng, sau đấy c̣n mở rộng đến cả loài vật. Đấy là Đại Thừa Phật pháp đă phong phú hóa văn hóa truyền thống của Trung Quốc. Vật là ǵ? “Vật” là vạn vật, tức vạn vật trong trời đất. Tâm yêu thương của chúng ta như Phật pháp đă nói: “Từ bi trọn pháp giới, thiện ư ngập nhân gian”, chẳng phải là khẩu hiệu, mà là thật sự làm được, làm rất viên măn, làm rất thù thắng. Thật sự có thể làm được, chúng ta mới thật sự bước vào Phật môn, vượt qua Thiên Vương Điện, quư vị mới thấy Phật, Bồ Tát. Chẳng vượt được cái ải Thiên Vương Điện sẽ chẳng thấy Phật, Bồ Tát, ư nghĩa này sâu lắm!

      Di Lặc Bồ Tát là ai? Phải hiểu rơ ràng, Di Lặc Bồ Tát là ḷng từ bi trong tự tánh của chính ḿnh. Phật, Bồ Tát từ bi, các Ngài thị hiện h́nh tướng, ngôn ngữ, âm thanh, nhằm dẫn khởi ḷng từ bi trong tự tánh của chúng ta. Quư vị thấy: Trong đời quá khứ, Di Lặc gặp Đại Từ Như Lai, nguyện có cùng danh hiệu ấy, thật sự đă đồng, v́ sao? Chứng đắc Từ Tâm tam-muội. Từ Tâm tam-muội là tâm từ bi vĩnh viễn chẳng thoái chuyển, an trụ trong từ bi, hết thảy thời, hết thảy chỗ luôn một ḷng từ bi đối với hết thảy chúng sanh, có ư nghĩa này! Bản thân chúng ta đă làm được sẽ cảm động, lan truyền sang người khác. Chẳng thể khiến người khác cảm động là v́ bản thân chúng ta làm chẳng đủ, đừng nên trách người khác là căn tánh của họ chậm lụt, hoặc nghiệp chướng nặng nề, chẳng phải vậy. Đó là do chính ḿnh nghiệp chướng nặng nề. Tánh con người vốn lành, quư vị nhất định phải thừa nhận lời Phật dạy: “Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng của Như Lai”. Từ bi là một phần của đức, là một phần vô cùng trọng yếu, là phần mấu chốt. Phật pháp nói từ bi, trong Ngũ Luân của Trung Quốc có nói “phụ tử hữu thân” (cha con có t́nh thân ái), thân ái chính là từ bi. Giáo dục Trung Quốc phát xuất từ chỗ này, lại trở về nguồn đúng chỗ này. Quư vị thấy trong nhà Phật, quư vị bước vào cửa là từ bi, mắt quư vị thấy vị đầu tiên chính là Di Lặc Bồ Tát; quư vị rời khỏi tự viện, vẫn phải từ sơn môn ấy đi ra, quư vị vẫn phải trông thấy Ngài, từ đầu đến cuối là một bầu từ bi, đấy là Phật pháp. Phật pháp giáo dục điều ǵ? Giáo dục từ bi, giáo dục yêu thương, lại c̣n là giáo dục ḷng yêu thương thanh tịnh, b́nh đẳng. Phật giáo chẳng có cống hiến đối với xă hội là v́ đệ tử học Phật trong Phật môn chúng ta chẳng thực hiện ḷng yêu thương ấy, chẳng nói rơ ràng ḷng yêu thương đó. Chẳng nói rơ ràng là lẽ đương nhiên, v́ sao? Chẳng làm được! Có làm được th́ quư vị mới có thể nói rơ ràng, làm không được th́ làm sao có thể nói rơ ràng cho được? Há có đạo lư ấy? Yêu thương có thể hóa giải xung đột, đối lập, mâu thuẫn, cho nên chẳng c̣n chiến tranh, có thể hóa giải đao binh kiếp!

