Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa

淨土大經解演義

Phần 51

Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo duyệt: Huệ Trang và Đức Phong

 

Tập 101

 

      Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải trang một trăm mười bảy, ḍng thứ bảy từ dưới đếm lên, chúng ta đọc từ câu “an trụ nhất thiết”.

      “An trụ nhất thiết giả, Hội Sớ vân: An trụ giả, bất động nghĩa. Đức thành bất thoái, cố viết an trụ. Vô đức bất cụ, cố vân nhất thiết” (“An trụ hết thảy”: Sách Hội Sớ giảng: “An trụ nghĩa là bất động. Đức thành tựu, chẳng lui sụt, nên bảo là an trụ. Không đức nào chẳng đầy đủ nên nói là hết thảy”). Trong phần trước, chúng tôi cũng đă nói đến câu này, từ chỗ này là khởi đầu của một đoạn. An trụ, bất luận là sơ học hay là người tu học đă lâu, đều vô cùng quan trọng, cổ nhân nói “thân an tắc đạo long” (thân yên ổn, đạo sẽ hưng thịnh). Chúng tôi nghĩ đến thời cận đại, trong thế kỷ này, chẳng có cao tăng đại đức xuất hiện trên thế gian. Phật pháp là như thế, mà pháp thế gian cũng chẳng phải là ngoại lệ. Không chỉ tại Trung Quốc, mà gần như tại tất cả mọi nơi trên toàn thể thế giới chúng ta đều thấy [t́nh trạng như vậy]. Do nguyên nhân nào? Trong thế kỷ này chẳng có hai chữ “an trụ”! Các xă hội trên toàn thể thế giới đều rơi vào t́nh trạng chao đảo, bất an, nên ḷng người chẳng thể định, rất khó thành tựu! Trên thực tế, có vấn đề như thế này: Đại hoàn cảnh bất hảo, xă hội động loạn, nhưng nếu cá nhân thật sự có thiện căn, có phước đức, vẫn có thể thành tựu. Thiện căn là tín tâm kiên định, phước đức là có thể chịu đựng khổ sở, khó khăn, người như vậy rất ít, nhưng chẳng phải là không có! Do vậy, lúc đức Phật sắp nhập diệt, tôn giả A Nan từng hỏi Phật: “Phật tại thế, chúng con nương tựa Ngài làm thầy. Ngài chẳng trụ thế, chúng con nên nương cậy ai?” Đức Phật dạy một câu: “Lấy giới làm thầy”, lại c̣n nói thêm: “Lấy khổ làm thầy”. Nói cách khác, trong thời đại hiện tiền, chúng ta có thể tŕ giới, có thể chịu khổ th́ sẽ có thể thành tựu. Đầy đủ hai điều kiện ấy, bất luận ở trong thuận cảnh hay trong nghịch cảnh, đều có thể như như bất động. Cổ đại đức đă dạy chúng ta bí quyết thành công: “Thâm nhập một môn, huân tu lâu dài”. Thí dụ như trong hoàn cảnh hiện thời, chính ḿnh có thể t́m được một nơi rất hẻo lánh, một chỗ rất lạc hậu; chỗ lạc hậu là nơi b́nh yên, mọi người chẳng tranh chấp, chẳng có ai đến giành giật, chắc chắn là điều kiện vật chất rất kém cỏi, nhưng là nơi [tu hành] tốt đẹp. Càng kém cỏi càng tốt, một cái lều tranh bé tí, quư vị tặng cho người ta, người ta chẳng thèm, coi thường, đó là chỗ b́nh yên!

      Có thể an định mười năm bất động, quư vị an trụ ở nơi ấy, học một bộ kinh giáo đến cùng. Người ta chỉ cần có hai điều kiện như vậy, tŕ giới bằng cách thực hiện Đệ Tử Quy, Cảm Ứng Thiên, Thập Thiện Nghiệp Đạo, đều thuộc về tŕ giới, cần phải học. Chẳng có những thứ ấy tức là thiếu cội rễ, căn cơ của các bậc đại thánh đại hiền thế gian và xuất thế gian thuộc trong ba thứ ấy. Ba thứ ấy chẳng khó, [dành ra] thời gian một năm [để tu tập] là đủ rồi! Ba thứ ấy chẳng phải để học suông, chẳng phải để học thuộc ḷng, mà là mỗi điều đều phải làm được. Đệ Tử Quy gồm một trăm mười ba điều; Cảm Ứng Thiên cũng chẳng thể coi là nhiều, nhân quả thiện ác tổng cộng gồm một trăm chín mươi lăm điều; Thập Thiện Nghiệp Đạo là mười điều. Đă vun bồi bền vững hai căn cội trước (Đệ Tử Quy và Cảm Ứng Thiên) th́ Thập Thiện Nghiệp Đạo sẽ chẳng có vấn đề ǵ! Cũng có nghĩa là Thập Thiện Nghiệp nói chi tiết sẽ là Cảm Ứng Thiên và Đệ Tử Quy. Vun bồi bền vững những căn cội ấy, quư vị là thiện nam tử, thiện nữ nhân, hội đủ điều kiện! Mười năm học một bộ kinh Vô Lượng Thọ này nhuần nhuyễn, mỗi ngày đọc một lần. Nếu có duyên phận, có thể nghe giảng sẽ càng hay hơn! Nghe giảng th́ hiện thời chúng ta có đĩa CD/DVD, có Internet, cũng có truyền h́nh vệ tinh. Do vậy, có duyên phận th́ có thể thâu lấy để nghe, mỗi ngày có thể nghe từ bốn tiếng đồng hồ trở lên, chẳng thể ít hơn bốn tiếng đồng hồ. Những thời gian khác bèn chuyên niệm A Di Đà Phật, tâm quư vị sẽ định. Định chừng dăm ba năm sẽ đắc Niệm Phật tam-muội, lại có trường hợp đôi ba năm rất có thể khai ngộ. Đắc tam-muội là đắc Định, Định có thể khai huệ. Do vậy, thật sự mong thành tựu th́ trong bất luận hoàn cảnh nào cũng đều có thể tu hành.

      Trong đời loạn, mọi người ở cùng một chỗ cùng nhau tu hành khá khó khăn, như trong thời đầu Dân Quốc, xác thực là thuở ấy có các vị cao tăng đại đức thật sự muốn mở trường học nhằm bồi dưỡng nhân tài kế tục, nhưng v́ chiến tranh, đều chẳng có cách nào thực hiện viên măn. Pháp sư Ứng Từ mở Hoa Nghiêm Đại Học, chưa đầy một năm đă phải đóng cửa. Âu Dương đại sư lập Chi Na Nội Học Viện coi như có thành tựu [tốt đẹp] nhất, nhưng cũng chỉ làm được hai năm, chẳng thể tiếp tục. Sau chiến tranh, tại Đài Loan, lăo cư sĩ Lư Bỉnh Nam mở lớp học kinh tại Đài Trung Liên Xă nhằm bồi dưỡng nhân tài giảng kinh, các đồng học có hơn hai mươi người, tôi là người tham gia cuối cùng, cũng chỉ dạy được hai năm, chẳng mở lớp tiếp theo, duyên chẳng dễ dàng. Tôi học kinh giáo với thầy Lư từ ngay trong lớp học ấy. Nếu chẳng có lớp ấy th́ thật sự là ngay cả kinh giáo tôi cũng chẳng được học! Tuy thời gian chẳng dài, tôi vẫn được gặp gỡ. V́ thế, “an trụ hết thảy” quan trọng hơn bất cứ ǵ khác. Chẳng có cơ duyên, chúng ta phải nghĩ cách t́m cơ hội, một người sống cuộc đời đơn giản, kham khổ, chẳng cần được hộ tŕ rất nhiều, có được một hai người nhiệt tâm hộ pháp chiếu cố quư vị bèn chẳng có vấn đề ǵ! Cuộc sống càng đơn giản càng hay, người thật sự tu hành một ngày ăn một bữa là được rồi, mỗi ngày ăn một bữa giữa trưa!

      Đại khái, lăo cư sĩ Lư Bỉnh Nam gặp gỡ Phật pháp khi cụ đă ngoài ba mươi tuổi, c̣n trễ hơn tôi, tôi gặp Phật pháp lúc hai mươi sáu tuổi. Cụ bảo tôi [cụ gặp Phật pháp] lúc tuổi đă ngoài ba mươi. Sau khi gặp Phật pháp không lâu, cụ bèn quá ngọ chẳng ăn, [mỗi ngày] ăn hai bữa, rồi hai ba năm sau bữa sáng cũng bỏ luôn, mỗi ngày ăn một bữa, suốt đời chẳng thay đổi. Rất khó có! Giảm bớt rất nhiều chuyện. Tự ḿnh chăm sóc chính ḿnh, ăn cơm do tự ḿnh nấu, quần áo do chính ḿnh giặt, tự ḿnh chăm sóc bản thân măi cho đến lúc chín mươi lăm tuổi vẫn là tự ḿnh chăm sóc chính ḿnh. Hai năm cuối cùng cụ mới đồng ư tiếp nhận hai học tṛ phát tâm chăm nom. Trước đó, có người muốn chăm sóc cụ, cụ không chịu. Tôi học Giáo với cụ tại Đài Trung, cũng chịu ảnh hưởng bởi sự thân giáo của cụ. Do vậy, lúc tôi ở Đài Trung là ba mươi mấy tuổi, tôi cũng học theo cụ mỗi ngày ăn một bữa. Tôi ăn đến tháng thứ tám mới tŕnh với cụ, tôi nói: “Thưa thầy, hiện thời mỗi ngày con ăn một bữa”. “Đă bao lâu?” “Tám tháng rồi ạ!” “Thế nào? Thân thể có biến hóa hay không?” Tôi thưa: “Rất b́nh thường”. Cụ vỗ bàn: “Hăy vĩnh viễn ǵn giữ, suốt đời chẳng phải cầu cạnh ai!” Cuộc sống đơn giản, nhu cầu rất ít, một người nhiệt tâm hộ pháp là đủ rồi, chẳng cần phan duyên. Cổ nhân nói: “Nhân đáo vô cầu, phẩm tự cao” (người đạt đến không mong cầu, phẩm hạnh tự cao). Nhất định phải biết tiết kiệm, tích phước, trọng yếu hơn bất cứ điều nào khác! Do vậy, có quyết tâm, có nghị lực, trong xă hội rối ren, chính ḿnh có thể như như bất động. Hăy học theo Quảng Mục thiên vương trong tứ đại thiên vương, Ngài biểu thị ư nghĩa sau đây: Trong thời cuộc rối ren, có thể giữ cho chính ḿnh bất động, thứ ǵ cũng có thể thành tựu. Do vậy, ở đây, tôi biểu lộ ư nghĩa ấy cùng quư vị: “An trụ giả, bất động nghĩa” (An trụ nghĩa là bất động).

      “Đức thành bất thoái” (đức thành tựu chẳng lui sụt), “đức” được nói ở đây là Giới và Định. Chúng ta có thể học tốt đẹp Đệ Tử Quy, Cảm Ứng Thiên và Thập Thiện Nghiệp, hoàn toàn thực hiện trong cuộc sống hằng ngày, xử sự, đăi người, tiếp vật, tâm vĩnh viễn bất thoái. Sau đấy, một mục tiêu, một phương hướng, chuyên tu Tịnh Độ, phương hướng ấy là Tây Phương Cực Lạc thế giới, mục tiêu ấy là thấy A Di Đà Phật, tâm phải định, quyết định chẳng thay đổi, đức sẽ thành tựu, thành tựu bất thoái, đó là “an trụ”.

      “Vô đức bất cụ, cố vân nhất thiết” (Không đức nào chẳng đủ, nên gọi là “hết thảy”): Có thể buông xuống hết thảy, đó là “vô đức bất cụ”. Chúng ta buông xuống chấp trước đối với hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian. Không chỉ chẳng chấp trước, mà tốt nhất là phân biệt cũng chẳng có. Làm thế nào để có thể đạt được? Chuyên tâm nơi kinh giáo, nhất tâm niệm Di Đà, sẽ thực hiện được! Kinh Hoa Nghiêm nói “một tức là hết thảy, hết thảy tức là một”, một bộ kinh này là đủ rồi. Không chỉ là những kinh giáo do Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói trong bốn mươi chín năm, mà giáo huấn của mười phương ba đời hết thảy Như Lai và Pháp Thân Bồ Tát cũng đồng thời viên măn trọn đủ trong ấy. Đặc biệt là trong xă hội giống như hiện thời, nắm vững bộ kinh này, một câu Phật hiệu, chẳng có ai không thành tựu. Chúng ta nhất định phải hiểu đạo lư này, phải hiểu rơ, thật sự phát tâm y giáo phụng hành. “Tiền dẫn Hạnh Nguyện Phẩm trung, ư nhất niệm trung, sở hữu hạnh nguyện giai đắc thành tựu giả” (trong phẩm Hạnh Nguyện như đă dẫn trong phần trước, trong một niệm, tất cả hạnh nguyện đều được thành tựu). Trong phần trước đă từng dẫn câu kinh văn này của phẩm Hạnh Nguyện, ở đây, [cụ Hoàng] giải thích: “Tức thị nhất niệm trung, viên thành hạnh nguyện” (tức là trong một niệm, thành tựu viên măn hạnh nguyện). “Viên” () là viên măn, “thành” () là thành tựu, [“viên thành hạnh nguyện” là] trong một niệm thành tựu viên măn Phổ Hiền đại hạnh và Di Đà đại nguyện. “Cố năng an trụ ư Như Lai nhất thiết Phật quả công đức chi pháp” (nên có thể an trụ trong hết thảy các pháp công đức nơi Phật quả của Như Lai), pháp môn Niệm Phật đă được đại diện viên măn.

      Chúng ta lại xem đoạn tiếp theo: “Du bộ thập phương, hành quyền phương tiện”. [Những đoạn kinh văn ở] phía trước câu này nói về sự thành tựu trong tự hành nơi sự tu hành của chúng ta, c̣n câu này nói về hóa tha (hóa độ người khác). Sau khi chúng ta thành tựu, phải giúp đỡ hết thảy chúng sanh khổ nạn, cho nên chẳng thể trụ tại một nơi. Hai hôm trước, có một vị pháp sư Nhật Bản đến thăm viếng, đó là sư Trung Tây Tùy Công (Nakanishi Zuikou), tôi quen biết Sư chắc cũng mười năm. Mấy năm trước, tôi đă sang Nhật Bản sáu lần, tôi đến thăm núi Tỷ Duệ (Hiei-zan) của Nhật Bản, người Nhật gọi núi này là “mẹ của Phật giáo”. Phật giáo Nhật Bản có mười ba tông phái, nhiều hơn Trung Quốc. Tổ sư khai sơn của mười ba tông phái ấy đều tu hành trên núi ấy. Do vậy, tôi nhất định phải đến viếng núi ấy ḥng liễu giải đôi chút. Thuở ấy, những vị tổ sư đại đức tu hành trên quả núi ấy, chẳng hạ sơn, thời gian trụ tại đó lâu nhất là bao nhiêu năm? Họ bảo tôi: “Hơn ba mươi năm!” Hơn ba mươi năm chẳng hạ sơn! Ngắn nhất là bao nhiêu? Mười bốn năm. Do vậy, các vị ấy có thành tựu. Cổ nhân Trung Quốc thường nói: “Thập tải hàn song, nhất cử thành danh” (mười năm quạnh quẽ, thi đậu thành danh). Chẳng đổ công sức từ mười năm trở lên sẽ chẳng được, điều ấy chính là khuôn mẫu rất tốt cho chúng ta. Tôi di dân sang Úc, lập ra Tịnh Tông Học Viện để cúng dường đại chúng, hy vọng đại chúng thật sự an tâm tu hành ở nơi đó, có thể đạt được một chút thành tựu. Thuở ấy, tôi ấn định kỳ hạn tu học là chín năm, có người bảo tôi “thời gian chín năm quá dài, có thể rút ngắn thành bảy năm hay không?” Tôi cũng không giữ vững chủ ư, khéo sao đúng dịp ấy, sang Nhật Bản họp, sau khi đến thăm núi Tỷ Duệ trở về, [tôi thấy] chín năm chẳng thể giảm bớt! Người ta tu hành trên núi tối thiểu là mười bốn năm, thời gian chín năm của chúng ta há c̣n có thể giảm bớt được sao? Xác định [thời gian tu hành tối thiểu phải] là chín năm.

      Năm nay đă tṛn chín năm rồi, sang năm là kỷ niệm tṛn mười năm, học viện của chúng ta có thành tựu hay không? Thưa cùng quư vị, chẳng có! Do nguyên nhân nào? Chẳng thể thực hiện đúng theo quy củ. Chúng tôi đă dạy ba căn cơ Nho, Thích, Đạo chẳng ít năm, nhưng chẳng có ai thật sự chịu làm! Lại c̣n có một điều nữa là “thâm nhập một môn, huân tu lâu dài” cũng chẳng có ai làm được! Do vậy, tôi bảo mọi người, v́ tuổi tác của họ kể ra cũng chưa cao, nói chung cũng gần năm mươi tuổi rồi, vẫn c̣n được hay sao? Được chứ! Ở Đại Lục đă có một tấm gương: Một vị tại gia cư sĩ năm mươi lăm tuổi mới bắt đầu học tập, bắt đầu [học Phật] từ năm mươi lăm tuổi (trước đó chẳng hề tiếp xúc Phật pháp), sáu mươi lăm tuổi đạt thành tựu. Tiếc là bà ta tại gia, chẳng xuống tóc; nếu xuống tóc, sẽ lập tức thăng ṭa thành đại pháp sư. Bà ta cho tôi biết bà đă học một bộ kinh Vô Lượng Thọ suốt mười năm, học như thế nào? Mỗi ngày bà ta nghe một đĩa CD ghi lời giảng kinh Vô Lượng Thọ của tôi, nên biết đó là bài giảng trong mười năm trước, chưa được tỉ mỉ như hiện thời. Toàn bộ bản kinh giảng xong trong sáu mươi giờ. Sáu mươi đĩa CD, mỗi ngày bà ta nghe một đĩa, mỗi đĩa là một giờ, nhưng bà ta nghe lập đi lập lại đến mười tiếng đồng hồ, nên mỗi ngày nghe kinh mười tiếng! Bà ta nói: Đối với bà ta, nghe kinh hết sức hữu dụng! V́ sao? Vọng niệm chẳng c̣n nữa, ngoài nghe kinh ra là niệm Phật. Nghe bộ kinh này từ đầu đến cuối xong xuôi, lại nghe từ đầu, nghe xong bèn nghe lại từ đầu, nghe suốt mười năm bèn thành công. Bà ta không chỉ thuộc ḷng kinh văn, mà ngay cả chú giải cũng nằm ḷng. Hiện thời, lên ṭa giảng kinh, bà ta chẳng cần đến kinh sách, cũng chẳng cần tài liệu tham khảo. Hơn nữa, lại c̣n ra sao? Hễ tiếp xúc bèn thông suốt. Giảng vô cùng viên măn, thật sự khiến cho kẻ khác trông thấy chẳng thể nào không bội phục. Bà sống trong một gia đ́nh rất khổ nhọc, điều kiện vật chất tột bực kém cỏi, nhưng có thể chịu đựng khổ sở, chịu đựng nhọc nhằn, suốt đời chẳng tranh chấp với ai, chẳng mong cầu ǵ nơi cơi đời, nên thành công. Đây là một tấm gương tốt cho chúng ta, bà ta năm mươi lăm tuổi mới bắt đầu, tôi thấy các đồng học trong Tịnh Tông Học Viện chúng ta nói chung vẫn chưa đến năm mươi lăm tuổi, vẫn c̣n kịp chán! Nếu đến sáu mươi lăm tuổi mà chẳng có thành tựu ǵ th́ thôi rồi, vấn đề nghiêm trọng lắm đấy!

