Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa

淨土大經解演義

Phần 59

Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo duyệt: Huệ Trang và Đức Phong

 

Tập 117

 

      Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải trang một trăm ba mươi bảy, ḍng thứ năm.

      “Viễn siêu Thanh Văn, Bích Chi Phật địa, nhập Không, Vô Tướng, Vô Nguyện pháp môn (kiến Đường dịch). Thử nhị cú trùng thán hội trung đại sĩ chi Thật Đức, sở giác thù thắng, viễn siêu Thanh Văn dữ Bích Chi Phật chi địa” (“Vượt xa địa vị Thanh Văn và Bích Chi Phật, nhập pháp môn Không, Vô Tướng, Vô Nguyện (xem bản dịch đời Đường)”: Hai câu này một lần nữa tán thán Thật Đức của các vị đại sĩ trong hội, sự giác ngộ của các Ngài thù thắng, vượt xa các địa vị Thanh Văn và Bích Chi Phật). Mấy câu này dễ hiểu; đoạn kinh văn “siêu t́nh ly kiến” này là đoạn thứ năm, mà cũng là chuyện thứ năm. “Viễn siêu Nhị Thừa”, Thanh Văn là Tiểu Thừa, Bích Chi Phật là Trung Thừa. Câu kế tiếp là khế nhập tam-muội, “nhập Không, Vô Tướng, Vô Nguyện pháp môn”, những tam-muội này c̣n gọi là Đại Tam Không Tam-muội. Hai câu này cũng là tán thán đức năng chân thật của các vị Pháp Thân Bồ Tát dự hội. “Sở giác thù thắng”: “Sở giác” cũng là điều các Ngài chứng đắc, thù thắng ở chỗ nào? Thù thắng ở chỗ vượt trỗi Nhị Thừa, “thù thắng” là nói đến ư nghĩa này!

      Tiếp đó, giải thích cho chúng ta biết Thanh Văn là ǵ? “Thanh Văn giả, Phật Tiểu Thừa pháp trung chi đệ tử, văn Phật chi giáo, ngộ Tứ Đế pháp chi lư, đoạn Kiến Tư nhị hoặc, xuất Phần Đoạn Sanh Tử, nhi nhập ư Niết Bàn giả” (Thanh Văn là đệ tử trong pháp Tiểu Thừa của đức Phật, nghe giáo pháp của Phật, ngộ lư của pháp Tứ Đế, đoạn Kiến Hoặc và Tư Hoặc, thoát khỏi Phần Đoạn Sanh Tử, bèn nhập Niết Bàn). Đối với những điều này, phải nói đại lược một phen. V́ sao gọi là Thanh Văn? Nghe đức Phật giảng kinh, giáo học, bèn khai ngộ, ngộ nhập lư của pháp Tứ Đế. Tứ Đế là nói đến Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Khổ là quả thế gian, Tập là nhân thế gian. Cách nói của đức Phật và cách nghĩ của cổ thánh tiên hiền Trung Quốc giống nhau, đều là nói quả trước rồi mới nói đến nhân. Quả là ǵ? Quư vị đă từng nếm trải, nên khi nhắc tới, quư vị sẽ có cảm xúc vô cùng nhạy bén. Sau đấy, lại nói cho quư vị biết cái nhân phát sanh cái quả ấy, chẳng phải là nói nhân trước rồi mới nói đến quả. Vào thời ấy, hễ nói “Đông Phương và Tây Phương” th́ Đông Phương là Trung Quốc, Tây Phương là Ấn Độ, cách nh́n của cổ nhân tương thông. Đây là hai tầng nhân quả, Diệt và Đạo là nhân quả xuất thế gian; Diệt là quả, Đạo là nhân. Đó là pháp Tứ Đế. Đế () là chuyện chân thật, người hiện thời gọi nó là “chân lư”.

