Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa

淨土大經解演義

Phần 47

Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo duyệt: Huệ Trang và Đức Phong

 

Tập 93

 

      Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang một trăm lẻ bảy, ḍng thứ hai, xem từ ḍng thứ hai.

      “Bổn kinh dĩ thượng tam đại sĩ vi Bồ Tát chúng trung thượng thủ, cái nhân tam đại sĩ Tịnh Độ duyên thâm, chánh hảo ảnh hưởng hải hội đại chúng đồng quy Tịnh Độ” (Trong kinh này, ba vị đại sĩ trên đây là thượng thủ trong hàng Bồ Tát, do v́ ba vị đại sĩ có duyên sâu đậm với Tịnh Độ, rất phù hợp để tạo ảnh hưởng khiến đại chúng cùng quay về Tịnh Độ). Mấy câu này vô cùng hay, khiến tôi cảm xúc rất sâu, v́ quả thật ba vị đại Bồ Tát ấy đă hướng dẫn tôi quay về Tịnh Độ, pháp môn này quả thật là pháp khó tin. Đặc biệt là nói [pháp môn này] với những người hiện đang được gọi là “thành phần trí thức” càng đặc biệt khó khăn, v́ sao? Sở Tri Chướng quá nặng. Nếu lại thêm Phiền Năo Chướng, chuyện này sẽ rất phiền phức. Phiền Năo Chướng nhẹ nhàng, Sở Tri Chướng nặng nề, cũng rất khó trở về Tịnh Độ. Chúng ta xem tiếp trang sau: “Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm trung Phổ Hiền Bồ Tát ư Thệ Đa lâm trung, phát thập đại nguyện vương” (trong phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện, Phổ Hiền Bồ Tát ở trong rừng Thệ Đa phát ra mười đại nguyện vương). Thệ Đa Lâm tức là Kỳ Thụ Cấp Cô Độc Viên[1], chúng ta thấy Phổ Hiền Bồ Tát dùng mười đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc. Quư vị phải nhớ: Mười nguyện ấy giống như một ṭa cao ốc mười tầng, lễ kính là tầng thứ nhất, xưng tán là tầng thứ hai, cúng dường là tầng thứ ba, sám trừ nghiệp chướng là tầng thứ tư, càng về sau càng phát triển cao hơn, tầng sau nhất định bao gồm tầng trước, nhưng tầng trước chẳng bao gồm tầng sau. Tầng thứ nhất không bao hàm tầng thứ hai, nó có thể độc lập; tầng thứ hai nhất định có tầng thứ nhất, không có tầng thứ nhất sẽ chẳng thể xây dựng được. Từ chỗ này, chúng ta biết: Nếu không có lễ kính, tâm cung kính chẳng thể sanh khởi, thứ ǵ cũng chẳng có. Quư vị không có tầng thứ nhất, toàn bộ đều chẳng có! Ngàn vạn phần chớ nên sơ sót. [Nếu nghĩ] cung kính qua loa một chút là được rồi, không được đâu nhé! Qua quít không được! Hễ qua quít là thôi rồi! V́ vậy, quư vị thấy trong pháp thế gian, người Trung Quốc từ xưa tới nay [tự hào Trung Hoa là] “lễ nghĩa chi bang” (đất nước lễ nghĩa). Chúng ta mở sách Lễ Kư ra xem, câu đầu tiên là “Khúc Lễ viết, vô bất kính” (Khúc Lễ[2] nói: “Không ǵ chẳng kính”), quư vị thấy, [cổ nhân] đặt lễ kính vào hàng đầu, bèn biết pháp môn này trọng yếu ngần ấy!

      Giữa những người quá thân thuộc với nhau, suồng să một tí, cần ǵ phải bày vẽ màu mè như thế? Trọn chẳng biết đấy không phải là bày vẽ màu mè, mà [lễ kính] phát xuất từ trong nội tâm, tánh đức tự nhiên lưu lộ, lại c̣n phải vĩnh viễn chẳng suy th́ pháp thế gian và pháp xuất thế gian mới có thể kiến lập. Lễ kính hơi suy một chút, chắc chắn sau đó sẽ nẩy sanh vấn đề. Người sáng mắt hiểu rơ: Lễ số bị suy kém một chút, đó là tín hiệu cho thấy [đoàn thể] bị phân tán, sắp phải chia tay, đă có chuyện thay đổi! V́ thế, chúng ta phải hiểu rơ: Chẳng thể điên đảo thứ tự! Cùng một đạo lư, Bồ Tát tu sáu Ba La Mật, thứ nhất là bố thí, thứ hai là tŕ giới, thứ ba là nhẫn nhục, thứ tư là tinh tấn; nếu chẳng có bố thí, toàn bộ những điều sau đó cũng chẳng có! Kẻ không chịu bố thí làm sao tŕ giới được? Chẳng thể nào! Không thể tŕ giới, làm sao kẻ ấy tu nhẫn nhục cho được? Trong Phật pháp, đức hạnh có rất nhiều thứ, nhưng chắc chắn không thể đảo lộn thứ tự các đức hạnh trong tu hành. Hễ thứ tự bị xáo trộn bèn rối loạn, đến cuối cùng chẳng có chuyện nào thành tựu! Đối với lễ kính, Phổ Hiền Bồ Tát dạy chúng ta “lễ kính chư Phật”, từ cơ sở này mà tu thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đấy mới là công đức xứng tánh viên măn, làm sao có thể coi thường cho được? Những ǵ do chư Phật Như Lai, Pháp Thân đại sĩ đă kiến lập, nhất định có đạo lư to lớn trong ấy, chúng ta phải tin sâu chẳng nghi, phải nghiêm túc học tập, tuân thủ các lời răn dạy mới ḥng thành tựu. “Phổ giai hồi hướng” là tầng lầu thứ mười ở tận trên cùng, là chót đỉnh của tháp báu, “phổ giai hồi hướng” nghĩa là ǵ? Chính là nguyện thứ nhất trong Tứ Hoằng Thệ Nguyện, “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”, cơ sở của phổ độ là lễ kính.

      Sau khi đă phát mười đại nguyện vương, Phổ Hiền Bồ Tát nói tiếp, những điều ấy đều là lời phát nguyện của Ngài, “thị nhân lâm mạng chung thời, tối hậu sát-na” (người ấy lúc sắp lâm chung, trong sát-na cuối cùng), tức là trong hơi thở cuối cùng, “nhất thiết chư căn tất giai tán hoại” (hết thảy các căn thảy đều hư hoại), cái thân vật chất bị tan nát. “Nhất thiết quyến thuộc tất giai xả ly” (hết thảy quyến thuộc thảy đều ĺa bỏ), khi ấy quư vị không buông xuống cũng chẳng được, chẳng c̣n là người nhà quyến thuộc của quư vị nữa, duyên trong đời này đă hết, đă chấm dứt rồi. “Nhất thiết oai thế tất giai thoái thất” (hết thảy quyền uy, thế lực thảy đều lui mất), oai đức, quyền lực của quư vị đến lúc ấy đă chấm dứt rồi. “Phụ tướng đại thần”, nếu quư vị mang thân phận quốc vương th́ [từ ngữ “phụ tướng đại thần”] nói đến Tể Tướng, bầy tôi của quư vị. “Cung thành nội ngoại” (cung thành trong ngoài), đấy là của cải và cung điện của quư vị. “Tượng mă xa thặng” (xe voi, xe ngựa), đấy là công cụ giao thông, đều rực rỡ, xa hoa nhất, thù thắng nhất. “Trân bảo phục tạng” (kho tàng quư báu), những món quư báu, đồ cổ quư vị đă thâu thập. “Như thị nhất thiết vô phục tương tùy” (hết thảy những thứ như vậy chẳng c̣n theo ta nữa), chẳng có thứ ǵ là của quư vị, khi ấy quư vị liền biết, nguyên lai, ngay cả cái thân của chính ḿnh cũng chẳng phải là của chính ḿnh! Có thân thể này, quư vị có hết thảy những thứ đó, thân thể chẳng c̣n, toàn bộ hết thảy những thứ kèm theo đều chẳng c̣n nữa! Những điều ấy nói với chúng ta một chân tướng sự thật, mỗi cá nhân đều chẳng thể tránh khỏi, cái thân xác thịt này đă có sanh nhất định phải chết, đó là hiện tượng tự nhiên. Một năm có bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông luân chuyển, luôn đổi dời chẳng ngừng, không thể ngưng lại được, biến hóa trong từng sát-na. Do vậy, đức Phật dạy chúng ta, phàm thứ ǵ không mang theo được hăy buông xuống, chớ nên ghim trong ḷng. Thứ ǵ thật sự mang theo được hăy nên giữ nơi tâm, niệm niệm chẳng xả, đó là đúng!

      Tôi nhớ cư sĩ Lưu Tố Vân có báo cáo, quư vị có thể xem đĩa CD của bà ta, trong ấy bà ta có kể một câu chuyện thật, chẳng giả, một bạn gái thân thiết than văn chồng cô ta lăng nhăng bên ngoài. Bà ta bảo người bạn gái ấy: “Đó là chồng cô dan díu bên ngoài, cô có biết hai chữ trượng phu giải thích như thế nào hay không? Trượng là xa đến một trượng, trong ṿng một trượng là chồng cô, ngoài một trượng chẳng phải nữa. Cô bận tâm làm ǵ?” Đó là khuyên người khác buông xuống, chẳng nên tự t́m phiền năo. Cùng một đạo lư, chúng ta hăy mở rộng ra để quan sát, thân thể này, một hơi thở chưa đoạn th́ c̣n sống, là của chính ḿnh; hễ một hơi thở chẳng hít vào được nữa, chẳng phải là của ta. Quần áo quư vị mặc trên người là của chính quư vị, bỏ chúng vào trong tủ áo bèn chẳng phải là của quư vị. Căn nhà quư vị đang ở, hôm nay quư vị ở trong căn nhà ấy th́ nó là của quư vị, quư vị rời khỏi nhà, nó chẳng phải là của quư vị nữa. Trong túi quư vị chứa bao nhiêu tiền th́ là của quư vị, tiền trong ngân hàng chẳng phải là của chính ḿnh. Nếu chúng ta có thể quán như thế, tâm thanh tịnh sẽ rất nhanh chóng hiện tiền, đây là nói lời thật với quư vị, chẳng nói giả dối. Buông xuống, bảo quư vị hăy thời thời khắc khắc quán tưởng, tự nhiên quư vị có thể buông xuống. Sau khi buông những thứ tạp nhạp xuống, Phật hiệu mới dấy lên được, đó là thật, v́ sao? Mang theo được! Khi ta mạng chung sẽ sang thế giới Cực Lạc. Trong sát-na cuối cùng, nếu quên mất Phật hiệu, vẫn mê luyến những thứ ấy, quư vị lại luân hồi trong lục đạo, chẳng phải là bỏ lỡ cơ hội văng sanh Tây Phương ư? Thật đáng tiếc! Tôi cũng gặp chuyện giống như người bạn thân tố khổ với Lưu cư sĩ, tôi cũng từng gặp phải chuyện đó. Một vị nữ cư sĩ kể lể chồng bà ta dan díu bên ngoài, hỏi tôi nên làm sao? Tôi nói: “Điều ấy rất hợp để giúp cho bà niệm Phật, bà đừng bận ḷng, cứ để chồng làm theo ư muốn sẽ hay hơn. Không chỉ chẳng oán hận, mà c̣n cảm tạ người t́nh của chồng. Nếu không, bà phải chăm sóc chồng, công phu niệm Phật chẳng đắc lực! Có một người tốt như thế đến giúp đỡ bà, đó là chuyện tốt, Bồ Tát đấy!” Chuyện thế gian chẳng có ǵ tuyệt đối phải, trái, đúng, sai, chẳng có, đều là trong một niệm của chính ḿnh. Một niệm đă giác ngộ, ai nấy đều là người tốt, chuyện ǵ cũng là chuyện tốt, đều do trong một niệm, tùy thuộc quư vị chuyển ư niệm theo cách nào! V́ vậy, niệm nhiều những đoạn kinh văn như thế này sẽ có lợi.

      Tiếp theo đó là “duy thử nguyện vương bất tương xả ly” (chỉ có nguyện vương này chẳng bỏ ĺa), chẳng phải là bảo quư vị niệm mười đại nguyện vương, mà là bảo quư vị hăy hành. Lễ kính chư Phật là quan hệ luân lư rốt ráo viên măn trong Phật môn, quư vị thấy pháp thế gian được thực hiện từ đâu? Từ “phụ tử hữu thân”, tức là thực hiện bằng t́nh thân ái. Trong Đại Thừa Phật pháp, Hoa Nghiêm là Nhất Thừa Phật pháp được thực hiện từ đâu? Thực hiện từ “lễ kính chư Phật”. Xét theo ư vị, ư vị thế gian và pháp vị là một vị, chẳng hai, chớ nên không biết điều này; nhưng phạm vi của lễ kính chư Phật to lớn, lớn đến mức độ nào? Cổ nhân Trung Quốc nói: “Đại nhi vô ngoại, tiểu nhi vô nội” (không ǵ lớn ở ngoài, không ǵ nhỏ nhoi chẳng ở trong), toàn bộ đều bao gồm trong ấy. Chư Phật là ǵ? Chư Phật là tự tánh, chúng ta gọi người minh tâm kiến tánh là Phật. Quá khứ Phật là Phật đă thành, hiện tại Phật cũng đă minh tâm kiến tánh, vị lai Phật là ai? Vị lai Phật chính là chúng ta, là hết thảy hữu t́nh chúng sanh, hoàn toàn là vị lai Phật, muỗi, trùng, kiến là vị lai Phật, các loài trùng ngọ ngoạy, bay, ḅ là vị lai Phật. Kinh Hoa Nghiêm nói càng khéo: “T́nh và vô t́nh đều cùng viên thành Chủng Trí”, ư nghĩa này bao hàm điều ǵ? Hữu t́nh chúng sanh là vị lai Phật, vô t́nh chúng sanh cũng là vị lai Phật. Vô t́nh là ǵ? Hoa, cỏ, cây cối, núi, sông, đại địa, các hiện tượng vũ trụ toàn bộ đều là vị lai Phật, đều do tự tánh biến hiện, ĺa khỏi tự tánh sẽ chẳng có một pháp nào để được. Nhà Phật thường nói: “Ngoài tâm không có pháp, ngoài pháp chẳng có tâm”, tâm tức là Phật, Phật tức là tâm. Những năm qua, chúng tôi đề xướng Tam Thời Hệ Niệm là trợ tu; trong nghi thức ấy, thiền sư Trung Phong đă bảo: “Tâm ta chính là A Di Đà Phật, A Di Đà Phật chính là tâm ta. Phương này chính là Tịnh Độ, Tịnh Độ chính là phương này”, loại nhận thức, ngôn hạnh như thế được gọi là “lễ kính chư Phật”.

      Quư vị thấy Phật pháp giảng luân lư, đúng là giảng đến rốt ráo viên măn; đối với một sợi lông trong chánh báo, y báo trên đầu một sợi lông của chúng ta được gọi là một hạt vi trần. Các nhà khoa học hiện thời phân tích, biết nguyên tử có thể phân tích [nhỏ hơn], điện tử vẫn có thể phân tích, phân tích đến hạt cơ bản, phân tích đến khoa khắc (quartz), vẫn c̣n có thể phân tích [nhỏ hơn nữa], hiện thời đă phân tích đến tiểu quang tử (photon); các nhà khoa học đặt cho nó cái tên là lượng tử (quantum), nói chung là chẳng c̣n cách nào phân tích nhỏ hơn nữa! Đó là vật chất nhỏ nhất trong vũ trụ; trong Phật pháp [vật chất nhỏ nhất] được gọi là “cực vi chi vi” đă bị họ phát hiện. Các nhà khoa học nói trên thế giới không có vật chất, họ nói rơ vật chất chẳng tồn tại, vật chất là ǵ? Vật chất là hiện tượng được phát sanh bởi ư niệm tích lũy, hiện tượng ấy chính là tiểu quang tử, nó là từ trong Không sanh ra Có. Hơn nữa, tốc độ vô cùng nhanh chóng, vừa thấy nó sanh, nó đă diệt, gần như là ǵ? Sanh diệt đồng thời, tốc độ nhanh ngần ấy! V́ thế, hiện tượng vật chất là một thứ huyễn tướng tích lũy liên tục phát sanh. Hơn nữa, họ c̣n phát hiện những vật chất vô cùng vi tế ấy cũng có tác dụng tinh thần, [tác dụng] tinh thần là ǵ vậy? Trong tự tánh, chúng được gọi là “kiến, văn, giác, tri” (thấy, nghe, hay, biết). Khi mê, nơi hiện tượng vật chất, chúng (kiến, văn, giác, tri) được gọi là Thọ, Tưởng, Hành, Thức, đấy chính là A Lại Da, [nói chính xác hơn, đó] là ba tế tướng của A Lại Da. Nói theo Lư, quả thật có thứ tự trước sau, nhưng trên mặt Sự, chẳng nh́n ra thứ tự trước sau, nó quá nhanh chóng, quá lẹ làng! Từ ba ngàn năm trước, trong kinh, Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói: “Một niệm bất giác bèn có vô minh”. Vô minh là ba tế tướng, từ ba tế tướng sanh ra sáu thô tướng. Tướng thứ nhất trong sáu thô tướng là Trí Tướng, người hiện thời gọi Trí là tri thức (kiến thức), thưa quư vị, Trí ấy chẳng phải là trí huệ, mà là tri thức. Loại thứ hai là Tương Tục Tướng, thứ ba là Chấp Thủ Tướng; thứ tư là Phân Biệt; thứ năm là Nghiệp Tướng, tạo nghiệp, thứ sáu là Nghiệp Hệ Khổ Tướng, đó là quả báo. Quả báo luân hồi trong lục đạo, ba tế, sáu thô, có thể nói là sáu thô bao gồm y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới. Cũng như khi Huệ Năng đại sư khai ngộ đă báo cáo năm câu, câu cuối cùng là “nào ngờ tự tánh, có thể sanh vạn pháp”, ba tế, sáu thô sanh ra vạn pháp, sáu thô tướng chính là vạn pháp. Nay chúng ta mê nơi sáu thô tướng, chẳng thể giác ngộ, chẳng thể quay đầu, khi nào quay đầu sẽ giác ngộ, sẽ tu hành chứng quả. Trong kinh Hoa Nghiêm, Phổ Hiền Bồ Tát dạy chúng ta quay đầu, dùng phương pháp ǵ? Chỉ có nguyện vương này chẳng ĺa bỏ. Quư vị tu hành mười đại nguyện vương, thật thà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, bèn thành tựu trong một đời này.