      Chúng ta xem câu cuối cùng, “thị tắc từ long tức thế” (v́ thế, ḷng Từ chan chứa đương thời), đại từ đại bi, long () là hưng long (興隆: chan chứa, dồi dào), “tức thế” là hiện tại, đang trong hiện tiền, “bi trăn hậu kiếp” (ḷng Bi đến tận các kiếp sau), “hậu kiếp” là tương lai. Chúng ta có thể yêu thương, bảo vệ hiện tại, xung đột trong thế gian hiện thời đă được hóa giải, xă hội đă an định, thế giới ḥa b́nh. Không chỉ là hết thảy chúng sanh trong hiện tại được lợi ích, mà đời sau cũng được lợi ích. Chúng ta phải giống như cổ nhân, khéo dạy dỗ thế hệ kế tiếp, điều này trọng yếu lắm! Trong xă hội hiện tại, mọi người không hiểu sự giáo dục, bao nhiêu phụ nữ hoặc người mẹ trẻ tuổi chẳng biết dạy bảo con thơ ra sao! Hiện thời c̣n có khá nhiều giáo viên chẳng biết dạy học tṛ như thế nào! Tôi đă gặp rất nhiều, kẻ làm mẹ t́m tôi kể khổ, kẻ làm thầy cũng như vậy! Những chuyện ấy không thể trách họ được, kinh Vô Lượng Thọ đă nói rất hay: “Tiên nhân vô tri, bất thức đạo đức, vô hữu ngữ giả, thù vô quái dă” (Người đời trước chẳng biết, chẳng hiểu đạo đức, không có ai nói với họ, trọn chẳng đáng trách), đừng trách móc họ! Quư vị chê trách họ sẽ là tàn nhẫn, nhân duyên của chuyện này rất phức tạp.

      Trung Quốc kể từ sau khi nhà Thanh mất nước, một trăm năm qua, xă hội lâm vào cảnh động loạn, chẳng được an định, quân phiệt cát cứ, chiến tranh kháng Nhật. Đặc biệt là cuộc chiến tranh kháng Nhật đă đánh sụp văn hóa truyền thống khiến nó chẳng c̣n nữa, tối thiểu là chúng ta đă đánh mất [văn hóa truyền thống] bốn thế hệ. Người hiện thời chẳng biết đến giáo dục truyền thống, quư vị hỏi cha mẹ, họ cũng chẳng biết, quư vị hỏi ông bà cố họ cũng không biết. Nói chung là phải ông bà sơ th́ họ mới biết, làm sao quư vị trách họ được? Hiện thời muốn phục hưng văn hóa truyền thống nhất định gặp khó khăn. Cổ nhân nói rất hay: “Gần son ắt đỏ, gần mực th́ đen”. Trong xă hội hiện thời, chẳng thấy son đâu nữa, không có, toàn là đen thui, v́ sao? Đại biểu cho màu đen ấy chính là TV, Internet, truyền thông, nhật báo, tạp chí, mỗi cá nhân trên toàn cầu hằng ngày tiếp xúc những thứ ấy, hễ tiếp xúc bèn bị ô nhiễm. Tiếp xúc mà chẳng bị nhiễm bẩn th́ Quảng Mục thiên vương làm được, chứ chúng ta chẳng làm được! Quảng Mục thiên vương có Định Tâm Châu, tâm Ngài là định, thấy rơ ràng, nghe rơ ràng, tâm Ngài chẳng dao động, chẳng biến đổi. Người ta có bản lănh to lớn, viên châu của Ngài chính là “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác”. Chúng ta có thể nào chẳng bị nhiễm bẩn ư? V́ thế, con cái bị nhiễm bẩn từ nhỏ, chính ḿnh cũng bị nhiễm bẩn. Quư vị phải biết, bản thân quư vị bị nhiễm bẩn bảy phần, con cái quư vị bị nhiễm bẩn mười hai phần, đến thời cháu quư vị chỉ sợ bị trở thành nhiễm bẩn đến hai mươi bốn phần, đáng hăi quá! V́ thế, thế giới có thể bị tận thế!