      Đức Phật dạy con người: Thế gian này chỉ có khổ, chẳng có vui! Cái gọi là “vui” chính là ǵ vậy? Khổ tạm thời ngừng trong chốc lát, tạm ngừng, chẳng phải là vĩnh viễn ngưng dứt, quư vị bèn cảm thấy rất vui. Thí dụ như ăn uống, quư vị ăn no nê, ăn rất ngon, rất vui sướng. Nếu quư vị chẳng được ăn một bữa, liền cảm thấy khổ, đói bụng mà! Hai bữa chẳng được ăn càng khổ hơn. Đói tới bảy ngày sẽ chết đói! Lẽ nào chẳng khổ? Khổ chẳng thể biến thành lạc, cho nên khổ là thật, lạc là giả. Thí dụ như ăn thứ ǵ đó [cảm thấy] rất sung sướng. Ăn thứ quư vị ưa thích, ăn một chén rất vui sướng, ăn hai chén vẫn c̣n được, nhưng bắt quư vị ăn liên tục tới hai mươi chén, khổ ngay! Đó gọi là ǵ? Lạc có thể biến thành khổ, nên lạc chẳng phải là thật, nhưng khổ chẳng thể biến thành lạc. Trong kinh, đức Phật đă giảng những chuyện này rất nhiều, rất rơ ràng. Ngài dạy chúng ta, người sống trong thế gian này có tám nỗi khổ. Ngoài tám nỗi khổ (được gọi chung là Khổ Khổ), c̣n có Hoại Khổ, c̣n có Hành Khổ. Chúng sanh trong Dục Giới phải chịu đủ ba loại khổ lớn này, ai nấy đều chẳng có cách nào tránh né bốn loại đầu trong Khổ Khổ là sanh, lăo, bệnh, tử.

      “Thần thức”: Nhà Phật gọi là “thần thức”, người thế gian gọi là “linh hồn”. Linh hồn đi đầu thai. Đến đầu thai th́ nhất định là có duyên với cha mẹ. Chẳng có duyên, kẻ ấy chẳng đến! Có người mong có con cái, mong ngóng cả đời vẫn chẳng có! Người ấy chẳng có duyên, chẳng có duyên gặp gỡ. Duyên ǵ vậy? Trong kinh, đức Phật đă dạy, duyên rất nhiều, rất phức tạp, nhưng chẳng ngoài bốn loại lớn, bốn loại lớn ấy gọi là “tứ duyên sanh pháp”. Trong bốn loại lớn ấy, thứ nhất là báo ân. Đứa trẻ ấy sanh vào nhà quư vị hết sức ngoan ngoăn, khéo léo, thông minh, đáng yêu, nó đến báo ân. Người Hoa gọi [đứa con như vậy] là “hiếu tử, hiền tôn” (con hiếu, cháu hiền). V́ thế, người ta phải bố thí ân đức, v́ sao? Trong tương lai, con cháu đến báo ân đông đảo. Nếu kết oán cừu cùng kẻ khác, chuyện này sẽ phiền toái lắm! Trong tương lai, đứa trẻ sanh vào nhà quư vị để báo cừu, chẳng phải là phiền phức hay sao?