      Sau khi đă thành tựu, muốn báo ân Phật và báo ân chúng sanh th́ báo đáp như thế nào? “Du bộ thập phương, hành quyền phương tiện. Thử nhị cú sơ tán đại sĩ chi Quyền Đức” (Dạo chơi mười phương, hành phương tiện quyền biến: Hai câu này trước hết là tán thán Quyền Đức của bậc đại sĩ). Đây là phương tiện thiện xảo của các vị Bồ Tát. “Du bộ thị du hành dữ du hóa chi nghĩa” (“Du bộ” nghĩa là du hành và du hóa). “Du hành” là tầm sư phỏng đạo, khi chính ḿnh c̣n chưa thành tựu, chỗ nào có bậc cao nhân, có bậc đại đức, ta bèn đến thân cận, hướng về vị ấy thỉnh giáo, đó là “du hành”. Như thuở Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế, mười chín tuổi ĺa nhà, đó là du hành, đi tham học, đến khi ba mươi tuổi Ngài đă tham học mười hai năm. Những cao tăng đại đức trong giới tôn giáo và các bậc cao nhân trong giới học thuật Ấn Độ Ngài đều thân cận, đức hạnh và học vấn đă thành tựu. Tuy thành tựu, vấn đề vẫn chưa được giải quyết, người b́nh thường sẽ ngừng ở đó, nhưng Thích Ca Mâu Ni Phật chẳng cam tâm, không đành chịu, Ngài ngồi dưới cội cây Tất Bát La (Pippala) bên sông Hằng, [cây ấy] nay được gọi là Bồ Đề Thụ (cây Bồ Đề), nhập Định tại đó, buông sở học trong mười hai năm xuống, nhập Thiền Định sâu hơn. Lại nhập Thiền Định sâu hơn Tứ Thiền Bát Định đă học trước đó, cuối cùng thành tựu đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, khi ấy, đức Phật đă ba mươi tuổi. Sau khi kiến tánh, kiến tánh bèn thành Phật, chẳng c̣n du hành nữa, mà là du hóa; “hóa” là giáo hóa chúng sanh. Sau khi chính ḿnh đă thành tựu, nhất định phải thành tựu người khác. Thành tựu chính ḿnh là v́ lẽ nào? Nhằm giáo hóa người khác. Đấy cũng là như trong Tứ Hoằng Thệ Nguyện đă nói: “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”, phải thực hiện nguyện ấy, chẳng thể nói rồi không làm! “Thập phương”: Suốt đời lăo nhân gia xác thực là du hóa, chẳng có nơi chốn nhất định, nhưng học tṛ khâm phục Ngài tột bậc, Ngài đi đến nơi đâu, họ theo đến đó. Số lượng những học tṛ [thường xuyên] theo Ngài chẳng ít! Từ kinh điển, ta thường thấy [ghi chép con số Thường Tùy Chúng] là một ngàn hai trăm năm mươi lăm người, một đoàn thể to ngần ấy! Buổi tối nghỉ ngơi dưới cội cây, mỗi người t́m một cội cây to để ngồi nhập Định, nghỉ ngơi dưới gốc cây. Ban ngày th́ giảng kinh, giáo học trong rừng cây, nhưng ban ngày c̣n có một công khóa nữa, phải đi ra ngoài khất thực. Giữa trưa ăn một bữa, nghỉ dưới cội cây, suốt một đời sống như vậy. V́ thế, đức Phật dạy chúng ta: “Lấy giới làm thầy, lấy khổ làm thầy”. Ngài đă làm được, nêu gương cho chúng ta thấy. Đúng là “buông xuống vạn duyên”, trong tâm chẳng có tạp niệm, chẳng có vọng tưởng, lúc ấy mới có thể thành tựu.

      “Thập phương giả, Đông, Tây, Nam, Bắc tứ phương” (Mười phương là bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc), kế đó là “Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc”, đó là bốn phương bàng. Những phương này được gọi chung là “bát phương”, cộng thêm phía trên và phía dưới thành mười phương. “Cái biểu không gian chi nhất thiết xứ sở” (ấy là biểu thị hết thảy nơi chốn trong không gian). Phật môn thường nói “thập phương tam thế”, nay chúng ta nói thập phương là “không gian”, tam thế nay được gọi là gọi là “thời gian”. Dùng “thập phương”“tam thế” để bao gồm toàn bộ phạm vi hoạt động. “Du bộ thập phương, biểu đại sĩ thần thông du hư, tự tại du hành, hóa độ thập phương thế giới nhất thiết chúng sanh” (“Du bộ thập phương” biểu thị đại sĩ thần thông du hư, tự tại du hành, hóa độ hết thảy chúng sanh trong mười phương thế giới). Sau khi kiến tánh sẽ có năng lực ấy. Sau khi kiến tánh, sáu thứ thần thông đều trọn đủ. Trong phần trước đă giảng “cụ túc” (trọn đủ) là viên măn. Sau khi kiến tánh, vọng tưởng, phân biệt, chấp trước đều đoạn, toàn bộ chẳng c̣n nữa. Trong cảnh giới của các Ngài, thời gian và không gian cũng chẳng c̣n nữa. Do thời gian chẳng có, nên con người có thể trở về quá khứ, mà cũng có thể tiến nhập vị lai. Quư vị thấy những vị Bồ Tát ấy có bản lănh, có thể giáo hóa chúng sanh trong quá khứ, mà cũng có thể giáo hóa chúng sanh trong đời vị lai. Các Ngài có năng lực ấy, năng lực ấy là ǵ vậy? Bản năng (năng lực sẵn có)! Năng lực ấy ở đâu ra? Vốn sẵn có! Khi khai ngộ, Huệ Năng đại sư đă bảo: “Nào ngờ tự tánh, vốn tự trọn đủ”. Trí huệ, đức năng, và sáu thứ thần thông đều thuộc về đức năng. Tướng hảo th́ giống như trong phẩm Phổ Môn đă nói, “nên dùng thân ǵ để đắc độ, bèn hiện thân ấy”, các Ngài có thể hiện vô lượng vô biên thân. Chúng sanh ưa thích thân ǵ, các Ngài bèn có thể hiện thân ấy, thiên biến vạn hóa. Do vậy, hóa độ chúng sanh trong hết thảy các thế giới khắp mười phương chẳng có chướng ngại.

      “Hành quyền phương tiện giả, Quyền đối Thật nhi thuyết” (“Hành Quyền phương tiện”: Quyền là nói đối ứng với Thật). Thật () là chân thật, Quyền () là quyền biến. Chân thật là Thể, là tự tánh, tánh thể. Quyền là khởi Dụng (sanh khởi tác dụng). Từ Thể khởi Dụng chẳng do ư nghĩ của chính ḿnh, quư vị phải hiểu điều này! Chư Phật, Bồ Tát, Pháp Thân đại sĩ ứng hóa trong thế gian, bất luận là đường nào trong lục đạo đều chẳng khởi tâm động niệm. Như Thích Ca Mâu Ni Phật cũng giống như vậy, Ngài ứng hóa trên thế gian chẳng hề khởi tâm động niệm. [Nếu là] chẳng khởi tâm động niệm, cớ sao Ngài có thể hiện tướng? Làm sao có thể thuyết pháp cho được? Đấy là Ngài “hành quyền phương tiện”. Chúng ta trông thấy tướng mạo của đức Phật, nhưng chính đức Phật chẳng chấp tướng. Chúng ta nghe đức Phật thuyết pháp, trên thực tế, đức Phật hoàn toàn chẳng thuyết pháp. Do vậy, trong kinh Bát Nhă nói: Nếu ai nói đức Phật giảng kinh, thuyết pháp, kẻ đó báng Phật! Không nói mà nói, nói nhưng chẳng nói, quả thật, đức Phật chẳng nói. V́ sao Ngài có thể nói? Chúng sanh có cảm, Ngài tự nhiên phản ứng. Sự “ứng” ấy chính là pháp vốn sẵn như thế (pháp nhĩ tự nhiên). Đă có người từng hỏi đức Phật chuyện này, trong các đệ tử đức Phật, ngài Xá Lợi Phất trí huệ đệ nhất, có người hướng về đức Phật thỉnh giáo: “Trí huệ của ngài Xá Lợi Phất do đâu mà có? V́ sao có trí huệ to lớn ngần ấy?” Đức Phật dùng cái trống làm tỷ dụ, trống th́ mọi người đều từng thấy, nó là một thứ nhạc khí đă có từ lâu đời. Ngài nói: “Cái trống th́ các ông có biết hay không?” [Đại chúng thưa]: “Dạ biết”. “Trong bụng cái trống có ǵ hay không? Chẳng có ǵ, rỗng tuếch. Hai tấm da bọc lấy một khoảng trống rỗng. Đức Phật dạy: “Tâm Xá Lợi Phất giống như cái trống, trong ấy thứ ǵ cũng đều chẳng có, nhưng nếu quư vị gơ nó, gơ mạnh ắt kêu to, gơ nhẹ ắt kêu nhỏ. Chẳng gơ sẽ không kêu”. Bất luận quư vị hỏi ngài Xá Lợi Phất vấn đề ǵ, Ngài đều đối đáp lưu loát. Ngài có dấy lên ư niệm hay không? Chẳng có! Do vậy, đúng là “không nói mà nói”, “nói” chính là ứng. Ngài chẳng khởi tâm động niệm, chẳng phân biệt, chấp trước, Ngài có nói ǵ đâu! Cùng một đạo lư giống như vậy, Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh, thuyết pháp suốt bốn mươi chín năm, có nói hay chăng? Một chữ cũng chẳng nói! V́ sao chúng ta có nói? Khởi tâm động niệm, suy nghĩ lời này nên nói theo cách nào, đó là “có nói”! Người ta chẳng khởi tâm, không động niệm, cớ sao có thể thuyết pháp? Bởi lẽ, nói chính là “không nói mà nói”. Lũ phàm phu chúng ta chẳng biết nghe, người biết nghe sẽ nghe theo cách nào? Nghe mà chẳng nghe, chẳng nghe mà nghe, đó là biết nghe, hoàn toàn đối ứng với Phật. Do vậy, chúng ta nghe đức Phật thuyết pháp thường hiểu sai ư Phật, [những ư nghĩa mà chúng ta tưởng là hiểu ư Phật, thật ra] đều là ư nghĩa của chính ḿnh, chẳng phải là ư nghĩa của Phật. V́ thế, “nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa” rất khó thực hiện! Chúng ta phải hiểu Quyền và Thật, chứng đắc Thật th́ mới có Quyền. Chẳng chứng Thật sẽ chẳng có phương tiện thiện xảo. Chúng ta có phương tiện, nhưng chẳng có thiện xảo trong đó!

      “Cụ quyền nghi dữ quyền biến chi nghĩa”: Chữ Quyền này có hai ư nghĩa là quyền nghi (權宜: mềm mỏng khéo léo biến hóa sao cho thích hợp với t́nh thế) và quyền biến (權變: ứng xử linh động). “Tục vị thông quyền đạt biến” (nói thông tục là “thông đạt quyền biến”), nói theo cách hiện thời, người ấy thông minh, trí huệ, có thể tùy cơ ứng biến, nói đến loại người này. “Thông quyền đạt biến” là tùy cơ ứng biến, năng lực ứng biến vô cùng mạnh mẽ. Những vị Bồ Tát ấy đă ứng biến đến mức viên măn rốt ráo, cũng là như cổ nhân đă nói: “Dĩ bất biến ứng vạn biến” (dùng không thay đổi để ứng phó muôn vàn sự thay đổi), họ đă làm được, thật sự chẳng thay đổi, có thể ứng phó vô lượng vô biên biến hóa. Chúng ta chẳng có cách nào học được điều này. Tuy không học được, nhưng nếu chúng ta dùng phương pháp Giới - Định - Huệ để tu học, đến một ngày nào đó, chúng ta cũng có thể đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, năng lực trí huệ ấy hoàn toàn xuất hiện, chẳng cần phải học mà thảy đều xuất hiện. V́ sao? Trong tự tánh vốn sẵn trọn đủ, trọn đủ trí huệ, trong trí huệ có Thật Trí và Quyền Trí, trọn đủ thần thông, trọn đủ tướng hảo. “Quyền diệc tức Phương Tiện chi dị danh” (Quyền cũng chính là tên gọi khác của Phương Tiện). Do đó, phương tiện và quyền xảo thường được nói gộp chung. Phương () là phương pháp, Tiện (便) là tiện nghi (thuận tiện). Tiện Nghi (便宜) nghĩa là phương pháp thích hợp nhất. Phương pháp thích hợp nhất chẳng có nhất định, do người, do sự, do thời, do nơi chốn mà [áp dụng những phương pháp] khác biệt, vận dụng xảo diệu dường ấy nên gọi là “phương tiện pháp”. V́ thế, nó (Quyền) là tên gọi khác của Phương Tiện.

      “Pháp Hoa Văn Cú viết” (sách Pháp Hoa Văn Cú nói), bộ sách này do Trí Giả đại sư trước tác. Ngài giải thích: “Phương giả, pháp dă” [có nghĩa là] Phương là phương pháp, “Tiện giả, dụng dă” (Tiện là sử dụng). [Phương Tiện] là sử dụng rất thuận tiện, trôi chảy, chẳng bị chướng ngại. “Thiển ngôn chi, Phương thị phương pháp, Tiện thị tiện lợi. Án Phật giáo nghĩa, tắc như Đại Tập kinh vân” (Nói nông cạn, Phương là phương pháp, Tiện là tiện lợi. Xét theo ư nghĩa của lời Phật dạy th́ như trong kinh Đại Tập đă nói), đây là như trong kinh, đức Phật đă nói: “Năng điều chúng sanh, tất linh thú hướng A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, thị danh Phương Tiện” (có thể điều phục chúng sanh, khiến cho họ đều hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác th́ gọi là Phương Tiện). Ư nghĩa này sâu xa! Quư vị có thể “điều” chúng sanh, “điều” (調) là điều giáo (調教: điều phục, giáo hóa). Người Trung Quốc thường điều phục (uốn nắn vào khuôn khổ) rồi mới dạy bảo. “Điều giáo” chúng sanh cần phải có trí huệ, phải có phương pháp. Chúng sanh rất dễ dàng tiếp nhận, mà cũng có thể hiểu rất rơ ràng, vui vẻ y giáo phụng hành, họ sẽ thành công. Ở đây, đức Phật đă nói cho chúng ta biết mục tiêu này, có thể nói đó là tông chỉ giáo học của Phật pháp. Nếu người khác hỏi chúng ta, Phật giáo nhằm dạy điều ǵ? Tông chỉ của ngàn kinh muôn luận giống nhau, bất luận là Hiển Giáo, Mật Giáo, Đại Thừa, Tiểu Thừa, Tông Môn, Giáo Hạ, chư vị phải biết đều là một mục tiêu này, tức là A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Từ ngữ này là tiếng Phạn dịch âm, có thể dịch nghĩa sang tiếng Hán, v́ sao chẳng dịch? Do tôn trọng nên không dịch. Nó chính là tổng phương hướng, tổng mục tiêu mà Thích Ca Mâu Ni Phật đă dạy con người. Điều này vô cùng trọng yếu, cho nên giữ nguyên [âm đọc] tiếng Phạn, v́ tôn trọng chẳng dịch. Dịch sang nghĩa tiếng Hán hóa ra khá đơn giản, [chỉ gồm] sáu chữ là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. A dịch thành Vô, Nậu Đa La dịch là Thượng, Tam dịch thành Chánh, Miệu dịch thành Đẳng, chữ Tam kế tiếp cũng là Chánh, Bồ Đề là Giác. Quư vị thấy gộp lại sẽ là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, Phật pháp chính là điều này.

      Trong ấy có ba chuyện, nói từ phần sau th́ điều thứ nhất là Chánh Giác, tức Tam Bồ Đề (Sambodhi), người nào đạt được? A La Hán đạt được! Đạt được bằng cách nào? Đoạn Kiến Tư phiền năo. Đă đoạn Kiến Tư phiền năo bèn chứng Tam Bồ Đề tức Chánh Giác, được gọi là A La Hán. Lại nâng cao lên một bậc là Chánh Đẳng Chánh Giác, tức là Tam Miệu Tam Bồ Đề (Samyak Sambodhi), Bồ Tát chứng đắc Chánh Đẳng, cao hơn A La Hán,. Các Ngài chứng đắc bằng cách nào? Bồ Tát không chỉ đoạn Kiến Tư phiền năo, mà Trần Sa cũng đă đoạn, Vô Minh cũng phá một phẩm, như vậy th́ mới có thể chứng đắc Chánh Đẳng Chánh Giác. Đẳng là bằng Phật, nhưng vẫn chưa đạt tới [địa vị] Phật, c̣n kém một cấp. Địa vị cao nhất là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác (Anuttara Samyak Sambodhi), Phật chứng đắc [quả vị này]. Đấy là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước thảy đều buông xuống. Toàn bộ Vô Thỉ Vô Minh, Trần Sa phiền năo, Kiến Tư phiền năo như trong giáo pháp Đại Thừa thường nói đều đoạn sạch, trở về tự tánh, minh tâm kiến tánh, đó mới là “ĺa khổ, được vui”. Quư vị thấy A La Hán chứng đắc Chánh Giác, thoát ly nỗi khổ trong lục đạo, chẳng c̣n luân hồi trong lục đạo, Ngài đạt đến bốn thánh pháp giới, tức Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật. Chứng đắc Chánh Đẳng Chánh Giác chính là Phật pháp giới trong bốn thánh pháp giới. Đối với sự khổ trong bốn thánh pháp giới th́ [những nỗi khổ] trong các pháp giới thấp hơn (lục phàm) đă không c̣n nữa, Thanh Văn và Duyên Giác đă ĺa khỏi, Bồ Tát và Phật [trong bốn thánh pháp giới] vẫn c̣n Thọ, do vẫn c̣n có khởi tâm động niệm. Khởi tâm động niệm là Vô Thỉ Vô Minh, công phu c̣n phải nâng cao hơn một bậc, nâng cao tới mức chẳng khởi tâm, không động niệm, đó là thật sự an trụ. Chẳng khởi tâm, không động niệm, lúc ấy bèn chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đă thành Phật, vĩnh viễn thoát ĺa nỗi khổ trong mười pháp giới. Ĺa khổ được vui có cấp bậc, có tầng lớp, thật sự đă ĺa khổ! Mười pháp giới đều gọi là thế gian, thật sự xuất thế gian là phải vượt thoát mười pháp giới th́ mới thật sự là xuất thế gian, vĩnh viễn thoát khỏi hết thảy các nỗi khổ trong thế gian, ĺa khổ được vui. Chẳng phải giống như chúng ta trong hiện tại, không có cái ǵ để ăn, được cho một chút thức ăn bèn [cảm thấy] ĺa khổ được vui; chẳng có cái mặc, được cho một ít quần áo để mặc [bèn cảm thấy là ĺa khổ, được vui], không phải vậy, chuyện như vậy quá nhỏ nhặt! Những chuyện ấy đức Phật giao cho chúng ta để chúng ta tự ḿnh lo liệu, c̣n những chuyện khổ vui to lớn th́ Phật, Bồ Tát đến giúp chúng ta lo toan, những việc nhỏ nhặt sẽ do chính ta lo liệu.

      Trong thế gian này, trong các phần trước, chúng tôi đă nói rất nhiều, cầu của cải được của cải, cầu thông minh, trí huệ, được thông minh, trí huệ, cầu trường thọ được trường thọ, chẳng có ǵ quư vị không cầu được! Chỉ cần quư vị nương theo đạo lư và phương pháp do đức Phật đă dạy để cầu, hữu cầu tất ứng! Nhưng có lúc chúng ta cầu mà chẳng ứng là do nguyên nhân nào? Tôi học những pháp này từ Chương Gia đại sư lúc hai mươi mấy tuổi, lăo nhân gia rất từ bi, thường dạy bảo tôi. Thầy nói: “Khi anh cầu mà chẳng có cảm ứng th́ chẳng phải là không có cảm ứng, mà là do bản thân anh có nghiệp chướng khiến cho sự cảm ứng ấy bị chướng ngại. Nếu sám trừ nghiệp chướng, cảm ứng sẽ hiện tiền, chẳng phải là không có cảm ứng!” Tôi hướng về thầy thỉnh giáo: “Diệt trừ nghiệp chướng bằng cách nào?” Ngài bảo tôi sám hối. Nói đến sám hối, đại sư dạy tôi: “Phật pháp trọng thực chất, chẳng coi trọng h́nh thức”, dạy tôi pháp môn ấy. Sám hối trên mặt h́nh thức chẳng quan trọng, phải là từ thực chất. Thực chất là ǵ? Thực chất là sau đấy không làm nữa! Ta biết chính ḿnh đă làm sai, ta cũng hiểu như người Trung Quốc đă nói “bất nhị quá” (không phạm lỗi ấy lần nữa), đó là chân sám hối, chẳng chú trọng h́nh thức. Trong các học tṛ của Khổng phu tử, chỉ có một người “bất nhị quá” thường được phu tử tán thán là Nhan Hồi. Có thể thấy là những người khác đều làm không được, đều vẫn thường phạm lầm lỗi. Chỉ có một ḿnh Nhan Hồi rất lỗi lạc, Ngài đạt được “bất nhị quá”. Do đó, thầy dạy tôi: Sám trừ nghiệp chướng th́ sau ấy hễ có cầu nhất định có ứng. V́ vậy, chúng ta hiểu rơ: Nếu chúng ta cầu tài, cầu trí huệ, luôn v́ tự tư tự lợi mà cầu, sợ rằng đều chẳng có cảm ứng. Nếu chúng ta cầu tài, cầu trí huệ nhằm phục vụ chúng sanh, giúp đỡ những chúng sanh khổ nạn trong xă hội th́ sẽ có cảm ứng. Quư vị thấy: Chẳng v́ chính ḿnh th́ mới được, v́ sao? Chúng ta có thể nghĩ thông suốt lư ấy, [lư ấy] chẳng phải là rất sâu. Nếu là v́ tự tư tự lợi bèn cầu Phật, Bồ Tát mà có cảm ứng, chẳng phải là Phật, Bồ Tát cổ vũ, khích lệ chúng ta tự tư tự lợi ư? Chẳng phải là dạy chúng ta làm sai, làm ác ư? Há có Phật, Bồ Tát như vậy? Yêu ma, quỷ quái mới làm chuyện ấy, Phật, Bồ Tát chẳng làm chuyện đó! Chắc chắn là tâm hạnh của chúng ta phải rất gần gũi chư Phật, Bồ Tát, đồng tâm, đồng nguyện, đồng giải, đồng hạnh với chư Phật, Bồ Tát th́ chắc chắn có cảm ứng, chẳng hề không có cảm ứng. Do vậy, câu kinh Đại Tập này có ư nghĩa rất sâu, đă chỉ ra tổng phương hướng và tổng mục tiêu trong sự tu học Phật pháp.