      Do đâu có ngày tận thế? Do ư niệm bất thiện cảm ứng, nguyên nhân là như thế đó. Nếu muốn cứu văn, đoạn kinh văn này hay lắm, cứu từ chỗ nào? Cứu bằng tâm từ bi, cứu bằng tâm yêu thương. Trước hết, chính ḿnh quay đầu, tự yêu thương. Tự yêu thương nhất định phải học theo Tứ Đại Thiên Vương, phải học theo Di Lặc Bồ Tát, thật sự tự yêu thương chính ḿnh. Mắt ta chẳng thể không nh́n, tai chẳng thể không nghe, thật sự giữ ǵn sự thanh tịnh, b́nh đẳng, giác của chính ḿnh như thế nào để chẳng bị xă hội quấy nhiễu, chẳng bị xă hội dẫn dụ, mê hoặc, đó là quư vị thật sự tự yêu thương. Quư vị đă có thể tự yêu thương, nhất định sẽ cảm động cả nhà, con cái trong nhà quư vị sẽ dễ dạy. Thầy biết tự yêu thương sẽ cảm động học tṛ, con người tánh vốn lành. Chỉ cần thầy tâm chánh, hạnh chánh, tôi nghĩ học tṛ cũng hoan hỷ, cũng bằng ḷng theo học lớp của quư vị. Cả nhà quư vị tốt đẹp, sẽ ảnh hưởng xóm giềng, ảnh hưởng thân thích, bạn bè. Khiến cho cả thế giới khôi phục như thế nào? Ít nhất phải là một trăm năm, phải mất một thế kỷ, thế giới này mới có thể khôi phục b́nh thường, lại c̣n phải có nhiều người ngần ấy thật tâm thực hiện. Nếu không có những người ấy thực hiện, sẽ là như chúng ta thường nghe nói trong hiện thời, tận thế! Địa cầu bị hủy diệt. Chúng ta quan sát cẩn thận chuyện này xem có thể xảy ra hay chăng?

      V́ vậy, đọc đến chỗ này, “chí cực chi từ” (ḷng Từ tột bậc), câu này hay lắm, khuyên chúng ta phải phát tâm học tập Di Lặc Bồ Tát, phải học giống hệt như Ngài, “siêu xuất phàm tiểu, cố Vô Năng Thắng” (vượt trỗi phàm phu, Tiểu Thừa, nên không ai có thể hơn được). Vô Năng Thắng là nói biến đổi bản thân chúng ta, đoạn ác, tu thiện, phá mê, khai ngộ, chuyển phàm thành thánh, khởi điểm là ḷng Từ đến tột bậc. Bốn chữ ấy chẳng hai, chẳng khác với khái niệm “phụ tử hữu thân” trong Ngũ Luân của Trung Quốc. Hiện thời, giáo học truyền thống bị coi nhẹ, chẳng nhắc tới, [chỉ có] thiểu số, rất ít người học tập Đại Thừa đọc được điều này trong kinh điển, hiểu minh bạch, rơ ràng, nghiêm túc nỗ lực thực hiện, cứu chính ḿnh, cứu gia đ́nh, cứu con cháu, cứu người đời, cứu địa cầu bằng một câu nói này. V́ thế, nói là Vô Năng Thắng.

      Lại xem đoạn kế tiếp, “Đại sĩ vị cư Bổ Xứ” (đại sĩ thuộc địa vị Bổ Xứ), dùng chữ Đại Sĩ để gọi Di Lặc Bồ Tát, thật sự có vị này. Ngài thuộc địa vị nào? Ngài là Đẳng Giác Bồ Tát, là hậu bổ Phật sau Thích Ca Mâu Ni Phật. Phật Thích Ca là vị Phật thứ tư trong Hiền Kiếp, chúng ta nay thuộc pháp vận của Thích Ca Mâu Ni Phật, cũng có nghĩa là sự giáo hóa của Ngài có ảnh hưởng đến một vạn hai ngàn năm. Theo cách ghi chép của người Trung Quốc, [từ khi] Thích Ca Mâu Ni Phật diệt độ cho tới hiện thời là ba ngàn lẻ ba mươi bảy năm, những vị đại đức trong Phật giáo Trung Quốc từ xưa đều tuân theo cách tính niên đại này. Ba ngàn lẻ ba mươi bảy năm, sau đấy c̣n có chín ngàn năm nữa, [gộp thành] một vạn năm, thời Mạt Pháp mới qua một ngàn năm, c̣n có chín ngàn năm sau nữa, tức là sự giáo học của Thích Ca Mâu Ni Phật hăy c̣n ảnh hưởng tới chín ngàn năm. Trong chín ngàn năm, đương nhiên có lúc [Phật pháp] hưng vượng, có lúc suy vi. Trong quá khứ, Chương Gia đại sư đă nói cho tôi biết chuyện này, nay chúng ta đang thuộc giai đoạn Phật pháp suy vi, suy đến tột cùng sẽ hưng vượng trở lại. Thầy bảo tôi, phải có ḷng tin nơi Phật, Phật pháp sẽ chẳng diệt vong, cũng có nghĩa là thế giới này chẳng phải sẽ chấm dứt như người ngoại quốc nói. Có tai nạn là thật, nhưng chẳng thể tận thế, trong nhà Phật chẳng có thuyết tận thế.