      Thuở trước, hơn bốn mươi năm trước, tôi giảng kinh Lăng Nghiêm tại Đài Bắc. Trong thính chúng có một vị, nay đă mất, cụ đă văng sanh. Vị lăo cư sĩ ấy lớn tuổi hơn chúng tôi rất nhiều, đại khái lớn hơn tôi hai mươi tuổi. Lăo cư sĩ đến nghe kinh mỗi ngày. Chúng tôi nói đến những chuyện trong kinh, cụ bảo tôi: “Những chuyện ấy là thật, chẳng giả!” Trước thời Kháng Chiến, [tức là] trước khi cuộc kháng chiến [chống Nhật] bùng nổ, cụ sống tại Thượng Hải. Khi ấy, cụ đă buôn bán, chính mắt trông thấy. Không phải là chuyện của chính cụ, mà là chuyện của một người bạn cụ, tuổi cũng xấp xỉ tuổi cụ, hết sức thân thiết, cũng là đồng hương, họ là người tỉnh Chiết Giang. Người bạn ấy giúp việc cho một doanh nhân người Đức. Người Đức ấy kinh doanh một công ty cỡ nhỏ về tàu bè, h́nh như chỉ có một chiếc tàu. Người bạn ấy hết sức thật thà, làm việc hết sức có trách nhiệm, nên rất được ông chủ tín nhiệm. Sau khi cuộc Kháng Chiến bùng nổ, vị chủ nhân là người Đức, trở về nước, ủy thác công ty cho ông ta, dặn ông ta hăy cố gắng kinh doanh. Sau khi [ông chủ] trở về nước, ngay cả tin tức cũng chẳng có, cũng chẳng biết là c̣n sống hay không. Ông ta kinh doanh công ty ấy rất thuận lợi, tiền kiếm được lại dùng mua thêm mấy chiếc tàu nữa, biến thành một công ty tàu bè [cỡ lớn]. Khi đó, đang trong thời Kháng Chiến, người Nhật chiếm đóng Thượng Hải; ông ta kinh doanh khá lắm, cũng kết hôn, sanh được một đứa con quả thật cũng rất đáng yêu, cũng rất ngoan ngoăn, khéo léo, đó là một bé trai. Sau khi Kháng Chiến thắng lợi, vị bằng hữu ấy tuổi cũng đă rất cao, dường như là nhằm sinh nhật thứ năm mươi, đứa con lên mười. Đứa nhỏ ấy hết sức thích dùng tiền, học Tiểu Học mà luôn đem theo mười mấy đồng. Thuở ấy, mười mấy đồng rất lớn. Trong thời gian Kháng Chiến, có thể nói là mười đồng gần như có thể dùng làm tiền chi dụng cả một tháng cho một gia đ́nh bốn người. Đồng tiền rất có giá! Có một hôm, đứa bé ấy đi đường, làm rớt tiền, một cụ già nhặt được. Cụ già ấy là bạn của cha nó, do quen biết, nên cụ gọi tên đứa bé, cầm tiền trên tay, bảo: “Ngươi gọi ta một tiếng bác, ta sẽ trả món tiền này cho ngươi”. Đứa bé ấy nói như thế nào? “Ông gọi tôi một tiếng bác, tôi cho lại ông mười đồng”. Đứa bé ấy láu lỉnh đến mức độ ấy. Đến hôm sinh nhật, ông ta đột nhiên thấy con ḿnh biến đổi, [có h́nh dạng giống như] ông chủ khi trước, nên mới hoảng nhiên đại ngộ: Ông chủ của ông ta đă chết, đầu thai đến nơi đây, tài sản này là của ông ấy. Do ông ta rất thông minh, ngay lúc ấy bèn tuyên bố toàn bộ tài sản của công ty này giao cho con ông ta, c̣n ông ta làm thuê cho con. Vị lăo cư sĩ kể cho chúng tôi nghe câu chuyện này, đứa bé ấy đến đ̣i nợ. [Đời trước], nó ủy thác quư vị kinh doanh, chẳng tặng cho quư vị, nên lại [đầu thai] đến [đ̣i nợ]. Người ấy thật thà, lăo thành, sau khi tuyên bố, bèn giữ thân phận làm công, về sau vẫn sống b́nh yên.