      “Ư nhất thiết thời, dẫn đạo kỳ tiền” (trong hết thảy các thời, nó dẫn đường trước mặt), nguyện vương ấy d́u dắt quư vị. “Nhất sát-na trung tức đắc văng sanh Cực Lạc thế giới” (trong một sát-na liền được văng sanh thế giới Cực Lạc), mười đại nguyện vương này là mười nguyện phải phát, chẳng phải phát bằng miệng, chỉ phát nguyện đằng miệng, chẳng khởi tác dụng, phải từ trong tâm phát ra, phải thực hiện lễ kính. Lễ là bề ngoài, Kính là trong tâm, biểu hiện ra ngoài bằng chân tâm thương yêu, cung kính. Nay chúng ta trông thấy người khác, ắt phải cúi gập người chín mươi độ để chào, đối với bất cứ ai đều biểu thị sự lễ kính. Đối với muỗi, kiến, có cần phải cúi gập người chín mươi độ để chào hay chăng? Quư vị cũng cúi gập người chín mươi độ để chào, người ta sẽ nói quư vị là kẻ ngốc! Thấy hoa, cỏ, cây cối cũng cúi gập người chín mươi độ để chào ư? Chẳng phải vậy! Chân tâm yêu thương, hăy chắp tay niệm Phật hồi hướng, thuyết pháp cho nó. Cái bàn, băng ghế dài cũng là một trong các vị Phật, ta có nên hành lễ với cái bàn hay chăng? Chẳng phải, lễ kính bàn ghế là lau chùi sạch sẽ, sắp xếp ngay ngắn, đó là lễ kính! V́ vậy, lễ kính do người, do thời, do nơi chốn, sống động, chứ không chết cứng, chẳng phải là khô khan, mà là sống động, linh hoạt. Trong tâm thật sự thành kính, sẽ chẳng có ǵ không đúng pháp, thứ ǵ cũng đều đúng pháp, chúng ta thật sự có thể cảm động người khác, có thể giúp cho người khác “quay đầu là bờ”. V́ thế, tự hành thật sự là hóa tha, thật sự hóa tha nhất định phải tự hành. Tự hành và hóa tha là một chuyện, chẳng phải hai chuyện.

      Văng sanh thế giới Cực Lạc, “đáo dĩ, tức kiến đáo A Di Đà Phật” (đă đến [cơi Cực Lạc] liền thấy A Di Đà Phật). V́ sao? Đó là pháp Nhất Thừa, dùng mười đại nguyện vương tu pháp môn Niệm Phật, sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, chẳng phải là trong cơi Đồng Cư, cũng chẳng phải trong cơi Hữu Dư, mà là trực tiếp sanh vào cơi Thật Báo Trang Nghiêm. Quư vị không tin th́ hăy thử xem, quư vị có thể đối với đá, đối với bùn cát cung kính chân thành dường ấy, quư vị sẽ cung kính người khác chẳng khác ǵ cung kính A Di Đà Phật. Tâm chân thành như vậy sẽ tự nhiên tương ứng với cơi Thật Báo Trang Nghiêm của A Di Đà Phật, v́ sao? Chư Phật Như Lai đối với vạn sự, vạn pháp, vạn vật đều cung kính như thế, quư vị học theo chư Phật Như Lai không hai, không khác, nên phẩm vị của quư vị trong bốn cơi, ba bậc, chín phẩm nơi thế giới Tây Phương sẽ cao. Nho gia nói đến quan hệ nhân luân cao nhất là “phàm thị nhân, giai tu ái” (hễ là người đều phải yêu), chẳng nói đến động vật. Nếu động vật cũng nói đến th́ là “ái ốc cập điểu” (yêu nhà, yêu lây cả chim), đó là nói đến động vật; nhưng chẳng nói đến cây cối, hoa, cỏ, chẳng nói đến núi, sông, đại địa, chẳng nói đến hiện tượng tự nhiên. Phật pháp thảy đều nói tới, toàn bộ được bao gồm trong ấy; v́ thế, luân lư rốt ráo viên măn ở trong kinh Đại Thừa. Người ấy đến nơi đó thấy A Di Đà Phật, thấy Pháp Thân và Báo Thân của A Di Đà Phật Pháp Thân, chẳng phải là Ứng Hóa Thân.

      “Hựu kệ vân” (lại nói kệ rằng), tiếp theo đó là tám câu kệ, đấy là Phổ Hiền Bồ Tát phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ [bài kệ này được chép] trong quyển bốn mươi của bộ Tứ Thập Hoa Nghiêm, chúng ta hăy đọc mấy câu kệ đó. “Nguyện ngă” (nguyện tôi), “ngă” là Phổ Hiền Bồ Tát tự xưng, “lâm dục mạng chung thời”, tức là khi thọ mạng chấm dứt, “tận trừ nhất thiết chư chướng ngại” (trừ sạch hết thảy các chướng ngại), khi mất chẳng có chướng ngại, v́ sao? Thảy đều buông xuống. Hễ có một chuyện chẳng buông xuống được sẽ trở thành chướng ngại, chuyện dẫu nhỏ bé đến mấy cũng rất phiền phức, chướng ngại quư vị chẳng thể văng sanh, chướng ngại khiến quư vị tiếp tục luân hồi trong lục đạo, quư vị nói xem chuyện này có phiền phức hay không? “Diện kiến bỉ Phật A Di Đà, tức đắc văng sanh An Lạc sát” (gặp mặt đức Phật A Di Đà, liền được văng sanh cơi An Lạc), chẳng có chướng ngại nên quư vị mới có thể thấy Phật, sanh Tịnh Độ. “Ngă kư văng sanh bỉ quốc dĩ, hiện tiền thành tựu thử đại nguyện” (tôi đă văng sanh cơi ấy rồi, hiện tiền thành tựu đại nguyện này), mười đại nguyện vương phải được thực hiện viên măn rốt ráo khi nào? Trong thế giới Cực Lạc. V́ vậy, quư vị thật sự thực hiện viên măn rốt ráo mười đại nguyện vương, thế giới Cực Lạc sẽ hiện tiền, v́ sao? Thế giới Cực Lạc do ư niệm của quư vị biến hiện. Đúng là “phương này chính là Tịnh Độ, Tịnh Độ chính là phương này”, ư niệm mười đại nguyện vương biến hiện thành cơi Thật Báo Trang Nghiêm của A Di Đà Phật. “Nhất thiết viên măn tận vô dư, lợi lạc nhất thiết chúng sanh giới” (hết thảy viên măn chẳng c̣n sót, lợi lạc hết thảy chúng sanh giới), chính ḿnh đă thành tựu, lại thành tựu hết thảy chúng sanh giới. Lợi ích như thế nào? Giáo hóa. Phổ Hiền Bồ Tát cũng là trong hết thảy thời, hết thảy chỗ, khởi cảm ứng đạo giao cùng hết thảy chúng sanh hữu duyên. Chúng sanh có cảm, Ngài bèn hiện thân, giống như Quán Thế Âm Bồ Tát “nên dùng thân ǵ để đắc độ bèn hiện thân ấy”. Tám câu ấy là lời phát nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát.

      Kế đó, chúng ta lại xem Văn Thù Bồ Tát, [xem xong lời] phát nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát, lại xem tới ngài Văn Thù, lời nguyện của ngài Văn Thù hầu như hoàn toàn giống với Phổ Hiền Bồ Tát: “Nguyện ngă mạng chung thời, diệt trừ chư chướng ngại, diện kiến A Di Đà, văng sanh An Lạc sát” (nguyện tôi lúc mạng chung, diệt trừ các chướng ngại, gặp gỡ A Di Đà, văng sanh cơi An Lạc), cơi An Lạc chính là thế giới Cực Lạc. “Sanh bỉ Phật quốc dĩ, thành măn chư đại nguyện, A Di Đà Như Lai, hiện tiền thọ ngă kư” (Sanh về cơi ấy rồi, thành măn các đại nguyện, A Di Đà Như Lai, bèn hiện tiền thọ kư), Như Lai thọ kư Bồ Tát thành Phật viên măn. “Như thị lưỡng đại sĩ, phát thù thắng đại nguyện, cầu sanh Cực Lạc, khả khuyến nhất thiết Bồ Tát, giai ngưỡng tín Văn Thù chi đại trí, nhập Phổ Hiền chi đại hạnh, phổ đạo chúng sanh, đồng quy Cực Lạc” (Hai vị đại sĩ phát đại nguyện thù thắng, cầu sanh Cực Lạc như vậy, có thể khuyên hết thảy các vị Bồ Tát đều ngưỡng mộ, tin tưởng đại trí của Văn Thù, nhập đại hạnh của Phổ Hiền, dẫn dắt trọn khắp các chúng sanh đều về Cực Lạc). Xưa kia, khoảng chừng ba mươi năm trước, tôi giảng kinh Hoa Nghiêm, cũng dùng một thời gian rất dài [mà chỉ] giảng được một nửa. Khi ấy, mỗi tuần tôi giảng ba ngày, hai ngày giảng Bát Thập Hoa Nghiêm, một ngày giảng Tứ Thập Hoa Nghiêm, mỗi tuần giảng sáu giờ, mỗi lần hai giờ. Giảng được một nửa, bỗng có ngày tâm t́nh sôi nổi, đột nhiên nghĩ Văn Thù và Phổ Hiền tu pháp môn ǵ? Trong hội Hoa Nghiêm, Thiện Tài là đệ tử đắc ư của Văn Thù Bồ Tát, cũng có thể nói Ngài là truyền nhân của Văn Thù Bồ Tát, Ngài tu pháp môn ǵ? Điều này thuộc phần sau, vẫn chưa giảng đến, tôi vừa mới thưa cùng quư vị, đối với đoạn văn này, vừa mới đọc đến đoạn văn này trong quyển bốn mươi của bộ Tứ Thập Hoa Nghiêm. Tôi lật kinh ra, xem đến phần sau, thấy đoạn này, hoảng nhiên đại ngộ, lúc đó mới thật sự tin tưởng Tịnh Độ, nhất tâm quy mạng pháp môn Tịnh Độ, cũng nguyện sanh về cơi Cực Lạc giống như Bồ Tát, đích thân phụng sự A Di Đà Phật. Trước đó, thầy Lư đă khuyên tôi rất nhiều lần, nhưng tôi cũng chẳng có cách nào tiếp nhận. Tôi học Phật là do theo tiên sinh Phương Đông Mỹ học Triết Học Nhập Môn, thầy Phương đặc biệt giới thiệu kinh Hoa Nghiêm cho tôi, bảo tôi “bộ sách ấy” vốn là khái luận của Đại Thừa Phật học, cụ dùng danh xưng ấy để giới thiệu. Cụ nói “bộ sách” ấy viết hay lắm, trên cả thế giới không có sách Triết Học nào hay hơn được! Trong sách ấy có lư luận viên măn, có phương pháp tinh tế, phía sau lại c̣n kèm theo năm ba mươi lần biểu diễn, biểu diễn ǵ vậy? Thực hiện lư luận và phương pháp ấy như thế nào trong cuộc sống, trong công việc, trong xử sự, đăi người, tiếp vật; v́ thế, thầy Phương mới nói: “Đây là sự hưởng thụ cao nhất trong đời người”. Thầy Phương không khuyên tôi tu Tịnh Độ, thầy dạy tôi hăy nhập môn từ Pháp Tướng Tông, đối với những thành phần tri thức thông thường th́ phải giới thiệu như vậy. Phần tử tri thức ham học, nghe nhiều, Pháp Tướng Duy Thức hết sức phù hợp khẩu vị của họ. Do vậy, họ bài xích Tịnh Độ, cho là ǵ? “Giáo pháp của mấy bà già! Thích Ca Mâu Ni Phật đại từ đại bi, thấy những kẻ ngu si ấy chẳng có cách nào học tập, bèn khuyên họ niệm A Di Đà Phật”. Tâm thái nh́n nhận Tịnh Độ như vậy là nh́n sai bét rồi!

      Chương Gia đại sư là Thượng Sư bên Mật Tông, Ngài khuyên tôi “Mật Giáo nhất định phải tu học từ Hiển Giáo”, dạy tôi hăy nương theo kinh luận Đại Thừa, Ngài cũng chẳng khuyên tôi tu Tịnh Độ. Sau này, gặp thầy Lư, thầy Lư học với Ấn Quang đại sư là bậc đại đức trong Tịnh Tông, biết sự thù thắng của Tịnh Độ, nhưng cụ khuyên tôi rất nhiều lần, tôi chẳng bài xích, chẳng khinh dễ Tịnh Độ. Cụ đưa Ấn Quang Văn Sao cho tôi xem, tôi đọc xong một lượt, đối với Tịnh Độ có chút ấn tượng, chẳng hề hủy báng, cũng tán thán, nhưng chính ḿnh chẳng chịu học, mà học kinh điển Đại Thừa. Thầy giảng kinh Hoa Nghiêm tại Đài Trung, tôi giảng kinh Hoa Nghiêm tại Đài Bắc, giảng đến một nửa đột nhiên nghĩ đến chuyện này, xem đoạn văn này mới quay đầu là bờ, thật sự phát tâm. V́ thế, tôi từ học Phật mà trở về Tịnh Độ, nói chung, hai mươi năm trước chẳng thật sự dụng tâm đọc kinh Tịnh Độ, hai mươi năm sau mới bắt đầu nghiêm túc đọc tụng kinh luận Tịnh Độ. Tôi tin tưởng, Phật, Bồ Tát đă bảo là pháp khó tin, đối với tôi quả thật khó tin. Nếu không có Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Lăng Nghiêm, tôi chẳng thể trở về Tịnh Độ, những bộ đại kinh ấy đă dẫn dắt tôi về Tịnh Độ. V́ thế, tôi có ấn tượng rất sâu đối với mấy câu này. Hết thảy Bồ Tát đều ngưỡng mộ, tin tưởng Văn Thù đại trí, Phổ Hiền đại hạnh. “Ngưỡng” () là kính ngưỡng, chẳng c̣n bàn căi chi nữa, hai vị Bồ Tát này là đại trí, đại hạnh. “Phổ đạo chúng sanh đồng quy Cực Lạc. Thị cố thử kinh, liệt vi thượng thủ. Thứ lệ Di Lặc giả, Đại Bảo Tích Kinh, Phát Thắng Chí Nhạo hội, Di Lặc vấn Phật, nhược hữu chúng sanh phát thập chủng tâm, tùy nhất nhất tâm, chuyên niệm hướng ư A Di Đà Phật, thị nhân mạng chung đương đắc văng sanh bỉ Phật thế giới” (hướng dẫn trọn khắp chúng sanh cùng về Cực Lạc. V́ thế, kinh này xếp các Ngài vào hàng thượng thủ. Kế đó, nêu tên ngài Di Lặc. Trong pháp hội Phát Khởi Bồ Tát Thù Thắng Chí Nhạo của kinh Đại Bảo Tích, ngài Di Lặc hỏi Phật: “Nếu có chúng sanh phát mười loại tâm, do mỗi tâm chuyên niệm, hướng về A Di Đà Phật, người ấy mạng chung sẽ sanh về thế giới của đức Phật ấy”). Đây là trong kinh Bảo Tích, trong hội ấy, Di Lặc Bồ Tát có nói mấy câu như vậy. Ngài nói nếu có chúng sanh phát mười loại tâm, chúng tôi trích lục mười loại tâm ấy từ Tam Tạng Pháp Số, đều sao lục từ kinh Bảo Tích, rất quan trọng.

      Kinh dạy như thế này: “Di Lặc Bồ Tát bạch Phật ngôn: Như Phật sở thuyết, A Di Đà Phật Cực Lạc thế giới công đức lợi ích” (Di Lặc Bồ Tát bạch Phật: “Như đức Phật đă nói về công đức và lợi ích trong thế giới Cực Lạc của A Di Đà Phật”), những điều ấy do đức Thế Tôn giảng cho Di Lặc Bồ Tát, “nhược hữu chúng sanh phát thập chủng tâm, tùy nhất nhất tâm chuyên niệm bỉ Phật, thị nhân mạng chung đương đắc văng sanh dă” (nếu có chúng sanh phát mười loại tâm, dùng mỗi tâm để chuyên niệm đức Phật ấy, người đó mạng chung sẽ được văng sanh). Chúng ta phải nghiêm túc học tập mười loại tâm ấy, hai loại đầu tiên biểu thị ḷng đại từ đại bi của Di Lặc Bồ Tát.

      Thứ nhất là “vô tổn hại tâm”, người niệm Phật đều phải tu mười loại tâm ấy. “Niệm Phật chi nhân, ư chư chúng sanh, thường khởi đại từ chi tâm, bất gia tổn hại, linh đắc khoái lạc, thị danh vô tổn hại tâm” (người niệm Phật thường khởi tâm đại từ đối với các chúng sanh, chẳng gây tổn hại, khiến cho họ được vui sướng, nên gọi là tâm chẳng tổn hại). Từ bi làm đầu, phát tâm ấy như thế nào? Người b́nh thường chẳng phát được, chỉ có Đại Thừa Bồ Tát, v́ sao? Đại Thừa Bồ Tát mới thật sự biết chúng sanh trong pháp giới vốn cùng một Thể. Sách Hoàn Nguyên Quán của Hiền Thủ quốc sư đă giảng nguyên khởi của vũ trụ, đây là một đại vấn đề, là một vấn đề lớn trong triết học và khoa học, măi cho đến hiện thời cũng chẳng có cách nào giải quyết. Biết có chuyện ấy, nhưng chuyện ấy rốt ráo là như thế nào, chẳng ai có thể nói được. Vũ trụ do đâu mà có? V́ sao có vũ trụ? Con người do đâu mà có? Ta do đâu mà có? Trọng yếu nhất là ta, ta do đâu mà có? Chỉ trong Đại Thừa Phật pháp là những vấn đề ấy được giảng rơ ràng, ngay cả các nhà khoa học Lượng Tử hiện thời cũng chẳng có cách nào giảng rơ ràng như đức Phật. Thật sự hiểu rơ ràng, minh bạch th́ khắp pháp giới hư không giới và chính ḿnh vốn là một, một Thể, một thân, thân ấy được gọi là Pháp Thân, chẳng phải là thân nghiệp báo, mà là Pháp Thân. Thân nghiệp báo là một phân tử, một tế bào, một sợi lông trong Pháp Thân.

      Pháp Thân không có sanh diệt, đạo lư “chẳng sanh diệt” này nói rất sâu. Trong kinh giáo Đại Thừa, đức Phật bảo chúng ta “vốn chẳng sanh”. Nếu chẳng sanh, lấy đâu ra diệt? Có hiện tượng hay không? Có, nhưng khó hiểu. Có hiện tượng th́ có sanh diệt, cớ sao có thể nói là “vốn chẳng sanh?” Trong khi giảng kinh, đức Phật rất khéo dùng tỷ dụ, khiến cho chúng ta từ tỷ dụ sẽ thấu hiểu. Tỷ dụ được dùng nhiều nhất là nằm mộng, v́ mỗi cá nhân đều có kinh nghiệm nằm mộng, nên dùng mộng làm tỷ dụ mọi người sẽ chẳng cảm thấy xa lạ, xưa, nay, trong, ngoài nước mọi người đều nằm mộng. V́ thế, trong kinh Kim Cang, đức Phật nói bốn câu kệ: “Hết thảy các pháp hữu vi”, hết thảy các pháp hữu vi là Pháp Thân, “như mộng, huyễn, bọt, bóng, như sương cũng như chớp, hăy nên quán như thế”. Như mộng, huyễn, bọt, bóng là không có sanh diệt; vốn không sanh, há có diệt! V́ sao? Giả, chẳng thật, khi nằm mộng th́ có, sau khi tỉnh mộng bèn chẳng c̣n nữa, rỗng tuếch! Khi mộng th́ chẳng sanh, khi tỉnh cũng không diệt, căn bản là không có chuyện này. Phật dùng điều này để tỷ dụ điều ǵ? Y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới là mộng cảnh. Có thời gian dài hay ngắn hay không? Thưa quư vị, không có, trong mộng có thời gian, sau khi tỉnh lại bèn chẳng c̣n thời gian nữa. Không chỉ chẳng có thời gian, mà không gian cũng chẳng có, không gian là ǵ? Ngay trong giây phút này. Đối với những lời kinh ấy và những ư nghĩa ấy, chúng ta phải rất chú tâm quán chiếu, thấu hiểu th́ mới có thể nhận thấy đức Phật nói chẳng sai! Khắp pháp giới hư không giới và chính ḿnh là một; ngoài chính ḿnh ra, thứ ǵ cũng chẳng có! Giống như trong mộng, toàn bộ cảnh giới trong mộng đều do tâm của chính ḿnh biến hiện. Trong mộng có nhiều người, nhiều sự, nhiều vật, toàn bộ đều do tự tâm biến hiện. Thật sự đúng như đức Phật đă nói: “Ngoài tâm chẳng có pháp, ngoài pháp chẳng có tâm. Ngoài tâm chẳng có mộng, ngoài mộng chẳng có tâm”. Quư vị dần dần thấu hiểu, thật sự thấu hiểu, tâm từ bi sẽ phát xuất. V́ sao? Chẳng có ai không yêu thương chính ḿnh! Đă biết toàn thể vạn sự, vạn vật trong vũ trụ là chính ḿnh, tâm đại bi mới có thể sanh khởi được. Đó là chân tâm, chẳng phải là hư vọng, tâm yêu thương chân thành.