      Ngài hiện đang ở đâu? “Tại Đâu Suất nội viện”, Di Lặc Bồ Tát ở nơi ấy, cơi trời Đâu Suất, tức tầng trời thứ tư trong Dục Giới. Từ quả đất của chúng ta tính lên, tầng thứ nhất là Tứ Vương Thiên, tầng thứ hai là Đao Lợi Thiên, tầng thứ ba là Dạ Ma Thiên, tầng thứ tư là Đâu Suất Thiên, Ngài ở trong tầng thứ tư, trên đó c̣n hai tầng nữa, [đó là] Dục Giới. Lại lên trên nữa là Sắc Giới và Vô Sắc Giới. V́ vậy, Ngài ngự trong tầng trời thứ tư trong Dục Giới. “Tứ thiên niên hậu” (bốn ngàn năm sau), bốn ngàn năm là thọ mạng trong cơi trời Đâu Suất, [cụ Hoàng] mở dấu ngoặc ở đây, “chỉ Đâu Suất Thiên chi tứ thiên niên” (chỉ bốn ngàn năm trong trời Đâu Suất), chẳng phải là bốn ngàn năm trong nhân gian chúng ta, thời gian sai khác rất lớn. V́ một ngày trong Đâu Suất Thiên bằng bốn trăm năm trong nhân gian, nên nhân gian sống một trăm tuổi, Đâu Suất Thiên thấy [nhân gian chúng ta] rất đáng thương, tương đương với ǵ? Sáu giờ. Bốn lần sáu là hai mươi bốn, hai mươi bốn giờ, một ngày của họ bằng bốn trăm năm trong nhân gian chúng ta. “Tương đương ư địa cầu thượng chi ngũ thập thất ức lục thiên vạn niên” (tương đương năm mươi bảy ức sáu ngàn vạn năm trên địa cầu), cũng có nghĩa là tính theo thời gian trên địa cầu, sau năm mươi bảy ức sáu ngàn vạn năm, Ngài sẽ đến thế gian này thành Phật, tức vị Phật thứ năm. “Hạ sanh thử giới thành Phật” (hạ sanh thành Phật trong cơi này). Thời gian trong thế gian này không có Phật rất dài! Pháp của Thích Ca Mâu Ni Phật đă suy rồi, hiện thời học Giáo cũng thế, mà học Thiền cũng thế, học Mật cũng thế, thật sự vô cùng khó khăn. Lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ bảo với tôi điều này, cụ đích thân học Thiền, học Thiền với lăo ḥa thượng Hư Vân, theo Cống Cát lăo nhân học Mật. Cụ bảo tôi, trong đời cụ, chẳng có ai học Thiền khai ngộ, đắc Định c̣n được mấy vị, không nhiều lắm, đắc Thiền Định nhưng chưa thể khai ngộ. Cụ cho biết kẻ học Mật kể từ khi nước Trung Hoa mới được thành lập cho tới hiện thời, kẻ học Mật có thành tựu tại Trung Quốc Đại Lục chỉ có sáu người, quá ít ỏi! Bản thân cụ niệm Phật văng sanh, khi ấy, cụ cho tôi biết, mỗi ngày cụ niệm Phật bèn niệm mười bốn vạn câu Phật hiệu, ra đi rất thù thắng, thật sự niệm Phật cầu sanh về Tịnh Độ. Chúng ta chớ nên không biết những sự thật này.

      Trong tương lai, Di Lặc Phật hạ sanh làm Phật, “tam hội Long Hoa, độ sanh vô lượng” (ba hội Long Hoa, độ sanh vô lượng). Ngài khác Thích Ca Mâu Ni Phật, Thích Ca Mâu Ni Phật cả đời giảng kinh hơn ba trăm hội, trong tương lai Di Lặc Bồ Tát hạ sanh chỉ có ba hội. Hội của Ngài rất lớn, số người rất nhiều. Hội của Thích Ca Mâu Ni Phật chẳng lớn, có những hội nhỏ chỉ có hai ba người, cũng là một hội. Một hôm hướng về Ngài thỉnh giáo, Ngài bèn thuyết pháp cho họ, [lời thuyết pháp ấy] cũng được ghi chép trong kinh A Hàm, quư vị thấy kinh văn rất ngắn, hai, ba trăm chữ, là một hội. Đại hội có khi lâu đến mấy năm, khác hẳn, dài ngắn khác nhau, nơi chốn cũng khác nhau. Long Hoa tam hội là ba lần đại pháp hội tại cùng một chỗ, độ sanh vô lượng, trong kinh điển đă nói như thế.