      “Hựu như Pháp Hoa Huyền Tán vân: Thi vi khả tắc viết Phương, thiện đậu cơ nghi viết Tiện” (Lại như sách Pháp Hoa Huyền Tán giảng: “Việc làm có thể nêu gương là Phương, khéo phù hợp cơ nghi là Tiện”). Ở đây, ư nghĩa [chữ Phương Tiện] được giảng rất sâu. “Thi vi”: Thi () là bố thí, giúp đỡ người khác. “Khả tắc”(可則: có thể nêu gương, tạo thành khuôn phép): Tiêu chuẩn trong câu này cao lắm! Việc làm của chúng ta có thể nêu gương tốt cho đại chúng trong xă hội th́ gọi là Phương. Ư nghĩa này giống như tại trường đại học sư phạm Bắc Kinh, h́nh như là phía trước đại lễ đường có treo tấm biển ghi tám chữ: “Học vi nhân sư, thân vi thế phạm” (học làm thầy người, thân làm gương mẫu cho cơi đời). Tám chữ ấy chính là “thi vi khả tắc”. Hôm tôi đến thăm trường ấy, có ông Phó Hiệu Trưởng bồi tiếp, tôi thấy tám chữ ấy, bèn thưa với ông Hiệu Trưởng: “Thưa hiệu trưởng! Tám chữ ấy chính là Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh trong Phật giáo”. Ông ta nghe nói, sững sờ: “Kinh Hoa Nghiêm nói như vậy à?” “Đúng vậy! Cả bộ kinh Hoa Nghiêm nhằm giảng tám chữ này!” Tôi sửa một chữ, đổi chữ Thân trong câu “thân vi thế phạm” thành Hành, Hành có ư nghĩa rộng hơn Thân. Nhà trường cũng chấp nhận, sau đấy họ sửa lại chữ ấy. “Hành vi thế phạm” chính là ư nghĩa của chữ Phương. “Thiện đậu cơ nghi” (khéo hợp cơ nghi): Thiện xảo phương tiện có thể khiến cho người tiếp nhận đều sanh tâm hoan hỷ. Đó là “thiện đậu cơ nghi”, đó là Tiện. Có thể thấy ư nghĩa được giải thích theo kiểu này c̣n sâu hơn ư nghĩa trong Pháp Hoa Văn Cú, [nhưng cả hai sách] đều nói đúng, chẳng hề nói sai!

      “Hựu Tịnh Ảnh Sớ vân” (lại nữa, Tịnh Ảnh Sớ giảng), Tịnh Ảnh Sớ là chú giải kinh Vô Lượng Thọ [của ngài Tịnh Ảnh Huệ Viễn]. Sách ấy giảng: “Hóa hành thiện xảo, tùy vật sở nghi, chủng chủng dị hiện, danh quyền phương tiện” (hành vi giáo hóa khéo léo, thuận theo căn cơ của chúng sanh mà hóa hiện thích hợp, các thứ biến hiện lạ lùng th́ gọi là Quyền Phương Tiện). Đây là giáo hóa chúng sanh vô cùng hay khéo, vô cùng xảo diệu, chẳng có một pháp nhất định nào. “Tùy vật sở nghi”: Do [căn tánh của] mỗi người [mà áp dụng phương pháp] khác biệt, do mỗi sự mà khác biệt. Như trong quá khứ, trưởng lăo Tế Công trong Phật môn là người đời Tống, sống cùng thời đại với Nhạc Phi, thật sự có vị ấy, mà cũng thật sự có chuyện ấy, nhưng [những điều] được viết trong tiểu thuyết chẳng đáng tin. Trong Cao Tăng Truyện có [ghi chép truyện của Ngài], tôi nhớ truyện kư về Ngài đặc biệt phong phú, h́nh như có tới sáu quyển. Truyện kư của người khác chỉ có một trang, hai trang, c̣n [truyện kư của] Ngài tới sáu quyển. Trong Đại Tạng Kinh có sách ấy. Đó là “chủng chủng dị hiện” (các thứ hóa hiện lạ lùng), tác dụng to lớn, chẳng có ngằn mé. Người tầm thường chẳng thể làm được những chuyện ấy, thật sự có thần thông, những chuyện như vậy rất nhiều. Nhất là trong thời cận đại cũng phát hiện một trường hợp như vậy. Trong thời kỳ Kháng Chiến, vị được gọi là Kim Sơn Hoạt Phật (Phật sống chùa Kim Sơn) chính là một vị xuất gia tại chùa Kim Sơn ở Nam Kinh. Sư có pháp hiệu là Diệu Thiện, nhưng rất nhiều người trong thế gian chẳng biết pháp danh của Ngài, đều gọi Ngài là Hoạt Phật, gọi Ngài là Kim Sơn Hoạt Phật. Hành trạng trong một đời của vị pháp sư ấy chẳng khác Tế Công đời Tống cho mấy, cũng là đi một đôi dép cỏ[1] rách nát, mặc một cái áo dài, nói chung bên trong là một cái quần đùi, cả năm bốn mùa đều là dáng vẻ như thế. Trước nay chưa hề giặt quần áo, y phục rách nát, rất bẩn thỉu nhưng Ngài trọn chẳng bận tâm. Suốt đời chẳng tắm gội, cổ áo đóng hờm đen x́, nhưng quư vị ngửi thấy có hương sen thơm ngát. Lại c̣n có thể chữa bệnh! Thân thể quư vị có chỗ nào chẳng thoải mái, quư vị ngửi mùi ấy sẽ hết bệnh! Hết sức lạ lùng! Lăo nhân gia viên tịch tại Miến Điện, Ngài sang Miến Điện giáo hóa chúng sanh, qua đời bên đó. Tín đồ nơi ấy vô cùng cung kính Ngài, nhất định bắt Ngài đi tắm rửa, bắt Ngài gột rửa trong khi mưa dầm, Ngài văng sanh trong khi đang tắm, đứng ở dưới nước văng sanh, người thật, chuyện thật!

      Tại Đài Loan có hai người viết truyện kư về Ngài: Cuốn Sự Tích Kim Sơn Hoạt Phật do pháp sư Chử Vân viết, c̣n cuốn kia do pháp sư Lạc Quan viết. Pháp sư Lạc Quan từng ở chung với Ngài suốt bốn tháng. Cụ Lạc Quan có cùng bối phận (vai vế) với chúng tôi, Sư từng bảo tôi: “Vị ấy (Kim Sơn Hoạt Phật) thật sự có thần thông. Trong tâm chúng tôi nghĩ ǵ Ngài đều biết, trong lúc nói giỡn Ngài nói ra hết. Chúng tôi khởi tâm động niệm bất cứ điều ǵ, đều chẳng có cách nào giấu Ngài, Ngài đều biết cả. Ngài có Tha Tâm Thông. Tối thiểu là Ngài có Thiên Nhăn Thông, Thiên Nhĩ Thông, và Tha Tâm Thông. Tối thiểu là Ngài có những năng lực ấy!” Có Thần Túc Thông hay không? Chẳng có chứng cớ rơ rệt, nhưng dường như là có. Mọi người đang tụ tập chuyện gẫu, nhắc tới Kim Sơn Hoạt Phật, chưa nói xong, Ngài đă bước vào! Thường có hiện tượng ấy, làm thế nào lại xảo hợp như thế được? Đó là “chủng chủng dị hiện”, là Quyền Phương Tiện. Nói chung, cảnh giới ấy phải từ A La Hán trở lên th́ mới được. A La Hán có tứ quả, từ Sơ Quả đă có [thần thông], Sơ Quả là Tu Đà Hoàn. Tu Đà Hoàn đoạn tám mươi tám phẩm Kiến Hoặc trong tam giới, khôi phục hai thứ trong sáu thứ bản năng (năng lực vốn sẵn có), tức là Thiên Nhăn và Thiên Nhĩ. Người b́nh thường chúng ta chẳng thấy nhưng Ngài thấy, người b́nh thường chúng ta nghe không thấu, nhưng Ngài nghe thấu, Ngài có năng lực ấy. Chúng ta giảng kinh trên tầng lầu này, Ngài nh́n thấy những tầng dưới, Ngài biết rơ hoạt động của người trong mỗi tầng, có thể trông thấy chẳng bị chướng ngại! Nếu chứng Nhị Quả sẽ có năng lực càng lớn hơn nữa. Nhị Quả có Tha Tâm Thông, có Túc Mạng Thông, trong tâm người khác nghĩ ǵ, vị ấy đều biết. Đến Tam Quả bèn có Thần Túc Thông, có thể biến hóa, phân thân, các bậc thánh giả Tiểu Thừa có thể thị hiện. Trong Đại Thừa, như kinh Hoa Nghiêm của Viên Giáo đă nói, Sơ Tín vị Bồ Tát có năng lực Lục Thông hoàn toàn giống như Tu Đà Hoàn. Đệ Thất Tín Bồ Tát đoạn phiền năo, nay chúng ta nói theo cấp bậc th́ Ngài tương đương A La Hán, tức A La Hán trong Tiểu Thừa. Bát Tín tương đương Bích Chi Phật. Cửu Tín là Bồ Tát, tức địa vị Bồ Tát trong mười pháp giới. Thập Tín là địa vị Phật trong mười pháp giới. Tùy theo địa vị, thần thông biến hóa cũng [sai khác] rất lớn. Lũ phàm nhân chúng ta chẳng thể làm được những điều ấy, nhưng các Ngài có thể làm được!

      “Tổng thượng kinh luận” [nghĩa là] chúng ta tổng hợp những điều kinh luận vừa giảng trên đây, “cố tri dĩ thiện xảo ổn tiện chi pháp”, [nghĩa là] dùng những phương pháp khéo léo, ổn thỏa, thích đáng, thuận tiện, “diệu khế chúng sanh căn cơ” (khéo léo khế hợp căn cơ của chúng sanh), “diệu” có nghĩa là thiện. Vị ấy sử dụng phương pháp rất xảo diệu, hết sức tốt đẹp, khiến cho chúng sanh sau khi tiếp xúc đều sanh tâm hoan hỷ, giác ngộ, có thể phá mê giác ngộ, sanh tâm hoan hỷ. “Đạo hướng cứu cánh chi quả giác” (dẫn dắt hướng đến quả giác rốt ráo), quả giác rốt ráo chính là A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề như đă nói trong phần trước, đó là quả giác rốt ráo. V́ vậy, từ chỗ này, chúng ta hiểu rơ Phật pháp là ǵ? Ngàn kinh muôn luận, vô lượng pháp môn, quyết định đều nhằm một mục tiêu là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đấy là Phật pháp. Nếu mục tiêu là Chánh Giác, đó là Tiểu Thừa A La Hán; nếu mục tiêu là Chánh Đẳng Chánh Giác, đấy là Bồ Tát, là Đại Thừa. Nếu mục tiêu là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đó là pháp Nhất Thừa, là Phật quả rốt ráo viên măn. Chúng ta phải hiểu rơ, minh bạch chuyện này, kinh Vô Lượng Thọ đi theo đường hướng nào? Nói thẳng thừng là dạy chúng ta thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Trong hết thảy các kinh, nó thuộc loại kinh Nhất Thừa. Kinh Nhất Thừa chẳng có mấy bộ! Tại Trung Quốc, trừ bộ kinh này ra, Hoa Nghiêm là Nhất Thừa, Pháp Hoa là Nhất Thừa. Phạm Vơng tuy là Nhất Thừa, nhưng chẳng được dịch hoàn toàn sang tiếng Hán, truyền đến Trung Quốc chỉ có Bồ Tát Tâm Địa Giới Phẩm, chỉ có một phẩm. Do mục tiêu của kinh này là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nên trong pháp môn này, ở đây, đức Phật dạy chúng ta niệm Phật văng sanh bất thoái thành Phật, “danh vi hành quyền hoặc hành phương tiện” (gọi là “hành quyền” hoặc “hành phương tiện”), tổng kết ư nghĩa ấy, giải thích viên măn từ ngữ “hành quyền phương tiện”.    Tiếp đó là “nhập Phật pháp tạng, cứu cánh bỉ ngạn. Nhập giả, Gia Tường Sớ thích vi: Giải khế tông nguyên” (“Nhập Phật pháp tạng, rốt ráo đạt đến bờ kia”. Gia Tường Sớ giải thích “nhập” là “thông hiểu, khế nhập tông nguyên”). “Tông nguyên” là ǵ? Tông () là chủ yếu, trọng yếu, Nguyên () là căn nguyên (cội nguồn). Chúng ta hiểu Tông Nguyên là tự tánh, hết thảy các pháp chẳng ĺa tự tánh. Trong tự tánh, đức Thế Tôn đă quy nạp vô lượng vô tận công đức thành ba loại lớn, thứ nhất là trí huệ, thứ hai là đức năng, thứ ba là tướng hảo. Trí huệ là thông đạt, hiểu rơ. Hết thảy các pháp thế gian hay xuất thế gian đúng là không ǵ chẳng biết. Đức năng là thần thông, thiện xảo phương tiện, không ǵ chẳng thể. Trong tướng hảo có vật chất và tinh thần, tướng hảo viên măn. Trong cơi Thật Báo, đức Thế Tôn đă giới thiệu với chúng ta: “Thân có vô lượng tướng, mỗi tướng có vô lượng hảo”. Không giống như Thích Ca Mâu Ni Phật xuất hiện trong thế giới này, thị hiện thân tướng giống như chúng ta, ba mươi hai tướng, tám mươi thứ hảo, kinh thường gọi thân ấy là Liệt Ứng Thân (thân ứng hiện kém cỏi). Thị hiện trong lục đạo nhất định phải thị hiện thân giống như chúng sanh. Nếu thị hiện sai biệt quá lớn, kẻ b́nh phàm chẳng dám tin tưởng. Phải thị hiện thân tốt đẹp hơn một chút th́ mọi người mới có thể tin tưởng. Trên cơi trời, đức Phật thị hiện thân trời, trong nhân gian, Ngài thị hiện thân người, trong đường súc sanh, Ngài thị hiện thân súc sanh. Nếu muốn độ chúng sanh trong một loài nào, đầu tiên là phải hiện thân giống như họ. Nếu muốn độ kiến, Ngài cũng hiện thân kiến. Quư vị chẳng hiện thân ấy th́ làm sao có thể ở cùng chỗ với họ? Ở cùng một chỗ với họ th́ mới có cách dạy họ; do vậy, thị hiện thân đồng loại.

      “Giải khế tông nguyên” là nói đến Nhập trong “nhập Phật pháp tạng”, chúng ta đă hiểu rơ, lư giải [Nhập] là tương ứng với Tánh Đức. Nói cách khác, tương ứng với trí huệ chân thật, chẳng phải là tương ứng với kiến thức và học thuật thông thường. Con người hiện thời nói đến học thuật và tri thức, chẳng nói tới trí huệ. Nói tới tri thức th́ tương ứng với tri thức sẽ chẳng được, đó là pháp thế gian, chẳng phải là pháp xuất thế gian. V́ sao phải nói theo cách như vậy? Bốn chữ ấy (giải khế tông nguyên) có ư nghĩa rất sâu, quả thật là trong thời cận đại, có lắm kẻ đă coi kinh điển nhà Phật như một thứ học thuật để nghiên cứu, nên bị biến chất, biến thành tri thức, [trở thành] kiến thức Phật giáo. Ở những chỗ nào? Trong đại học! Rất nhiều trường đại học dùng kinh điển để giảng dạy. Tại những trường nổi tiếng nhất Âu Châu như đại học Ngưu Tân (Oxford), đại học Kiếm Kiều (Cambridge), đại học Luân Đôn (London) đều có khoa Hán Học. Sinh viên đại học, sinh viên chương tŕnh Cao Học, sinh viên theo học chương tŕnh Tiến Sĩ của ngành Hán Học dùng kinh Phật để viết luận án. Họ có tương ứng hay không? Họ tương ứng, nhưng chẳng phải là “giải khế tông nguyên”! Chẳng phải vậy! Bởi lẽ, những ǵ họ học được đều là kiến thức về Phật giáo, chẳng phải là trí huệ trong Phật pháp. Khi tôi đến viếng thăm, cũng có giảng cho họ hai buổi, nhắc nhở họ học Phật, phải học theo đường lối của tổ sư đại đức th́ mới thật sự được thọ dụng. Đi theo con đường học thuật cũng hữu dụng, giống như có thể đạt được học vị Tiến Sĩ, tương lai làm giáo sư khoa Triết Học hoặc Phật Học, hoặc làm một nhà Hán Học, có thể đạt được điều ấy, nhưng mong chứng quả Tu Đà Hoàn sẽ chẳng có phần, mong được văng sanh, cũng chẳng có phần, [bởi lẽ], Phật giáo theo kiểu đó là học thuật. Phật giáo của Thích Ca Mâu Ni Phật là giáo dục Phật giáo, phải hiểu điều này, nó chẳng phải là học thuật. Thời đầu Dân Quốc, Âu Dương đại sư đă nói rất hay, Phật pháp không phải là triết học hay tôn giáo, mà là nhu cầu tất yếu của con người hiện thời. V́ sao? Nó thật sự có thể giải quyết vấn đề, giúp chúng ta hóa giải xung đột, khôi phục sự an định, ḥa b́nh cho xă hội. Phật pháp làm được những điều ấy, giúp chúng ta thoát ly lục đạo luân hồi, giúp chúng ta văng sanh thế giới Cực Lạc, trong một đời chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác rốt ráo viên măn, nó có thể thực hiện được những điều ấy. “Giải khế tông nguyên” vô cùng quan trọng.