      Thật ra, trước khi Phật pháp truyền đến Trung Quốc, tổ tiên Trung Quốc cũng đă từng nói đến đạo lư này, nhưng chẳng nói tỉ mỉ như trong kinh Phật. Lăo Tử nói: “Thiên địa dữ ngă đồng căn, vạn vật dữ ngă nhất thể” (trời đất và ta cùng cội rễ, vạn vật và ta cùng một thể), chẳng phải là ư nghĩa này ư? Lăo Tử và Thích Ca Mâu Ni Phật chưa hề gặp mặt, cũng chẳng trao đổi tin tức, đó gọi là “anh hùng có cách nh́n đại lược giống nhau!” Thích Ca Mâu Ni Phật trông thấy, Lăo Tử cũng nói đến. Nếu chẳng thấy, làm sao Ngài có thể nói được? Ắt phải có nhận biết giống như vậy, nhận biết vũ trụ là một Thể, tâm từ bi chân thành mới sanh ra được. Sau đấy th́ sao? Đối với hết thảy chúng sanh chắc chắn không có tâm tổn hại, quư vị yêu thương họ. Quư vị không chỉ giết họ, mà ngay cả gây tổn hại cho họ cũng chẳng thể làm được, đó là tánh đức trong tự tánh thấu lộ viên măn. Không chỉ chẳng gây tổn hại, mà quư vị nhất định có tâm thành tựu người khác, khiến họ được vui sướng, thật sự có ḷng giúp đỡ kẻ khác, khiến cho kẻ khác thành tựu. Nếu ta chẳng quen biết kẻ đó, kẻ đó lại chẳng có liên quan ǵ với ta, ta cần ǵ phải làm chuyện tốt ấy, cần ǵ phải giúp đỡ kẻ chẳng thân thiết, chẳng có quan hệ ǵ với ta? [Đó là tâm thái của kẻ] chưa giác ngộ, là tâm phàm phu! Người thật sự giác ngộ chẳng có tâm ư thức ấy! Người ấy chỉ biết căn tánh [chúng sanh] là lợi hay độn, đă chín muồi hay chưa. Nếu căn tánh chín muồi, nhạy bén, bèn giúp đỡ, thành tựu kẻ đó trước. Nếu kẻ đó thành Phật, sẽ phổ độ chúng sanh. Đối với người chí thân và bạn bè thân thiết của ta, nếu căn cơ của họ chưa chín muồi, ta có thể tạm thời bớt giúp họ một chút, họ chưa chín muồi mà! Một nguyên tắc là thành tựu điều tốt đẹp cho người khác, chẳng thành tựu điều ác, nhất định phải hiểu nguyên tắc này. Do vậy, không có tâm tổn hại, đối với hết thảy chúng sanh, đối với núi, sông, đại địa, cây cối, hoa, cỏ, chẳng có tâm tổn hại.

      Điều thứ hai, “vô bức năo tâm. Niệm Phật chi nhân, thân tâm an tĩnh, ư chư chúng sanh, thường khởi đại bi chi tâm, thâm gia mẫn thương, linh đắc thoát khổ, thị danh vô bức năo tâm” (Tâm vô bức năo: Người niệm Phật, thân tâm an tĩnh, thường khởi tâm đại bi đối với các chúng sanh, sanh ḷng thương xót sâu xa, khiến cho họ được thoát khổ, điều đó gọi là “vô bức năo tâm”). Bức () là bức bách, nay chúng ta gọi là “áp lực”. Năo () là khiến cho kẻ khác sanh phiền năo. [Vô tổn hại tâm và vô bức năo tâm] đều thuộc về từ bi. Ở đây, kinh nói rất hay, điều trước là từ tâm, điều này là bi tâm. Bi là tâm thương xót. Tâm thương xót dấy lên, ở đây, nói rất hay, “thân tâm an tĩnh”. Nếu thân tâm chẳng thể an tĩnh, bi tâm chẳng thể sanh khởi, [bi tâm là] tâm thương xót, tâm đồng t́nh, v́ sao? Thân tâm an tĩnh sanh trí huệ. Từ bi và trí huệ có mối liên quan, thân tâm chẳng an sẽ sanh phiền năo, trong phiền năo lấy đâu ra từ bi? Có lúc trong phiền năo cũng có từ bi, đó là hai thứ trước trong bốn loại từ bi như kinh Phật đă dạy, phàm phu có hai thứ ấy. Loại thứ nhất là Ái Duyên Từ Bi, nói chung là đối với thân bằng hảo hữu của chính ḿnh, ta yêu mến họ, họ có quan hệ với ta, ta bèn giúp đỡ, yêu thương, chăm sóc họ. Nhưng nếu chẳng phải là thân bằng hảo hữu, tâm ấy chẳng thể sanh khởi. Đó là Ái Duyên Từ Bi. Người đọc sách có đức hạnh, có học vấn, tâm lượng mở rộng, đấy cũng là như Đệ Tử Quy nói, người ấy đă đạt tới mức “hễ là người, đều phải yêu thương”, đạt đến cảnh giới ấy, trong Phật pháp gọi [cảnh giới ấy] là Chúng Sanh Duyên Từ Bi, mở rộng ḷng yêu thương của chính ḿnh, có thể từ bi đối với hết thảy chúng sanh, điều này rất khó có. Tại Trung Quốc, chúng ta gọi người như vậy là thánh hiền, đại thánh, đại hiền, tâm từ bi của họ thấu đến hết thảy chúng sanh là những người chẳng có mảy may quan hệ với họ. Điều thứ ba thuộc về Bồ Tát trong Phật môn, tức là Pháp Duyên Từ Bi. Ngài chưa phải là Phật, đang học Phật. Phật dạy vạn sự vạn vật trong khắp pháp giới hư không giới và ta là một Thể, Ngài học tập, Ngài cũng giống như Phật mở rộng tâm từ bi của chính ḿnh đến rộng khắp hết thảy chúng sanh trong pháp giới. Ngài chưa đoạn khởi tâm động niệm, chẳng c̣n phân biệt, chấp trước, nhưng vẫn c̣n khởi tâm động niệm. Đến cuối cùng là Vô Duyên Từ Bi, ḷng từ bi này là của Phật. Ở đây nói tới Vô Duyên Từ Bi th́ Vô Duyên là không có điều kiện. Hiện thời, có thể dùng hai chữ “điều kiện” để giải thích chữ Duyên, [vô duyên] là vô điều kiện. V́ sao vô điều kiện? [Ta và chúng sanh có cùng] một Thể, [đă là] một Thể, há có điều kiện? Do vậy, Phật là vô duyên đại từ đại bi, Bồ Tát là pháp duyên, thánh hiền là chúng sanh duyên, các phàm phu chỉ có ái duyên. V́ thế, người đạt đến địa vị thánh hiền có tâm từ bi, ḷng yêu thương mở rộng, đúng là “phàm là người, đều nên yêu thương”. Thấy người tuổi tác chẳng khác cha mẹ ta cho lắm, bèn lễ kính người ấy chẳng khác cha mẹ của chính ḿnh. Thấy kẻ tuổi nhỏ bằng cỡ con cái ḿnh, bèn chăm nom kẻ ấy hệt như con cái của chính ḿnh. Đó là thánh hiền thế gian. Sự tu học trong Phật pháp chẳng có ǵ khác, cứ từng bước tiến cao hơn, quyết định chẳng có tâm thái bức năo!

      Thứ ba là hộ pháp, “nhạo thủ hộ tâm. Niệm Phật chi nhân, ư Phật sở thuyết chánh pháp, đương tu bất tích thân mạng, thủ hộ, ái tích, thị danh nhạo bảo hộ tâm” (tâm yêu thích ǵn giữ, bảo vệ. Người niệm Phật đối với chánh pháp do đức Phật đă nói, hăy nên chẳng tiếc thân mạng để bảo vệ, yêu mến, đó là tâm yêu thích bảo vệ). Đây chính là như chúng ta thường nói, chánh pháp tồn tại lâu dài. Phải làm như thế nào mới ḥng chánh pháp tồn tại lâu dài? Quư vị nhất định phải tuân thủ pháp th́ mới có thể hộ pháp. Không tuân thủ pháp, quư vị dùng điều ǵ để hộ pháp? Do vậy, trong bốn chữ này, đức Phật chẳng nói “nhạo hộ pháp tâm” (tâm thích hộ pháp), mà nói “thủ hộ tâm”, chữ Thủ () là mấu chốt, có thể làm được hay không? “Thủ” là thọ tŕ. Ngày nay Phật pháp suy vi, chúng ta muốn tuân thủ Phật pháp, chiếu theo Phật pháp để tu hành, tự nhiên có hộ tŕ trong ấy; nhưng quư vị có tin tưởng chánh pháp do đức Phật đă nói hay không? Có thể lư giải hay không? Đấy là mấu chốt. Thật sự lư giải th́ quư vị mới có tín tâm, chẳng hiểu rơ th́ ḷng tin ấy chính là mê tín, mê tín sẽ bị dao động rất dễ dàng. Do vậy, Phật pháp nói tới chánh tín, chánh tín là ǵ? Quư vị hiểu rơ ràng, minh bạch lời đức Phật dạy, đấy là chánh tín. Hiểu rơ ràng, minh bạch rồi quư vị mới thật sự y giáo phụng hành. Ta thật sự quy y, quy y là bái sư, bái ai làm thầy? Bái A Di Đà Phật làm thầy, bái Thích Ca Mâu Ni Phật làm thầy. Quy y chính là bái sư, quy y Tam Bảo, chẳng nói quy y vị pháp sư nào! Trong giáo pháp Đại Thừa đă nói rơ ràng, minh bạch. Nhất là trong Lục Tổ Đàn Kinh, tổ sư đời thứ sáu của Thiền Tông là Huệ Năng đại sư đă nói đơn giản, minh bạch. Ngài truyền trao quy y cho người khác, dạy người ta “quy y Giác, quy y Chánh, quy y Tịnh”, Ngài chẳng nói “quy y Phật, Pháp, Tăng”. V́ sao? Chúng ta có thể suy ra rằng: Trong thời Ngài, Phật pháp đă truyền đến Trung Quốc khoảng chừng hơn bảy trăm năm, thời gian lâu ngần ấy, cho nên càng truyền càng bị sai ngoa. Người b́nh phàm nẩy sanh hiểu lầm đối với Phật pháp, hễ nhắc tới quy y Phật, bèn nghĩ đến tượng Phật bằng đất nặn, gỗ khắc, quy y Pháp, ngay lập tức nghĩ đến kinh điển; quy y Tăng liền nghĩ đến người xuất gia. Quư vị quy y như vậy là sai bét rồi, quy y chẳng phải là ư nghĩa ấy!

      Do vậy, Tổ chẳng dùng Phật, Pháp, Tăng, mà dùng Giác, Chánh, Tịnh rồi lại giải thích cho quư vị. Phật là Giác, Phật có nghĩa là Giác, giác mà không mê là quy y Phật. Quư vị thấy trong ấy há có mê tín? Chánh chứ không tà, chánh tri, chánh kiến, chẳng phải là tà tri, tà kiến, đó là quy y Pháp. Sáu căn thanh tịnh, chẳng nhiễm mảy trần, đó là quy y Tăng, mang ư nghĩa ấy. V́ thế, Phật là tự tánh giác, Pháp là tự tánh chánh, Tăng là tự tánh tịnh, nói tới tự tánh Tam Bảo, chẳng phải là bên ngoài, quư vị mới thật sự quy y. Chư Phật Như Lai xuất hiện trên thế gian để biểu diễn, thân hành, ngôn giáo, đích thân biểu diễn giác, chánh, tịnh, miệng giảng cho quư vị cũng là giác, chánh, tịnh, hoàn toàn giúp chúng ta trở về tự tánh. Quy () là quay đầu, Y () là nương cậy, quay đầu nương theo ǵ? Nương theo trí huệ và đức tướng trong tự tánh, chẳng phải là cậy vào bên ngoài, ngàn muôn phần các đồng học phải ghi nhớ điều này! Nếu quy y một vị pháp sư hay ḥa thượng nào đó, hỏng bét rồi, vị ấy có đại triệt đại ngộ hay không? Vị ấy có minh tâm kiến tánh hay không? Nếu vị ấy chưa đại triệt đại ngộ, chưa minh tâm kiến tánh, vị ấy là phàm phu trong lục đạo, ta quy y vị ấy chẳng phải là vẫn tạo nghiệp lục đạo ư? Thầy tạo nghiệp lục đạo, dẫn dắt quư vị vẫn tạo nghiệp lục đạo, chẳng ra khỏi được! V́ thế, đối với chánh pháp do đức Phật đă nói, chẳng thể không học tập, chớ nên không hiểu rơ ràng; sau khi hiểu rơ bèn phải thực hiện, ta chẳng tiếc thân mạng cũng phải thực hiện. Thân mạng là tỷ dụ, [chẳng tiếc thân mạng] tức là chẳng sợ khổ. Đức Phật dạy chúng ta buông xuống, chúng ta buông xuống, thân mạng cũng chẳng cần th́ c̣n có ǵ chẳng buông xuống được? Phật dạy chúng ta tŕ giới, chúng ta thật sự làm.

      Tịnh Tông Học Hội thành lập, khi ấy, tôi ở Mỹ, tôi khuyên các đồng tu học tập năm khoa mục. Kinh Phật có nội dung quá phong phú, học trọn hết th́ quá phức tạp, cũng chẳng thể nhớ nổi! Đơn giản là nhớ kỹ năm khoa mục, chẳng cần dùng đến sách vở mà quư vị có thể ghi nhớ kỹ càng. Đầu tiên là chúng ta phải học Tam Phước. Con người chẳng thể không có phước báo, trước tiên là tu tam phước. Tam phước là “tánh, tu bất nhị”, chúng có sẵn trong tự tánh, chúng ta chịu tu theo tam phước trong tự tánh là đúng. Câu đầu tiên là “hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm không giết, tu thập thiện nghiệp”. Đó là ǵ? Tu phước. Tu phước theo kiểu ấy sẽ hoàn toàn tương ứng với tánh đức trong tự tánh. Đức Phật coi trọng, quư vị thấy nhà Phật thường nói “phước huệ song tu”, đặt phước đằng trước, đặt huệ đằng sau. Người thế gian chúng ta cũng hy vọng có phước trước, rồi mới cầu trí huệ, nên Phật làm cho chúng sanh măn nguyện. Như vậy th́ phước báo của quư vị do tu từ đâu mà thành? Từ hiếu thảo cha mẹ, tôn trọng thầy, từ tâm chẳng giết, tu mười thiện nghiệp, phước báo do đấy mà có. Chúng ta chiếu theo đó để tu, phát tâm cách nào cũng tu chẳng thành, tu mấy năm vẫn chẳng có hiệu quả, thôi đi, chẳng cần nữa! Vẫn là ta làm theo kiểu của ta, thoái chuyển rồi, người như vậy quá nhiều! Do đó, chúng ta hăy nên phản tỉnh sâu xa, v́ sao cổ nhân làm được? Chẳng cần nói đến thời rất xa, một trăm năm hay tám mươi năm trước, nói chung, người thuộc tám mươi năm trước quá nửa là có thể làm được. Một trăm năm trước, tối thiểu có từ tám mươi đến chín mươi phần trăm có thể làm được! Người hiện thời làm không được, v́ nguyên nhân ǵ? Tuổi nhi đồng của chúng ta đă coi nhẹ, bỏ sót, không vun bồi căn cơ giáo dục. Căn cơ ấy là ǵ? Chính là ba căn bản của Nho, Thích, Đạo, tức là những điều chúng tôi đề xướng trong mấy năm gần đây. Căn bản của Nho là Đệ Tử Quy, dùng nó làm đại biểu, căn bản của Đạo là Thái Thượng Cảm Ứng Thiên, căn bản của Phật là Thập Thiện Nghiệp Đạo. Tám mươi năm trước, trẻ nhỏ ắt phải học ba thứ ấy nên chúng có căn bản. Ai dạy chúng nó? Cha mẹ dạy, cha mẹ thảy đều làm được. Từ lúc sanh ra, trẻ nhỏ đă thấy, nghe từ cha mẹ, tai nghe quen, mắt nh́n quen, tự nhiên học được. Cổ nhân Trung Quốc có câu: “Thượng lương bất chánh, hạ lương oai” (kèo trên chẳng ngay, kèo dưới lệch), “kèo trên” là ǵ? Kẻ làm cha mẹ! Cha mẹ đă chánh, lẽ nào con cái bất chánh? Cha mẹ bất chánh, làm sao con cái chánh cho được? Vấn đề xuất hiện ở chỗ này.

      V́ vậy, chúng tôi đưa ra ba căn bản giáo dục ấy, “hiếu thân, tôn sư” (hiếu thảo với cha mẹ, tôn trọng thầy) được thực hiện bằng Đệ Tử Quy, “từ tâm chẳng giết” được thực hiện bằng Cảm Ứng Thiên, câu cuối cùng là tu Thập Thiện Nghiệp. Do có rất nhiều người hỏi tôi: “Thưa pháp sư Tịnh Không! V́ sao thầy đề xướng Đệ Tử Quy và Cảm Ứng Thiên? Những thứ ấy đều chẳng phải là Phật giáo”. Họ không biết, từ giữa đời Đường trở đi, Phật giáo Trung Quốc không học Tiểu Thừa. Trong kinh điển, đức Phật đă dạy: “Phật tử không học Tiểu Thừa trước, sau đó học Đại Thừa, chẳng phải là đệ tử Phật”, Phật không thừa nhận. Cớ sao quư vị chẳng làm theo quy củ của đức Phật? Các kinh luận Tiểu Thừa được dịch sang tiếng Hán vô cùng đầy đủ, tôi chẳng chú tâm nghiên cứu, nhưng Chương Gia đại sư bảo tôi, đối chiếu Tam Tạng của Nam Truyền Tiểu Thừa với Tứ A Hàm [trong Hán Tạng, tạng Nam Truyền] chỉ nhiều hơn [các kinh điển Tiểu Thừa trong Hán Tạng] năm mươi mấy bộ. Gần ba ngàn bộ kinh điển mà chỉ nhiều hơn năm mươi mấy bộ, có thể thấy Tứ A Hàm đă được phiên dịch khá hoàn bị. Phật giáo sau khi được truyền đến Trung Quốc, đúng là trước học Tiểu Thừa, sau học Đại Thừa, đặt vững cơ sở nơi Tiểu Thừa; v́ sao từ giữa đời Đường trở đi chẳng cần nữa? Hai tông Tiểu Thừa, tức Thành Thật Tông và Câu Xá Tông, chẳng c̣n nữa, hiện thời ngay cả tên gọi cũng chẳng nghe nói tới. Tổ sư đại đức Trung Quốc dùng Nho và Đạo để thay thế Tiểu Thừa vẫn được! Quư vị thấy một ngàn bảy trăm năm qua, trải các đời, bao nhiêu cao tăng đại đức, bao nhiêu vị tổ sư xuất hiện, cũng có nghĩa là dùng Nho và Đạo để thay thế bèn tốt đẹp, càng thân thiết hơn nữa. Hơn nữa, tâm lượng của Nho và Đạo rộng răi hơn Tiểu Thừa, chẳng thua kém Tiểu Thừa. Chúng ta phải hiểu chuyện lịch sử này, hiểu sự dụng tâm của tổ sư đại đức, dùng Nho và Đạo để thực hiện phước thứ nhất trong ba phước, phước thứ nhất là căn cơ. Có ba căn bản ấy, đức hạnh của quư vị sẽ thành tựu, có đức hạnh bèn có phước báo thật sự. Không có đức hạnh, phước báo ấy là giả, chẳng thật, thường là giống như hoa Đàm thoáng hiện! Do vậy, ngạn ngữ có câu: “Phú bất quá tam đại” (chẳng ai giàu ba đời), đạo lư là ở chỗ này, v́ sao? Kẻ đó thiếu căn cơ. Phải có căn cơ th́ mới có thể kéo dài đời đời kiếp kiếp. Kẻ ấy biết tích công lũy đức, dẫu phú quư vẫn tu đức, tiếp tục tu không ngừng, đời đời kiếp kiếp hưởng thụ chẳng cùng, những điều này đều là thật.