      Cuối cùng, vị cư sĩ họ Ổ ấy đến Đài Loan, cũng chẳng có liên lạc, nhưng tôi tin tưởng kết quả cuối cùng của [Ổ cư sĩ] sẽ tốt đẹp, v́ ông ta hiểu nhân quả, chẳng có tâm tham, vẫn chăm sóc đứa con rất chu đáo; bởi lẽ, ông ta hiểu rơ đứa con đến đ̣i nợ. Quư vị đối xử tốt với nó, nó cũng đối xử với quư vị tốt đẹp, cũng giống như trong quá khứ ông chủ đă tin tưởng, tín nhiệm quư vị. Đức Phật giảng chẳng sai, con cái bất hiếu, khinh lờn cha mẹ, thậm chí giết hại cha mẹ, đó là đến báo oán. C̣n có trường hợp đến đ̣i nợ, hoặc đến trả nợ. Đức Phật chia [mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái] thành bốn loại lớn ấy. Sau khi đă giác ngộ, bất luận là quan hệ ǵ, mọi người cùng nhau học Phật, biến thành đồng tham đạo hữu. Chính ḿnh đă khai ngộ, cũng giúp người nhà quyến thuộc ai nấy đều giác ngộ, đó là tốt đẹp! Đây cũng là như trong kinh thường nói: “Phật chẳng độ kẻ vô duyên”. Bất luận đối với quư vị là oán hay thân, là tranh chấp hay nợ nần, nói chung đều là kẻ có duyên, hễ gặp gỡ, đều phải dùng Phật pháp để giải quyết, đó là đúng!

      Trong tám khổ, chẳng ai trốn khỏi sanh, lăo, bệnh, tử. Sống một trăm tuổi, vẫn phải chết. Sanh Khổ, chúng ta không biết, ai nấy đều quên sạch. Trong kinh, đức Phật dạy rơ những nỗi đau khổ khi trẻ thơ sanh ra. Ở trong thai mẹ mười tháng, kinh Phật h́nh dung nỗi khổ ấy bằng từ ngữ “thai ngục”, chẳng khác địa ngục cho mấy! Mẹ uống một chén nước nóng, con như ở trong tám địa ngục nóng. Mẹ uống một chén nước đá, con như ở trong tám địa ngục lạnh. Tâm t́nh, nhất cử, nhất động của mẹ đều gây ảnh hưởng rất lớn cho con. Con phải ở trong bào thai mười tháng, ngạn ngữ nói là “sống một ngày giống như cả năm”; đau khổ như thế đó. Lăo Khổ th́ chúng ta trông thấy. Quư vị thấy nhiều cụ già, đặc biệt là đến thăm viện dưỡng lăo, quư vị sẽ thấy vận mạng bi thảm của người già trong tuổi xế chiều, nhất định quư vị sẽ nghĩ ngợi: “Ta về già có gặp t́nh cảnh này hay không?” Nếu con cái bất hiếu, chẳng phải là sẽ đưa quư vị vào viện dưỡng lăo ư? Rất có thể! Không có con cái, tuổi đă cao, chánh phủ cũng đưa quư vị vào viện dưỡng lăo. Bên ngoại quốc, theo quy chế của ngoại quốc, như ở Mỹ, Úc Đại Lợi, những quốc gia ấy c̣n đỡ, quư vị đă già, sau khi về hưu, quốc gia cấp tiền dưỡng lăo, tiền chi dụng mỗi tháng cứ đúng kỳ bèn gởi tới, về phương diện đời sống vật chất chẳng có vấn đề ǵ! Quá nửa là [con cái gởi cha mẹ] vào viện dưỡng lăo, v́ quư vị tuổi đă cao, cần có người chăm sóc, chẳng có cách nào sống trong gia đ́nh của chính ḿnh. V́ thế, tự ḿnh bán nhà, đến sống trong viện dưỡng lăo. Cuộc sống vật chất có thể sống được, nhưng chẳng có cuộc sống tinh thần. Nếu quư vị hỏi những người già: “T́nh trạng cuộc sống của quư vị là như thế nào?” Họ sẽ trả lời bằng một câu: “Ngồi ăn chờ chết”. Viện dưỡng lăo đông người, nói chung, mỗi tuần có một, hai trường hợp tử vong, được khiêng đi. Hằng ngày trông thấy t́nh h́nh ấy, “ngày nào sẽ đến lượt ta?” Quư vị nói xem, bi thảm dường nào? Lăo Khổ đấy!