      “Tịnh Ảnh Sớ vân: Chứng hội vi Nhập. Khả kiến nhập giả, vi khế hội chứng nhập chi nghĩa” (Tịnh Ảnh Sớ giảng: “Chứng nhập, khế hội là Nhập”. Có thể thấy Nhập có nghĩa là khế hội, chứng nhập”). Chữ “Hội” () có ư nghĩa rất sâu. Quư vị đọc Ngữ Lục của Thiền Tông, thấy thầy dạy tṛ, thường nói một câu Khẩu Đầu Thiền nhiều nhất. Thầy hỏi tṛ: “Nhĩ hội ma?” (Ngươi hiểu chưa?). Câu này có ư nghĩa sâu xa, Hội là ǵ? Khế nhập là Hội, quư vị chẳng khế nhập sẽ không hiểu! Khế nhập là “giải khế tông nguyên” như đă nói trong đoạn trước, quư vị thật sự thấu hiểu. Chẳng phải là [hiểu] theo mặt văn tự, mà là do văn tự, do ngôn thuyết, quư vị đang xem kinh hay đang nghe giáo bèn khế nhập tự tánh, chúng ta thường nói là “khai ngộ”. Xem kinh bèn khai ngộ, nghe giảng bèn khai ngộ, đó là Nhập. Chẳng có ngộ, chẳng thể coi là Nhập! Thật sự ngộ nhập th́ mới là Nhập. Do vậy, Nhập có nghĩa là “khế hội, chứng nhập”. “Diệc tức Pháp Hoa trung nhập Phật tri kiến trung chi Nhập tự dă” (cũng chính là chữ Nhập trong “nhập Phật tri kiến” của kinh Pháp Hoa). “Nhập” là chứng, là khế nhập. Phật tri Phật kiến là trí huệ Bát Nhă trong tự tánh, trong Thiền Tông nói “đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh” là nói đến điều này, nói tới chuyện này. Trong Giáo Hạ nói “đại khai viên giải” cũng nhằm nói về chuyện này. Người niệm Phật chúng ta gọi điều này là “Lư nhất tâm bất loạn”, nhất tâm bất loạn bao gồm Sự nhất tâm bất loạn và Lư nhất tâm bất loạn. Lư nhất tâm bất loạn là nhập Phật tri kiến, có cùng cảnh giới với minh tâm kiến tánh trong Thiền Tông, đồng dạng với “đại khai viên giải” trong Giáo Hạ, tầng bậc như nhau. Sự nhất tâm thuộc về giải ngộ, chưa phải là chứng; do vậy, Sự nhất tâm bất loạn sanh về thế giới Cực Lạc sẽ sanh trong cơi Phương Tiện Hữu Dư, giống như bốn thánh pháp giới trong thế giới này. Nếu là Lư nhất tâm sẽ sanh trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm, khác hẳn, đă thành Phật rồi. Do vậy, Sự nhất tâm vẫn là Bồ Tát, chưa thuộc về địa vị Phật. Sự nhất tâm cũng có ba bậc, chín phẩm, trung hạ phẩm là địa vị A La Hán trong Tiểu Thừa, trung thượng phẩm là Bồ Tát. Nh́n theo giáo lư, Tây Phương Cực Lạc thế giới gồm bốn cơi, ba bậc, chín phẩm, nhưng trên thực tế, chúng ta phải liễu giải: Hoàn cảnh tu học trong thế giới ấy vô cùng đặc biệt, thù thắng, kẻ b́nh phàm chúng ta chẳng có cách nào tưởng tượng. Đó là ǵ? Hoàn toàn đắc lực cậy vào bổn nguyện và oai thần của A Di Đà Phật gia tŕ; do vậy, họ đều là A Duy Việt Trí Bồ Tát. Đây cũng là lư do v́ sao nói Tịnh Tông là pháp khó tin, nguyên nhân ở chỗ này, đúng là pháp khó tin!

      “Nhập Phật pháp tạng”, tiếp theo đó, [cụ Hoàng] giải thích [từ ngữ] “Phật pháp tạng”. “Phật pháp tạng giả, Gia Tường Sớ vân: Danh lư vi Tạng” (“Phật pháp tạng”: Gia Tường Sớ giảng: “Lư được gọi là Tạng”). Trước hết, giải thích ư nghĩa chữ Tạng. “Cái vị Phật pháp tạng vi Pháp Tánh chi Lư Thể. Pháp Tánh hàm tàng vô lượng chi Tánh Đức, cố danh Phật pháp tạng” (ư nói Phật pháp tạng là Lư Thể của Pháp Tánh. Pháp Tánh chứa đựng vô lượng Tánh Đức, nên gọi là Phật pháp tạng). Trên thực tế, “nhập Phật pháp tạng” là minh tâm kiến tánh, minh tâm kiến tánh là nhập Phật pháp tạng. Chúng ta niệm Phật, tới ngày nào đó niệm đến mức Lư nhất tâm bất loạn chính là nhập Phật pháp tạng, minh tâm kiến tánh. Do vậy, đây cũng là một cách giải thích rất hay, rất rơ ràng, “danh Lư vi Tạng” (gọi Lư là Tạng), Tạng () có nghĩa là hàm chứa. Phật pháp tạng là Pháp Tánh Lư Thể, dùng chữ Tạng [để diễn tả] ư nghĩa “chứa đựng”, giống như một kho tài liệu, dùng ngay chuyện này để tỷ dụ. Pháp Tánh là thật, thật sự chứa đựng vô lượng Tánh Đức, đúng là vô lượng. Tự tánh của mỗi cá nhân đều tương đồng, trong Triết Học gọi nó là bản thể của vạn hữu trong vũ trụ. Nó có thể sanh, có thể hiện. A Lại Da có thể biến, A Lại Da cũng chẳng ĺa khỏi Phật pháp tạng. Tách rời Phật pháp tạng bèn chẳng có A Lại Da. Phật pháp tạng giống như nước, A Lại Da giống như sóng, ĺa nước lấy đâu ra sóng? Bởi lẽ, bản thể của sóng là nước, vạn sự vạn vật trong khắp pháp giới hư không giới có cùng một bản thể. Do vậy, đối với kinh Phật, tổ sư đại đức thường dạy chúng ta, trọn khắp pháp giới hư không giới và chúng ta có cùng một Thể. Quư vị thấy chúng ta thường nghe kinh nói: “Sanh Phật bất nhị” (chúng sanh và Phật chẳng hai). “Sanh” là chúng sanh, “Phật” là chư Phật Như Lai, đặt chúng sanh lên đầu, nói đến Phật ở sau; đó là ǵ? Phật tôn trọng chúng sanh, tôn kính chúng sanh. V́ sao? Chúng sanh là Phật chưa giác ngộ, Phật là chúng sanh đă giác ngộ. Vị Phật chưa giác ngộ là một vị Phật hồ đồ, chẳng biết tôn trọng người khác; c̣n chúng sanh đă giác ngộ, đối với bất cứ điều ǵ cũng đều tôn trọng. Chúng sanh đă giác ngộ bèn là Phật. Lại c̣n nói: “Tự tha bất nhị”, Tự là chính ḿnh, Tha là ǵ? Tha th́ trên là chư Phật, dưới đến chúng sanh trong địa ngục, đều là một, chẳng hai! Lăo Tử cũng nói kiểu ấy: “Thiên địa dữ ngă đồng căn, vạn vật dữ ngă nhất thể” (trời đất và ta có cùng gốc, vạn vật và ta cùng một Thể), có ư nghĩa hoàn toàn giống như lời đức Phật đă nói.

      Hiện thời, chúng tôi rất muốn nghe [lời nhận định của] các nhà Vật Lư Học Lượng Tử trong hiện đại, nghe họ [tŕnh bày] những nghiên cứu, phát hiện của họ, để cho họ chứng minh những điều được nói trong Phật pháp là thật, chẳng phải là giả. V́ sao người phải yêu thương người? Cùng một Thể! Chúng ta có cùng một thân thể, v́ sao ta phải yêu thương ngón tay này? V́ sao ta phải yêu thương sợi lông này? Nó và ta có cùng một Thể, đạo lư là như thế đó. Pháp thế gian hay xuất thế gian chẳng có giới hạn, sai biệt ở chỗ nào? Mê hay ngộ, mê bèn gọi là pháp thế gian, giác ngộ bèn gọi là pháp xuất thế gian. Xuất thế gian gọi là Phật pháp, đă giác ngộ là Phật pháp, chưa giác ngộ gọi là chúng sanh pháp, chúng là một, chẳng hai! Do vậy, đúng là trong Pháp Tánh, Pháp Tánh là tự tánh, chứa đựng vô lượng Tánh Đức. Người giác ngộ muốn giúp chúng ta giác ngộ vô lượng Tánh Đức, giúp chúng ta giác ngộ lại chẳng phải là chuyện đơn giản, v́ sao? Chưa chắc chúng ta đă tin tưởng họ, chẳng có tín tâm đối với họ, chẳng tôn trọng họ, cho nên chẳng dễ ǵ dạy được! Nhưng đối với khó khăn trước mắt, chỉ cần lấy ra đôi chút Tánh Đức bèn có thể giải quyết. Cội rễ của Tánh Đức là ǵ? Người Trung Quốc nói tới Hiếu. Ngũ Luân được bắt đầu bằng câu “phụ tử hữu thân” (cha con có t́nh thân thiết), đó là cội nguồn của Tánh Đức. Vô lượng vô biên Tánh Đức thảy đều lưu lộ từ cội nguồn ấy. Trong Phật pháp, [Hiếu] được gọi là từ bi, trong nhiều tôn giáo, nó được gọi là Ái. Ái và từ bi trong Phật pháp cũng như “phụ tử hữu thân” trong Ngũ Luân của Trung Quốc có ư nghĩa hoàn toàn giống nhau, chẳng kèm thêm bất cứ điều kiện nào, nó là tâm yêu thương vô điều kiện! Người Trung Quốc đă nêu bày Tánh Đức một cách đơn giản bằng mười hai chữ. Mười hai chữ ấy có thể giúp chúng ta sống rất hạnh phúc, rất sung sướng suốt một đời. Mười hai chữ ấy chính là “hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ, nhân ái, ḥa b́nh”, Tánh Đức đấy! Có phải là mười hai chữ ấy vô lượng vô biên? Đúng vậy. Chúng ta suy nghĩ sẽ thấy mười điều trong Thập Thiện, mười đại nguyện vương cũng là mười điều. Khi Bồ Tát mở rộng ra, chúng sẽ biến thành tám vạn bốn ngàn tế hạnh. Mười hai chữ ấy của Trung Quốc có phải là tám vạn bốn ngàn tế hạnh trong Bồ Tát đạo hay không? Tôi tin là chúng đă bao trùm chẳng sót, chúng chính là Tánh Đức.

      Do vậy, ngày nay chúng ta vận dụng Tánh Đức đôi chút như thế nào, áp dụng đôi chút trong cuộc sống như thế nào? Chúng ta chưa kiến tánh, nhưng những người đă kiến tánh đều hiểu rơ, sẽ nêu bày tự tánh. Nếu chúng ta chịu tin tưởng, chịu y giáo phụng hành th́ cũng sẽ sử dụng được, người chưa kiến tánh cũng sử dụng được, phải nghe theo giáo huấn của chư Phật, Bồ Tát và các vị đại thánh đại hiền. V́ thế, chúng tôi thường nói: “Chúng tôi học tập nhiều năm như thế mới thấu hiểu, những thứ ấy chẳng phải do họ phát minh, chẳng phải do họ sáng tạo, mà do tự tánh lưu lộ”. Trong thời cổ, chúng ta có lư do để tin tưởng Phật, Bồ Tát đă ứng hóa trên lănh thổ Trung Quốc, nhưng con người thuở ấy chẳng có căn tánh nhạy bén như tại Ấn Độ, căn cơ độn hơn, nên các Ngài dùng những phương pháp ấy để chỉ dạy chúng ta, đó là Tánh Đức tự nhiên lưu lộ, chúng ta phải tôn trọng. Người Ấn Độ căn cơ chín muồi, nên [chư Phật] ứng hóa trong thế gian này, đáng nên dùng thân Phật để đắc độ, liền hiện thân Phật để giáo hóa, Phật hiện thân Phật tại Ấn Độ. Tại Trung Quốc th́ Phật hiện các thân như Khổng Tử, Mạnh Tử, Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, hiện thân làm những vị ấy, làm các bậc thánh hiền. Đó là phương tiện thiện xảo, đại dụng chẳng có ngằn mé! Chúng ta học theo thánh hiền, học theo Phật, Bồ Tát là học theo ai? Học theo Tánh Đức của chính ḿnh, nhất định phải hiểu đạo lư này! Những vị từng trải ấy đă triển hiện Tánh Đức cho chúng ta thấy, những kinh luận, sách vở thảy đều từ Tánh Đức lưu lộ. Bởi thế, đại kinh đại luận nói: “Phật pháp vô nhân thuyết, tuy trí mạc năng giải” (Phật pháp mà không có ai nói th́ dẫu là người có trí vẫn chẳng thể hiểu). Kẻ thông minh tuyệt đỉnh trong thế gian có thể thông hiểu ư nghĩa trong kinh Phật hay chăng? Không thể hiểu! Do nguyên nhân nào? Kinh điển lưu lộ từ tự tánh. Ai có thể hiểu? Người càng gần với tự tánh sẽ càng có thể lư giải. Gần với tự tánh là như thế nào? Phải loại bỏ những thứ tương phản tự tánh và những điều hư vọng. Những ǵ là tương phản? Dùng cách nói của Trung Quốc để luận định th́ bất hiếu, bất đễ, bất trung, bất tín, vô lễ, vô nghĩa, vô liêm, vô sỉ chính là những thứ tương phản, mọi người hiểu rất rơ những điều ấy. Chúng là ǵ vậy? Tập khí phiền năo từ vô thỉ kiếp! Chúng ta có thể xa ĺa, tẩy gột sạch sành sanh những tập khí ấy, Tánh Đức của chúng ta bèn hiện tiền. Lại c̣n không ngừng nâng cao hơn, chúng ta cũng có thể đạt tới cảnh giới thánh hiền, lại nâng cao hơn tới mức viên măn, đó là cảnh giới Phật.

      “Hựu Pháp Tánh trung hàm nhiếp nhất thiết Phật pháp, cố danh Phật pháp tạng” (lại nữa, trong Pháp Tánh chứa đựng, thâu nhiếp hết thảy Phật pháp, nên gọi là “Phật pháp tạng”). Nói theo Phật pháp th́ đúng là như vậy, hết thảy Phật pháp đều sanh từ tự tánh, hễ rời khỏi tự tánh bèn chẳng có một pháp nào để được. “Tự tánh thanh tịnh viên minh thể” như sách Hoàn Nguyên Quán đă nói chính là “Phật pháp tạng” đang được nói ở đây. Xuất sanh vô tận, trọn khắp hết thảy, hết thảy các pháp, hết thảy Phật pháp đều do nó sanh ra. Hết thảy phiền năo, nghiệp chướng, và tập khí cũng do nó sanh ra. Chuyện này là như thế nào? Hễ giác ngộ sẽ sanh ra hết thảy Phật pháp, đă mê bèn sanh ra hết thảy vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, xuất hiện những thứ ấy. Do vậy, đối với hết thảy những thứ phi pháp, phản diện ấy, chúng ta cũng chớ nên khi dễ chúng, v́ sao? Thể của chúng là Thật, chỉ v́ mê nên mới biến thành nông nỗi ấy, nếu người ấy giác ngộ sẽ khôi phục b́nh thường. Do vậy, chư Phật, Bồ Tát cung kính chúng sanh trong địa ngục, đối với muỗi, trùng, kiến chẳng dám coi rẻ, do nguyên nhân nào? Quư vị nh́n từ một phương diện khác, nếu họ giác ngộ sẽ đều là Phật, họ vốn là Phật, tuy đang mê, bổn tánh chẳng mê, phải biết điều này! Bổn tánh vĩnh viễn thanh tịnh, chẳng bị nhiễm ô, bất sanh, bất diệt. Mê là giả, hễ mê bèn có sanh, có diệt. Mê bèn có nhơ, có tịnh, có thiện, có ác. Chúng ta phải hiểu rơ ràng, minh bạch những chuyện ấy th́ trong hết thảy thế gian, tức là hết thảy các thế gian trong mười pháp giới, sẽ sanh khởi tâm b́nh đẳng, đối với bất luận cảnh giới nào chúng ta đều thấy như nhau. Đó là Phật tri Phật kiến. Phật chẳng có tâm phân biệt, chẳng có tâm chấp trước, chẳng khởi tâm động niệm; Bồ Tát có khởi tâm động niệm, nhưng chẳng có phân biệt, chấp trước. Sự học tập của chúng ta phải trải qua những tầng lớp này, nên gọi là Phật pháp tạng.

      “Thị cố nhập Phật pháp tạng, tức Pháp Hoa trung thiện nhập Phật huệ, thông đạt đại trí” (do vậy, nhập Phật pháp tạng chính là “khéo nhập Phật huệ, thông đạt đại trí” trong kinh Pháp Hoa), có ư nghĩa này. Dùng phương tiện thiện xảo khế nhập Phật huệ, “Phật huệ” là trí huệ Bát Nhă vốn sẵn có trong tự tánh. “Thông đạt đại trí”: Đại trí là khởi dụng, là Hậu Đắc Trí, là phương tiện thiện xảo. “Hựu Chân Giải cứ tùng quả hướng nhân nghĩa, thích vân” (Lại nữa, sách Chân Giải dựa theo ư nghĩa từ quả hướng đến nhân, nên giải thích như sau), giải thích ư nghĩa ấy: “Như Lai nhất thiết công đức bảo tạng, Phật quả công đức dă. Thử chi công đức đại bảo hải, thuyết ngôn Phật pháp tạng” (kho báu hết thảy công đức của Như Lai chính là công đức nơi Phật quả. Biển cả các thứ vật báu công đức ấy được gọi là Phật pháp tạng). “Tức thị Phật sở đắc Nhất Thừa dă” (chính là Nhất Thừa do Phật đă đắc). Chư Phật Như Lai chứng đắc Nhất Thừa, Nhất Thừa là Phật Thừa, chứng đắc Phật quả rốt ráo viên măn. Do vậy, trong hết thảy các kinh, có kinh Tiểu Thừa, có kinh Đại Thừa, có kinh Nhất Thừa. Kinh Nhất Thừa có mấy bộ? Hoa Nghiêm là kinh Nhất Thừa, Pháp Hoa là kinh Nhất Thừa, Vô Lượng Thọ là kinh Nhất Thừa. Kho báu hết thảy công đức của Như Lai được nói trong kinh Nhất Thừa chính là Phật quả rốt ráo do Bồ Tát tu hành chứng đắc, trong ấy có trọn đủ các công đức, đó là “công đức đại bảo hải”. Hải (biển) là tỷ dụ. Công đức đại bảo hải lấy không cạn, dùng chẳng hết. V́ vậy, nói đến phước báo th́ ai có phước báo lớn nhất? Phước báo thế gian hay xuất thế gian không ai có thể sánh bằng Phật, trí huệ lẫn phước báo [của Phật] đều đạt đến viên măn rốt ráo, nhưng phải hiểu, Phật là tự tánh của chúng ta. Nếu chúng ta minh tâm kiến tánh, bèn thành Phật, trí huệ và phước báo của chúng ta không ai có thể sánh bằng. Đó là Phật pháp tạng, đó là pháp Nhất Thừa do Phật sở đắc, là trí huệ viên măn trong pháp Nhất Thừa. V́ lẽ đó, Phật pháp tạng chính là “trí huệ và đức tướng vốn sẵn trọn đủ trong bổn tánh” như Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói trong kinh Hoa Nghiêm. Ngài nói rất hay: “Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng của Như Lai, nhưng do vọng tưởng, chấp trước, nên chẳng thể chứng đắc”. Chúng ta có thể buông vọng tưởng và chấp trước xuống sẽ chứng đắc. Quư vị thấy phàm phu thành Phật, nói theo lư luận là trong một sát-na, quư vị chịu buông xuống th́ kinh giáo hoàn toàn thuộc về quư vị. Chỉ cần quư vị buông xuống, chẳng cần phải đọc nó, [bởi lẽ] chính ḿnh đă hoàn toàn trọn đủ, hết thảy các pháp thế gian hay xuất thế gian không ǵ chẳng biết, không ǵ chẳng thể. Chúng ta hiểu rơ đạo lư này, hiểu chân tướng sự thật này, cho nên mới thật sự làm! Biết lợi ích này quá to lớn, không làm như vậy, chúng ta bị tổn thất quá to, sống cuộc đời khổ sở, nhọc nhằn dường ấy. Thành Phật đắc đại tự tại, vui sướng lắm. Quư vị phải biết [lăo cư sĩ] Hứa Triết c̣n chẳng sánh bằng, không ai có thể sánh bằng. Hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng ta học tới đây.

 

Tập 102

 

      Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang một trăm mười tám, ḍng thứ năm từ dưới đếm lên, đọc từ chỗ “Hựu Chân Giải”.