      Có phước thứ nhất th́ mới có thể nhập Phật môn, quư vị thấy điều thứ hai là “thọ tŕ Tam Quy, đầy đủ các giới, chẳng phạm oai nghi”, tức là đă nhập môn. Trước khi nhập môn phải có điều kiện, điều kiện là phước thứ nhất. Phước thứ nhất là như trong kinh điển ta thường thấy nói “thiện nam tử, thiện nữ nhân” v́ họ trọn đủ Đệ Tử Quy, Cảm Ứng Thiên, Thập Thiện Nghiệp, họ là thiện nam tử, thiện nữ nhân, nên mới có thể thọ tŕ Tam Quy, đầy đủ các giới, đó là nhập môn. Tam Quy, giới luật, oai nghi đều có thể tu khá lắm, đức hạnh thành tựu giống như A La Hán, như Bồ Tát. Điều ấy mới khiến cho quư vị thật sự tu Giới, tu Định, tu Huệ trong Đại Thừa. Điều thứ ba là “phát Bồ Đề tâm, tin sâu nhân quả, đọc tụng Đại Thừa, khuyến tấn hành giả”, đó là tam phước. Mười loại tâm như chúng ta đang đọc ở đây đều là Bồ Đề tâm, mỗi điều đều là Bồ Đề tâm, mỗi điều đều đầy đủ viên măn chín điều kia. Bồ Tát phát tâm là đệ nhất. Đă phát tâm, quư vị bèn có phương hướng, có mục tiêu. Sau đấy là tin sâu nhân quả, câu này rất quan trọng, câu quan trọng nhất là “niệm Phật là nhân, thành Phật là quả”, quư vị có thể tin tưởng nhân quả ấy, trở về Tịnh Độ, chắc chắn thành tựu trong một đời này, chẳng c̣n bị lạc đường nữa! Đọc tụng Đại Thừa, chính ḿnh đă thành tựu. Câu cuối cùng là dạy người khác, đă tự hành, phải hóa tha. Bồ Tát phải độ chúng sanh; nếu không giúp đỡ người khác, chẳng phải là Bồ Tát! V́ thế, sau đó bèn khuyến tấn hành giả, quư vị phải khuyên lơn, phải giúp người khác tinh tấn, phải giúp người khác thành tựu. Quư vị thấy ba phước thành tựu sẽ tự nhiên giống như Bồ Tát, Bồ Tát là như thế nào? Bồ Tát là Lục Ḥa. Lục Ḥa Kính là Bồ Tát, Lục Ḥa Kính chẳng có tâm tổn hại, chẳng có tâm bức năo, thật sự thích thủ hộ. Có đầy đủ đức hạnh như vậy rồi mới thâm nhập kinh tạng, tu Giới, Định, Huệ, tu Bồ Tát hạnh. Bồ Tát hạnh là Lục Độ, tu mười nguyện Phổ Hiền, tiếp nhận mười đại nguyện vương của Phổ Hiền Bồ Tát dẫn về Cực Lạc. Đấy là khi Tịnh Tông Học Hội thành lập tại Mỹ, chúng tôi đă viết một bài giới thiệu duyên khởi. Trong duyên khởi, nhắc đến năm khoa mục ấy, lấy [năm khoa mục ấy] làm tiêu chuẩn, phương hướng và mục tiêu tu học của chúng ta. Con người hiện thời có nói: “Học làm thầy người, hạnh làm khuôn mẫu cho đời”. Chúng ta khởi tâm, động niệm, ngôn ngữ, tạo tác đều nêu gương tốt đẹp cho xă hội, chớ nên nêu gương xấu!

      Thứ tư, “vô chấp trước tâm. Niệm Phật chi nhân, thường dĩ trí huệ quán sát ư nhất thiết pháp, bất sanh chấp trước, thị danh vô chấp trước tâm” (Tâm chẳng chấp trước: Người niệm Phật thường dùng trí huệ quán sát hết thảy các pháp, chẳng sanh chấp trước, đó là tâm không chấp trước). Vô chấp trước cần có ǵ? Phải có trí huệ, không có trí huệ là không được, phải có trí huệ chân thật. Trí huệ do đâu mà có? Từ tâm thanh tịnh phát ra, tâm thanh tịnh sanh trí huệ. Chớ nên chấp trước hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian, v́ sao? Trong kinh giáo Đại Tiểu Thừa, đức Phật đă giảng vô cùng rơ ràng luân hồi trong lục đạo do đâu mà có? Do chấp trước mà ra. Chẳng c̣n chấp trước nữa, quư vị cũng rất dễ vượt thoát luân hồi. Chỉ cần quư vị có chấp trước, sẽ chẳng vượt thoát luân hồi; luân hồi do chấp trước biến hiện. Đức Phật bảo ngoài lục đạo c̣n có bốn thánh pháp giới, tức là Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật, [bốn pháp giới ấy] cao hơn chúng ta. Họ do nguyên nhân ǵ mà có? Họ có tâm phân biệt, chẳng có tâm chấp trước, họ có tâm phân biệt cho nên có bốn thánh pháp giới. Chấp trước là Phiền Năo Chướng, vô lượng vô biên phiền năo đều từ đây sanh ra, quư vị buông xuống bèn chẳng c̣n có chuyện ǵ nữa! Phân biệt là Sở Tri Chướng, hai thứ chướng ngại này đều chướng ngại con người minh tâm kiến tánh. Nếu chúng ta trở về tự tánh, hai thứ chướng ngại ấy đều chẳng c̣n nữa. V́ vậy, trong giáo pháp Đại Thừa, đức Phật thường nói: Chúng ta buông chấp trước xuống (Kiến Tư phiền năo đă đoạn), bèn chứng quả A La Hán, thành Chánh Giác, chứng quả A La Hán vượt thoát lục đạo. Bởi lẽ, lục đạo là mộng cảnh, chỉ cần Chánh Giác hiện tiền, lục đạo chẳng c̣n nữa, đă tỉnh giấc rồi, đă tỉnh khỏi giấc mộng rồi. Sau khi tỉnh lại, vẫn c̣n trong mộng, [bởi lẽ] lục đạo là mộng trong mộng, đó là ǵ? Bốn thánh pháp giới. Bốn thánh pháp giới vẫn là mộng cảnh. Ắt phải buông phân biệt xuống, đối với hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian chẳng phân biệt. Tâm phân biệt đoạn mất, tâm ấy càng thù thắng hơn tâm thanh tịnh. Trong tâm thanh tịnh không có chấp trước, nhưng có phân biệt. Trong tâm b́nh đẳng không chỉ chẳng có chấp trước, mà phân biệt cũng không có. Nay chúng ta nói là “ḥa hài” (hỗ tương hợp tác, ư kiến ḥa hợp), nói đến ḥa b́nh khó lắm. V́ sao ḥa b́nh khó khăn dường ấy? Người nào đạt được ḥa hài chân thật? Bồ Tát! A La Hán cũng chưa làm được, v́ sao? Bồ Tát chứng đắc tâm b́nh đẳng, hễ b́nh đẳng bèn ḥa!

      Bởi lẽ đó, người Trung Quốc nói đến ḥa b́nh th́ “ḥa” do đâu mà có? Do b́nh mà có, tức là do b́nh đẳng mà có. Người Trung Quốc nói đến quả trước, sau đấy mới nói đến nhân. Người Nhật nói thành “b́nh ḥa” (heiwa) tức là nói nhân trước, quả sau; quư vị hăy xem văn tự của Nhật Bản. Bất b́nh lẽ nào có ḥa hợp? Cao hơn thanh tịnh! V́ vậy, trong bốn thánh pháp giới, chủ yếu là tu tâm b́nh đẳng. Trong tựa đề kinh này có “thanh tịnh b́nh đẳng”, Bồ Tát tu b́nh đẳng. Buông phân biệt xuống, b́nh đẳng hiện tiền, trong Phật pháp nói quư vị đă chứng đắc Chánh Đẳng Chánh Giác. A La Hán chứng Chánh Giác, Bồ Tát chứng đắc Chánh Đẳng Chánh Giác, Đẳng là bằng với Phật. Lại lên cao hơn nữa là phá vô minh phiền năo, vô minh phiền năo là ǵ? Khởi tâm động niệm. Quư vị thấy: Không chỉ chẳng có phân biệt, chấp trước, mà kể cả khởi tâm động niệm cũng không có, đó gọi là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đă thành Phật. Hành nhân tu hành chứng quả, “hành nhân” là học tṛ. Nói theo cách bây giờ, cũng có thể nói [hành nhân] là người tu hành, có thể giải thích hành nhân là người tu hành, phải thường dùng Giới, Định, Trí Huệ. Ngài nói “thường dùng trí huệ”, tôi thêm vào trước đó Giới và Định, v́ trí huệ do Giới và Định mà có. Giới có thể đắc Định; không tŕ giới, tâm quư vị sẽ chẳng định được! Tŕ giới chẳng nhằm mục đích nào khác, nhằm đắc Định! Thiền Định vẫn là phương tiện, chưa phải là mục đích, v́ sao phải tu Định? Nhằm khai trí huệ; tâm định, trí huệ sẽ khai. Trí huệ quán hết thảy các pháp, quư vị mới thật sự có thể triệt để buông xuống chấp trước, phân biệt, khởi tâm động niệm! V́ sao? Đó là giả, là chướng ngại, chướng ngại trí huệ và đức tướng sẵn có trong tự tánh của quư vị. Quư vị nói nay ta muốn phát tài, ta mong sẽ có hết thảy của cải, quư vị có thể có toàn bộ địa cầu được hay không? Có thể. Quư vị có thể biến toàn thể địa cầu thành hoàng kim, châu bảo được không? Có thể. V́ sao nay quư vị không làm được? V́ quư vị có chấp trước, khiến cho toàn bộ đức năng trong tự tánh bị chướng ngại, quư vị sống khổ sở ngần ấy! Nếu khôi phục, quư vị sẽ giống như A Di Đà Phật. Quư vị thấy Ngài trụ trong thế giới Cực Lạc, Thích Ca Mâu Ni Phật giới thiệu với chúng ta một phần vạn, làm sao có thể giới thiệu trọn hết cho được?

      Trong thế giới Cực Lạc, thân thể như thế nào? Thân Kim Cang bất hoại, thật sự là vô lượng thọ, chẳng giả, vĩnh viễn chẳng già yếu. Quư vị có muốn hay không? Hoàn cảnh cư trụ của quư vị là cung điện bảy báu; hiện thời chúng ta dùng những thứ trân châu, mă năo làm đồ trang sức, quư báu khôn ngằn. Trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, những thứ ấy là vật liệu để xây dựng, chỗ nào cũng có! Hoàng kim quư báu vô cùng, nhưng trong thế giới Cực Lạc, hoàng kim để lót đường, giống như nhựa đường trong thế gian này được dùng để lót đường! Từ chỗ này, quư vị nghĩ xem sự phú quư nơi ấy là ǵ? Chính là những thứ quư vị vốn tự ḿnh sẵn có! Thật sự hiểu rơ, thật sự minh bạch, trong thế gian này chẳng có chút ǵ hiếm hoi, lạ lùng! Giống như quư vị thuộc gia đ́nh đại phú đại quư, nay đến nơi đây du lịch văn cảnh, thấy thổ dân ở nơi này đeo những món trang sức bằng đồng hay bằng thiếc. Quư vị thấy họ cảm thấy những thứ đó đẹp đẽ khôn xiết, quư vị cười mà thôi, hiểu rơ rồi! Quả thật người trong thế giới Cực Lạc, đừng nói thế giới Cực Lạc, chư thiên [trong thế giới Sa Bà] thấy loài người chúng ta đáng thương lắm! Nếu chúng ta nhất niệm hồi quang, tiến lên, đặc biệt là văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, quư vị thấy hạ hạ phẩm văng sanh trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư là cảnh giới ǵ? [Cảnh giới ấy do] A Di Đà Phật tự nói, tuyệt đối chẳng phải là lời giả, hạ hạ phẩm văng sanh cũng là A Duy Việt Trí Bồ Tát. Điều này có nghĩa là: Chỉ sợ quư vị không đến được thế giới Cực Lạc, chỉ sợ chẳng văng sanh; hễ thật sự đến thế giới Cực Lạc, đến nơi ấy với phẩm vị thấp nhất th́ trí huệ, thần thông, đạo lực và sự hưởng thụ của quư vị chẳng khác Thất Địa Bồ Tát. Pháp môn này được gọi là pháp khó tin, đúng là khó tin! Nhưng chúng ta tin tưởng Phật chẳng nói dối, chẳng nói lời giả, lời Phật nói chắc chắn chân thật, chẳng giả, chúng ta thật sự làm th́ sẽ thật sự đạt được.

      Cơ hội này chẳng phải là ngàn năm khó gặp, thời gian một ngàn năm quá ngắn ngủi! Cư sĩ Bành Tế Thanh đă nói: “Vô lượng kiếp lai hy hữu nan phùng đích nhất thiên” (một ngày khó gặp hiếm có từ vô lượng kiếp đến nay), chúng ta đă gặp gỡ! Vơ Tắc Thiên đă viết lời kệ Khai Kinh cho kinh Hoa Nghiêm: “Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ” (trăm ngàn vạn kiếp khó gặp gỡ); nay chúng ta đă gặp gỡ, nếu ở trước mặt mà bỏ lỡ, đúng là quư vị đă sai lầm quá đỗi! Đặc biệt là chúng ta thấy trong hiện thời tai nạn nhiều ngần ấy, các đồng học học Phật hiểu rơ, trong tâm đă có căn cứ, biết tai nạn phát sanh như thế nào, cũng biết dùng phương pháp ǵ để hóa giải, hăy giành lấy duyên phận thù thắng này, nắm chắc niệm Phật văng sanh thế giới Cực Lạc, điều đó càng thù thắng hơn. Hoàn cảnh hiện thời có lợi rất lớn, v́ sao? Chẳng có hoàn cảnh như vậy th́ quư vị vẫn chẳng phát tâm, hăy c̣n lưu luyến thế gian này. Nay đă biết trong hoàn cảnh hiện tiền, chẳng thể lưu lại được, chẳng có vật nào ở ngoài thân mà ḥng giữ được, ngay cả thân thể của chính ḿnh sợ c̣n chẳng giữ được! Hăy thừa cơ hội này mà ra đi th́ tốt lắm! Thời gian hai ba năm là đủ rồi, nhiều vị đại đức xưa nay đă chứng minh cho chúng ta thấy. V́ thế, phải dùng Giới, Định, Huệ để quan sát hết thảy các pháp, điều quan trọng là chớ sanh chấp trước. Hăy thực hiện trong cuộc sống hằng ngày, học theo Thích Ca Mâu Ni Phật hết thảy tùy duyên: Đối với chuyện ăn uống, sinh sống, người khác cúng dường ǵ ăn nấy, chớ nên chấp trước, đừng nên phân biệt, hăy thực hiện từ chỗ này, hăy tùy duyên trong ăn uống, sinh sống. Chớ nên cầu cạnh bất cứ ai, hăy tùy phận sống qua ngày, thật thà niệm Phật, điều này trọng yếu hơn bất cứ điều ǵ khác, đó gọi là tu hành chân thật. Thật sự chẳng có tâm chấp trước, đối đăi b́nh đẳng với hết thảy mọi người, đối xử ḥa thuận, và cũng thật sự thực hiện Lục Ḥa Kính. Phần sau hăy c̣n sáu điều nữa, nhưng hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng ta học tập tới đây!

 

Tập 94

 

      Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang một trăm lẻ bảy, hàng thứ ba từ dưới đếm lên, xem từ chữ thứ ba trong ḍng thứ ba từ dưới đếm lên.

      “Thứ liệt Di Lặc giả, Đại Bảo Tích Kinh Phát Thắng Chí Nhạo Hội, Di Lặc vấn Phật: Nhược hữu chúng sanh phát thập chủng tâm, tùy nhất nhất tâm chuyên niệm hướng ư A Di Đà Phật, thị nhân mạng chung đương đắc văng sanh bỉ Phật thế giới. Thế Tôn! Hà đẳng danh vi phát thập chủng tâm?” (Kinh Đại Bảo Tích, pháp hội Phát Khởi Bồ Tát Thù Thắng Chí Nhạo, có chép ngài Di Lặc hỏi Phật: Nếu có chúng sanh phát mười tâm, đối với mỗi tâm chuyên niệm hướng về A Di Đà Phật, người ấy mạng chung sẽ được văng sanh thế giới của đức Phật ấy. Bạch Thế Tôn! Những ǵ gọi là phát mười thứ tâm?”). Trong phần trước, chúng ta học đến chỗ này, [chúng tôi] trích lục đoạn kinh nói về “phát mười thứ tâm” trong kinh Đại Bảo Tích. Trong phần trước, chúng ta đă học bốn tâm trong mười thứ tâm, thứ nhất là vô tổn hại tâm, thứ hai là vô bức năo tâm, thứ ba là nhạo thủ hộ tâm, thứ tư là vô chấp trước tâm, trong mỗi tâm bao hàm ư nghĩa sâu rộng vô tận. Hôm nay, chúng ta lại xem tâm thứ năm: “Khởi tịnh ư tâm. Niệm Phật chi nhân, năng ly thế gian tạp nhiễm chi pháp, phục ư lợi dưỡng đẳng sự, thường sanh tri túc chi tâm, thị danh khởi tịnh ư tâm” (Khởi tịnh ư tâm: Người niệm Phật có thể ĺa pháp tạp nhiễm thế gian, tâm lại thường biết đủ đối với những sự như lợi dưỡng v.v... th́ gọi là khởi tịnh ư tâm). Điều này nói tới “chẳng tham”, hai điều trước đó là “chẳng giết”, điều thứ ba là hộ pháp, điều thứ tư vô cùng quan trọng, buông chấp trước xuống. V́ trong các kinh Đại Tiểu Thừa, đức Phật thường dạy chúng ta, nếu chúng ta có thể chẳng chấp trước hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian, đức Phật nói quư vị sẽ vượt thoát lục đạo luân hồi. Do điều này có thể biết lục đạo luân hồi do đâu mà có? Do chấp trước mà có, chỉ cần quư vị có ư niệm chấp trước, hiện tượng luân hồi bèn xuất hiện.