      Cổ nhân Trung Quốc, lúc tuổi cao bèn dưỡng lăo trong gia đ́nh, đông con, lắm cháu, con cháu đầy nhà, hưởng niềm vui thiên luân. V́ thế, xă hội cổ Trung Quốc đă giải quyết vấn đề này. “Dục ấu” (育幼) là giáo dục trẻ nhỏ, do gia tộc chịu trách nhiệm. Trường học do gia tộc thành lập gọi là Tư Thục. Tư Thục là trường học của con em trong gia tộc. Trước kia là đại gia đ́nh, đông người, nên học tṛ đi học cũng tới mấy chục đứa. Gia tộc thông thường, một nhà đại khái có khoảng ba trăm người. Đại gia tộc, nhân đinh hưng vượng, năm, sáu trăm người; nhân đinh ít ỏi th́ cũng có chừng hai trăm người. Cho nên [việc giáo dục trẻ thơ] do gia tộc chịu trách nhiệm, chế độ ấy hay lắm! Đệ Tử Quy là quy củ trong gia đ́nh. Quư vị nói xem, gia đ́nh đông người như thế, thiếu quy củ th́ làm sao đuợc! Chẳng phải là gia đ́nh ấy sẽ rối beng ư? V́ thế, gia tộc đều có gia đạo, có gia quy; Đệ Tử Quy là gia quy chung. C̣n có chỗ khác nhau là do mỗi gia tộc c̣n có [những quy chế] đặc biệt, v́ sở học khác nhau, sự nghiệp kinh doanh khác nhau, nên c̣n có những quy củ đặc biệt. Những gia quy ấy do tổ tiên chế định, đều chép trong gia phả!

      Gia phả là lịch sử của gia đ́nh, đời đời truyền thừa, [ghi chép rành rẽ] ḍng họ của quư vị do từ chỗ nào mà có, khi nào bắt đầu có ḍng họ này. lịch sử gia đ́nh được ghi chép rất rơ ràng. Theo cách nh́n của tôi, tuy không có căn cứ để chứng minh, nhưng tôi tin tưởng, đại khái Hán tộc tại Trung Quốc đều là “Viêm Hoàng thế trụ” (con cháu Viêm Hoàng), [Viêm là] Viêm Đế (炎帝) thuộc họ Thần Nông, [c̣n Hoàng] là Hoàng Đế (黃帝) [thuộc họ Hiên Viên]. Người Hán đều là con cháu của Viêm Đế và Hoàng Đế, một mạch truyền thừa! Trước đó là Phục Hy Thị. Nhân dân trong thời Phục Hy Thị sống cuộc đời nguyên thủy, săn bắn để sinh nhai, ở trong hang núi, chưa có nhà cửa. Đến thời Thần Nông Thị mới bắt đầu biết trồng trọt, chẳng lấy săn bắn làm chủ yếu nữa, mà sống chủ yếu bằng cày cấy. Từ Thần Nông đến Hoàng Đế là năm trăm năm. Theo lịch sử ghi chép, Hoàng Đế mới kiến tạo nhà cửa. Cung điện là do Hoàng Đế phát minh. Năm ngàn năm lịch sử của Trung Quốc, lịch sử lâu dài! Trong hai mươi lăm người con của Hoàng Đế, mười bốn người có “tánh thị”. Tánh thị[1] thuở ấy là ǵ? Họ được phong tước vị. Do vậy, chúng tôi tin tưởng, trước kia đọc sách Bách Gia Tánh[2] của Trung Quốc, hơn bốn trăm ḍng họ đều là người một nhà. Trung Quốc hiện nay có năm mươi sáu dân tộc, bao nhiêu ḍng họ? Hơn hai vạn bốn ngàn ḍng họ; do đó, hiện thời không phải là Bách Gia Tánh mà là Vạn Gia Tánh.