      Hiện tại thuộc vào pháp vận của Thích Ca Mâu Ni Phật, kẻ học Phật nhưng chưa thể đắc độ, đă gieo thiện căn, trong tương lai đến năm mươi bảy ức sáu ngàn vạn năm, trong khoảng thời gian ấy, chúng ta đă luân hồi chẳng biết bao nhiêu lần trong thế giới này. Đức Phật chẳng c̣n, có người thay thế Phật, điều này rất khó có, Địa Tạng Vương Bồ Tát thay thế Phật. V́ thế, Địa Tạng Vương Bồ Tát rất cực nhọc! Trong năm mươi bảy ức sáu ngàn vạn năm, Phật pháp đều do Địa Tạng Vương thay thế, Ngài ở nơi đây giáo hóa chúng sanh, vun bồi thiện căn, đợi khi Di Lặc Phật hạ sanh sẽ tham gia Long Hoa tam hội. Chúng ta có muốn làm như vậy hay không? Làm như vậy cũng được, nhưng thời gian rất dài. Nếu quư vị muốn thành Phật nhanh chóng hơn một chút, hăy niệm Phật để đến thế giới Cực Lạc gặp A Di Đà Phật, như vậy th́ sẽ rất nhanh. Cho tới lúc nào Di Lặc Bồ Tát hạ sanh làm Phật, quư vị từ thế giới Cực Lạc hạ sanh lần nữa giúp đỡ Ngài, giống như Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên là loại người như vậy, quư vị thừa nguyện tái lai, giúp đỡ Di Lặc Phật giáo hóa chúng sanh, trở thành đại đệ tử trong hội của ngài Di Lặc. Tôi tiết lộ tin tức này cho quư vị, c̣n cách làm ra sao chính ḿnh có thể quyết định. Hôm nay thời gian đă hết rồi, chúng ta học đến đây.

Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa

Phần 46 hết

 



[1] Đây là một hiện tượng “giả thuyết” được mệnh danh gọi là Galactic Aligment. Trong Thái Dương Hệ, mặt trời và các hành tinh hầu như cùng thuộc một mặt phẳng thường được gọi là mặt phẳng hoàng đạo (plane of ecliptic). Nh́n từ Trái Đất, hoàng đạo chính là quỹ đạo mà mặt trời chuyển động trên bầu trời để mọc và lặn mỗi ngày (do trong thực tế, trái đất xoay quanh mặt trời, chứ không phải mặt trời xoay quanh trái đất, nên sự “chuyển động” của mặt trời trên “hoàng đạo” được gọi là chuyển động biểu kiến). Trên hoàng đạo có mười hai cḥm sao mà mặt trời phải lần lượt đi qua (do vậy, tử vi Tây Phương mới lập ra khái niệm mười hai cung hoàng đạo, thường gọi là Zodiac). Theo chu kỳ, mặt trời sẽ chậm lại một độ vào mỗi bảy mươi hai năm, tức là chậm lại một cung hoàng đạo mỗi 2.160 năm. Sự thay đổi này được gọi là Tuế Sai (Precession). Sau khoảng 26.000 năm, Bắc Cực sẽ vạch đủ một ṿng tṛn, tức là mặt trời bị chậm lại đúng 360 độ. Thuyết “Ngân Hà thẳng hàng” được một người chuyên chủ trương chủ nghĩa bí truyền là John Major Jenkins (ông này chỉ là một nhà văn, không trực thuộc một cơ quan nghiên cứu hàng không vũ trụ nào và cũng chẳng có học vị ǵ về thiên văn) đưa ra vào năm 1990 dựa trên sự kiện lịch cổ của người Maya chấm dứt vào ngày Đông Chí năm 2012, tức ngày 21 tháng 12. Jenkins cho rằng người Maya đă quan sát Great Rift, tức một đám mây bụi tối dọc theo Ngân Hà, họ gọi nó là Xibalba. Jenkins cho rằng người Maya đă nhận biết sự giao nhau giữa Great Rift và đường hoàng đạo. Theo giả thuyết đó, mặt trời sẽ thẳng hàng chính xác với đường xích đạo của Ngân Hà vào ngày Đông Chí năm 2012. Từ đó, những người theo chủ nghĩa Mạt Thế (Tận Thế) cũng như theo trào lưu New Age cho rằng năm 2012 sẽ đánh dấu một kỷ nguyên mới, kết thúc thế giới hoặc vô số tai ương. Họ c̣n cho rằng Mặt Trời sẽ có băo từ cực đại hoặc thế giới sẽ hủy diệt do va chạm của Trái Đất với một lỗ đen hay hành tinh Nibiru (các nhà thiên văn không công nhận có hành tinh này). Các nhà thiên văn như David Morrison chẳng hạn cho rằng xích đạo của Ngân Hà không cố định và không bao giờ có thể vẽ chính xác, do đó, khó thể có hiện tượng Ngân Hà thẳng hàng. Dựa trên niềm tin này, rất nhiều thuyết tận thế được đưa ra và đều gán cho NASA như cơ quan thẩm quyền đă lưu hành tuyên bố đó, nhưng nếu ta kiểm lại trong trang nhà của NASA th́ không hề thấy những thông tin đó! NASA phải dành riêng một vài trang để trả lời về câu hỏi liệu thế giới có chấm dứt vào năm 2012 hay không (tham khảo http://www.nasa.gov/topics/earth/features/2012.html). Đồng thời những nhà nghiên cứu văn hóa Maya cũng cho biết trong các thư tịch của người Maya không hề thấy nhắc đến thuyết tận thế như những nhà “giả khoa học” khẳng định.