      “Hựu Chân Giải cứ tùng quả hướng nhân nghĩa, thích vân: Như Lai nhất thiết công đức bảo tạng, Phật quả công đức dă. Thử chi công đức đại bảo hải, thuyết ngôn Phật pháp tạng, tức thị Phật sở đắc Nhất Thừa dă” (Lại nữa, sách Chân Giải dựa theo ư nghĩa từ quả hướng đến nhân, nên giải thích như sau: “Kho báu hết thảy công đức của Như Lai chính là công đức nơi Phật quả. Biển cả các thứ vật báu công đức ấy được gọi là Phật pháp tạng, chính là pháp Nhất Thừa do Phật đă đạt được”). Đây là đoạn văn trích từ sách Chân Giải. Người Trung Quốc nói “chư Phật Như Lai thả chiếc bè Từ”, cũng có nghĩa là các Ngài đă thành Phật rồi, v́ độ chúng sanh mà lập phương tiện, chẳng dùng thân Phật, v́ sao? Phật ở địa vị thầy, học tṛ nhất định phải tôn trọng thầy, đó là “tôn sư trọng đạo”. Nếu học tṛ nghiệp chướng rất nặng, tập khí rất nhiều, chẳng biết hiếu thuận cha mẹ, mà cũng chẳng biết tôn kính sư trưởng, lúc đó, Phật độ kẻ ấy như thế nào? Chắc chắn Phật chẳng dùng đến thân phận Phật, mà dùng thân phận Bồ Tát. Thân phận Bồ Tát rất nhiều, như trong phẩm Phổ Môn đă giới thiệu ba mươi hai ứng thân của Quán Thế Âm Bồ Tát, trừ thân Phật ra, những thân khác đều là phương tiện thiện xảo. Nên dùng thân ǵ để đắc độ, bèn hiện thân ấy, chẳng có mảy may câu thúc nào! Đúng là “hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức” nên mới có thể lợi ích chúng sanh. Từ chỗ này cũng khiến cho chúng ta thấu hiểu: Chư Phật, Bồ Tát từ bi chân thật, xác thực là các Ngài chẳng có phân biệt, chẳng có chấp trước, hoàn toàn thuận theo tâm ưa muốn của chúng sanh, tùy thuận tập khí phiền năo của chúng sanh. Do vậy, Phật, Bồ Tát muốn độ súc sanh, nhất định hiện thân súc sanh, muốn độ ngạ quỷ nhất định hiện thân ngạ quỷ. Chẳng phải là thân đồng loại sẽ chẳng dễ tiếp xúc; do vậy, Ngài nhất định phải hiện thân đồng loại. Đó là “từ quả hướng tới nhân”, dùng ư nghĩa này để giải thích “Phật pháp tạng”.

      “Như Lai nhất thiết công đức bảo tạng” là nói về tự tánh. Tự tánh của chúng ta vốn trọn đủ vô lượng vô biên công đức, “bảo tạng” là tỷ dụ. Nếu người thế gian có được kho báu (bảo tạng), sẽ có nhiều của cải, chẳng hứng chịu nỗi khổ bần cùng, mang ư nghĩa này. “Bảo” (: của báu) có tác dụng, giúp chúng ta đạt được lợi ích thù thắng, công đức vốn trọn đủ trong tự tánh cũng mang ư nghĩa này. Công đức trong tự tánh khai phát, đó là phước huệ viên măn. Không chỉ là trí huệ viên măn, mà phước báo cũng viên măn, cho nên gọi là “bảo tạng”. Câu kế tiếp là “Phật quả công đức dă” (là công đức nơi Phật quả), Bồ Tát chứng đạt quả vị rốt ráo, chứng đắc Phật quả rốt ráo viên măn, trọn đủ công đức nơi quả địa, các công đức trong tự tánh đều khởi tác dụng viên măn. “Thử chi công đức đại bảo hải, thuyết ngôn Phật pháp tạng” (biển cả các thứ báu công đức ấy được gọi là Phật pháp tạng), công đức nơi quả địa được gọi là Phật pháp tạng. Phật pháp, kho báu Phật pháp, “tức thị Phật sở đắc Nhất Thừa dă” (chính là Nhất Thừa do Phật đạt được), Ngài chứng đắc pháp Nhất Thừa, [đó là] Nhất Thừa viên măn. Nhất Thừa là Phật Thừa, Đại Thừa là Bồ Tát Thừa, Tiểu Thừa là Thanh Văn, Duyên Giác, ở đây là nói đến pháp viên măn rốt ráo.

      “Chân Giải chi thuyết, hiển hội trung chư Bồ Tát giai thị đại quyền thị hiện” (Thuyết của sách Chân Giải đă chỉ rơ các Bồ Tát trong hội đều là bậc đại quyền thị hiện). Tác phẩm chú giải kinh Vô Lượng Thọ của thiền sư Đạo Ẩn người Nhật có tựa đề là [Vô Lượng Thọ Kinh] Chân Giải. Qua lời giải thích trong câu này, Sư đă chỉ rơ trong hội ấy của đức Thế Tôn tại Linh Sơn thuở đó, các vị Bồ Tát tham dự pháp hội số tới một vạn hai ngàn người đều là bậc Đại Quyền Thị Hiện, đều là chư Phật, Bồ Tát hiện đến, đều là Pháp Thân đại sĩ thị hiện, [do vậy gọi] là “tùng quả hướng nhân” (từ quả hướng đến nhân). Những vị ấy “dĩ nhập Như Lai Nhất Thừa quả hải” (đă nhập biển quả Nhất Thừa của Như Lai), Như Lai là tự tánh. Tự tánh vốn tự trọn đủ trí huệ và đức tướng, ở đây gọi là “Như Lai Nhất Thừa quả hải” đều được chứng đắc rốt ráo viên măn. “Đản bất xả nhân hạnh” (nhưng chẳng bỏ các hạnh [đă hành] trong khi tu nhân), “nhân” () [ở đây] là chưa chứng quả, giống như trong hiện thời chúng ta đều đang thuộc nhân địa (đang tu nhân). Nhân địa: Từ sơ phát tâm măi cho đến khi [chứng đắc] Đẳng Giác đều là nhân, Diệu Giác mới là quả vị. Chư Phật Như Lai tuy đă ở địa vị Diệu Giác vẫn chẳng bỏ nhân hạnh (hạnh trong khi tu nhân), đến giúp Thích Ca Mâu Ni Phật, đến làm một đứa học tṛ tu học ḥng nêu gương tốt đẹp, các Ngài làm gương cho chúng ta, được gọi là Ảnh Hưởng Chúng trong đại chúng. “Cố lai hội tán trợ Thích Tôn” (nên đến pháp hội giúp đỡ đức Thích Ca), giúp Thích Ca Mâu Ni Phật giáo hóa hết thảy chúng sanh, đến như vậy đó! Chúng ta học “nhập Phật pháp tạng” tới đây!

      Tiếp đó là nói “cứu cánh bỉ ngạn” (rốt ráo đạt đến bờ kia), “cứu cánh giả, chí cực chi nghĩa” (Cứu cánh nghĩa là đạt tới cùng cực). Đạt tới chỗ “đăng phong tạo cực”, [tức là] chẳng c̣n có ǵ cao hơn được nữa, đă đạt tới tuyệt đỉnh! “Bỉ ngạn” (彼岸) là trở về tự tánh, tự tánh là bỉ ngạn. Minh tâm kiến tánh như Thiền Tông đă nói chính là “bỉ ngạn”, giáo pháp Đại Thừa thường gọi “minh tâm kiến tánh”“vọng tận hoàn nguyên” (hết vọng, trở về nguồn). Hoàn nguyên (還源) là bỉ ngạn, hoàn nguyên là trở về tự tánh. Trong Tịnh Độ Tông, trở về Thường Tịch Quang là “bỉ ngạn”. “Trí Độ Luận vân” [nghĩa là] trong Đại Trí Độ Luận có nói: “Ba La”, tiếng Phạn là Ba La, Tâm Kinh nói Ba La Mật (Pāramitā), ở đây, tỉnh lược âm Mật ở cuối, [Ba La] chính là Ba La Mật. “Tần ngôn bỉ ngạn” (tiếng Hán gọi là “bờ kia”), khi ấy, Cưu Ma La Thập đại sư ở Trung Quốc, địa phương Ngài ở có tên gọi là Tần, cho nên [tiếng Hán] được gọi là “Tần ngôn”, [tức là ngôn ngữ của] nước Tần. Chỗ ấy nay thuộc hành lang Hà Tây[2], thuộc khu vực tỉnh Cam Túc, thuở ấy gọi là “Tần quốc”. Đây là nói về tiếng Hán, Ba La Mật dịch sang tiếng Hán là Bỉ Ngạn (bờ kia). “Hựu vân” (lại nói), giải thích thêm: “Dĩ sanh tử vi thử ngạn, Niết Bàn vi bỉ ngạn” (coi sanh tử là bờ này, coi Niết Bàn là bờ kia). Sanh tử là lục đạo, lục đạo luân hồi có Phần Đoạn sanh tử, đó là bờ bên này. Niết Bàn là bờ bên kia, Niết Bàn là bất sanh, bất diệt. Chứng đắc Niết Bàn sẽ bất sanh, bất diệt.

      Niết Bàn có rất nhiều ư nghĩa, ở đây trích dẫn kinh Niết Bàn để nói: “Niết Bàn Kinh vân: Bỉ ngạn giả, dụ Như Lai dă” (Kinh Niết Bàn dạy: “Bờ kia ví như Như Lai”). Như Lai là minh tâm kiến tánh, đại triệt đại ngộ. Chúng ta đọc kinh Hoa Nghiêm, sẽ thấy trong Viên Giáo, từ Sơ Trụ Bồ Tát trở lên đều được gọi là Như Lai. Các Ngài sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần, chẳng khởi tâm, không động niệm, chẳng phân biệt, không chấp trước, đó là kiến tánh, nên được gọi là Như Lai. Do vậy, đối với [danh xưng] Như Lai, bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ đều có thể gọi là Như Lai, địa vị có cao hay thấp khác biệt, quả vị rốt ráo là địa vị Diệu Giác. Ở đây, vận dụng cả hai ư nghĩa ấy đều hợp lư. “Thị dĩ Tịnh Ảnh sư thích cứu cánh Niết Bàn” (do vậy, ngài Tịnh Ảnh giải thích từ ngữ “Niết Bàn rốt ráo”), Ngài đă nói mấy câu như sau: “Chương quả tất cánh, Niết Bàn bỉ ngạn, đáo danh Cứu Cánh” (Nêu rơ quả rốt ráo, Niết Bàn là bờ kia, đạt đến [quả vị ấy] sẽ gọi là “rốt ráo”). “Chương” () là tỏ rơ, Bồ Tát tu chứng quả vị đă đạt đến rốt ráo viên măn rồi, nên nói là “tất cánh”, quả vị tu hành đạt tới địa vị “tất cánh” (畢竟). “Tất” () là nói chúng ta đă tốt nghiệp, đă hoàn tất, đă học xong tất cả các khóa học rồi, Cánh () cũng có ư nghĩa “viên măn”. Đă đạt đến bờ kia Niết Bàn, đó là “cứu cánh” (究竟). Ư nghĩa này được nói theo địa vị Diệu Giác, nếu mở rộng ra, cũng có thể nói bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ đều thật sự tu chứng bờ kia rốt ráo. Tiếp đó, cụ Hoàng ghi thêm lời tiểu chú: “Sớ vị chương minh dĩ đắc chí cực chi giác quả, đáo đạt Niết Bàn bỉ ngạn, danh vi cứu cánh” (Lời Sớ có ư giảng rơ: Đă đạt đến địa giác quả tột bậc, đạt đến bờ kia Niết Bàn, nên gọi là “rốt ráo”). Đây là bổ sung ư nghĩa, tức là bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ đều đạt tới rốt ráo viên măn, chứng đắc quả vị cao nhất là địa vị Diệu Giác, đó là “cực chi giác quả” (quả giác tột bậc), tức là địa vị Diệu Giác, đều là Phật quả viên măn. “Án Chân Giải ư, tắc vi chứng nhập Phật chi Nhất Thừa đại công đức bảo hải, khế Phật sở đắc Niết Bàn” (Xét theo ư của sách Chân Giải th́ [cứu cánh bỉ ngạn] là chứng nhập biển báu đại công đức Nhất Thừa, khế hợp Niết Bàn do Phật đă chứng đắc). Hai vị Tịnh Ảnh và pháp sư Đạo Ẩn nói đến cùng một chuyện, cùng một cảnh giới.

      “Thị chư đại sĩ, viên chứng quả đức dĩ, tùng quả hướng nhân, tuân Phổ Hiền đức, phổ hiện thập phương, lai pháp hội trung, đồng hoằng tịnh pháp” (Các vị đại sĩ ấy đă chứng trọn vẹn quả đức, bèn từ quả hướng đến nhân, tuân theo phẩm đức Phổ Hiền, hiện khắp mười phương, đến trong pháp hội [Vô Lượng Thọ] để cùng hoằng dương tịnh pháp). Đây là nói rơ những vị đại sĩ từ mười phương đến tham dự pháp hội, dùng thân phận Bồ Tát để đến nơi đây; nhưng các vị Bồ Tát đó đều đă thành Phật, từ quả hướng đến nhân, người Hoa nói là “thả chiếc bè Từ”, vẫn tuân hành phẩm đức Phổ Hiền, hiện thân trong khắp mười phương. Có ư nghĩa ấy, dụng ư ở chỗ này: “Tuân Phổ Hiền đức, phổ hiện thập phương”. Từ chỗ này, chúng ta thấu hiểu phẩm đức của ngài Phổ Hiền chẳng thể nghĩ bàn! “Phổ hiện thập phương” chính là thể hiện nguyện cuối cùng trong mười nguyện Phổ Hiền, tức là nguyện “phổ giai hồi hướng”. Dùng ǵ để hồi hướng? Phải dùng thành quả tu hành của chính ḿnh, dùng vô tận phương tiện thiện xảo để giúp hết thảy chúng sanh trong mười phương thế giới giác ngộ, viên thành Phật đạo, đó là “chân hồi hướng”. Hồi hướng không phải là nói suông, mà phải dùng công đức chân thật, các Ngài thể hiện ư nghĩa này! Do vậy, các Ngài đến pháp hội, “đồng hoằng tịnh pháp” (cùng hoằng dương tịnh pháp), “tịnh pháp” là Tịnh Độ Tông, tức là pháp môn Tịnh Độ Tông, cùng với Thích Ca Mâu Ni Phật chung sức hoằng dương pháp môn này.

      Tiếp đó [trích dẫn] lời cư sĩ Bành Tế Thanh: “Hành quyền phương tiện, nhập Phật pháp tạng, cứu cánh bỉ ngạn” (Hành phương tiện quyền biến, nhập Phật pháp tạng, đạt đến bờ kia rốt ráo). Hành quyền phương tiện ngay trong cuộc sống hằng ngày, từ sáng đến tối khởi tâm động niệm, sinh sống, làm việc, đăi người, tiếp vật đều phải thị hiện sống động. Thị hiện ǵ vậy? Thị hiện nhập Phật pháp tạng, đạt đến bờ kia rốt ráo. Ở đây cũng phải giải thích đơn giản một chút, nhập Phật pháp tạng là trong cuộc sống hằng ngày sẽ giống như Phật. Chúng ta phải thấu hiểu Thích Ca Mâu Ni Phật từ sáng đến tối sống như thế nào th́ quư vị mới có thể học theo. Suốt đời, Thích Ca Phật chỉ làm một chuyện, trừ chuyện ấy ra, chuyện ǵ cũng chẳng có. Chuyện ấy là giáo hóa chúng sanh, [chỉ có] một chuyện ấy. Vậy th́ chúng ta hiểu, ở nơi đây, “hành quyền phương tiện” [chính là vận dụng] phương tiện thiện xảo để giáo hóa chúng sanh. Đó là độ thoát hết thảy. Giáo hóa chúng sanh nhằm mục tiêu nào? Phải biết: Giúp hết thảy chúng sanh phá mê khai ngộ th́ công lao giáo hóa to lớn đă hoàn thành. Do vậy, đức Thế Tôn đă thật sự thực hiện viên măn câu “thân hành ngôn giáo” như cổ thánh tiên hiền Trung Quốc đă nói. Thân biểu hiện bằng ǵ? Giới luật, [kinh điển] ghi lại ngôn hạnh, cử chỉ của đức Thế Tôn, đó là giới luật. Thực hiện viên măn, bắt đầu từ Thập Thiện Nghiệp Đạo cho đến Bồ Tát đại giới, [những điều ấy] đều được biểu hiện trong cuộc sống hằng ngày, đó là “thân hành”. Về kinh điển, thuở ấy, đức Thế Tôn giáo hóa hết thảy đại chúng, do căn tánh của hết thảy đại chúng chẳng giống nhau, có người căn tánh thượng thượng thừa, đức Phật giảng cho họ pháp Nhất Thừa như Hoa Nghiêm, Pháp Hoa. Có người là căn tánh Đại Thừa, đức Phật giảng cho họ những kinh Đại Thừa như Bát Nhă, Phương Đẳng. Có kẻ căn tánh Tiểu Thừa, đức Phật giảng cho họ Tứ A Hàm. C̣n có kẻ căn tánh nhân thiên, ngay cả [các pháp] Thanh Văn, Duyên Giác họ đều chẳng màng, căn tánh của họ là nhân thiên. Hiện thời toàn thể chúng ta toàn là hạng căn tánh nhân thiên, v́ sao? Sơ Quả Tu Đà Hoàn của Tiểu Thừa phải đoạn tám mươi tám phẩm Kiến Hoặc trong tam giới, chúng ta chẳng làm được, đúng không? Chẳng giả! V́ thế, bản thân chúng ta phải biết chính ḿnh thuộc căn tánh ǵ, có thể học được phần nào trong sự giáo huấn suốt cả một đời Thích Ca Mâu Ni Phật, chẳng thể vượt quá phận được!

       Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo là bộ kinh đầu tiên [trên con đường tu học], là kinh điển nhập môn, là pháp nhân thiên, chư vị phải biết điều này. Quư vị thấy điều thứ nhất trong Tịnh nghiệp tam phước là pháp nhân thiên, chưa nhập môn. “Hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm chẳng giết, tu mười thiện nghiệp”. Hạng người nào vậy? Chẳng phải là Bồ Tát, cũng chẳng phải là La Hán, ngay cả Tu Đà Hoàn cũng chưa đạt tới. Đây là pháp phải học của chư thiên trong Dục Giới và con người trong nhân gian. Người học tốt đẹp [pháp này] th́ mới có thể học Phật. Điều kiện học Phật là học làm người tốt đẹp. Vừa mở kinh bổn ra, [ta thấy] đức Phật thường gọi “thiện nam tử, thiện nữ nhân”, chúng ta thật sự làm được chữ Thiện ấy. “Thiện” ấy chính là Thập Thiện Nghiệp Đạo. Thật sự làm được Thập Thiện Nghiệp Đạo th́ quư vị mới có thể nhập Phật môn. Nhập Phật môn đầu tiên là tiếp nhận Tam Quy, Ngũ Giới, vậy th́ nay chúng ta cũng thọ Tam Quy và Ngũ Giới, c̣n có rất nhiều đồng tu thọ Bồ Tát Giới, có thật hay không? Trong tâm chúng ta phải hiểu rơ: Chẳng thật! V́ sao? Chẳng làm được! Thiên Thai đại sư nói Lục Tức, chúng ta là Danh Tự Tức Phật, hữu danh vô thực, mang tiếng là đă thọ Tam Quy, nhưng chẳng có thực chất Tam Quy, toàn là giả trất! Chớ nên không biết điều này! Đă là giả, v́ sao vẫn phải thọ? Tổ sư đại đức dạy: Tuy giả vẫn nên thọ, v́ sau khi đă thọ [những giới ấy, trong tâm ta sẽ] thường ghi nhớ “ta đă quy y Tam Bảo, ta đă thọ Ngũ Giới, phải nghiêm túc học tập”, nó thường cảnh tỉnh quư vị. Chẳng thọ, quư vị sẽ chẳng có khái niệm ấy. Sau khi đă thọ, thường được nhắc nhở, do có lợi ích ấy nên thọ giới tốt hơn là không thọ! Nhưng đă thọ th́ ngàn muôn phần đừng nghĩ ta đă là đệ tử Tam Bảo, ta đă thọ Tam Quy, Ngũ Giới! Đấy là đại vọng ngữ, có tội lỗi, [là v́] quư vị chưa làm được! Sau khi đă thọ phải nghiêm túc, nỗ lực thực hiện, nhất định phải làm được th́ mới là tốt đẹp. Bởi lẽ, Phật pháp trọng thực chất, chẳng trọng h́nh thức.