      Quư vị thấy đó, người đông như thế, nhiều sắc dân như thế, cương vực to lớn như thế, mấy ngàn năm chung sống ḥa thuận, bền vững lâu dài, dựa vào ǵ? Dựa vào giáo dục. Bởi lẽ, người Trung Quốc biết gia giáo, có đại gia đ́nh, [xă hội Trung Hoa thời cổ] là xă hội nông nghiệp, đông người dễ làm việc, theo đuổi canh tác hay theo đuổi việc khai khẩn đều cần nhân lực. Thuở đó, chẳng có máy móc, đời đời truyền thừa cho đến đầu thời Dân Quốc. Tại Trung Quốc, nông thôn khá nhiều; thật vậy, hiện thời nói tới xă hội cũ th́ là đại gia tộc. Quư vị thấy đó, một thôn nọ gọi là Vương thôn (thôn họ Vương), người cùng một gia tộc. Thôn kia gọi là Trương thôn, cũng là người một nhà. V́ vậy, một nhà dạy dỗ tốt đẹp, gia trưởng có trách nhiệm, dạy dỗ người trong một gia tộc tốt đẹp. Hễ nhà đă tề, nước bèn trị! Biết dạy dỗ, dạy cho ai nấy đều là người tốt, đều biết hiếu, đễ, trung, tín, đều biết lễ, nghĩa, liêm, sỉ, đều hướng tới nhân ái, ḥa b́nh, xă hội làm sao bất hảo cho được? V́ lẽ đó, xă hội an định, chánh trị trong sáng, thiên hạ thái b́nh. Chúng ta thấy xă hội hiện thời, nh́n ra toàn thể thế giới, vấn đề quá ư là nhiều! V́ sao có lắm vấn đề ngần ấy? Thiếu sót trong giáo dục! Hiện thời trường học rất nhiều, nhưng chẳng phải là giáo dục, mà là thứ ǵ vậy? [Trường học] là cơ sở để truyền thừa, huấn luyện khoa học và công nghệ, tôi cảm thấy danh xưng ấy rất thích hợp, chẳng thể gọi là “nhà trường”. Trường học phải tiến hành giáo dục, giáo dục nhằm dạy con người điều ǵ? Dạy con người làm người, dạy luân lư, [khiến cho] quư vị biết quan hệ giữa con người với nhau. Dạy đạo đức, quư vị biết con người cư xử với nhau như thế nào. Dạy nhân quả, thật sự hiểu “thiện nhân, thiện quả; ác nhân, ác báo”, tự quư vị biết ước thúc khởi tâm động niệm, chẳng dám làm chuyện xấu. Quư vị làm chuyện xấu, sẽ có báo ứng.

      Nhân quả là nói đến ba đời. Con người không phải chỉ có một đời này. Chúng ta có đời quá khứ, có đời vị lai. Đời này khổ sở một chút, đời sau tốt đẹp. Nếu đời này hưởng hết phước, đời sau chịu khổ. Người tin theo nhân quả sẽ nói là “phong thủy luân lưu xoay chuyển”. V́ lẽ đó, chúng ta chẳng hâm mộ kẻ phú quư, v́ sao? Trong quá khứ, người đó tu nhân lành, nay người ấy phải được phú quư. Đời quá khứ, chúng ta chẳng tu nhân lành, đời này phải sống khổ sở một chút. Hiểu rơ đạo lư này, tuy cuộc sống của chúng ta thanh bần, ta tu nhiều thiện nhân, tu thiện nhân rất siêng năng, vận mạng của ta bèn chuyển biến ngay trong đời này! Tuổi trẻ chịu khổ một chút, tuổi già hưởng phước, đời sau tốt đẹp hơn. Người hiểu rơ đạo lư này, trong xă hội sẽ chẳng cạnh tranh cùng kẻ khác. Cạnh tranh là phiền năo, là tạo nghiệp. V́ thế, cổ nhân biết: “Cả đời đều là mạng, chẳng do người nửa phần”, quư vị tranh chẳng được! Nếu thật sự có thể tranh được, Khổng Tử cũng tham gia cạnh tranh! V́ sao Khổng Tử chẳng tranh giành? Khổng Tử biết là tranh chẳng được. “Trong mạng đă có th́ rốt cuộc sẽ có, trong mạng chẳng có, chớ cưỡng cầu”, cầu chẳng được! Đối với chuyện tu nhân, đức Phật đă giảng đạo lư này, chúng ta phải hiểu rơ. Nhà Phật dùng phương pháp ǵ để tu nhân? Dùng bố thí. Chúng ta hy vọng phát tài, hăy tu tài bố thí. Hy vọng được thông minh, trí huệ, hăy tu pháp bố thí. Hy vọng khỏe mạnh, sống lâu, hăy tu vô úy bố thí; đức Phật dạy chúng ta những điều ấy. V́ thế, “trong cửa nhà Phật, có cầu ắt ứng”. Đức Phật dạy quư vị phương pháp và đạo lư, bản thân quư vị nương theo đạo lư ấy để tu học, quả báo bèn hiện tiền. Phát tài, thông minh, trí huệ, khỏe mạnh, sống lâu, có phải là do Phật, Bồ Tát ban cho quư vị hay không? Chẳng phải! Phật, Bồ Tát ban cho quư vị lư luận, phương pháp, quư vị tự cầu nhiều phước. Chớ nên không biết điều này!