[2] Những điều này không hề thấy trong các thông tin về băo mặt trời (Solar flare). Năm 1989, một cơn băo mặt trời đă khiến cho hệ thống điện tại Quebec ngưng hoạt động trong ṿng vài giờ. Băo mặt trời là hiện tượng b́nh thường trong chu kỳ hoạt động mười một năm của mặt trời, mặt trời phóng ra một lượng lớn điện tử, ion và nguyên tử tạo thành một đám mây từ tính gây ảnh hưởng đến các tinh tú trong Thái Dương Hệ. Nó sẽ gây ra các trận băo địa từ (geomagnetic storm) trên trái đất, khiến các thiết bị điện tử và mạng điện bị ảnh hưởng, nhiễu loạn hệ thống radio sử dụng các làn sóng ngắn, phi thuyền v.v... nhưng không làm cho bầu trời tối đen như trong các “báo cáo khoa học” của những người theo chủ thuyết tận thế. Mặt trời đă hoạt động rất mạnh trong ngày 13 tháng 07 vừa qua, nhưng chúng ta chẳng thấy có tổn thất ǵ đáng kể! Những thông tin được nói ở đây là do ḥa thượng đọc từ các báo cáo được đăng tải tùy tiện trên Internet do các đồng tu in ra, đưa cho Ngài. Các vị đồng tu ấy nhiều khi không suy xét kỹ, không kiểm tra kỹ lưỡng tính chính xác của các thông tin ấy từ các cơ quan khoa học có thẩm quyền, mà chỉ dựa vào những lời quyết đoán của các nhà giả khoa học đội lốt các nhà nghiên cứu. Chẳng hạn như bà Lynne McTaggard, một tác giả thường viết nhiều về tận thế, đă được các trang nhà (homepage) của người Hoa viết về tận thế gán cho danh hiệu là một “khoa học gia người Mỹ nổi tiếng” thật ra chỉ là một nhà báo, một nhà diễn giảng không chuyên nghiệp, chưa hề làm việc tại một trường đại học nào, chưa từng có công tŕnh nghiên cứu nào, chỉ tự tuyên bố đă tự chữa được căn bệnh “nan y” của chính ḿnh, và in cuốn What Doctors Don’t Tell You để chỉ trích việc chích vaccine cho trẻ nhỏ, cũng như xuất bản nhiều sách để tŕnh bày luận thuyết, suy diễn của chính ḿnh về vũ trụ, thiên văn v.v... Các “công tŕnh nghiên cứu” của bà ta đă bị phê b́nh là lẫn lộn giữa kiến thức thật sự và những niềm tin vô căn cứ, kiến thức lỏng lẻo, sai lạc, chẳng hạn lầm lẫn thuốc cúm Tamiflu với vaccine, cũng như kết tội một loại vaccine chống cúm không hề tồn tại, đồng thời chứa đựng rất nhiều hiểu biết sai lầm về khoa học Lượng Tử. Do đại chúng xôn xao về chuyện này, Ḥa Thượng bèn tiện dịp khuyên chúng ta hăy vững tâm tinh tấn tu hành hơn, tranh thủ thời gian tích cực tu hành mong sớm văng sanh ḥng viên thành Phật đạo. Nếu đọc kỹ, chúng ta sẽ thấy Ngài khuyên chúng ta nên tinh tấn tu hành, đừng hoảng sợ. Nếu Ngài thật sự tin thế giới hủy diệt th́ trong đoạn sau, Ḥa Thượng sẽ chẳng nói: “V́ thế, tôi dùng thời gian này để cùng mọi người học kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ, hy vọng bộ kinh này có thể lưu truyền hậu thế, tôi tin tưởng [kinh này sẽ] phổ độ các chúng sanh trong hơn tám ngàn năm nữa”“thầy bảo tôi, phải có ḷng tin nơi Phật, Phật pháp sẽ chẳng diệt vong, cũng có nghĩa là thế giới này chẳng phải sẽ chấm dứt như người ngoại quốc nói. Có tai nạn là thật, nhưng chẳng thể tận thế, trong nhà Phật chẳng có thuyết tận thế”.