      Lúc tôi mới học Phật, được quen biết Chương Gia đại sư, c̣n chưa quy y. Tôi học với Ngài ba năm, h́nh như tới năm thứ ba mới quy y, hai năm đầu chẳng quy y. Về sau có rất nhiều người bảo: “Anh thường ở cùng một chỗ với lăo nhân gia, có thể nào chẳng quy y?” Gần như là không thể nào chấp nhận, tôi bèn đối trước đại sư quy y, thọ Tam Quy. Đại sư vô cùng từ bi, tuy tôi chưa quy y, Ngài vẫn bằng ḷng nhiệt thành giáo huấn, mỗi tuần dành cho tôi hai giờ, rất khó có! Tuy chúng tôi chưa quy y nơi h́nh thức, nhưng xét đến thực chất th́ đă là thật sự quy y, v́ nghe lời! Thầy dạy ra sao, chúng tôi đều có thể tiếp nhận, đều chịu y giáo phụng hành. Đó là thật sự quy y, tuy trên h́nh thức chẳng có, nhưng thật sự quy y th́ có. Đó cũng gọi là “hành quyền phương tiện, nhập Phật pháp tạng”. Nhất định phải nhập, nhất định phải học theo Phật. Đức Phật dạy chúng ta hai câu, phải vĩnh viễn ghi nhớ, phải vĩnh viễn thực hiện: “Lấy giới làm thầy, lấy khổ làm thầy”, chẳng sợ chịu khổ, chẳng có ǵ quan trọng hơn điều này! Có thể chịu khổ, sẽ chẳng bị dao động trong hết thảy cảnh giới, chẳng bị cảnh giới bên ngoài xoay chuyển. Phàm những kẻ học Phật rốt cuộc bị thất bại, đọa lạc, là do bị hoàn cảnh xoay chuyển. Nói thực ra là chẳng thể chịu khổ, không chống được sự dụ dỗ, mê hoặc của cảnh giới, tiếng tăm, lợi dưỡng bên ngoài nên mới bị thất bại. Bởi thế, hai điều giáo huấn ấy của đức Phật trọng yếu dường nào!

      Chúng ta học Thập Thiện Nghiệp từ chỗ nào? Trong những năm gần đây, chúng tôi thường nhắc nhở các đồng học, mà cũng là nhắc nhở chính ḿnh, hăy thực hiện Đệ Tử Quy và Cảm Ứng Thiên tức là thật sự học Thập Thiện Nghiệp Đạo. Nếu [có kẻ nào] hỏi cách học Thập Thiện Nghiệp Đạo là như thế nào, quư vị hăy bảo kẻ ấy: “Hăy nghiêm túc học Đệ Tử Quy và Cảm Ứng Thiên th́ sẽ là học Thập Thiện Nghiệp Đạo”. Đă thành tựu hai thứ ấy, quư vị sẽ viên măn Thập Thiện Nghiệp Đạo. Trong Phật pháp, có một pháp môn đặc biệt là kinh Vô Lượng Thọ, tức pháp môn Tịnh Tông. Chỉ cần chúng ta có cơ sở này bèn có thể văng sanh, cũng có nghĩa là đă có ba căn cơ Nho, Thích, Đạo, thật sự vun bồi bền vững ba căn ấy, chúng ta nương theo lư luận và phương pháp trong kinh Vô Lượng Thọ để cầu sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, nhất định thành tựu. Đến được Tây Phương Cực Lạc thế giới là đạt đến bờ kia rốt ráo. Do vậy, câu nói ở đây chẳng phải là lời giả. Nhập Phật pháp tạng là trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta nhất định phải thực hiện ba căn cội của Nho, Thích, Đạo, quư vị bèn nhập Phật pháp tạng. Nhập nông cạn, chớ sợ! Đă có bổn nguyện và oai thần của A Di Đà Phật gia tŕ, sự gia tŕ ấy chính là kinh Vô Lượng Thọ. Mỗi ngày, quư vị đọc kinh Vô Lượng Thọ từ đầu đến cuối một lượt, là được A Di Đà Phật gia tŕ quư vị một lần. Quư vị niệm mỗi ngày là được gia tŕ mỗi ngày. Mỗi ngày nghe giảng, hiểu rơ ràng, minh bạch đạo lư trong ấy, quư vị đă được gia tŕ viên măn, lẽ nào chẳng văng sanh!

      “Tam cú nghĩa trung, toàn nhiếp Tịnh Độ pháp môn, Bồ Tát nhất thiết sở hạnh, bất ly phương tiện. Dĩ phương tiện cố, thủ ư Tịnh Độ, đắc thường kiến Phật” (Nghĩa lư trong ba câu ấy đă gồm thâu trọn vẹn pháp môn Tịnh Độ và hết thảy các hạnh của Bồ Tát, chẳng ĺa phương tiện. Do dùng phương tiện mà giữ lấy Tịnh Độ, nên thường được thấy Phật). Phương tiện của Tịnh Tông trước hết là làm một người tốt. Chẳng làm một người tốt, sẽ chẳng có cách nào sanh về thế giới Cực Lạc, chẳng có phần, phải làm một người tốt! Nhưng chúng ta cũng thật sự thấy, chẳng phải là giả, có kẻ suốt đời tạo ác, lúc lâm chung gặp gỡ bạn lành khuyên kẻ ấy “quay đầu là bờ”, niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, kẻ ấy nghiễm nhiên cũng thành tựu, đó là do nguyên nhân nào? Điều ấy khiến cho nhiều người hoài nghi. Trong ấy có đại đạo lư, đại đạo lư ǵ vậy? Kẻ suốt đời tạo ác, lâm chung sám hối, biết lỗi, quay đầu, tội nghiệp bèn tiêu tan. Kinh Phật có tỷ dụ “nhà tối ngàn năm”, căn nhà ấy chẳng có ánh sáng, bao lâu? Một ngàn năm! Quư vị thắp một ngọn đèn soi sáng, tối tăm chẳng c̣n nữa. Tối tăm ví như tội nghiệp, “ngàn năm” là thời gian tạo tội nghiệp rất dài. Quư vị một niệm quay đầu, tức là quư vị thắp một ngọn đèn, tối tăm chẳng c̣n nữa. Lời này cho chúng ta biết: Tội lẫn phước đều chẳng phải là thật, chúng đều sanh từ tâm tưởng, là pháp sanh diệt, chẳng phải là thật. Chỉ cần là pháp sanh diệt th́ như kinh Kim Cang đă nói rất hay: “Hết thảy pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng”, pháp hữu vi là pháp sanh diệt. Giống như nằm mộng, gặp ác mộng, tạo tội nghiệp là gặp ác mộng, tạo nghiệp chịu khổ. Có người đánh thức quư vị, sau khi tỉnh giấc, mộng hoàn toàn chẳng c̣n nữa. Khi quư vị ở trong lục đạo, thời gian tạo tác tội nghiệp rất dài, cảm nhận khổ báo trong tam đồ, nay có thiện tri thức đánh thức quư vị, quư vị liền giác ngộ “lục đạo thật là khổ, ta muốn về thế giới Cực Lạc”. Ư niệm vừa chuyển, nghiệp bèn tiêu tan, nó chẳng c̣n chướng ngại quư vị nữa!

      Nghiệp tiêu nhiều hay ít, tùy thuộc tín tâm của quư vị. Tín tâm kiên định, chẳng có mảy may hoài nghi, nghiệp bèn tiêu hết. Có những kẻ như thế nào? Ta tạo nghiệp nhiều quá, thời gian tạo nghiệp quá lâu, như vậy th́ có được hay không? Chỉ cần có một niệm như thế, nghiệp của người ấy chỉ có thể tiêu ít ỏi vài phần, c̣n phần lớn chẳng thể tiêu được, vẫn có thể chướng ngại kẻ ấy. Nếu chúng ta thật sự hiểu đạo lư này, sẽ chẳng c̣n hoài nghi nữa, biết tội nghiệp như thế nào đi nữa, câu A Di Đà Phật thật sự có thể tiêu trừ [nghiệp ấy], giữ chặt A Di Đà Phật, quyết định chẳng buông lỏng. Trong tâm có A Di Đà Phật, trong miệng có A Di Đà Phật, thân thể tạo tác cũng giống như A Di Đà Phật, c̣n có thể nào chẳng văng sanh ư? Ở đây nói “Bồ Tát nhất thiết sở hành, bất ly phương tiện” (hết thảy các hạnh của Bồ Tát chẳng ĺa phương tiện), chẳng khác ǵ Thích Ca Mâu Ni Phật ứng hóa trong thế gian này. “Dĩ phương tiện cố” (do dùng phương tiện), đó là phương tiện thiện xảo, “thủ ư Tịnh Độ” (giữ lấy Tịnh Độ), phương này chính là Tịnh Độ, Tịnh Độ chính là phương này. “Đắc thường kiến Phật” (thường được thấy Phật), tâm ta chính là A Di Đà Phật, A Di Đà Phật chính là tâm ta. Chúng ta khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo tác đều có thể tương ứng với những điều đă dạy trong kinh Vô Lượng Thọ. Điều này giống như trong các tôn giáo thường nói: “Ta và thần cùng tồn tại”, chúng ta cũng là cùng A Di Đà Phật tồn tại. Trong Phật pháp, ư nghĩa “cùng tồn tại” này được nói rất thân thiết. Trung Phong quốc sư nói: “Tâm ta tức là A Di Đà Phật, A Di Đà Phật tức là tâm ta”, đấy chẳng phải là ta và A Di Đà Phật cùng tồn tại ư?

      “Dĩ kiến Phật cố, văn pháp tu hành, nhập Phật pháp tạng, viên măn giác tâm, cứu cánh bỉ ngạn” (do thấy Phật nên nghe pháp tu hành, nhập Phật pháp tạng, viên măn giác tâm, đạt đến bờ kia rốt ráo). Đây là rốt ráo viên măn thành Phật trong một đời. Nhập Phật pháp tạng, tánh, tướng, lư, sự, nhân quả, viên măn giác tâm, không ǵ chẳng thông đạt, hiểu rơ. “Cứu cánh bỉ ngạn” là niệm niệm tương ứng tự tánh. Trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật đă nói: “Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng của Như Lai”. Trong mỗi niệm, chúng ta đều tương ứng với trí huệ và đức tướng trong tự tánh. Đấy là đạt đến “cứu cánh bỉ ngạn”. Do vậy, kinh phải đọc thuộc, phải hiểu rơ ư nghĩa, phải vận dụng trong cuộc sống hằng ngày. “Nhược vô phương tiện, vô lượng hành môn chung bất thành tựu” (nếu không có phương tiện, vô lượng hành môn trọn chẳng thể thành tựu). Trí huệ chân thật, ĺa hết thảy tướng, tức là hết thảy các pháp; v́ thế, buông xuống là công phu bậc nhất của người tu hành. Buông chấp trước xuống, buông phân biệt xuống, buông khởi tâm động niệm xuống, điều này chẳng dễ ǵ làm được, nhưng khởi đầu từ [buông xuống] phân biệt và chấp trước th́ chúng ta có thể làm được. Tuy chẳng thể viên măn như Bồ Tát, nhưng chúng ta hăy bắt đầu làm! Thời thời khắc khắc đều có thể cảnh giác, điều này rất trọng yếu. Đặc biệt là trong hoàn cảnh hiện tiền, từ TV, Internet, từ các phương tiện thông tin, chúng ta thấy trên toàn thể thế giới có nhiều tai nạn chẳng có cách nào tưởng tượng nổi. Đối với người tu hành mà nói, những tai nạn ấy có điểm lợi ích là khiến cho chúng ta cảnh giác thế giới này thật sự khổ sở, chẳng thể trụ trong thế giới này! Mỗi ngày chúng ta thấy trong kinh đức Thế Tôn đă giới thiệu thế giới Cực Lạc, thế giới ấy tốt đẹp lắm! So sánh hai thế giới, nguyện vọng cầu sanh thế giới Cực Lạc sẽ nẩy sanh tràn trề, đó là điều tốt đẹp. Nếu trên thế giới này chẳng có tai nạn, chúng ta sẽ không muốn ra đi, tuy niệm A Di Đà Phật vẫn chẳng nỡ ĺa bỏ thế giới này. Do vậy, mỗi lần có đại tai nạn, hiện tượng ấy cũng độ rất nhiều người. Có lắm kẻ thiện căn chưa chín muồi, trông thấy tai nạn ấy, thiện căn bèn chín muồi, thật sự muốn văng sanh, thật sự buông xuống. Do vậy, Ngẫu Ích đại sư có nói hai câu rất tuyệt: “Cảnh duyên vô hảo xú, hảo xú tại nhân tâm” (Cảnh duyên chẳng tốt xấu, tốt xấu do ḷng người). Quư vị có cách nh́n ra sao, hoàn cảnh chẳng có tốt hay xấu, quan hệ giữa con người với nhau cũng chẳng có tốt hay xấu, [tùy thuộc] quư vị có cách nh́n ra sao! Nếu quư vị dùng tâm thái b́nh thường để nh́n, sẽ chẳng có ǵ là bất hảo. Tâm thái bất b́nh thường, hoàn cảnh ǵ cũng đều bất hảo, xác thực là cảnh chuyển theo tâm. Hy vọng các đồng học học Phật chúng ta đều có thể dùng tâm để chuyển cảnh giới, đó là điều tốt đẹp!

      Tiếp đó, lăo cư sĩ trích dẫn kinh Đại Bát Nhă để nói: “Như Đại Bát Nhă kinh vân: Thị Bồ Tát do dữ Bát Nhă Ba La Mật Đa tương ứng cố, tùng thử xứ một, sanh dư Phật độ. Tùng nhất Phật quốc, chí nhất Phật quốc, tại tại sanh xứ, thường đắc trị ngộ chư Phật Thế Tôn, cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán, năi chí Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề, chung bất ly Phật” (Như kinh Đại Bát Nhă nói: “Vị Bồ Tát này do tương ứng với Bát Nhă Ba La Mật Đa nên từ chỗ này chết đi, sanh trong các cơi Phật khác, từ một cơi Phật này đến một cơi Phật khác, sanh ở nơi đâu cũng đều thường được gặp gỡ chư Phật Thế Tôn, cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán, cho đến [khi chứng đắc] Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Tát, trọn chẳng ĺa Phật”). Đây là dạy dỗ chúng ta, chúng ta đă vun bồi vững vàng ba căn bản, tu Tịnh Độ như thế nào? Tu Tịnh Độ cũng phải là “tâm chẳng ĺa Phật, hạnh chẳng ĺa Phật”, sẽ thành tựu rất nhanh chóng. Ở đây đă nêu một thí dụ, “Bồ Tát do dữ Bát Nhă Ba La Mật Đa tương ứng cố” (Bồ Tát do tương ứng với Bát Nhă Ba La Mật Đa). Bát Nhă Ba La Mật Đa: Bát Nhă là trí huệ, Ba La Mật Đa là bờ kia, cũng là bờ kia Niết Bàn. Câu này có nghĩa là Bồ Tát có năng lực ấy, trong cuộc sống hằng ngày, Ngài sử dụng trí huệ, chẳng dùng tri thức, Bát Nhă là trí huệ. Tri thức và trí huệ khác nhau! Cơ sở của trí huệ là tâm thanh tịnh, cơ sở của tri thức là tâm ư thức. Trong tâm ư thức có ư niệm, trong tâm thanh tịnh chẳng có ư niệm, nên chúng khác nhau. Tối thiểu là phải buông Kiến Tư phiền năo xuống, vẫn chưa thể gọi là Bát Nhă. Buông Kiến Tư phiền năo xuống, tâm thanh tịnh, chứng quả A La Hán.

      Theo cách nh́n của giáo pháp Đại Thừa th́ trong tam đức bí tạng (Pháp Thân, Bát Nhă và Giải Thoát), A La Hán chỉ có một đức là Giải Thoát, mà giải thoát vẫn chưa viên măn, được gọi là giải thoát nửa vời, chưa chứng đắc Pháp Thân, chẳng chứng đắc Bát Nhă. Cũng có thể nói là A La Hán chẳng có trí huệ Bát Nhă. Phải nâng cao lên một đẳng cấp, đạt đến Bồ Tát, Bồ Tát có trí huệ Bát Nhă. Pháp Thân Bồ Tát đă chứng đắc Pháp Thân, Bát Nhă, Giải Thoát, nên mới gọi là “tương ứng”. Từ tựa đề kinh này, thanh tịnh là điều chứng đắc bởi A La Hán, b́nh đẳng là chứng đắc của Bồ Tát, giác được chứng đắc bởi Phật, đó là đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh. B́nh đẳng không dễ dàng, sau khi đă thanh tịnh rồi th́ mới có b́nh đẳng. Đại chúng trong xă hội hiện thời tâm chẳng thanh tịnh, chẳng thanh tịnh th́ làm sao có thể b́nh đẳng cho được? V́ sao? Sau Đệ Nhị Thế Chiến, mọi người trên thế giới này đều mong mỏi ḥa b́nh xuất hiện, nhưng măi cho đến hiện thời, ḥa b́nh chẳng xuất hiện! Xă hội mỗi năm một động loạn hơn, tai nạn mỗi năm một nhiều hơn. Do nguyên nhân nào? Tâm con người chẳng thanh tịnh. Nói cách khác, trong xă hội hiện tiền, điều quan trọng nhất là làm sao giúp cho người ta đạt được tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh là điều mọi người đều luôn mơ ước, mong cầu. Mong cầu thân tâm thanh tịnh, v́ sao chẳng đạt được? Dục vọng quá nhiều, chẳng thể buông dục vọng xuống được. Do vậy, cổ nhân Trung Quốc nói: “Tri túc thường lạc” (biết đủ, thường vui sướng). Nếu con người tri túc, tâm thanh tịnh bèn có thể khôi phục. Người nếu chẳng tri túc, tâm kẻ ấy sẽ vĩnh viễn chẳng thanh tịnh. Giống như nước nổi sóng, chẳng b́nh lặng. Tri túc, sẽ dần dần lắng xuống, sóng to trở thành sóng nhỏ, sóng nhỏ trở thành gợn sóng, có thể khôi phục thanh tịnh. V́ thế, phải tri túc th́ mới được.

      Quư vị thấy có phải là Di Lặc Bồ Tát sẽ đến thành Phật trong nhân gian hay không? Hiện thời Ngài ở nơi đâu? Tại Đâu Suất Thiên. Đâu Suất nghĩa là ǵ? Tri túc. Di Lặc Bồ Tát muốn hạ sanh thành Phật, trước tiên phải tu Tri Túc trong tầng trời Đâu Suất. Tu viên măn công phu Tri Túc rồi mới có thể làm Phật, phổ độ chúng sanh. Chẳng tri túc th́ làm sao được nữa? V́ sao Ngài phải trụ trong Đâu Suất Thiên, chẳng trụ trong Tha Hóa Tự Tại Thiên? V́ sao không trụ trong Đao Lợi Thiên? Mang ư nghĩa biểu pháp, Bổ Xứ Phật, Bổ Xứ Bồ Tát nhất định phải là từ Tri Túc Thiên giáng hạ [nhân gian] làm Phật, toàn là ư vị giáo học. Do vậy, có thể biết: Phật là pháp vương, quốc vương và đế vương trong thế gian cũng phải biết Tri Túc th́ ngồi trên ngai hoàng đế mới thật sự có thể ích nước, lợi dân. Ông ta tri túc. Nếu chẳng tri túc, sẽ biến thành một gă vua bạo ngược, dân chúng phải chịu khổ. Hoàng thượng tri túc, dân chúng hưởng phước, cùng một đạo lư! Lại thấp hơn một bực nữa sẽ là xí nghiệp, nói theo t́nh trạng hiện thời. Chủ nhân xí nghiệp tri túc, xí nghiệp ấy sẽ là xí nghiệp khuôn mẫu. Chủ nhân tri túc, kiếm được tiền sẽ nhất định cứu giúp dân nghèo, thực hiện sự nghiệp phước lợi xă hội, việc kinh doanh càng làm càng to lớn, càng làm càng dồi dào, càng thí càng nhiều! Càng nhiều bèn càng làm nhiều hơn! Quư vị nói xem sự biểu pháp của vị Bồ Tát này có dụng ư sâu xa dường nào? Tri túc bèn thật sự có thể tu phước, có thể tích đức. Kẻ chẳng tri túc sẽ thiếu phước, kẻ không tri túc sẽ bại đức, chẳng biết tu đức.