      Người thật sự giác ngộ sẽ như Vĩnh Gia đại sư đă nói trong Chứng Đạo Ca. Ngài Vĩnh Gia là người đời Đường, cùng thời đại với Lục Tổ của Thiền Tông, và cũng là học tṛ của Lục Tổ, minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật trong hội của Lục Tổ. Suốt đời Lục Tổ, trong số các học tṛ có bốn mươi ba người thành tựu, “thành tựu” là minh tâm kiến tánh. Minh tâm kiến tánh không chỉ vượt thoát lục đạo, mà c̣n vượt thoát mười pháp giới, thật sự thành tựu! A La Hán chỉ là tiểu thành tựu, chẳng thể coi là thành tựu thật sự. Ngài chỉ thoát ly lục đạo luân hồi, chưa thoát ly mười pháp giới. Chúng ta biết luân hồi do ư niệm chấp trước mà xuất hiện; do vậy, Vĩnh Gia đại sư bảo: “Mộng lư minh minh hữu lục thú” (trong mộng rành rành phô sáu nẻo), “lục thú” là lục đạo luân hồi; “giác hậu không không vô đại thiên” (giác rồi ba cơi rỗng toang hoang), đă giác ngộ sẽ không chấp trước. Chấp trước là mê, mê mà bất giác nên mới chấp trước, nhưng chấp trước nghiêm trọng nhất là t́nh chấp, thứ này cũng chẳng thật. Chấp trước chẳng c̣n th́ lục đạo chẳng c̣n! A La Hán chẳng c̣n chấp trước, nhưng c̣n có phân biệt. Có phân biệt th́ có bốn thánh pháp giới, tức là Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật, có những pháp giới ấy xuất hiện. Những pháp giới ấy vẫn là mộng, cũng chẳng thật. Lục đạo là mộng trong mộng, quư vị thấy đó, mê rất sâu!

      Từ lục đạo tỉnh giấc, cảnh giới hiện tiền là bốn thánh cảnh giới, bốn thánh cảnh giới vẫn là mộng, vẫn chẳng thật. Lại phải buông phân biệt xuống! Không chỉ chẳng chấp trước, mà c̣n vĩnh viễn ĺa khỏi phân biệt đối với hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian. Sau đấy, lại nâng cao công phu tới mức “chẳng khởi tâm, không động niệm”, sẽ chẳng thấy mười pháp giới. Đúng như đức Thế Tôn đă dạy trong kinh Bát Nhă: “Phàm những ǵ có tướng đều là hư vọng”, mười pháp giới có tướng, nên chúng chẳng thật, đạt đến một tŕnh độ nhất định sẽ chẳng thấy cảnh giới nữa, nó tiêu mất. V́ thế, các nhà khoa học hiện đại bảo chúng ta: Vũ trụ to lớn vô cùng tận, khoa học hiện thời có thể thăm ḍ vũ trụ vĩ mô, nhưng chỉ có thể thăm ḍ mười phần trăm của toàn thể vũ trụ. Nói cách khác, hăy c̣n chín mươi phần trăm vũ trụ chưa thấy! Chúng ta nghe câu ấy bèn hiểu, người tu học Đại Thừa bèn hiểu rơ, lời các nhà khoa học nói là thật, chín mươi phần trăm chẳng thấy, v́ sao không thấy? Đă tỉnh mộng, sau khi tỉnh giấc, chẳng thấy cảnh giới trong mộng nữa, do đạo lư này. V́ thế, họ đă ḍ xét chân tướng vũ trụ khá lắm, chúng ta rất bội phục, [nhưng họ] vẫn chưa đạt đến rốt ráo, vẫn chưa triệt để. Nếu đạt đến triệt để, tôi tin là sẽ hoàn toàn giống như kinh Đại Thừa đă nói.

      Mười pháp giới chẳng c̣n, xuất hiện cảnh giới ǵ? Chính là cơi Thật Báo Trang Nghiêm của chư Phật Như Lai như trong Phật pháp thường giảng, hoặc thế giới Cực Lạc như trong Tịnh Độ Tông đă nói, hoặc thế giới Hoa Tạng như trong kinh Hoa Nghiêm đă nói. Những thế giới ấy đều là cơi Thật Báo Trang Nghiêm, chúng ta c̣n gọi nó là Nhất Chân pháp giới. Nó có thật hay không? Nếu nó là thật, th́ trong kinh Bát Nhă, đức Thế Tôn phải nói: “Phàm những ǵ có h́nh tướng đều là hư vọng, trừ cơi Thật Báo Trang Nghiêm của chư Phật ra!”, phải nói theo cách ấy. Đức Phật chẳng nói ngoại trừ cơi Thật Báo của chư Phật; do vậy, có thể biết cơi Thật Báo Trang Nghiêm của chư Phật Như Lai cũng được gộp vào trong ấy, chúng ta chẳng nghe sai lời Phật dạy, có đúng hay không? Đúng! Cơi Thật Báo Trang Nghiêm v́ sao mà có? Nó cũng là hư vọng, là hư vọng cuối cùng; nhưng hư vọng ấy rất khó đột phá, v́ sao? Nó do tập khí vô thỉ vô minh hiện ra. Tập khí vô thỉ vô minh: Vô thỉ vô minh là khởi tâm động niệm, chẳng khởi tâm, không động niệm, vô minh bèn bị phá. Tuy đă phá vô minh, tập khí vẫn c̣n, nhưng tập khí ấy chẳng nẩy sanh chướng ngại đối với chính ḿnh và đối với sự giáo hóa chúng sanh. Do vậy, sau khi phá vô minh, nói theo thực tế, trí huệ, thần thông, đạo lực vô cùng giống với quả vị rốt ráo, chỉ là kèm theo tập khí. Trừ điều này ra, chẳng có ǵ khác với quả vị rốt ráo.

      Địa vị Diệu Giác là Phật quả rốt ráo, trong mười pháp giới, thuận theo nghiệp cảm của chúng sanh, Ngài có thể hiện thân thuyết pháp, có thể hiện vô lượng vô biên thân. Do vậy nói: “Nên dùng thân ǵ để độ được, bèn hiện thân ấy”. Sự ứng hiện ấy không do ư nghĩ của chính ḿnh, chư vị phải hiểu, trong Viên Giáo, từ hàng Sơ Trụ Bồ Tát trở lên không có ư nghĩ của riêng ḿnh. Nếu chính ḿnh vẫn c̣n có ư nghĩ, chẳng thoát khỏi lục đạo luân hồi. Nếu chúng ta hỏi: A La Hán có ư nghĩ của riêng ḿnh hay chăng? Không có! A La Hán có phân biệt, nhưng chẳng có ư nghĩ. Nếu chính ḿnh có ư nghĩ, sẽ chẳng thoát khỏi lục đạo. Bởi lẽ, một điều kiện để thoát lục đạo là phá Kiến Tư phiền năo, do ư nghĩ thuộc về Tư Hoặc nên chẳng thể có [ư nghĩ mới ḥng thoát khỏi lục đạo]. Sơ Quả Tu Đà Hoàn đoạn tám mươi tám phẩm Kiến Hoặc, điều nghiêm trọng trong Kiến Hoặc là có Thành Kiến. Thành Kiến là ư nghĩ, chủ trương, cách nghĩ, cách nh́n của ta, chấp trước những thứ này, trật rồi. Hễ có chấp trước ấy th́ ngay cả Sơ Quả cũng chẳng chứng được, thật sự là lục đạo phàm phu. V́ thế, điều này được gọi là công phu. Công phu tu hành chẳng có chi khác, chẳng phải là niệm kinh cho nhiều, hay công phu định lực sâu bao nhiêu, không phải vậy! Công phu thật sự là hoàn toàn buông xuống, đừng nên chấp trước, chớ nên phân biệt, chớ nên khởi tâm động niệm, thảy đều buông xuống, đó là công phu, như vậy th́ mới có thể thật sự nâng cao linh tánh của chính ḿnh. V́ vậy, trong mỗi điều đều bao hàm ư nghĩa sâu rộng vô tận, chúng ta phải ghi nhớ trong tâm, phải nghiêm túc học tập.

      Hôm nay, chúng ta xét tới “khởi tịnh ư tâm”. Khởi () là sanh khởi. Ư chớ nên nhiễm ô, ư là tâm, đó là vọng tâm, chẳng phải là chân tâm. Chân tâm là thanh tịnh, quyết định chẳng có nhiễm ô. Ư là vọng tâm, hiện thời chúng ta luôn dùng vọng tâm. Ai dùng chân tâm? Chư Phật Như Lai dùng chân tâm, Pháp Thân Bồ Tát dùng chân tâm, những ai chưa minh tâm kiến tánh đều sử dụng vọng tâm, tức là ư niệm, luôn dùng thứ này. Bồ Tát và Phật trong mười pháp giới đều dùng vọng tâm, bất quá người ta sử dụng rất chánh đáng, chánh đáng là ǵ? Ư họ thanh tịnh, c̣n ư của chúng ta là nhiễm ô, họ vẫn dùng ư. Từ Pháp Thân Bồ Tát trở lên không dùng ư nữa, ư chẳng c̣n, ư biến thành ǵ? Ư biến thành B́nh Đẳng Tánh Trí, chư vị phải biết: Ư là Mạt Na Thức. Kinh luận Tướng Tông dạy chúng ta, chuyển Mạt Na thành B́nh Đẳng Tánh Trí, chuyển A Lại Da thành Đại Viên Kính Trí, chuyển thức thứ sáu (Ư Thức) thành Diệu Quán Sát Trí, chuyển thức thành trí, thoát khỏi mười pháp giới. Trong mười pháp giới th́ chưa chuyển, nhưng họ đúng là thật thà, biết nghe lời, thật sự làm, thực hiện một trăm phần trăm những điều đức Phật đă chỉ dạy. Vấn đề là chưa chuyển được. Hễ chuyển được, bèn vượt thoát mười pháp giới, đạt đến Nhất Chân pháp giới. V́ thế, ở đây Bồ Tát dạy chúng ta, quư vị thấy người niệm Phật nếu làm được mười thứ tâm này, không chỉ vượt thoát lục đạo luân hồi, mà cũng sẽ nhanh chóng vượt thoát mười pháp giới.

      Đầu tiên là tách rời pháp thế gian tạp nhiễm, “tạp” () là chẳng thuần, quá phức tạp rồi, “nhiễm” () là chẳng thanh tịnh, là nhiễm ô, phải tách rời những thứ ấy, tách rời là buông xuống. Tạp nhiễm vô lượng vô biên, những điều mắt chúng ta thấy, tai chúng ta nghe, sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần đều là pháp tạp nhiễm. Hiện tại xă hội tạp nhiễm tới mức băo ḥa, tạp nhiễm tới cùng cực, nẩy sanh một hiện tượng vô cùng rơ rệt trong xă hội, [hiện tượng ấy chính là] xă hội động loạn, môi trường sống thay đổi, môi trường sống là hoàn cảnh tự nhiên của chúng ta. Nay chúng ta nói địa cầu có tai nạn nhiều dường ấy, khắp nơi đều có, do nguyên nhân nào? Là v́ pháp tạp nhiễm đă quá mức, nên biến thành nông nỗi ấy! Cổ nhân Trung Quốc có nói một câu được ghi trong Tả Truyện, tức là bộ Tả Truyện do Tả Khâu Minh viết, đó là tác phẩm chú giải kinh Xuân Thu của Khổng Tử. Ông này rất lỗi lạc! Trong sách ấy, có một câu như sau: “Nhân khí thường tắc yêu hưng”, [nghĩa là] nếu người ta vứt bỏ đạo lư thường hằng, “thường” là ǵ vậy? Chính là Ngũ Thường, cũng có thể nói là năm thứ pháp đúng mực. Nếu con người chẳng cần đến những thường pháp ấy, toàn bộ yêu ma quỷ quái sẽ xuất hiện, xă hội hiện thời thuộc về t́nh cảnh này.

      Trong Ngũ Thường:

      1) Điều thứ nhất là Nhân. Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín là Ngũ Thường. Nhân là ǵ? Nhân là suy từ ḿnh mà nghĩ đến người. Quư vị thấy chữ Nhân () trong tiếng Hán là hai người, Nhân trong “nhân từ” là hai người, nghĩ đến chính ḿnh liền lập tức nghĩ đến người khác. Do vậy, “nhân giả ái nhân” (người nhân từ yêu thương con người), “phàm thị nhân, giai tu ái” (hễ là người, đều phải yêu thương), đó là Nhân. Con người hiện thời chẳng yêu thương người khác. Không chỉ chẳng yêu thương người khác, mà con người hiện thời cũng chẳng yêu thương chính ḿnh, v́ sao? Con người phải giữ vững Ngũ Thường. Làm được Ngũ Thường, đó là yêu thương chính ḿnh, là “tự ái” (tự yêu thương ḿnh). Do vậy, kẻ chẳng yêu thương chính ḿnh th́ c̣n làm sao được nữa? Thiếu căn cơ! Trong xă hội hiện thời, t́m chẳng ra!

      2) Thứ hai là Nghĩa, Nghĩa được giải thích ra sao? Nghĩa là tuân theo Lư, tức là hết thảy đều tuân theo một đạo lư, tuân thủ đạo lư ǵ vậy? Quy luật, pháp tắc của thiên nhiên, giống như thực vật mùa Xuân sanh, mùa Hạ tăng trưởng, mùa Thu thâu hoạch, mùa Đông ẩn tàng. Đó là quy luật thiên nhiên. Đời sống của con người phải phù hợp Ngũ Thường và Ngũ Hành, thân tâm mới khỏe mạnh. Trong thời đại hiện tại, sùng bái, đề cao khoa học, khoa học làm ǵ? Phá hoại toàn bộ môi trường thiên nhiên! Thực vật sanh sôi vào mùa Xuân, mùa Hè ta cũng bắt nó sanh, tiết Thu cũng bắt nó sanh, trời Đông cũng bắt nó sanh, rối loạn nó, sanh, trụ, dị, diệt đều bị rối tung, đấy là bất nghĩa. V́ thế, nói về Nghĩa theo phương diện con người th́ nói đơn giản là tư tưởng và hành vi của chúng ta hợp t́nh, hợp lư, hợp pháp bèn gọi là Nghĩa. Trái nghịch t́nh, lư, pháp sẽ là bất nghĩa. Lễ là lễ tiết, lễ tiết trọng yếu. V́ thế, cổ nhân rất coi trọng lễ tiết, chẳng dám khinh mạn, lễ tiết nhỏ nhặt cũng chẳng bỏ sót. V́ sao? Đấy là tôn trọng thiên nhiên, tôn trọng đạo. Nếu chẳng có lễ, toàn bộ đều chẳng có. Giống như cất nhà, hay xây cao ốc, nó là nền tảng; không có nền tảng, lầu cao cách mấy cũng chẳng xây thành công. Phật pháp coi trọng lễ, xếp nó thành điều thứ nhất. Quư vị thấy mười đại nguyện vương của Phổ Hiền Bồ Tát, thứ nhất là lễ kính chư Phật, rất trọng yếu, làm sao có thể coi thường được? V́ thế, Trung Quốc từ xưa tới nay được gọi là “lễ nghĩa chi bang” v́ người Trung Quốc hiểu lễ, tôn trọng lễ. Vừa mở Lễ Kư trong Ngũ Kinh của Nho gia ra, câu đầu tiên là: “Khúc Lễ viết, vô bất kính” (sách Khúc Lễ nói: “Không ǵ chẳng kính”). Chẳng có chuyện ǵ không cung kính. Đối với người, đối với sự, đối với vật đều phải cung kính. V́ sao phải cung kính? Đức Phật đă giảng thấu triệt nhất, v́ toàn thể vũ trụ và bản thân chúng ta là một Thể, một tự tánh, tâm hiện, thức biến.

      Hiện tại các nhà khoa học rất khó có, giúp chúng ta giải quyết rất nhiều vấn đề, nâng cao tín tâm của chúng ta. Các khoa học gia bảo: Trong vũ trụ chẳng có vật chất, hiện tượng vật chất là ǵ? Là một loại huyễn tướng do ư niệm của chúng ta liên tục tích lũy sanh ra. V́ sao vật chất có chất rắn, chất lỏng, và chất khí, v́ sao có những hiện tượng ấy? Đối với chất rắn như phù sa, đá tảng, đá cục, các nhà khoa học phát hiện: Do tốc độ dao động của ư niệm chúng ta khá chậm, biến thành trạng thái vật chất như đá tảng, phù sa, tức trạng thái rắn. Nếu tần suất nhanh hơn một chút, nó biến thành chất lỏng, giống như nhục thể của loài động vật chúng ta, tuy cũng là vật chất, nhưng chẳng cứng chắc như chất rắn. [Tần suất] mau hơn nữa, biến thành chất hơi. Nhanh nhất bèn biến thành sóng điện từ (electromagnetic wave), sóng ánh sáng cũng là một loại sóng điện từ. V́ thế, hết thảy hiện tượng vật chất đều trở về quang tử (photon), là năng lượng. Năng lượng và vật chất chuyển biến trở thành lẫn nhau, khoa học gia đă phát hiện điều này từ lâu, nhưng hiện thời vẫn chưa thể biến vật chất thành năng lượng dễ dàng như ư muốn. Bom nguyên tử đă được phát minh dựa trên đạo lư này. Làm thế nào để biến năng lượng thành vật chất? Họ biết chuyện này là có thể, nhưng vẫn chưa biết phương pháp! Phật pháp đă biết, Phật pháp quả thật có thể biến năng lượng thành vật chất, hiện tượng ấy rất phổ biến trong báo độ của chư Phật Như Lai. Do vậy, quan sát từ góc độ này, thế giới của Phật, Bồ Tát thật sự là cảnh giới khoa học cao nhất, thù thắng hơn chúng ta quá nhiều!

      Nhưng khoa học kỹ thuật nhất định phải được kiến lập trên cơ sở luân lư, đạo đức, nó mới thật sự có thể giúp cho con người đạt tới cảnh giới hạnh phúc mỹ măn. Nếu thiếu khuyết luân lư, đạo đức, khoa học kỹ thuật có thể đi ngược quy luật thiên nhiên, đi theo chiều hướng tương phản, đem lại tai hại cho nhân loại và thiên nhiên. Bậc thánh triết phương Đông, tổ tiên, chư Phật, Bồ Tát đều hiểu điều ấy, nên đă đặt nền tảng của giáo dục trên luân lư, đạo đức, nhân quả. Chẳng vun bồi vững bền những căn cội ấy th́ khoa học kỹ thuật phải tiến bộ thong thả một chút, chẳng thể tiến quá nhanh, nhất định phải đi sau luân lư, đạo đức mới không xuất hiện vấn đề. Nếu vứt bỏ luân lư, đạo đức, cứ mê mệt lo tiến triển khoa học, hậu hoạn sẽ vô cùng, xă hội và địa cầu chúng ta hiện thời xuất hiện tai nạn nhiều ngần ấy là do nguyên nhân ở chỗ này, chúng ta thấy rất rơ ràng; nhưng những lời ấy chẳng phải do chúng tôi nói trước tiên, mà là những điều thường được nhắc tới trong ngôn luận của tiến sĩ Thang Ân Tỷ nước Anh trong thập niên bảy mươi. Thời đại ấy hoàn toàn chưa nghiêm trọng lắm, hiện thời vấn đề nghiêm trọng đă xuất hiện, chúng ta suy nghĩ giáo huấn của cổ thánh tiên hiền, suy nghĩ lời bàn luận của tiến sĩ Thang Ân Tỷ, đúng là chẳng giả!

      Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín chẳng do bậc thánh hiền phát minh hay sáng tạo; nếu chúng ta giữ quan niệm [thánh hiền đă sáng chế những điều ấy], quư vị đă hoàn toàn sai lầm. Nếu quư vị hỏi một vị đại thánh đại hiền chân chánh, Ngài sẽ nói lời thật cùng quư vị, cả đời Ngài có sáng tạo hay không? Không có! Có phát minh hay không? Không có. Khổng Tử nói thật thà, Khổng Tử bảo cả đời Ngài “thuật nhi bất tác” (kể lại chứ không trước tác), có nghĩa là Ngài chẳng sáng tạo, chẳng phát minh. Những điều Ngài học, tu, dạy, truyền lại toàn là những thứ của cổ nhân trong quá khứ, chẳng có ǵ là của chính ḿnh. Ngài nói lời chân thật, thật thà. Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín được tổ tông các đời truyền thừa, chẳng phải do Ngài nói. Thích Ca Mâu Ni Phật v́ chúng ta giảng kinh, thuyết pháp bốn mươi chín năm, Ngài có sáng tạo, phát minh hay không? Ngài nói “không có”, và c̣n nói rơ ràng hơn Khổng phu tử, lời ấy đă được Thanh Lương đại sư nêu ra trong bộ Tứ Thập Hoa Nghiêm Huyền Nghĩa. Thích Ca Mâu Ni Phật nói hết thảy các kinh do Ngài đă giảng trong bốn mươi chín năm chẳng phải là của Ngài, mà do các vị cổ Phật đă nói. Ngài c̣n nói: “Ta chẳng nói nhiều hơn một chữ so với kinh của chư cổ Phật đă giảng”, nói c̣n nghiêm ngặt hơn Khổng lăo phu tử. Khổng lăo phu tử chỉ nói “thuật nhi bất tác”, một câu nói hàm hồ, chung chung! Thích Ca Mâu Ni Phật nói cụ thể dường ấy, chẳng thêm vào kinh giáo của cổ Phật một chữ nào. Quư vị thấy “tín nhi hiếu cổ” (tin tưởng, chuộng cổ), tin tưởng, yêu thích những thứ của cổ nhân; c̣n người hiện thời ra sao? Người hiện thời chẳng tin những thứ của cổ nhân, [cho rằng] mọi thứ của cổ nhân đă lỗi thời, đều có thể vứt bỏ, chẳng cần đến nữa, hiện thời phải sáng tạo cái mới. Tôi c̣n nghe nói: “Trong vườn trẻ, thầy cho bài tập đ̣i hỏi trẻ nhỏ phải sáng tạo cái mới”, tôi nghe mà kinh sợ, từ bé tí như vậy mà đă bắt chúng nó sáng tạo cái mới, đáng sợ chưa? Những thứ của cổ thánh tiên hiền đều bị đào thải sạch sành sanh, vậy th́ thế giới này phải hủy diệt. Tôi vừa mới nói, [những ngôn luận, tư tưởng, trước tác của] cổ thánh tiên hiền chẳng phải là sáng tạo, mà là tánh đức, những ǵ được đời đời truyền lại đều là tánh đức trong tự tánh, đều là những thứ chúng sanh vốn sẵn có trong tánh đức. Trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật đă nói: “Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng của Như Lai”, Như Lai là tự tánh, trong tự tánh của hết thảy chúng sanh vốn có vô lượng trí huệ, vô tận trí huệ, chẳng phải do bên ngoài mà có. Không chỉ có trí huệ, mà c̣n có đức năng, nay ta gọi [đức năng là] năng lực, không ǵ chẳng thể, trong tự tánh của quư vị vốn sẵn có [những đức năng ấy]. Thứ ba là nói tới tướng hảo, nay ta gọi tướng hảo là phước báo. Trí huệ, năng lực, và phước báo mọi người đều b́nh đẳng, chẳng có mảy may sai biệt nào! Nay v́ sao không có? V́ sao bất b́nh đẳng? Do phiền năo khởi tác dụng, phiền năo là ǵ? Khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước, những thứ ấy dầy hay mỏng khác nhau, cho nên trí huệ và đức tướng tỏ lộ không giống nhau.

      Ở đây, đức Phật dạy chúng ta là dạy hàng sơ học, hăy ĺa khỏi các pháp tạp nhiễm trong thế gian. Cội rễ của tạp nhiễm chính Ngă Chấp như chúng tôi đă nói trong phần trước, trong chấp trước nói đến Ngă Chấp, chấp trước cái thân là ta, đó là cội nguồn của hết thảy họa hoạn. V́ thế, nhà Phật nói Vô Ngă. Vô Ngă chẳng phải là thật sự không có Ngă, mà là nói lục đạo chúng sanh chấp trước thân là ta, [sự chấp trước ấy] sai lầm. Có Chân Ngă hay không? Có Chân Ngă. Nay chúng ta không nhận biết Chân Ngă, ngỡ Giả Ngă là Chân Ngă, Giả Ngă là ǵ? Giả Ngă là cái ta có, giống như quần áo, quần áo là cái ta có. Hiện thời một người nghiễm nhiên có những thứ hồ đồ như vậy, quên khuấy [Chân] Ngă, coi y phục là ta. T́nh h́nh của lục đạo chúng sanh là như thế, coi quần áo là ta, quên bẵng cái Ngă thật sự, hết thảy toàn là lo toan cho quần áo, quư vị nói xem có oan uổng hay không? Do vậy, đức Phật bảo chúng ta đă mê, đó là căn cội, nguồn gốc, khởi đầu của mê. V́ thế, đức Phật dạy chúng ta trước hết phải phá Ngă Chấp. Phá trừ Ngă Chấp, chẳng c̣n chấp trước thân này là ta, chúc mừng quư vị, quư vị thật sự nhập Phật môn, là đệ tử Phật, đă chứng quả Tu Đà Hoàn trong Tiểu Thừa, chứng Sơ Tín trong địa vị Thập Tín Bồ Tát của Đại Thừa. Thập Tín là Tiểu Học trong Phật giáo, Sơ Tín là lớp Một, giống như kinh Kim Cang đă nói: “Vô ngă tướng, vô nhân tướng, vô chúng sanh tướng, vô thọ giả tướng”, người như vậy mới học lớp Một. Cửa nẻo Phật pháp cao lắm, dẫu quư vị nghiên cứu kinh điển giỏi giang đến mấy, nói đến nỗi hoa trời rơi loạn xạ, mà vẫn ngỡ thân này là ta, quư vị chưa vào được cửa! Quư vị học suốt đời vẫn là Phật học, Phật học là ǵ? Tri thức, tức kiến thức về Phật học và Phật giáo, vô dụng! Đức Phật đ̣i hỏi chúng ta phải học ǵ? Học trí huệ, chẳng phải là học tri thức. Trí huệ và tri thức là hai chuyện [khác nhau], trí huệ là quư vị học được th́ phải làm được, thật sự thọ dụng. Một người đạt đến vô ngă sẽ tự tại lắm!

      Chư vị biết vô ngă sẽ tự tại ở chỗ nào? Nếu quư vị chứng vô ngă, sẽ vĩnh viễn trẻ trung, vĩnh viễn chẳng ngă bệnh, thân tâm khỏe mạnh, đấy là điều đầu tiên quư vị đạt được. V́ sao quư vị bị bệnh? Ngă mới có bệnh, không có Ngă, ai sanh bệnh? Bệnh ở chỗ nào? Chẳng c̣n nữa. V́ thế, mỗi tế bào trên toàn thân quư vị đều b́nh thường, khỏe mạnh. V́ sao có Ngă th́ bị bệnh? Có Ngă th́ có tự tư tự lợi, có tham, sân, si, mạn. Quư vị thấy nhà Phật gọi tham, sân, si là Tam Độc, đó là vi trùng gây bệnh nguyên thủy nhất, trong tế bào của quư vị có những thứ ấy. Trong tế bào có những vi trùng độc tham, sân, si như thế, bên ngoài rất dễ bị cảm nhiễm. Bên trong không có vi trùng, bên ngoài sẽ chẳng bị lây bệnh, đạo lư là như vậy. Đây là chỗ khác biệt giữa Trung Y và Tây Y, Tây Y không biết đạo lư này, c̣n Trung Y th́ hiểu. Một người mắc bệnh nghiêm trọng nhất, nếu tâm thái tốt đẹp, thầy thuốc cho người ấy dùng một chút thuốc, rất dễ dàng khôi phục sức khỏe. V́ thế, quư vị thấy hễ có Ngă Chấp sẽ kèm theo lắm nỗi phiền năo ngần ấy. Từ phiền năo sẽ sanh khởi ngũ dục, lục trần, tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ bên ngoài là ngoại duyên, sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp là lục trần, là tạp nhiễm. Đức Phật quy nạp vô lượng vô biên tạp nhiễm thành mấy loại lớn để thuận tiện dạy học. Nếu chẳng tách ĺa những thứ ấy, tâm quư vị làm sao có thể thanh tịnh cho được? C̣n có tiếng tăm, lợi dưỡng, chúng đều là giả, đem theo không được! Phật, Bồ Tát, tổ sư đại đức dạy chúng ta, hễ thứ ǵ mang theo không được th́ chớ nên để trong ḷng. Có th́ tốt lắm, không có cũng tốt lắm! Căn bản là chẳng bận ḷng, tâm quư vị mới thanh tịnh.

      “Phục ư lợi dưỡng đẳng sự” (lại đối với các sự như lợi dưỡng v.v...), lợi dưỡng là nói tới ngũ dục, lục trần, người hiện thời rất coi trọng chúng, chúng là đối tượng tham muốn của quư vị. Có những sự ấy, có thân thể th́ cần phải nuôi dưỡng nó, nhưng câu tiếp đó quan trọng lắm: “Thường sanh tri túc chi tâm” (thường sanh tâm biết đủ). Thích Ca Mâu Ni Phật đă làm cho chúng ta thấy, cả đời lăo nhân gia hiện diện trên thế gian, Ngài chẳng xuất thân từ chốn bần cùng, mà đến từ gia đ́nh phú quư, cha là quốc vương, xuất thân từ vương tộc. Cả đời Ngài sống theo nếp sống của một vị Tăng khổ hạnh, thể hiện “tri túc thường lạc” (biết đủ, thường vui). Đă thế, lại c̣n bắt đầu [cuộc sống khổ hạnh ấy] khi c̣n rất trẻ, mười chín tuổi rời khỏi gia đ́nh, đi ra ngoài cầu học, tầm sư phỏng đạo mười hai năm. Thường nghĩ thế gian này có quá nhiều chúng sanh khổ nạn, họ sống cuộc đời như thế nào? Chúng ta hơi dư dả đôi chút, [cuộc sống] đă tốt đẹp hơn họ nhiều lắm, vẫn c̣n chưa biết đủ hay sao? Không biết đủ là tội nghiệt (mầm mống tội lỗi)! Kẻ không biết đủ do muốn chiếm hữu, muốn khống chế, bèn tạo tội nghiệp. Nếu đối với chỗ này mà có tâm cảnh giác, có thể giác ngộ, trong cuộc sống vật chất chúng ta có thể làm được “tri túc thường lạc”, tâm quư vị sẽ thanh tịnh. Đấy là “khởi tịnh ư tâm”, tâm quư vị ngày càng thanh tịnh. Tâm thanh tịnh, thân sẽ thanh tịnh. Trong ư, buông tự tư tự lợi xuống, buông tham, sân, si, mạn xuống, những nhân tố gây bệnh trong tế bào trên thân thể vật chất này chẳng c̣n nữa, bị hóa giải, bèn khôi phục b́nh thường. Thân tâm khỏe mạnh, vĩnh viễn chẳng ngă bệnh, cuộc sống vui sướng lắm, cớ sao chúng ta chẳng làm? Điều quan trọng là chẳng tham, mở rộng ư nghĩa thành chẳng sân và chẳng si.

      Chúng ta lại xem điều thứ sáu tiếp đó: “Lục, vô vong thất tâm. Niệm Phật chi nhân, cầu sanh Tịnh Độ, thành Phật Chủng Trí, ư nhất thiết thời, niệm niệm bất xả, thị danh vô vong thất tâm” (Sáu, tâm chẳng quên mất. Người niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, thành Phật Chủng Trí, trong hết thảy các thời, niệm niệm chẳng bỏ, đó là tâm chẳng quên mất). Điều này có ư nghĩa chẳng phức tạp, hoàn toàn quy nạp vào pháp môn Tịnh Độ. Chẳng mất ư niệm, vô lượng pháp môn của Như Lai chẳng mất, Ngài dạy chúng ta chẳng quên niệm Phật, đúng như Đại Thế Chí Bồ Tát đă nói: “Ức Phật, niệm Phật, hiện tiền, đương lai, tất định kiến Phật” (nhớ Phật, niệm Phật, hiện tiền, tương lai, nhất định thấy Phật). Do đặc biệt trong thời đại hiện tại, tai nạn rất nhiều, khi nào tai nạn xảy ra, không ai biết. Tôi cũng nghe một người nói, anh ta nghe một người thông linh nói sẽ có rất nhiều tai nạn, rốt cuộc hỏi người ấy khi nào tai nạn sẽ phát sanh? Hỏi rất nhiều lượt, câu trả lời vẫn là một câu: “Thiên cơ chẳng thể tiết lộ”. Có hay không? Thật sự có, nhưng khi nào th́ không ai biết. Lại c̣n gần như chẳng hề cảnh cáo trước, hễ nói là xảy ra bèn xảy ra.

      Hai tháng trước, vào đầu tháng Sáu, tôi theo đoàn phỏng vấn tôn giáo Mă Lai đến thăm La Mă, thăm Vatican, tiện dịp viếng thăm khu Nam La Mă, lái xe đại khái gần ba tiếng, thăm cổ thành Bàng Bối (Pompeii). Hai ngàn năm trước, thành này bị tro núi lửa chôn vùi. Nghe nói khi ấy, cư dân trong thành thị đó trốn được một phần, c̣n lại chừng hơn bốn ngàn người không chạy trốn được, đều gặp nạn. Thời gian bao lâu? Chỉ có mấy giây! Tôi đặc biệt đến thăm thành ấy, mong hiểu rơ t́nh trạng thuở ấy. V́ sao? Trong thế giới hiện tiền, rất có thể là trạng huống như vậy xảy ra tại bất cứ nơi nào, chúng ta phải chuẩn bị tâm lư, nó xảy ra quá đột ngột, quá nhanh chóng, giống như chúng ta coi phim 2012, trở tay không kịp! Bất cứ ư niệm ǵ cũng chớ nên dấy lên, trong khoảnh khắc ấy chỉ nên dấy lên ư niệm niệm Phật, dẫu đều chết sạch th́ mỗi cá nhân sẽ đi đến những chỗ khác nhau!

      V́ thế, nói tới lục đạo luân hồi, mỗi cá nhân đến mỗi chỗ khác nhau. Ai quyết định quư vị sẽ đến chỗ nào? Thưa quư vị, chẳng có ai quyết định! Lúc ấy, chẳng phải do thiên thần quyết định, cũng chẳng do Diêm La Vương quyết định, mà do ư niệm của chính quư vị! Trong Phật pháp đă nói rất hay, ư niệm cuối cùng của quư vị là ǵ? Nếu niệm cuối cùng tâm tham, bất luận quư vị nghĩ đến tài sản hay là người nhà, quyến thuộc, ư niệm cuối cùng quư vị nghĩ đến là tham. Tâm tham sẽ đọa trong ngạ quỷ đạo. Nếu niệm cuối cùng là sân hận, có oán giận, oán khí, trong tâm bất b́nh, sẽ là địa ngục đạo. Ư niệm cuối cùng là hồ đồ, ngu si, dẫu chẳng có vọng niệm ǵ, nhưng mơ mơ màng màng, quá nửa sẽ vào súc sanh đạo. Niệm cuối cùng là A Di Đà Phật, quư vị sanh sang thế giới Cực Lạc. Niệm cuối cùng nghĩ về Chân Chúa, quư vị sẽ sanh lên trời, niệm cuối cùng là như thế đó. Khi thọ mạng đời này chấm dứt, đời sau đến nơi nào là do một niệm cuối cùng, đó là mấu chốt. Quư vị hiểu rơ đạo lư này, trời già rất công bằng, chẳng có hậu đăi kẻ này, xử bạc kẻ kia, hoàn toàn đúng như cổ nhân Trung Quốc đă nói: “Tự làm, tự chịu”. Chúng ta hiểu rơ đạo lư này, hiểu rơ chân tướng sự thật, như vậy th́ phải huấn luyện ngay trong hiện tại, huấn luyện ǵ vậy? Huấn luyện ư niệm này: Thời thời khắc khắc đều có ư niệm A Di Đà Phật. Tai nạn xảy đến chẳng sao cả, xảy đến th́ ta sang thế giới Cực Lạc; khi nó chưa xảy ra, ta tiếp tục niệm Phật, đấy là đúng, hoàn toàn đúng. Chủ tể tương lai của chính ḿnh là ư niệm của chính ḿnh. Chúng tôi có lư do để tin tưởng, trong kinh điển của mỗi tôn giáo đều nói như thế, những vị đại thánh đại hiền chẳng lừa gạt người khác.

      Trong đoạn văn tự này, câu “cầu sanh Tịnh Độ” dễ hiểu, sanh về Tịnh Độ để làm ǵ, v́ sao? Để thành Phật Chủng Trí; nói cách khác, trong thế giới Cực Lạc chỉ có một mục tiêu, chỉ có một phương hướng, đó là chỉ cầu thành tựu Nhất Thiết Chủng Trí của Phật. Câu này cũng có nghĩa là đến thế giới Cực Lạc, ở trong hội của A Di Đà Phật, cầu Phật chỉ dạy chúng ta, giúp chúng ta chứng đắc minh tâm kiến tánh, đại triệt đại ngộ, “thành Phật Chủng Trí” chính là ư nghĩa này, trở về tự tánh. Trở về tự tánh, trí huệ viên măn trong tự tánh là Nhất Thiết Chủng Trí. Trong Phật pháp, danh từ này bao gồm hai ư nghĩa, hai thuật ngữ, thứ nhất là Nhất Thiết Trí, thứ hai là Đạo Chủng Trí. Nhất Thiết Trí cũng là Căn Bản Trí, liễu giải chân tướng của vũ trụ và nhân sinh, nhà Phật thường nói: “Vạn pháp đều không”, kinh Bát Nhă dạy: “Hết thảy các pháp vô sở hữu, rốt ráo không, trọn chẳng thể được”. Câu này thoạt nh́n dường như chẳng sâu, trên thực tế rất ư là sâu. Thích Ca Mâu Ni Phật suốt đời giáo học, giảng kinh Bát Nhă suốt hai mươi hai năm, gần như chiếm một nửa thời gian giáo học của Ngài để giảng đạo lư này. Hai mươi hai năm Bát Nhă được tổng kết bằng một câu này, một câu nói này gồm trọn hai mươi hai năm, quư vị biết nó rất sâu, rất rộng. Hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian không có pháp nào ngoại lệ, “vô sở hữu, rốt ráo không, trọn chẳng thể được”.