 

[3] Câu này khá khó dịch nên tạm dịch như thế. “Chí thuận” có nghĩa là hiếu thuận đến tột bực, tức là thể hiện cái tâm cứu vớt chúng sanh tột bậc không ai sánh bằng, giống như ḷng con hiếu thảo với cha mẹ, luôn nghĩ đến phụng dưỡng cha mẹ, nên nói là “chí thuận”. “Điều thiện” là luôn tu dưỡng sao cho tương ứng với tánh đức (ở đây tánh đức được diễn tả bằng chữ Chí Thiện). Chúng tôi tạm dùng chữ Nhu Ḥa để diễn tả sự tu dưỡng, điều ngự cái tâm cho đạt tới mức thánh thiện (tức là tương ứng với tánh đức), nói cách khác là giữ cho cái tâm luôn tương ứng với thanh tịnh và b́nh đẳng như lăo ḥa thượng thường nói.

[4] Câu này trích từ sách Đại Học trong Tứ Thư của Nho gia, nói đầy đủ là: “Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại thân dân, tại chỉ ư chí thiện”. Đại Học vốn là chương thứ bốn mươi hai trong sách Lễ Kư. Sách Tứ Thư Tập Chú của Châu Hy giảng: “Chữ Thân nên đọc là Tân. Đại học là cái học của bậc đại nhân. Minh là làm cho sáng tỏ. Minh đức là bẩm tánh được thừa hưởng tự nhiên, rỗng rang, sáng suốt, chẳng tối tăm, trọn đủ các lư để ứng với vạn sự. Thân (tức Tân) là đổi thay những cái cũ kỹ, ư nói đă tự thông hiểu minh đức lại giúp người khác cùng đạt đến chỗ bỏ những cái cũ kỹ, nhiễm ô”. Như vậy câu này có thể hiểu thô thiển là “đạo của bậc đại nhân là tự thấu hiểu chân tánh của chính ḿnh, giúp cho người khác cùng sửa đổi khuyết điểm, cùng nhau đạt đến chỗ tốt lành nhất”.

[5] Đại Nhật Kinh Sớ là tác phẩm chú giải kinh Đại Nhật do ngài Nhất Hạnh ghi lại lời ngài Thiện Vô Úy giảng kinh Đại Nhật (tức kinh Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Thần Biến Gia Tŕ) cho Đường Huyền Tông. Tác phẩm này khá đồ sộ, gồm hai mươi quyển, ngoài lời giải thích của ngài Thiện Vô Úy, sách c̣n ghi thêm những kiến giải riêng của ngài Nhất Hạnh. Những phần đó được ghi rơ là “tư vị” (riêng tôi cho rằng), hoặc “kim vị” (nay cho rằng). Đây là một tác phẩm trọng yếu cho hành giả Mật Tông để t́m hiểu về Thai Tạng Giới nói riêng và giáo nghĩa Mật Tông nói chung.

[6] Hiếp là cái hông, do vậy, Hiếp Sĩ có thể hiểu theo nghĩa đen là người đứng sát sườn ta, là phụ tá gần gũi nhất.

[7] Tân Trung Quốc là từ ngữ do chính quyền Trung Cộng đặt ra để gọi nước Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa, nhằm phân biệt với Trung Hoa Dân Quốc.