      Mấy câu kinh ấy đă hiển thị thần thông và diệu dụng của Bồ Tát. “Tùng thử xứ một, sanh dư Phật độ” (từ chỗ này chết, sanh trong các cơi Phật khác), như Di Lặc Bồ Tát cơ duyên chín muồi, thời tiết, nhân duyên đă chín muồi, bèn từ trời Đâu Suất giáng hạ, giáng sanh trên địa cầu, nói thông tục là “đầu thai”. Chẳng c̣n ở trong thiên cung Đâu Suất nữa, xuất sanh trong thế giới này, Ngài có năng lực ấy. Thế giới này rất lớn! Phải độ chúng sanh trên địa cầu, có phải độ những tinh cầu khác hay không? Đương nhiên là phải độ, khu vực giáo hóa của Ngài có phạm vi là một tam thiên đại thiên thế giới. Trên mỗi tinh cầu đều có chúng sanh, v́ sao? Tinh cầu là y báo, y báo chuyển theo chánh báo. Chẳng có chánh báo sẽ chẳng có y báo! Y báo và chánh báo đồng thời phát sanh; do vậy, trên mỗi tinh cầu đều có chúng sanh sống trong đó. Có các chúng sanh chẳng có cùng chiều không gian với chúng ta, nên chúng ta chẳng thấy họ, mà họ cũng chẳng thấy chúng ta. Chiều không gian cao hơn, có những chiều không gian cao hơn chúng ta, chúng ta sẽ chẳng thấy họ, nhưng họ trông thấy chúng ta. Do vậy, chẳng thể nói chúng ta dùng phi thuyền bay đến thám hiểm tinh cầu khác, phát hiện [ở đó] chẳng có ai, một vùng hoang vắng, thê lương, đó là ǵ? Nhục nhăn của chúng ta chẳng nh́n thấy, chứ thật ra là có. Trên quả địa cầu này, người và quỷ sống lẫn lộn, nhưng có rất nhiều người chẳng hề thấy quỷ. Ta chẳng tin tưởng, nhưng cũng có chẳng ít người đă thấy quỷ, họ bèn thật sự tin tưởng, duyên phận của mỗi người khác nhau!

      Tôi đă gặp một số nghệ sĩ, diễn viên kể với tôi: Họ thật sự thấy [quỷ]. Trong lúc quay phim, buổi tối quay ngoại cảnh, quay tại nghĩa trang, sắp đặt các đạo cụ để đóng phim tại đó, quỷ cũng đến tham gia, thật sự gặp gỡ. Sau khi quay phim xong, mọi người cũng cảm thấy rất đói, thấy gần đó có quán nhỏ bán đồ ăn vặt, mọi người đến cái quán nhỏ ấy để ăn uống. Ăn xong, lái xe ra về, đến ngày hôm sau bị tiêu chảy, [đều nghĩ] do ăn những thứ đă bị hư nên nôn mửa, mửa ra ǵ? Toàn là những thứ trời ơi đất hỡi! Chuyện ǵ đây? Lại gọi điện thoại cho mấy người bạn th́ họ nói: “Anh sao, tôi cũng vậy, người khác cũng vậy”. Được rồi, chúng ta lái xe đi t́m cái quán nhỏ ấy. Lái xe tới đó, một băi tha ma, thứ ǵ cũng chẳng có! Gặp phải quỷ rồi! Quỷ mở tiệm mà ta đến đó ăn uống! Chẳng phải là một người nói, mà bảy tám người đều nói như thế! Người và quỷ sống lẫn lộn mà! Quư vị có thể nói trên mặt trăng chẳng có ai hay không? Quư vị có thể nói Hỏa Tinh chẳng có ai hay chăng? Có chứ! Nói theo Phật pháp, chỉ cần có cơi nước sẽ có người cư trụ. Y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới, cảnh chuyển theo tâm, lời ấy là thật, chẳng phải giả!

      V́ thế, Bồ Tát có thể từ chỗ này chết, sanh sang cơi Phật khác, từ cơi Phật này sanh sang cơi Phật khác, sanh ở chỗ nào đều thường gặp gỡ chư Phật Thế Tôn. Đó là nói những vị Bồ Tát trong pháp hội này, các Ngài chỉ cần thấy vị Bồ Tát nào đó thành Phật một nơi nào đó đều hoan hỷ: “Chúng ta đến tùy hỷ”, bèn mất ở nơi đây, xuất hiện nơi kia. Đó là một cách nói. Trên thực tế, các Ngài có năng lực quá lớn, chẳng rời khỏi nơi đây mà có thể hiện thân nơi kia, phân thân đấy mà! Người trong Tây Phương Cực Lạc thế giới có bản lănh này. A Di Đà Phật giảng kinh, giáo học, họ nghe nơi đó, bất động. Họ nghe ở nơi đó. Trong thế giới phương khác, Phật đang hoằng pháp bên đó, họ cũng đến, phân thân đến đó, có thể phân vô lượng vô biên thân, đồng thời tham gia pháp hội của hết thảy chư Phật Như Lai, họ có bản lănh ấy. Đến Tây Phương Cực Lạc thế giới sẽ thành tựu, v́ sao nhanh chóng dường ấy? Thời gian thân cận chư Phật Như Lai nhiều, có phước báo; nghe Phật thuyết pháp nhiều, tăng trưởng trí huệ, thật sự là phước huệ song tu, lợi hại hơn chúng ta nhiều! Chúng ta một vị Phật cũng chẳng gặp, nghe kinh tại đạo tràng này sẽ chẳng thể nghe kinh tại giảng đường sát vách. Họ có thể đồng thời phân thân, đồng thời đều học được, người ta có năng lực ấy, toàn là tiếp xúc chư Phật Như Lai, vượt trỗi Đẳng Giác, Thập Địa, mỗi ngày thân cận đại thiện tri thức như vậy, lẽ đâu chẳng thành tựu!

      Họ gặp gỡ chư Phật Thế Tôn, quư vị thấy đó, “cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán”, đó là tu phước; nghe pháp, tiếp nhận sự giáo huấn là tu huệ. Cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề là mục tiêu tu học cao nhất, một phương hướng, một mục tiêu, dũng mănh tinh tấn, “chung bất ly Phật” (trọn chẳng ĺa Phật). Hiện thời chúng ta có thể làm được hay không? Có thể làm được. Chúng ta nghiệp chướng nặng nề, lắm phiền năo, tuy chẳng thấy Báo Thân của Phật, nhưng trông thấy tượng Phật, thấy kinh Phật. Chỉ cần chẳng ĺa khỏi tượng Phật, chẳng ĺa khỏi kinh Phật, mỗi ngày lễ bái, thân lạy Phật, miệng niệm Phật, trong tâm nghĩ tưởng Phật, Đại Thế Chí Bồ Tát đă dạy: “Ức Phật, niệm Phật”, Ức () là trong tâm nghĩ tưởng Phật. “Hiện tiền, đương lai tất định kiến Phật” (hiện tiền, tương lai, nhất định thấy Phật). Phật có ở cạnh ta hay không? Có, nhưng chúng ta nghiệp chướng nặng nề, chẳng nh́n thấy. Trong tâm chúng ta có cảm, Phật bèn có ứng, Phật ở ngay bên cạnh chúng ta, trước nay chưa hề rời ĺa, đó là ḷng đại từ đại bi của Phật. Chư Phật Như Lai đă phát nguyện: “Trong cửa nhà Phật, chẳng bỏ một ai”, làm sao có thể bỏ sót chúng ta cho được? Chẳng thể nào! Thường nghĩ tới ân đức của Phật đối với chúng ta, chúng ta phải nghiêm túc nỗ lực học tập. Trong kinh điển, đức Phật đă giáo huấn quư báu tốt đẹp như thế, hăy nghiêm túc học tập th́ mới là đúng.

      “Đương tri dục bất ly Phật, tu dĩ niệm Phật vi nhân, như Hoa Nghiêm Thập Địa, thỉ chung bất ly niệm Phật” (Hăy nên biết, muốn chẳng ĺa Phật, hăy nên lấy niệm Phật làm nhân, như trong kinh Hoa Nghiêm, hàng Thập Địa từ đầu đến cuối chẳng rời niệm Phật), chúng ta phải ghi nhớ câu này. Thập Địa trong Hoa Nghiêm là Pháp Thân đại sĩ từ Sơ Địa cho đến Thập Địa, trong bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ, đặc biệt nêu lên Thập Địa, [nhưng ngụ ư] bao gồm [các địa vị] thấp hơn như Thập Hồi Hướng, Thập Hạnh, Thập Trụ, chẳng có địa vị nào không niệm Phật. Điều cuối cùng trong Tịnh nghiệp tam phước chính là nhập Phật pháp tạng, điều thứ hai chưa nhập, điều thứ ba là đă nhập, “phát Bồ Đề tâm, tin sâu nhân quả”. Nhân quả ấy không phải là nhân quả b́nh phàm! Nếu là nhân quả b́nh phàm th́ v́ sao Đại Thừa Bồ Tát mới học? Chúng ta đều biết nhân quả phổ thông là “chớ nên sát sanh”, sát sanh là nhân, quả báo là trong tương lai bị kẻ khác giết. Chớ nên trộm cắp, trộm cắp th́ trong tương lai quư vị phải trả nợ. Đă trả nợ lại c̣n phải kèm thêm lợi tức, chẳng phải là chuyện tốt đẹp. Sát sanh phải đền mạng, trộm cắp phải đền tiền. Nhân quả thông khắp ba đời, chẳng phải là một đời! Do vậy, người hiểu nhân quả ba đời, tâm bèn định, tự nhiên tri túc. Bị thua thiệt, bị lừa gạt chẳng sợ, thật đấy, cổ nhân nói chẳng sai: “Bị thua thiệt là có phước”, là chuyện tốt, không phải là chuyện xấu. Ta bị thua thiệt, kẻ khác chiếm tiện nghi, đời sau, kẻ ấy phải trả lại cho ta, phải đáp đền. Nay ta hoan hỷ chịu thua thiệt, trong tương lai, kẻ ấy hoan hỷ cúng dường, hoan hỷ trả nợ, như vậy th́ có ǵ là chẳng tốt đẹp? Do vậy, tâm niệm chiếm tiện nghi của kẻ khác bị đoạn mất; chẳng làm chuyện tổn thương, gây hại cho người khác nữa. V́ sao? Đă giác ngộ, đă hiểu rơ, đă biết chân tướng sự thật. Chúng ta biết những thứ nhân quả ấy, [chẳng lẽ] Bồ Tát không biết? Đương nhiên là biết. Vậy th́ Bồ Tát chẳng biết loại nhân quả nào? Thật vậy, “niệm Phật là nhân, thành Phật là quả”, khá nhiều Bồ Tát chẳng biết, chỉ có Phổ Hiền Bồ Tát biết. Do đó, các vị Bồ Tát văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới đều biết, niệm A Di Đà Phật là nhân, đến thế giới Cực Lạc thành Phật là quả. Trong các phần trước, đối với câu danh hiệu A Di Đà Phật, chúng tôi đă báo cáo nhiều lượt, [câu danh hiệu ấy] vốn là đức hiệu của tự tánh. Ư nghĩa của câu danh hiệu toàn là tiếng Phạn ấy dịch sang tiếng Hán th́ A dịch là Vô, Di Đà dịch là Lượng, Phật dịch là Giác, [A Di Đà Phật] là Vô Lượng Giác. Vô Lượng Giác là tự tánh, tức là tự tánh của chúng ta. Niệm A Di Đà Phật là niệm tự tánh của chúng ta. Tây Phương Cực Lạc thế giới Pháp Tạng Bồ Tát đă thành Phật, Ngài bèn dùng Vô Lượng Giác làm danh hiệu. V́ vậy, niệm danh hiệu này là vừa niệm ngài Pháp Tạng đă thành Phật, vừa niệm đại giác viên măn trong tự tánh, tự tha bất nhị, danh hiệu có công đức chẳng thể nghĩ bàn. Do vậy, điều cuối cùng trong Tịnh nghiệp tam phước, “tin sâu nhân quả” nhằm nói về chuyện này. Tin sâu “niệm Phật là nhân, thành Phật là quả”. Niệm Phật thành Phật, quyết định chân thật chẳng dối, hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng.

      Tiếp đó, “đọc tụng Đại Thừa, khuyến tấn hành giả”, ba câu trước đó là tự lợi, câu cuối cùng là lợi tha. Chính ḿnh đă thành tựu rồi, nhất định phải giúp người khác, toàn tâm toàn lực giúp đỡ người khác. Làm khi nào? Khi đă có đôi chút thành tựu. Do vậy, Quyền Giáo Bồ Tát, phạm vi này rất rộng, từ sơ phát tâm cho đến địa vị Thập Tín đều là Quyền Giáo Bồ Tát, là tiểu Bồ Tát, chưa kiến tánh. Đă kiến tánh, minh tâm kiến tánh th́ là Bồ Tát. Chưa kiến tánh th́ đều gọi là Quyền Giáo Bồ Tát. Có làm hay không? Làm! Ta biết bao nhiêu, ta giảng bấy nhiêu, chia sẻ với đại chúng, khuyên người khác là khuyên chính ḿnh. Suốt đời Thích Ca Mâu Ni Phật đă biểu diễn, nêu gương cho chúng ta trong bốn mươi chín năm, chúng ta đă thấy, hiểu rơ, học theo gương ấy là đúng. Cuộc sống giáo học của lăo nhân gia trong bốn mươi chín năm là hoạt động chánh đáng b́nh thường trong Phật giáo. Trong bốn mươi chín năm, chẳng làm kinh sám, Phật sự, chẳng tổ chức pháp hội, cũng chẳng hề cử hành Phật Thất một ngày nào, cũng chẳng hề tụ tập đại chúng cùng nhau niệm Phật suốt một cây hương! Chẳng hề có! Suốt đời làm ǵ? Cả đời là giáo học, suốt ngày từ sáng đến tối đều chẳng gián đoạn, nhất cử, nhất động, một câu nói, một nụ cười đều nhằm biểu thị pháp, đều là giáo học. Bất luận là đối với nhiều người, hay độ một hai người, chẳng có ai không dạy, nhiệt t́nh, thành ư chân tâm như vậy cảm động hết thảy chúng sanh. Nhục nhăn của chúng ta chẳng nh́n thấy, trong kinh này có chép, chư thiên các cơi trời Dục Giới và Sắc Giới, tám bộ quỷ thần, ngạ quỷ, địa ngục, súc sanh. Cớ sao [chúng sanh trong] địa ngục cũng đến? Những vị từ địa ngục tham gia pháp hội đều là Bồ Tát, hiện thân [làm tội nhân] địa ngục trong các địa ngục để giáo hóa chúng sanh, nghe Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh, giáo học, họ cũng đến. Chẳng phải là kẻ thật sự tạo tội nghiệp đọa địa ngục, hạng người ấy chẳng ra khỏi ngục được, v́ họ chẳng có phước báo to lớn ấy. Trong địa ngục có rất nhiều Bồ Tát, các Ngài đến đi tự do. Các Ngài đến địa ngục để độ chúng sanh trong địa ngục, nên hiện tướng địa ngục. Chẳng có một ai rời Phật. Do vậy, ở đây dạy chúng ta: “Thập Địa Bồ Tát thỉ chung bất ly niệm Phật” (Thập Địa Bồ Tát từ đầu tới cuối chẳng ĺa niệm Phật), chúng ta có nên không niệm Phật hay chăng? Bởi lẽ đó, Phổ Hiền Bồ Tát thoải mái dường ấy, khuyên dạy các vị Bồ Tát [trong Hoa Nghiêm hải hội] hăy cùng nhau đến thế giới Cực Lạc, vầy đoàn đến thế giới Cực Lạc bái kiến A Di Đà Phật. Thế giới Cực Lạc cũng thật sự rất náo nhiệt, chư Phật, Bồ Tát trong mười phương thế giới đến triều kiến liên miên chẳng dứt.   

      Đoạn văn ấy do cư sĩ Bành Tế Thanh nói, “án Bành thị chi thuyết, Bồ Tát độ sanh tu hữu phương tiện, tối thắng phương tiện thị giáo nhân niệm Phật” (xét theo lời ông Bành đă nói, Bồ Tát độ sanh cần phải có phương tiện, phương tiện thù thắng nhất là dạy người ta niệm Phật). Câu này hết sức quan trọng, chúng ta phải ghi nhớ, suốt đời chẳng rời bỏ. Bất luận chỗ nào, thấy người khác đều là “A Di Đà Phật”, đó là ǵ? Dạy kẻ ấy niệm Phật, chẳng cần biết kẻ ấy có tin hay không. Kẻ đó chẳng tin th́ cũng đă nghe lọt vào tai rồi, hễ lọt qua tai, vĩnh viễn trở thành hạt giống đạo. Chủng tử Phật đă gieo trong ruộng thức thứ tám, gặp mọi người đều là như vậy. Đồng học học Phật nhận điện thoại, cầm lấy điện thoại bèn “A Di Đà Phật”, tốt lắm! Dưỡng thành [thói quen] niệm niệm chẳng rời Phật, niệm niệm chẳng rời A Di Đà Phật. “Niệm Phật sanh Phật quốc, kiến Phật văn pháp, chung bất ly Phật, cố năng nhập Phật pháp tạng, cứu cánh bỉ ngạn” (niệm Phật, sanh về cơi Phật, thấy Phật, nghe pháp, trọn chẳng ĺa Phật, nên có thể nhập Phật pháp tạng, đạt đến bờ kia rốt ráo), thật vậy, chẳng giả! Chỉ có chính ḿnh niệm Phật, khuyên người khác niệm Phật, hiện thời chưa thể nhập Phật pháp tạng, nhưng thật ra đă gieo cái nhân nhập Phật pháp tạng. Sanh về thế giới Cực Lạc sẽ là nhập Phật pháp tạng. Đoạn văn này của ông Bành Tế Thanh “thâm đắc kinh chỉ” (thấu đạt sâu xa tông chỉ của kinh), đây là lời Hoàng lăo cư sĩ tán thán ông Bành. Chúng ta c̣n có thời gian, hăy xem đoạn kinh văn kế tiếp, đoạn này khá dài!

 

      (Kinh) Nguyện ư vô lượng thế giới thành đẳng Chánh Giác. Xả Đâu Suất, giáng vương cung, khí vị xuất gia, khổ hạnh học đạo. Tác tư thị hiện, thuận thế gian cố. Dĩ Định Huệ lực, hàng phục ma oán. Đắc vi diệu pháp, thành tối Chánh Giác. Thiên nhân quy ngưỡng, thỉnh chuyển pháp luân. Thường dĩ pháp âm, giác chư thế gian, phá phiền năo thành, hoại chư dục tiệm. Tẩy trạc cấu ô, hiển minh thanh bạch. Điều chúng sanh, tuyên diệu lư, trữ công đức, thị phước điền. Dĩ chư pháp dược, cứu liệu tam khổ. Thăng quán đảnh giai, thọ Bồ Đề kư. Vị giáo Bồ Tát, tác A Xà Lê, thường tập tương ứng vô biên chư hạnh, thành thục Bồ Tát vô biên thiện căn, vô lượng chư Phật hàm cộng hộ niệm.

      () 率,降 宮,棄 , 道,作 現,順 故。以 力,降 怨。 法,成 覺。天 仰,請 輪。常 音,覺 間。破 ,壞 塹。洗 污,顯 白。調 生,宣 理,貯 德,示 田。以 藥,救 苦。昇 階,授 記。為 薩,作 黎,常 行。成 根,無 念。

       (Chánh kinh: Nguyện trong vô lượng thế giới thành Đẳng Chánh Giác. Bỏ Đâu Suất, giáng hạ vương cung, vứt bỏ ngôi vị, xuất gia, khổ hạnh học đạo. Thị hiện như thế để thuận theo thế gian. Dùng sức Định Huệ hàng phục ma oán, đắc vi diệu pháp thành Chánh Giác cao tột. Thiên nhân quy ngưỡng, thỉnh chuyển pháp luân. Thường dùng pháp âm giác ngộ các thế gian, phá thành phiền năo, hoại các hào dục, rửa sạch cấu ô, hiển minh thanh bạch. Điều ngự chúng sanh, tuyên diệu lư, trữ công đức, chỉ bày phước điền. Dùng các pháp dược cứu chữa ba khổ. Lên địa vị quán đảnh, thọ kư cho Bồ Tát. Để dạy Bồ Tát bèn làm A Xà Lê, thường tu tập vô biên các hạnh tương ứng, thành thục Bồ Tát vô biên thiện căn, vô lượng chư Phật đều cùng hộ niệm).