      Hết sức khó có, hiện thời, các nhà khoa học Lượng Tử Lực Học đă dần dần chứng thực câu nói này. Lời Thích Ca Mâu Ni Phật giảng là lời thật, chẳng giả, thật sự thấu triệt rơ ràng th́ quư vị mới buông xuống hết thảy. Hiểu rơ chân tướng sự thật, chân tướng sự thật ấy là ǵ? Toàn thể vũ trụ và chính ḿnh là một Thể, không phải là “một nhà”, một nhà vẫn chưa phải là một Thể. Đức Phật bảo chúng ta, quan hệ giữa khắp pháp giới hư không giới và chính ḿnh là một Thể, điều này được gọi là luân lư trong nhà Phật. Do vậy, ḷng từ bi của Phật không có điều kiện, đối với hết thảy mọi người, hết thảy sự vật, vạn vật trong trời đất, tâm từ bi b́nh đẳng, tâm từ bi thanh tịnh. Người hiện thời gọi từ bi là tâm yêu thương. [Từ bi] là tâm yêu thương b́nh đẳng, chẳng có sai khác. V́ sao? Một Thể, người ấy biết là [vạn pháp và chính ḿnh là] một Thể, đó là Nhất Thiết Trí. Đạo Chủng Trí là chuyện như thế nào? Là mỗi chuyện, mỗi vật, phát sanh như thế nào, v́ sao nó phát sanh, đối với các đạo lư sai khác đó, người ấy đều hiểu rơ, chẳng có ǵ không hiểu rơ, biết sự biến hóa phức tạp trong vũ trụ đều là bản năng trong tự tánh. Hai thứ trí huệ ấy đều chứng đắc, đều khôi phục, th́ mới thật sự đáng gọi là “không ǵ chẳng biết, không ǵ chẳng thể”. “Không ǵ chẳng biết” là trí huệ Bát Nhă vốn sẵn có trong tự tánh, “không ǵ chẳng thể” là vô lượng đức năng vốn sẵn có trong tự tánh, hiển thị ra ngoài thành tướng hảo, đó gọi là y báo và chánh báo trang nghiêm.

      Đối với người mới học Phật mà nói, v́ sao phải học Phật? Nhằm chứng đắc, khôi phục trí huệ, đức năng, và tướng hảo trong tự tánh, v́ những điều này. Có thể làm được hay không? Có thể. Trong Khởi Tín Luận, Mă Minh Bồ Tát dạy: “Bổn Giác vốn có, bất giác vốn không”, hai câu ấy dạy chúng ta phải tin tưởng chắc chắn, đức Phật nói trí huệ và đức tướng sẵn có trong tự tánh của chúng ta. Nếu là vốn có, đương nhiên có thể khôi phục. Những thứ vọng tưởng, phân biệt, chấp trước vốn không có, trong tự tánh chẳng có, hiện tại dường như có, nhưng tự tánh không có, đương nhiên có thể buông chúng xuống. Nói theo phía người b́nh phàm chúng ta, đương nhiên là có thể đoạn trừ chúng. Học Phật là học ǵ? Học điều này: Trở về tự tánh mà thôi. Trở về tự tánh khó khăn, quư vị đọc kinh thông suốt, hiểu rơ, đó là giải ngộ. Quư vị đă hiểu rơ, nhưng chưa thực hiện, chưa làm được. Làm được là chứng ngộ, làm được mới hữu dụng, thật sự hữu dụng. Ta hiểu rơ, liễu giải rồi, vẫn chưa làm được. Muốn làm, nhưng chẳng đơn giản như vậy, làm thế nào để buông tập khí vô thỉ phiền năo xuống? Tám vạn bốn ngàn pháp môn như trong Đại Thừa đă nói chính là tám vạn bốn ngàn phương pháp khác nhau giúp quư vị buông xuống, có vô lượng pháp môn, giáo pháp Đại Thừa dạy chúng ta như thế. Trong các phương pháp nhiều ngần ấy, quư vị chỉ cần dùng một phương pháp là được, không cần phải t́m thật nhiều thứ, nhưng phương pháp [được chọn] ấy phải là phương pháp mà chúng ta suy gẫm thấy chính ḿnh có thể làm được. Phương pháp có khó và dễ, căn tánh của mỗi cá nhân khác nhau; v́ thế, đức Phật cho phép chúng ta chọn lựa tự do. “Pháp môn b́nh đẳng, chẳng có cao thấp”, lời ấy rất hay! Trong các pháp môn, chẳng có pháp môn nào ưu việt, không hề có, đều là b́nh đẳng! Ưu việt tùy thuộc bản thân quư vị, căn tánh của quư vị sai khác, phương pháp nào dễ sử dụng đối với chính ḿnh th́ chúng ta dùng phương pháp đó. Đức Phật đặc biệt giới thiệu với chúng ta một pháp môn, tức là pháp Niệm Phật, pháp môn này thuận tiện, dễ dàng, ổn thỏa, thích đáng, rất nhanh chóng, thật sự nương theo phương pháp này để tu học, gần như Thích Ca Mâu Ni Phật có thể đảm bảo chúng ta sẽ thành công trong một đời này; đó là người niệm Phật. V́ vậy, trong hết thảy các thời niệm niệm chẳng bỏ ư niệm cầu sanh Tịnh Độ và một câu Phật hiệu A Di Đà Phật, câu ấy rất quan trọng, giúp chúng ta trở về tự tánh. Đây là dạy chúng ta nhớ Phật, niệm Phật, trong tâm thường nghĩ đến Phật, đặc biệt phải nghĩ tới Phật giáo hóa, độ thoát chúng sanh, công đức vô lượng vô biên. Phật chẳng có tâm riêng tư, v́ sao? Ngài biết hết thảy chúng sanh trong khắp pháp giới hư không giới và Ngài là một Thể, làm sao Ngài có tâm riêng tư cho được? Niệm niệm v́ chúng sanh chính là niệm niệm v́ chính ḿnh, niệm niệm giúp chúng sanh chính là niệm niệm giúp chính ḿnh, lư này rất ư là sâu. Do chư Phật, Bồ Tát không vị nào chẳng bỏ ḿnh v́ người, nên các Ngài mới có thể thật sự quay đầu, thật sự buông xuống, thật sự đạt đến thành tựu viên măn.

      Tiếp theo đó là điều thứ bảy: “Vô hạ liệt tâm. Niệm Phật chi nhân, thường hành b́nh đẳng chi tâm, ư chư chúng sanh, tôn trọng cung kính, bất sanh khinh mạn, thị danh vô hạ liệt tâm” (Tâm chẳng kém hèn: Người niệm Phật tâm thường hành b́nh đẳng, đối với các chúng sanh tôn trọng, cung kính, chẳng sanh ḷng khinh mạn, đó là tâm chẳng kém hèn). Trong b́nh đẳng mới có sự đối đăi ḥa thuận. Phật pháp và cổ thánh tiên hiền Trung Quốc có chung quan niệm, giáo hóa chúng sanh th́ nói quả trước, nói nhân sau. V́ sao? Chúng sanh b́nh phàm rất thực dụng, họ phải thấy kết quả trước, hiểu rơ rồi, đă thấy tốt xấu rồi mới giảng cái nhân cho họ, họ sẽ tin tưởng, tiếp nhận dễ dàng. B́nh đẳng là nhân, ḥa hài là quả, người Hoa gọi là ḥa b́nh, ḥa là quả, b́nh là nhân. Người Nhật Bản học theo văn hóa Trung Quốc, nhưng người Hoa nói “ḥa b́nh”, c̣n người Nhật nói là “b́nh ḥa”, đúng hay không? Cũng đúng, “b́nh ḥa” là nói nhân trước, nói quả sau. Có b́nh đẳng rồi mới có ḥa hài! V́ thế, ngày nay chúng ta muốn nói đến thế giới ḥa b́nh, thế giới ḥa hài, nếu thế giới này chẳng b́nh đẳng th́ ḥa hài chỉ là khẩu hiệu, không thực hiện được! Xă hội này là xă hội rất bất b́nh đẳng, cho nên nơi nào cũng nẩy sanh xung đột, hóa giải xung đột bằng cách nào? Đối đăi b́nh đẳng, ḥa hài sẽ xuất hiện, có thể hóa giải xung đột. Lời này nói dễ dàng, nhưng thực hiện chẳng đơn giản. Chúng ta phải suy nghĩ, nghiêm túc tư duy, cổ thánh tiên hiền làm như thế nào? Dùng phương pháp ǵ để làm? Các Ngài dùng giáo dục. Mục đích của giáo dục là ở chỗ nào? Mục đích của giáo dục là giúp đại chúng giác ngộ. Đại chúng thật sự giác ngộ, thật sự hiểu rơ, khắp pháp giới hư không giới và ta là một Thể, tâm b́nh đẳng sẽ hiện tiền. Quư vị thấy các nhà Pháp Tướng Duy Thức chuyển Mạt Na Thức thành B́nh Đẳng Tánh Trí, ḥa hài bèn xuất hiện. Mạt Na là Ư Thức, đă mê th́ gọi là Ư Thức, là Mạt Na Thức. Đă giác ngộ, nó chính là B́nh Đẳng Tánh, tức B́nh Đẳng Tánh Trí trong tự tánh. Muốn giúp cho con người chuyển thức thành trí, trừ giáo dục ra, không có phương cách nào khác. Trong cách nh́n theo Phật pháp của chúng tôi, tổ tông của mỗi dân tộc trên thế giới đều là Phật, Bồ Tát thị hiện, nói theo tôn giáo th́ họ đều là chân thần thị hiện. Nói như vậy hợp lư, mỗi vị đều là bậc minh tâm kiến tánh. V́ vậy, họ lưu lại giáo huấn tương ứng với tánh đức viên măn, ngôn ngữ, trí huệ, lời bàn xứng tánh đều từ tự tánh lưu lộ, chẳng phải do sáng tạo, chẳng phải là phát minh. Bởi lẽ, “con người có cùng cái tâm này, tâm cùng một lư này”.

      Tôi bàn với giáo sư Mạch Đại Duy (David McMullen) của khoa Hán học trường đại học Kiếm Kiều (Cambridge) về phương pháp và quan điểm giáo học, những thứ tốt đẹp của cổ nhân Trung Quốc đă truyền lại mấy ngàn năm, chẳng ai thay đổi được. Ông ta hỏi tôi: “Mấy câu nào vậy?” Tôi bảo: “Đó là tám câu đầu trong Tam Tự Kinh”. Ông ta có thể đọc thuộc ḷng Tam Tự Kinh. Là một nhà Hán Học, không biết ông ta đă đọc thuộc ḷng bao nhiêu lượt, nhưng chẳng thấu hiểu. Quan điểm giáo học đầu tiên là phải thừa nhận “con người tánh vốn lành”, giống như trong sự giáo dục của Phật Đà. Quư vị thấy quan điểm trung tâm trong nền giáo dục của đức Phật là “hết thảy chúng sanh vốn là Phật”, ư nghĩa hoàn toàn giống với “nhân chi sơ, tánh bổn thiện” (người thoạt đầu, tánh vốn lành) [trong Tam Tự Kinh]. V́ thế, quư vị làm công tác giáo dục, giáo học, đầu tiên quư vị phải khẳng định con người tánh vốn lành. Mục đích giáo dục là đâu? Mục đích chính là phải giúp hết thảy chúng sanh trở về bổn thiện, trong Đại Thừa Phật pháp, bổn thiện là đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, đó mới là bổn thiện, bổn thiện chính là thành Phật. V́ sao phải dạy? Câu tiếp đó đă nói rơ ràng: “Tánh tương cận, tập tương viễn” (Tánh th́ giống nhau, do được huân tập mà trở thành khác nhau). Tánh vốn lành, giống nhau, hoàn toàn giống nhau, nhưng do huân tập nên ngày càng cách xa bổn tánh. Tập tánh là ǵ? Thói quen, bổn tánh vốn lành, tập tánh bất thiện. Cổ nhân Trung Quốc nói: “Cận châu tắc xích, cận mặc tắc hắc” (Gần son th́ đỏ, gần mực th́ đen); một đứa bé hết sức dễ bị cảnh giới bên ngoài cảm nhiễm, nó ở cùng người tốt sẽ biến thành người tốt, ở cùng kẻ ác sẽ biến thành xấu xa, đó gọi là tập tánh. Mục đích của giáo dục là làm sao giúp cho con người từ tập tánh bất thiện quay về bổn thiện, đó là mục đích của giáo dục. V́ vậy, quan điểm giáo dục được phát triển từ chỗ này. “Cẩu bất giáo, tánh năi thiên” (nếu chẳng dạy, tánh sẽ biến đổi). Chỉ cần dạy cho con người tốt đẹp, chuyện bất hảo nào trong xă hội cũng chẳng phát sanh, bất cứ tai nạn nào trên địa cầu cũng chẳng nẩy sanh. Do vậy, người Trung Quốc hiểu giáo dục, có trí huệ về phương diện giáo dục, có phương pháp và kinh nghiệm giáo dục, nên giáo dục có hiệu quả. Vô cùng đáng tiếc là sau khi nhà Măn Thanh vong quốc một thế kỷ, trong một trăm năm ấy, chúng ta đă coi nhẹ, khinh rẻ những giáo huấn của tổ tông, xă hội mới xuất hiện các phiền phức nhiều ngần ấy, núi, sông, đại địa phát sanh các tai biến nhiều dường ấy. Truy tới căn bản [th́ ra] giáo dục có vấn đề!

      “Giáo chi đạo, quư dĩ chuyên” (đường lối giáo dục quư ở chỗ chuyên nhất), chúng ta muốn học tốt đẹp, muốn học theo bậc thánh, muốn học theo người hiền, có thể làm được hay không? Chỉ cần quư vị kiên tŕ, ngăn ngừa hết thảy nhiễm ô, như đă nói trong phần “khởi tịnh ư tâm” ở trên th́ sẽ thực hiện được. Vâng giữ tám câu giáo huấn của tổ tông, ai nấy đều có thể trở thành thánh nhân, hiền nhân. Chẳng gặp thiện tri thức chân chánh hoặc thầy tốt, có thể lấy cổ nhân làm thầy, trước tác của cổ nhân hăy c̣n, hăy khéo đọc, học tập, y giáo phụng hành, có thể thực hiện. Tại Trung Quốc, người nêu gương đầu tiên là Mạnh Tử, Mạnh Tử học theo Khổng Tử. Khổng Tử đă chẳng c̣n, qua đời rồi, nhưng Thi, Thư, Lễ, Nhạc do Khổng Tử san định hăy c̣n, những văn tự do Khổng Tử biên tập giáo huấn của cổ thánh tiên hiền hăy c̣n. Mạnh Tử có được những tác phẩm ấy bèn nghiêm túc học tập, chỗ nào không hiểu rơ bèn thỉnh giáo các đệ tử của Khổng Tử, Ngài học thành công, học giống như Khổng Tử, vượt trỗi các đại đệ tử của Khổng Tử thuở ấy. V́ thế, hiện thời nhắc tới Khổng Mạnh, chẳng nói Khổng Tăng, tuy Tăng Tử cũng khá lắm, Hữu Tử cũng khá lắm, nhưng chẳng nhắc tới, chỉ nhắc tới Khổng Mạnh. Quư vị thấy vị tư thục đệ tử này chưa hề gặp Khổng Tử, chiếu theo những trước tác c̣n lưu lại của Khổng Tử để học tập, nghiễm nhiên vượt trỗi những học tṛ do chính Khổng Tử chỉ dạy thời ấy, nêu gương tốt nhất cho chúng ta. Sách của Khổng Tử c̣n đó, Tứ Thư, Ngũ Kinh, nếu chúng ta chiếu theo đó, nghiêm túc học tập, bỏ ra mười năm công phu cũng có thể làm được như Mạnh Tử, chẳng phải là làm không được, v́ sao không làm? Thời gian mười năm không dài, chỉ cần thật sự bỏ mười năm công phu, cổ nhân nói rất hay: “Thập tải hàn song, nhất cử thành danh” (mười năm quạnh quẽ miệt mài, một mai thi đậu công danh rỡ ràng). Trong Phật pháp, Ngẫu Ích đại sư đă nêu gương cho chúng ta. Ngẫu Ích đại sư ngưỡng mộ ngài Liên Tŕ, học theo Liên Tŕ đại sư. Liên Tŕ đại sư đă văng sanh, chẳng c̣n tại thế, nhưng trước tác của Liên Tŕ đại sư c̣n đó, học tṛ của Ngài là Thành Thời tu chỉnh, khắc ván lưu thông. Ngẫu Ích đại sư có được những bộ sách của Liên Tŕ đại sư bèn nghiêm túc học tập. Liên Tŕ là tổ sư đời thứ tám của Tịnh Tông, Ngẫu Ích trở thành tổ sư đời thứ chín. V́ thế, có thầy và có hoàn cảnh học tập là đại phước báo! Điều ấy có thể gặp, chứ chẳng thể cầu, không có hoàn cảnh ấy vẫn có thể học thành công, đó là Mạnh Tử và Ngẫu Ích đại sư.

      Trong hiện tại, chúng ta vừa phát hiện một người, tại miền Đông Bắc Trung Quốc có cư sĩ Lưu Tố Vân, dùng thời gian mười năm để học một bộ kinh Vô Lượng Thọ, học thành công. Hiện thời, bà ta giảng kinh Vô Lượng Thọ không cần dùng kinh bổn, giảng chỗ nào cũng thấm đẫm đạo lư, pháp duyên thù thắng, đến nơi nào cũng được người ta hoan nghênh. Mười năm, một quyển sách, bà ta học như thế nào? Bà ta có một bộ đĩa CD, thuở ấy, bà ta đă năm mươi lăm tuổi! Năm mươi lăm tuổi mới bắt đầu, khi đó, bà có được một bộ đĩa CD kinh Vô Lượng Thọ, sáu mươi giờ. Chúng tôi không biết bà ta, tới năm nay tôi mới gặp mặt bà, bà ta đă thành công, mười năm bèn thành công. Bà ta kể mỗi ngày nghe một đĩa CD, tức là một giờ, đối với một giờ giảng bà ta nghe mười lần. V́ bà ta nghe tôi giảng kinh có nói một câu như sau: “Thâm nhập một môn, huân tu lâu dài”, bà ta ghi nhớ câu ấy, thật sự làm theo. Thâm nhập một môn, tức là nghe một bộ kinh đến cùng, chẳng có ư niệm thứ hai, mỗi ngày nghe mười lần [đĩa CD ghi âm] một giờ giảng. Ngày hôm sau đổi sang đĩa kế tiếp, cũng nghe mười lần. Nghe sáu mươi ngày xong, ngày thứ sáu mươi mốt quay lại nghe từ đầu. Nghe như vậy mười năm, không chỉ toàn bộ kinh đều thuộc, mà mỗi chữ tôi nói bà ta đều nhớ nằm ḷng. Một kinh thông, hết thảy các kinh thông, hiện thời bất cứ kinh giáo Đại Thừa nào đưa đến trước mặt, bà ta chẳng bị mảy may chướng ngại ǵ! Đây là một tấm gương rất tốt đẹp. Năm nay bà đă sáu mươi lăm tuổi, mười năm, thành công rồi. Tôi giảng kinh thường nhắc tới bà ta, bà ta đă nổi tiếng tại Đại Lục, khắp nơi mời bà ta giảng kinh, đó là một nhân vật giống như Mạnh Tử và Ngẫu Ích đại sư. Có người hỏi bà ta học như thế nào mà thành công? Bà ta bảo bí quyết gồm sáu chữ: Thứ nhất là “lăo thật” (thật thà), thứ hai là “thính thoại” (nghe lời), thứ ba là “chân cán” (thật sự làm). Thâm nhập một môn, huân tu lâu dài, bà ta thật sự làm! Mười năm bèn thành công. Chúng ta thử nghĩ xem, chẳng phải là chúng ta không thể thành tựu, mà v́ đă lăng phí thời gian, người ta mười năm dốc sức một bộ kinh, c̣n chúng ta suốt ngày từ sáng đến tối suy nghĩ loạn xạ trong mười năm, uổng phí mười năm!