[8] Cống Cát lăo nhân (1903-1997) họ Thân, tên là Thư Văn, thuộc hoàng tộc nhà Thanh, sanh tại Bắc Kinh, tập vơ từ năm sáu tuổi. Năm mười hai tuổi, theo học kiếm thuật và luyện nội công theo Đạo giáo, và có chí nguyện xuất gia từ nhỏ. Năm 1920, bà vâng lệnh cha kết hôn với ông Vũ Anh Đ́nh, nhưng do sẵn chí xuất trần, bà xin thoái hôn, hành hiệp khắp vùng Nam Bắc. Năm 1922, bà gặp ḥa thượng Đạo Giai chùa Pháp Nguyên điểm hóa, bèn bỏ tu Tiên, học Phật, chuyên tâm dạy học, đề xướng khuyến học và các biện pháp giảm đói nghèo cho dân chúng. Bà từng tham gia du kích kháng Nhật khi chiến tranh Hoa Nhật nổ ra. Không lâu sau, bà bị thương nặng, bị quân Nhật bắt được. Trong thời gian tù đày, bà sáng chiều niệm thánh hiệu Quán Âm, được cảm ứng, thoát hiểm. Từ đó, bà ăn chay trường, chuyên tâm hành tŕ Phật pháp. Chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra, bà theo chánh phủ Dân Quốc thiên cư về Trùng Khánh, theo học tại Hán Tạng Giáo Lư Viện, quy y với Thái Hư đại sư. Bà cũng xin học Thiền với Hư Vân đại sư. Năm 1940, bà chuyển tới Khang Định, đảm nhiệm chức Bí Thư của chính quyền tỉnh Tây Khang, hứng thú học Mật tăng cao. Tuy gặp nhiều vị đại đức Mật Tông, bà chỉ tôn sùng Cống Cát Hoạt Phật (Konga, Gangkar Rinpoche, 1893-1957), nên đến chùa Cống Cát tại núi Gangkhar Dzongsar thuộc vùng Khang Định xin quy y, được truyền pháp quán đảnh, bà xin bế quan tu hành suốt ba năm, được Cống Cát Hoạt Phật ban đạo hiệu Cống Cát Lăo Nhân. Bà tinh tấn tu hành, trở thành một vị thượng sư đức cao trọng vọng của ḍng Karmapa Kagyu tại Hoa Lục. Tuy tu hành, bà vẫn tích cực hành nghề y tại Thượng Hải, Tô Châu. Bà từng sang Đài Loan hoằng pháp vào năm 1958, sáng lập Cống Cát Tinh Xá tại Trung Ḥa (Đài Bắc), lập viện chữa trị Đông Y tại nơi đó. Bà từng tuân lệnh Karmapa đời thứ mười sáu thành lập Cống Cát Tinh Xá tại Phi Luật Tân cũng như sang hoằng pháp tại Mă Lai, Thái Lan, Tân Gia Ba, và Hương Cảng.

[9] Hồng Giáo c̣n gọi là Cổ Mật, tức tông phái Nyingma pa, là tông phái Mật Tông cổ nhất tại Tây Tạng. Gọi là Hồng Giáo, Hồng Phái hoặc phái Hồng Mạo v́ chư tăng thường mặc ca-sa có màu đỏ sậm, đội mũ đỏ, nhằm phân biệt với tông phái Gelugpa của Đại Lai Lạt Ma (Hoàng Mạo phái, đội mũ vàng, khoác ca-sa vàng phủ lên ca-sa đỏ ), Bạch Giáo (Kagyupa, tuy gọi như vậy, nhưng phái này vẫn mặc ca-sa nâu đỏ) và Hoa Giáo (Sakyapa). Hồng Giáo tôn sùng đại sĩ Liên Hoa Sanh làm sáng tổ.

[10] Trung Dung là một chương trong sách Lễ Kư, tức chương 31, chưa rơ tác giả là ai, có thuyết nói là do Khổng Cấp (tự là Tử Tư). Khổng Cấp (438-402 trước Công Nguyên) là cháu nội của Khổng Tử, tức con trai của Khổng Lư, từng theo học với Tăng Tử (Tăng Sâm, một trong những môn đệ đắc ư của Khổng Tử). Khổng Cấp được hậu thế xưng tặng mỹ hiệu là Thuật Thánh. Dựa theo văn phong, chỉ có thể đoán sách Trung Dung được hoàn thành cuối thời Chiến Quốc. Măi đến đời Tống, thiên sách này mới được rút ra thành một bản lưu hành riêng và Châu Hy đă quy định Tứ Thư gồm Luận Ngữ, Mạnh Tử, Đại Học và Trung Dung.