 

      Chúng ta đọc lời chú giải của Hoàng lăo cư sĩ: “Thượng đoạn mạt nhị cú, ‘nhập Phật pháp tạng, cứu cánh bỉ ngạn’, tái tán đại sĩ chi Thật Đức. Kim văn cập hạ văn lưỡng đoạn, tắc tái tán Bồ Tát phổ ư thập phương thị hiện bát tướng thành đạo chi thù thắng Quyền Đức” (Hai câu cuối trong đoạn trên, tức “nhập Phật pháp tạng, đạt đến bờ kia rốt ráo” lại khen ngợi Thật Đức của đại sĩ. Hai đoạn văn gồm đoạn văn này và đoạn kế tiếp lại khen ngợi Quyền Đức thù thắng của Bồ Tát thị hiện tám tướng thành đạo trọn khắp mười phương). “Nhập Phật pháp tạng, cứu cánh bỉ ngạn”, Bồ Tát thành tựu viên măn trí huệ và đức tướng, đó là những thứ vốn trọn đủ trong Tánh Đức, sau khi chứng đắc nhất định khởi tác dụng. Khi ấy, khởi tác dụng, chắc chắn chẳng có khởi tâm động niệm, chúng ta phải biết điều này. Giống như Lục Tổ Huệ Năng đại sư đă nói minh tâm kiến tánh th́ kiến tánh là như thế nào? Ngài nói năm câu, văn tự không nhiều lắm, trên thực tế chỉ có hai mươi chữ, nhưng đă giảng rơ ràng, minh bạch chuyện này, thật sự khó có! Thuở ấy, Thích Ca Mâu Ni Phật ở dưới cội Bồ Đề, thị hiện đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, Ngài cũng đă nói ra. Ngài dùng mười bốn ngày, cũng là dùng thời gian hai tuần, diễn nói kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm. Do vậy, kinh Hoa Nghiêm là do đức Thế Tôn thành Phật giảng trong Định, chẳng lưu truyền trong nhân gian, chẳng ai biết. Sau khi đă giảng trong Định xong, Đại Long Bồ Tát thâu cất bộ kinh ấy do đức Phật đă nói trong cung rồng. Số lượng quá lớn, chẳng thể chuyển đến giữ trong địa cầu. Phân lượng nhiều cỡ nào? Sáu trăm năm sau, Long Thọ Bồ Tát rất khó có, có duyên rất sâu với Đại Long Bồ Tát, Đại Long Bồ Tát dẫn Long Thọ tới thăm viếng cung rồng. Ngài Long Thọ thấy [kinh Hoa Nghiêm] là tam thiên đại thiên thế giới vi trần kệ, một tứ thiên hạ vi trần phẩm, địa cầu của chúng ta làm sao có thể chứa đựng được? Đó là báo cáo của Thích Ca Mâu Ni Phật trong mười bốn ngày.

      Nhưng chư vị phải biết Lục Tổ Huệ Năng đại sư minh tâm kiến tánh, có cùng một cảnh giới với Thích Ca Mâu Ni Phật. Đức Thế Tôn ở Ấn Độ, nên dùng thân Phật để đắc độ, Ngài bèn hiện thân Phật. Huệ Năng đại sư ở Trung Quốc, ở đất Trung Quốc th́ chẳng hiện thân Phật, [người Hoa] chẳng có căn tánh tốt đẹp như vậy, nên dùng thân tỳ-kheo để đắc độ, lăo nhân gia hiện thân tỳ-kheo trong một đời. Thật ra, cùng một cảnh giới, chẳng khác ǵ nhau, nên dùng thân ǵ để đắc độ bèn hiện thân ấy. Ngài nói hai mươi chữ, triển khai th́ là Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh; Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh nếu rút gọn sẽ là hai mươi chữ ấy, bất tăng, bất giảm. Nếu người khác hỏi, Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm giảng những ǵ? Quư vị dùng năm câu nói đó của Lục Tổ để nói bèn nói trọn hết. Câu đầu tiên Ngài nói: “Nào ngờ tự tánh, vốn tự thanh tịnh”. Câu thứ hai nói: “Vốn chẳng sanh diệt”, tức là Niết Bàn chẳng sanh, chẳng diệt. Câu thứ ba là “vốn tự trọn đủ”, tức là như trong Hoa Nghiêm, đức Phật đă nói: “Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng của Như Lai”, tự tánh vốn tự trọn đủ, tự tánh có vô lượng trí huệ, vô lượng đức năng, vô lượng tướng hảo, hết thảy đều là vô lượng, tự tánh vốn trọn đủ mà! Câu thứ tư nói: “Vốn chẳng dao động”, điều này thường được kinh Đại Thừa nói là “tự tánh vốn định”. Câu cuối cùng: “Có thể sanh ra vạn pháp”, vô lượng vô biên các cơi Phật, y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới đều do tự tánh sanh, có thể sanh, có thể hiện, hết thảy vạn pháp là cái được sanh, được hiện. Nói rơ tất cả hết thảy vạn pháp trong khắp pháp giới hư không giới đều có cùng một tự tánh, có cùng một tự tánh tức là cùng một Thể. Lăo Tử đă nói: “Thiên địa dữ ngă đồng căn, vạn pháp dữ ngă nhất thể” (trời đất và ta cùng một căn, vạn pháp và ta cùng một Thể) mang ư nghĩa này. Người Trung Quốc nói luân lư th́ luân lư ấy chính là luân lư trong kinh Phật.

      Luân lư là nói về quan hệ, ta và người khác có quan hệ ǵ? Phật pháp nói tới quan hệ rộng lớn, tinh vi, sâu xa, nói rất viên măn. Không chỉ là quan hệ giữa con người với nhau được nói rơ ràng, mà quan hệ với tất cả động vật, quan hệ với thực vật, quan hệ với hoa cỏ, cây cối, quan hệ với núi, sông, đại địa, quan hệ với toàn thể hư không pháp giới, nói rơ ràng như thế, một Thể mà! Sự nhận biết này quan trọng hơn bất cứ ǵ khác! Từ bi là đức bậc nhất trong tự tánh, tinh hoa, cốt tủy của Tánh Đức là từ bi. Chúng ta không biết những quan hệ ấy, không biết chúng có quan hệ ǵ với chính ḿnh, cho nên tâm từ bi chẳng thể sanh khởi. Hiểu rơ quan hệ, tâm từ bi sẽ sanh khởi. Từ bi là ḷng yêu thương chân thành, là ḷng yêu thương vĩnh viễn chẳng thay đổi, chẳng giả! Trong cửa nhà Phật, chẳng bỏ một ai! V́ sao? Một Thể mà! Người kiến tánh đều biết, kẻ chưa kiến tánh chẳng hiểu, hễ kiến tánh đều biết. Do vậy, sau khi thành Phật, chúng sanh có cảm, Phật, Bồ Tát bèn có ứng. Trong Ứng th́ thù thắng nhất là đại quyền thị hiện, tám tướng thành đạo. Quư vị thấy đó, những điều được nói trong đoạn kinh văn này, từ “xả Đâu Suất” đến “thành tối Chánh Giác, thiên nhân quy ngưỡng”, măi cho đến lúc thị hiện diệt độ, chính là tám tướng thành đạo, đấy là sự nghiệp trong một đời của Phật, Bồ Tát khi giáng sanh trong thế gian, thị hiện cho chúng ta thấy nhằm dạy chúng ta học tập, thân hành, ngôn giáo mà!

      Tiếp đó, cụ Hoàng giải thích đoạn kinh văn này: “Nguyện ư vô lượng thế giới thành Đẳng Chánh Giác” (nguyện thành Đẳng Chánh Giác trong vô lượng thế giới). V́ sao nguyện trong vô lượng thế giới? Phật, Bồ Tát trong lúc tu nhân đă phát nguyện ấy, Tứ Hoằng Thệ Nguyện, “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”. Các đồng học học Phật chúng ta, bất luận là tại gia hay xuất gia đều đă phát, nhưng phiền năo, nghiệp chướng quá nặng, thường quên bẵng nguyện này, gặp chúng sanh khổ nạn nhưng đă quên sạch sành sanh nguyện này, chẳng dấy lên ư niệm giúp đỡ họ. Người nhà, quyến thuộc gặp phải khó khăn th́ có thể nghĩ tới [nguyện ấy], chứ các chúng sanh có khổ nạn ta chẳng nghĩ đến. Nguyện thật sự phát khởi, đến khi quư vị đại triệt đại ngộ, trở thành Pháp Thân Bồ Tát, chứng đắc Phật quả, sẽ thực hiện nguyện này, thực hiện viên măn. Chúng sanh không nhất định phải cầu cạnh quư vị, chỉ cần họ gặp khổ nạn, tin tức khổ nạn truyền tới, quư vị nhận được bèn có ứng. Từ sách Hoàn Nguyên Quán, chúng ta thấy ba thứ trọn khắp, bèn hiểu tin tức ấy truyền đi nhanh chóng đến mức nào! Hiền Thủ quốc sư nêu một thí dụ là một vi trần, trong Phật pháp gọi một vi trần là “cực vi vi”, đại khái tương đương với Lượng Tử được phát hiện bởi Lượng Tử Lực Học hiện thời, Lượng Tử c̣n nhỏ hơn hạt cơ bản. Các nhà khoa học coi hạt nhỏ nhất ấy là cơ sở vật chất, hiện thời họ c̣n tiến hơn một bước, nghiên cứu [nhận biết] Lượng Tử là tiểu quang tử, nó là một thứ tạo thành vật chất, c̣n nhỏ hơn hạt cơ bản. Nó có ba thứ đặc tính, kinh Phật đă nói rơ, nhưng các nhà khoa học vẫn chưa thể nói rơ ràng như thế, chưa nói được. Tiểu quang tử dao động, lập tức trọn khắp pháp giới, chẳng có tốc độ nào nhanh hơn nó. Tốc độ ánh sáng hay tốc độ sóng điện từ đều thua kém rất xa. Khi nó động sẽ trọn khắp pháp giới, cho nên tin tức lan truyền hết sức nhanh chóng. Bất luận người ấy hữu tâm, vô tâm, hữu ư, vô ư, những tin tức như vậy bậc Bát Địa Bồ Tát trở lên đều nhận được. Quư vị thấy Bát Địa, Cửu Địa, Thập Địa, Đẳng Giác, Diệu Giác, năm địa vị Phật, Bồ Tát ấy đều nhận được. Sau khi đă nhận được, lẽ nào các Ngài chẳng ứng? Hễ nhận được, nhất định sẽ hồi ứng. Tốc độ hồi ứng gần như đồng thời với tốc độ cảm. V́ sao? Ứng cũng là lập tức trọn khắp pháp giới. V́ thế, cái hay của kiến tánh là ở chỗ này. Tin tức trọn khắp pháp giới hư không giới, chẳng sót một điều ǵ, hiểu rơ ràng, rành rẽ, người ấy (người đă kiến tánh) khởi tác dụng hồi ứng. Hồi ứng cũng chẳng cần phải suy xét, chẳng hề suy xét, mà tự nhiên hồi ứng, nhất định giúp đỡ quư vị. Sự hồi ứng rơ rệt là tám tướng thành đạo, người ấy đă hồi ứng!

      Bởi lẽ, nguyện này là bổn nguyện, là nguyện đă phát nơi nhân địa, hiện thời hoàn toàn thực hiện, có năng lực “ư vô lượng thế giới thành Đẳng Chánh Giác” (thành Đẳng Chánh Giác trong vô lượng thế giới), chỉ nói một câu này. Một câu bao hàm những điều khác, quư vị thấy kể cả hiện thân thành Phật hóa độ chúng sanh đều có thể, nên hiện làm Bồ Tát, hiện làm Thanh Văn, hiện làm Duyên Giác, hiện làm quốc vương, đại thần, đồng nam, đồng nữ, cho đến hiện thành hoa cỏ, cây cối, núi, sông, đại địa, không có ǵ chẳng thể thị hiện. Rốt cuộc Ngài thị hiện bằng cách nào? Chính ḿnh chẳng có ư nghĩ ǵ! “Tùy chúng sanh tâm, ứng sở tri lượng” (thuận theo tâm chúng sanh ứng hợp với khả năng nhận biết của họ), kinh Lăng Nghiêm đă nói như vậy. V́ thế, vẫn là do ư niệm của chúng sanh. Chúng sanh có ư niệm như thế nào, Ngài dùng phương pháp như thế ấy để cảm ứng. Chúng ta chớ nên không biết đạo lư như vậy. Hiểu đạo lư này, liễu giải chân tướng sự thật, mới biết chư Phật, Bồ Tát và chúng ta cảm ứng là sự thật, chẳng giả. Hơn nữa, tốc độ cảm ứng vô cùng nhanh chóng, chúng ta có lúc chẳng thể nhận biết, là do bản thân chúng ta nghiệp chướng quá nặng. Nghiệp chướng nhẹ hơn một chút sẽ có thể cảm nhận. Trong thế gian, có những người được gọi là “có công năng đặc dị”, họ có thể thấy, nghe, đối với những tin tức truyền đến chư Phật, Bồ Tát họ nghe thấy, có những hiện tượng bị họ trông thấy, chẳng phải là không có. Chúng tôi đi qua nhiều nơi, đă thấy khá nhiều người lạ lùng, có thật hay không? Có thể! Từ kinh Phật luôn có thể t́m thấy những lư luận làm căn cứ [để giải thích những hiện tượng ấy].

      “Nguyện”, kế tiếp là giải thích nguyện, “thệ nguyện dă” (là thệ nguyện), tứ hoằng thệ nguyện. “Pháp Quật viết: Ư xuất thế đạo hy cầu vi nguyện. Hy giả, niệm dă, nguyện dă” (sách Pháp Quật nói: “Mong cầu đạo xuất thế là nguyện. Hy là niệm, là nguyện”). Do vậy, “hy cầu” (悕求) giống như chữ Hy () trong hy vọng. Trong tâm chúng ta có điều mong cầu, trong nguyện có điều mong cầu, có điều hy cầu. “Hựu thế giới giả, Thế chỉ thời gian, Giới chỉ không gian” (Lại nữa, “thế giới”: Thế chỉ thời gian, Giới chỉ không gian). Kinh Phật thường nói đến thế giới, các nhà khoa học hiện thời nói là “thời - không” (thời gian và không gian). “Thời - không” như các nhà khoa học thường nói chính là “thế giới” trong kinh Phật. “Thủ Lăng Nghiêm Kinh viết: Thế vi thiên lưu, Giới vi phương vị. Nhữ kim đương tri, Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc, thượng, hạ vi Giới. Quá khứ, vị lai, hiện tại vi Thế” (Kinh Thủ Lăng Nghiêm dạy: “Thế là dời đổi, Giới là phương vị. Nay ông nên biết: “Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc, trên, dưới là Giới. Quá khứ, vị lai, hiện tại là Thế”). Đây là đức Phật giải thích chữ Thế Giới trong hội Lăng Nghiêm. “Đẳng Chánh Giác, kiến Đường dịch, thị vi tân dịch” (Từ ngữ Đẳng Chánh Giác thấy trong bản dịch đời Đường, là dịch theo lối mới). Bản Ngụy dịch ghi là “Đẳng Giác”, tức là cựu dịch. Đẳng Chánh Giác và Đẳng Giác có cùng một ư nghĩa. Các vị dịch giả như Huyền Trang đại sư dịch thành Đẳng Chánh Giác (Samyak-sambodhi); bản Ngụy dịch theo lối cựu dịch, các bản cổ dịch trước thời Huyền Trang đại sư đều dịch là Đẳng Giác. Đẳng Giác có hai ư nghĩa, thứ nhất là “Đẳng Giác thị Bồ Tát chi cực vị” (Đẳng Giác là địa vị tối cực trong hàng Bồ Tát). Bồ Tát đạt đến địa vị này bèn viên măn, chẳng c̣n có [địa vị Bồ Tát nào] cao hơn nữa. Trên đó là Diệu Giác, mà Diệu Giác là quả vị Phật. “Tương đắc Diệu Giác chi Phật quả. Kỳ trí huệ công đức đẳng tự Diệu Giác, cố vị chi Đẳng Giác” (sẽ đắc Phật quả Diệu Giác, trí huệ, công đức gần giống như Diệu Giác, nên gọi là Đẳng Giác). Cũng có nghĩa là là Đẳng Giác Bồ Tát kém Phật một bậc, tiến cao lên nữa sẽ là địa vị Diệu Giác. Theo kinh Hoa Nghiêm, địa vị Bồ Tát có năm mươi mốt đẳng cấp, thấp nhất là địa vị Thập Tín. Địa vị Thập Tín cũng rất lỗi lạc, từ nhân gian của chúng ta tu hành đến mười pháp giới đều là các địa vị thuộc Thập Tín. Tổ sư tông Hoa Nghiêm đă rất chú tâm nói rơ cặn kẽ sự chứng đắc trong các địa vị này như thế nào, nói theo nguyên tắc chung th́ toàn bộ đều là buông xuống.

      Do vậy, tôi học Phật, thoạt đầu, thầy dạy tôi, tôi hỏi Ngài: “Có bí quyết nào để nhập Phật môn hay không? Có phương pháp nào để khế nhập rất nhanh hay không?” Thầy dạy tôi “nh́n thấu, buông xuống”. Nh́n thấu suốt giúp quư vị buông xuống. Buông xuống lại giúp quư vị thấy thấu suốt. Hai điều này từ sơ phát tâm cho đến địa vị Như Lai, giúp nhau thành tựu, bí quyết ở ngay chỗ này. Thầy chẳng lừa gạt tôi, ngay hôm đầu tiên đă dạy tôi bí quyết ấy. Nếu chúng ta muốn tiến cao hơn, chẳng buông xuống sẽ không được. Thầy nói, năm mươi mốt cấp bậc Bồ Tát ví như năm mươi mốt tầng của một ṭa cao ốc, quư vị chẳng bỏ tầng thứ nhất sẽ không lên được tầng thứ hai. Chẳng bỏ tầng thứ hai, sẽ không lên được tầng thứ ba, luôn luôn bảo quư vị hăy buông xuống. Một mực buông xuống, quư vị sẽ đạt tới chỗ đăng phong tạo cực, sẽ thành công. Chúng ta phàm phu gặp phiền phức là do không buông xuống được, bởi lẽ, chẳng buông xuống được sẽ vĩnh viễn chẳng thể tiến cao hơn. Quư vị thấy v́ sao hiện thời chúng ta chẳng thể tiến tới địa vị Sơ Tín? Do chẳng buông Kiến Hoặc xuống được. Buông xuống bèn là Tu Đà Hoàn, tức là địa vị Sơ Tín Bồ Tát trong kinh Hoa Nghiêm. Buông Thân Kiến, Biên Kiến, Kiến Thủ Kiến, Giới Thủ Kiến, Tà Kiến xuống, buông xuống năm thứ kiến giải sai lầm đó, quư vị sẽ chứng đắc. Bí quyết không có ǵ khác, bí quyết là buông xuống! Học Phật, thật sự học Phật chẳng có ǵ khác! Thật sự học Phật là học buông xuống! Hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng ta học tới đây.

Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa

Phần 51 hết

 



[1] Dép cỏ (thảo hài) là một loại sandal bện bằng cỏ, lác, rơm v.v..., thường dùng nhất là cỏ tranh, hoặc rạ, có nhiều h́nh thức, thông thường là bện thành h́nh giống như sandal có quai chéo, có khi bện thành h́nh một chiếc giầy có thể xỏ chân vào. Loại thảo hài này cũng được các dân tộc chung quanh bắt chước sử dụng như loại waraji của Nhật thường bện bằng rạ, hoặc thân cây bắp. Người Đại Hàn dùng cỏ bện thành giầy, lót thêm vải và giấy cứng làm đế để có thể sử dụng lâu hơn.

[2] Hành lang Hà Tây (Hà Tây tẩu lang: 河西走廊) c̣n gọi là Cam Túc Tẩu Lang, kể từ rặng Ô Tiêu ở phía Đông cho đến ải Ngọc Môn ở phía Tây, nằm giữa Nam Sơn (gồm các rặng Kỳ Liên Sơn, Altyn-Tagh) và Bắc Sơn (Mă Tông Sơn, Hợp Lê Sơn và Long Thủ Sơn). Đây là một vùng b́nh địa dài và hẹp, trông giống như một hành lang nên được gọi là “hành lang”. Lại do vùng này nằm ở phía Tây Hoàng Hà nên gọi là Hà Tây Tẩu Lang. Khu vực này bao gồm khu vực Lan Châu của tỉnh Cam Túc, tức là bao gồm bốn quận Vũ Oai (tức Lương Châu thời cổ), Trường Dịch (thời cổ là Cam Châu), Tửu Tuyền (Túc Châu) và Đôn Hoàng (Sa Châu), kể cả Tây An (kinh đô Trường An thời cổ). Do vùng này thuộc lănh thổ nước Tần thời Chiến Quốc, nên khi các lănh chúa chiếm giữ vùng này xưng đế, đều lấy quốc hiệu là Tần.