      Sau đấy, chúng ta suy nghĩ thấy tổ sư đại đức xưa kia có phước báo, quư vị thấy bao nhiêu người thành tựu y chỉ một vị thầy, ở trên núi vài chục năm chẳng hạ sơn. Hôm nay, pháp sư Trung Tây Tùy Công (Nakanishi Zuikou) của Nhật Bản đến thăm chúng ta. Trong quá khứ, tôi đă đi thăm Nhật Bản sáu lần, có một lần tôi đến thăm núi Tỷ Duệ (Hiei-zan) của Nhật Bản. Có người bảo tôi, các tổ sư khai sơn của mười ba tông phái Phật giáo tại Nhật Bản[3] đều tu hành trên núi này. Tôi lên núi đặc biệt hỏi ḍ xem thời gian tu hành của các vị tổ sư đại đức trên núi ấy bao lâu. Lăo ḥa thượng trên núi bảo tôi, vị lâu nhất hơn ba mươi năm không hạ sơn, vị ít nhất là mười bốn năm, nên các Ngài mới có thành tựu như vậy, trở thành nhất đại tổ sư. Pháp duyên thù thắng chưa phải là chuyện tốt, khiến cho quư vị suốt ngày từ sáng đến tối đi khắp nơi, tâm bị rối nháo nhào, thời gian cũng rối beng, chẳng thể thành tựu! Người thành tựu an định một chỗ, như như bất động. Tôi là một kẻ chẳng có phước báo, chẳng có cách nào, chẳng có đạo tràng, nên nơi nào hữu duyên bèn đến nơi đó, nhưng tôi giữ vững một nguyên tắc, tôi đến bất cứ nơi nào cũng đều là để giảng kinh, nơi không thể giảng kinh tôi sẽ không đến. Do vậy, tôi có thể duy tŕ vững vàng cho đến hiện tại, suốt năm mươi hai năm giảng kinh không gián đoạn nên mới có một chút thành tựu. Nếu tôi có phước báo như các vị tổ sư đại đức xưa kia, có một ngọn núi, năm mươi hai năm chẳng hạ sơn, đến nay tôi sẽ tuyệt lắm, khá vô cùng! V́ thế, các đồng học trẻ tuổi phải hiểu rơ đạo lư này, ai thành tựu quư vị? Chính ḿnh thành tựu chính ḿnh. Xưa nay, trong ngoài nước, hễ là người có thành tựu, tuyệt đối chẳng phải do được thầy ở bên cạnh thường chỉ điểm, không có, đều do chính ḿnh thành tựu. Nắm vững những nguyên tắc và nguyên lư do thầy chỉ dạy, thật sự phát tâm dũng mănh, tâm tinh tấn, giữ chí thường hằng, không ai chẳng thành tựu! Cư sĩ Lưu Tố Vân là một tấm gương vô cùng tốt, người ta năm mươi lăm tuổi mới tiếp xúc, các vị c̣n chưa tới năm mươi lăm tuổi, phải học theo bà ta, mười năm trở thành đại pháp sư. Nếu bà ta xuống tóc, xuất gia, lên ṭa, giảng kinh bèn là đại sư. Do vậy, chuyển Mạt Na Thức thành B́nh Đẳng Tánh, điều này vô cùng trọng yếu. Thật sự chuyển được, nhất định sẽ có biểu hiện như thế này: Tôn trọng cung kính các chúng sanh, chẳng sanh ḷng khinh mạn, đối với người cũng thế, mà đối với chính ḿnh cũng thế, ta và người b́nh đẳng, chúng sanh và Phật b́nh đẳng. Quư vị đối với người, đối với cây cối, hoa, cỏ, đối với núi, sông, đại địa, đối với hết thảy chúng sanh, quyết định chẳng có tâm khi dễ, chẳng có thái độ ngạo mạn, thể hiện sự tôn trọng, cung kính, chắc chắn là như vậy. Đấy là lễ kính, chẳng sân.

      Tiếp đó, điều thứ tám là “sanh quyết định tâm. Niệm Phật chi nhân, bất trước thế gian ngôn luận, ư Vô Thượng Bồ Đề chi đạo, thâm sanh chánh tín, tất cánh bất hoặc, thị danh sanh quyết định tâm” (Sanh tâm quyết định: Người niệm Phật chẳng đắm chấp ngôn luận thế gian, đối với đạo Vô Thượng Bồ Đề, sanh ḷng chánh tín sâu xa, rốt ráo chẳng mê hoặc, đó là sanh tâm quyết định). Điều này là “chẳng si”. Quư vị thấy đó, không tham, không sân, không si. Những ngôn luận thế gian, đặc biệt trong hiện thời, chánh luận ngày càng ít ỏi, lệch lạc, tà vạy ngày càng nhiều! Các đồng học theo tôi lâu dài cũng biết tôi có một thói quen, tôi học Phật năm mươi chín năm, mười năm đầu, có khi xem nhật báo, tạp chí, TV, tôi buông bỏ những thứ ấy gần năm mươi năm rồi, chẳng xem TV, chẳng đọc nhật báo, tôi nhất loạt cự tuyệt những tạp chí tin tức, v́ sao? Nhiễm ô. Cũng có đồng học thường gởi sách cho tôi xem, tôi cầm lấy, trước hết xem trang bản quyền, phía sau in: “Sở hữu bản quyền, in lại nhất định truy cứu trách nhiệm”, tôi sẽ không đọc sách ấy, bảo người ta đem đi. Người ta hỏi v́ sao ư? [Tôi trả lời: Tác giả] tâm lượng quá nhỏ. Tâm lượng quá nhỏ th́ có thể viết được thứ tốt đẹp ǵ? Quư vị thấy khi cổ nhân Trung Quốc ra sách, chẳng phải vậy! “Hoan nghênh tái bản, công đức vô lượng”, chẳng có sở hữu bản quyền. Một người tâm lượng to lớn, tâm lượng lớn, phước sẽ lớn, trí huệ cũng lớn; tâm lượng nhỏ bé, phước cũng bé tí, trí huệ cũng nhỏ nhoi, vậy th́ cần ǵ phải lăng phí thời gian của chúng ta? Thời gian của chúng ta rất hữu hạn, chẳng muốn lăng phí vào đó; nhưng nếu là ngôn luận của thánh hiền thế gian th́ có thể xem, có thể nghiên cứu. Tuy vậy, hoàn cảnh hiện tại đă khác, tai nạn nhiều lắm, khiến cho chúng ta sanh khởi tâm cảnh giác cao độ, chúng ta ứng phó ra sao, đấy là chuyện cấp thiết trước mắt, chỉ có đem toàn bộ thời gian, tinh lực dùng vào Phật pháp.

      Kinh luận Phật pháp cũng nhiều vô cùng, thưa quư vị, kinh có thể cứu nạn gấp, thật sự có thể giúp chúng ta giải quyết nguy cơ trước mắt chính là một bộ kinh Vô Lượng Thọ, thật sự dùng được! Nhất là bản hội tập của lăo cư sĩ Hạ Liên Cư. Hiện thời, trong chín phiên bản tiếng Hán khác nhau của kinh Vô Lượng Thọ, bản của Hạ Liên Cư là bản tốt nhất trong chín bản khác nhau. Chúng ta có duyên gặp gỡ, đó là phước báo nhiều lắm! Do vậy, năm nay, tôi quyết định tạm ngừng [giảng] kinh Hoa Nghiêm một năm để giảng bộ kinh này, mọi người chúng ta cùng nhau học tập kỹ càng. Tôi cũng giảng [kinh này] giống như giảng kinh Hoa Nghiêm, giảng cặn kẽ bản chú giải của lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, cũng là cảm ơn một phen tri giao giữa chúng tôi lúc tuổi già. Cụ viết bản chú giải này, dụng tâm rất khổ sở. Đă thế, thân đang mang bệnh nặng, vẫn hoàn thành tác phẩm này. Tôi biết rơ, vô cùng kính phục, lần này, chúng tôi chia sẻ tâm đắc và cảm tưởng do đọc bộ kinh này cùng mọi người, tạo thành Diễn Nghĩa. V́ vậy, lần giảng kinh này có tựa đề là Tịnh Độ Đại Kinh Giải, Đại Kinh do cụ Hạ hội tập, Giải do lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ viết, cuối cùng, chúng tôi đem phần tâm đắc khi học tập tạo thành Diễn Nghĩa, giúp cho các Tịnh Tông đồng học hiện tiền và mai sau có một bản hoàn thiện ḥng có thể tu học, mang ư nghĩa rất lớn. Đại biểu cho đạo Vô Thượng Bồ Đề, [cứu độ chúng sanh nghiệp khổ] trong chín ngàn năm thời Mạt Pháp là cuốn kinh này và bản chú giải này. Sanh ḷng chánh tín sâu xa, rốt ráo chẳng mê hoặc. Đó là “sanh quyết định tâm”.

      Thứ chín, “vô tạp nhiễm tâm. Niệm Phật chi nhân, tu tập công hạnh, chủng chư thiện căn, tâm thường viễn ly nhất thiết tạp nhiễm phiền năo, thị danh vô tạp nhiễm tâm” (Tâm chẳng tạp nhiễm: Người niệm Phật tu tập công hạnh, gieo các thiện căn, tâm thường xa ĺa hết thảy phiền năo tạp nhiễm, đó là tâm không tạp nhiễm). Học điều ǵ cũng phải chuyên, chớ nên tạp, kỵ nhất là xen tạp. Nhưng trường học hiện thời là tạp nhiễm, chương tŕnh học trong nhà trường hiện thời, nói chung từ nhà trẻ đến lớp tiến sĩ đều là học tập nhiều môn, lại c̣n sắp xếp các môn học xen kẽ. Chẳng hạn như Tiểu Học, giờ thứ nhất học Ngữ Văn, giờ thứ hai học Toán. Khái niệm ngữ văn c̣n chưa hấp thụ đă thay đổi đề mục. Đó là tạp, là nhiễm. Trung Quốc vào thời cổ kỵ nhất cách dạy học ấy. Cổ nhân Trung Quốc tuân thủ nguyên tắc của tổ tông: “Giáo chi đạo, quư dĩ chuyên”, tức là “thâm nhập một môn, huân tu lâu dài”, một môn chưa học nhuần nhuyễn, quyết định chẳng thể học môn thứ hai. Xưa kia, tôi theo lăo cư sĩ Lư Bỉnh Nam học kinh giáo, thầy Lư áp dụng cách dạy học trong trường tư thục, tức là học từng môn một, quư vị không thể đồng thời học hai môn. Thầy nói rơ ràng với quư vị, học đồng thời hai môn th́ một môn quư vị cũng chẳng học được! V́ sao? Phân tâm. Thời gian cũng bị chia vụn, tinh thần cũng bị phân tán, làm sao học tốt cho được? Chỉ cho phép học một môn, học xong một môn mới có thể học môn thứ hai. Học từng môn một, phương pháp này có thể sử dụng trong nhà trường. Tôi tin tưởng dùng trong nhà trường, thành tích của học tṛ nhất định sẽ vô cùng tốt đẹp, v́ sao? Tập trung tinh thần. Chẳng hạn như Tiểu Học có bốn môn chủ yếu, Ngữ Văn, Toán, hoặc là Sử, Địa, ngoài ra c̣n có Ngoại Ngữ. Các môn học chánh yếu không sắp xếp xen kẽ. Ngữ Văn là cơ sở của tất cả khoa học, trọng yếu nhất, dành thời gian nhiều một chút, sáu năm Tiểu Học dùng thời gian ba năm để học Ngữ Văn, không có các môn khác, chuyên học Ngữ Văn. Toán th́ dành ra một năm để chuyên môn học Toán. Quư vị thấy học theo kiểu này, trong cặp chỉ có một quyển sách, rất nhẹ nhàng, thong dong, đầu óc chỉ nghĩ tới một chuyện, chẳng nghĩ tới chuyện thứ hai, chắc chắn tinh thần tốt đẹp, thân thể tốt đẹp, thành tích học tập cũng tốt đẹp. Đấy chính là như cách nói của tổ tông Trung Quốc: “Giáo chi đạo, quư dĩ chuyên”, chớ nên xen tạp. Khi đă xen tạp, sẽ rối loạn.

      Tổ tiên có trí huệ, người hiện thời xem thường tổ tông, nên họ bất hiếu với cha mẹ, ngỡ con người hiện thời rất thông minh, luôn vượt trội tổ tông. Hiện thời con cái đều nghĩ ḿnh vượt trội cha mẹ rất nhiều, cha mẹ quá cổ lỗ, trở thành đồ cổ rồi, vô dụng, chẳng theo kịp thời đại, ngay cả computer cũng chẳng biết dùng, xem thường cha mẹ. Không biết trí huệ của cha mẹ và tổ tông có thể giải quyết vấn đề, những quan niệm hiện thời đă đem lại tai nạn. Tôi cũng thảo luận vấn đề này với nhiều người làm công tác giáo dục, kể cả một số giáo sư đại học và các hiệu trưởng, họ nghe xong cũng cảm thấy tôi rất có lư, có thể làm thí nghiệm. Nếu có trường học nào chọn phương pháp này để làm thí nghiệm, thí nghiệm thành công sẽ là công đức vô lượng, có thể giúp khá nhiều trường học thay đổi phương pháp dạy học, thật sự có thể cứu vớt thế hệ kế tiếp. Chúng ta phải tôn trọng, cung kính tổ tông, những thứ của tổ tông là chân thật, thật tốt đẹp! Chẳng xảy ra chuyện ǵ! Vứt bỏ tổ tông, phiền phức ǵ cũng đưa đến. Điều này cũng thuộc loại “chẳng si”. Hai điều tám và chín đều là “chẳng si”.

      Điều cuối cùng là niệm Phật, “khởi tùy niệm tâm. Niệm Phật chi nhân, tuy quán Như Lai tướng hảo, nhi bất sanh ái trước chi tâm; ư vô niệm trung, thường niệm bỉ Phật, thị danh khởi tùy niệm tâm” (Khởi tùy niệm tâm: Người niệm Phật tuy quán tướng hảo của Như Lai, nhưng chẳng sanh tâm yêu đắm, trong vô niệm thường niệm đức Phật ấy, đó là khởi tùy niệm tâm). Quán tướng hảo của Phật Như Lai, [quán] tướng hảo của Như Lai là [quán những tướng hảo nơi] Báo Thân Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật xuất hiện trên thế gian, đấy là Ứng Thân, chúng sanh có cảm, Ngài bèn ứng. Ứng Thân Phật thị hiện ba mươi hai tướng, tám mươi thứ hảo, cũng chính là v́ người thế gian đă gọi những tướng đó là tướng tốt theo thuật xem tướng, Thích Ca Mâu Ni Phật thảy đều có đầy đủ. Kinh dạy: Trong thế giới Cực Lạc, quư vị thấy thân A Di Đà Phật có vô lượng tướng, mỗi tướng có vô lượng hảo. Trên thế gian, đức Phật dùng tướng hảo để tiếp dẫn chúng sanh, chúng sanh ưa chuộng tướng hảo, Phật tướng hảo đệ nhất, họ thấy tướng hảo của Phật sẽ theo Phật, học theo Ngài, mục đích của Ngài là ở chỗ này. Báo Thân Như Lai là b́nh đẳng, nếu chúng ta minh tâm kiến tánh, sanh về cơi Thật Báo Trang Nghiêm của Phật th́ thân chúng ta và thân Phật chẳng khác, v́ sao? Từ tự tánh hiển thị, quả thật là vô thượng phước huệ trang nghiêm, nhưng chẳng sanh tâm yêu đắm. Yêu đắm là phiền năo, “yêu” là phân biệt, “đắm” là chấp trước, lẽ nào sanh ḷng yêu đắm? Không thể nào! Hiện tiền, trong vô niệm chúng ta phải thường niệm A Di Đà Phật, chữ “bỉ Phật” [trong đoạn kinh văn của pháp hội Phát Khởi Bồ Tát Thù Thắng Chí Nhạo trong kinh Bảo Tích vừa được trích lục trên đây] chỉ A Di Đà Phật. Niệm Phật th́ tâm là tâm Phật, tức là như kinh đă nói “niệm Phật làm Phật”. Vốn là Phật, nay lại làm Phật, há lẽ nào chẳng thành Phật?

      Ở đây, chúng ta đă học tập xong câu “hà đẳng danh vi phát thập chủng tâm?” (những ǵ gọi là phát mười thứ tâm) trong kinh Đại Bảo Tích. Đối với mười thứ này, chỉ cần làm được một thứ sẽ hội đủ điều kiện văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Mười thứ tâm thảy đều làm được, quyết định văng sanh, quyết định thấy Phật. “Do thị tâm cố, đương đắc văng sanh bỉ Phật thế giới” (do tâm ấy sẽ được văng sanh thế giới Cực Lạc). “Khả kiến Di Lặc đại sĩ chánh thị tương tán Thích Tôn đồng hoằng Tịnh Tông diệu pháp dă” (có thể thấy Di Lặc đại sĩ thật sự phụ trợ đức Thích Ca cùng hoằng dương diệu pháp Tịnh Tông). Đấy là lời kết luận của cụ Hoàng Niệm Tổ sau đoạn kinh văn này: Di Lặc Bồ Tát quả thật đang hiệp trợ Thích Ca Mâu Ni Phật, hiệp trợ A Di Đà Phật hoằng dương pháp môn Tịnh Độ. Đương nhiên Di Lặc Bồ Tát đă ở Tây Phương Cực Lạc thế giới; do vậy, đến thế giới Cực Lạc sẽ thấy chân thân của Di Lặc Bồ Tát. Hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng ta học tập tới đây.

 

      Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa

Phần 47 hết

 



[1] Thệ Đa là cách phiên âm khác của chữ Jeta. Thái Tử Kỳ Đà (Jetakumāra) cùng trưởng giả Cấp Cô Độc xây dựng tinh xá này.

[2] Khúc Lễ là một cuốn sách nhỏ, không rơ ai là tác giả, được ghép thành một bộ phận của Lễ Kư. Khúc Lễ ghi chép chi tiết về những ứng xử nhằm đúng lễ, đúng mực, kể cả những câu châm ngôn dạy thái độ sống như “ngạo bất khả trưởng, dục bất khả tùng, chí bất khả măn, lạc bất khả cực” (chớ nên tăng trưởng ḷng kiêu ngạo, chớ nên chạy theo ḷng ham muốn, chớ nên đắc chí, chớ nên vui sướng quá mức).

[3] Mười ba tông phái của Phật giáo Nhật Bản là 1) Hoa Nghiêm Tông (do Lương Biện sáng lập). 2) Thiên Đài Tông (do Tối Trừng sáng lập). 3) Pháp Tướng Tông (do Đạo Chiêu sáng lập). 4) Luật Tông (do Giám Chân sáng lập). 5) Lâm Tế Tông (do Vinh Tây sáng lập). 6) Tào Động Tông (do Đạo Nguyên và Oánh Sơn sáng lập). 7) Hoàng Bá Tông (do Ẩn Nguyên Long Kỳ sáng lập). 8) Nhật Liên Tông (do Nhật Liên sáng lập). 9) Dung Thông Niệm Phật Tông (do Lương Nhẫn sáng lập). 10) Thời Tông (do Nhất Biến sáng lập). 11) Tịnh Độ Tông (do Pháp Nhiên sáng lập). 12) Tịnh Độ Chân Tông (do Thân Loan sáng lập). 13) Chân Ngôn Tông (do Không Hải sáng lập). Tuy có mười ba tông, nhưng nếu xét đến pháp môn hành tŕ và kinh điển chánh yếu để y cứ th́ chỉ có bảy tông là Hoa Nghiêm (Hoa Nghiêm Tông), Thiên Thai (Thiên Đài Tông, Nhật Liên Tông), Duy Thức (Pháp Tướng Tông), Luật Tông, Thiền Tông (Lâm Tế, Tào Động, Hoàng Bá), Tịnh Độ (Dung Thông Niệm Phật Tông, Thời Tông, Tịnh Độ Tông, Tịnh Độ Chân Tông) và Mật Tông (Chân Ngôn Tông).