      Đối với Khổ, trừ sanh, lăo, bệnh, tử ra, c̣n có Ái Biệt Ly Khổ. Người quư vị ưa thích, chuyện quư vị ưa chuộng, hoàn cảnh cuộc sống ưa thích đều cứ phải chia ĺa. Quư vị chẳng có cách nào hưởng thụ trong một thời gian dài. Đó là Ái Biệt Ly Khổ. Kế đó, đức Phật nói tới Oán Tắng Hội Khổ, oan gia đối đầu chẳng muốn gặp gỡ, mà cứ thường chạm mặt! Loại thứ ba là Cầu Bất Đắc Khổ. Loại cuối cùng trong tám khổ là Ngũ Ấm Xí Thịnh Khổ. Ngũ Ấm Xí Thịnh là ǵ? Là áp lực (stress) như người hiện thời đă nói; lo lắng, vướng mắc, bận ḷng, mệt trí đều thuộc về loại này. Cuộc sống tinh thần và thân thể của quư vị rất khổ cực. Ai có thể ĺa khỏi tám thứ ấy? Đức Phật nói chư thiên Dục Giới có đủ tám nỗi khổ ấy. Chư thiên Sắc Giới đă ĺa dục, nhưng trọn chẳng đoạn. Họ buông xuống, tạm thời buông xuống, tám nỗi khổ ấy bèn chẳng c̣n nữa. Con người sanh lên trời chẳng phải là thai sanh, nên họ chẳng có Sanh Khổ. Từ trời Đao Lợi trở lên đều là hóa sanh. Nếu quư vị tu định, đắc Thiền Định, tu đă thành công, bèn sanh trong Sắc Giới Thiên. Sắc Giới Thiên chẳng có những nỗi khổ ấy, nhưng c̣n có thọ mạng. Khi thọ mạng đă hết, sự khổ ấy bèn hiện tiền, năm tướng suy hiện tiền. Khi đó, thời gian năm tướng suy hiện tiền chẳng dài, trong kinh thường nói là bảy ngày, nhưng trong bảy ngày ấy, khổ chẳng thể nói nổi. Hoại Khổ đấy! Thân sắp hư hoại, chết rồi th́ thân phải hư hoại. Cung điện vị ấy cư trụ cũng bị hư hoại, vị ấy chính mắt thấy. Vô Sắc Giới Thiên là phàm phu cao cấp trong lục đạo, họ chẳng cần thân thể, giống như Lăo Tử của Trung Quốc đă nói: “Ngô hữu đại hoạn, vị ngô hữu thân”, [tức là] Ngài nói Ta có mối lo nghĩ rất lớn, lo ǵ vậy? Ta có thân thể. Người thông minh chẳng cần đến thân thể; chẳng có thân thể th́ đương nhiên cũng không cần chỗ cư trụ. V́ thế, chúng ta có thể nói Vô Sắc Giới Thiên là “linh giới” (cơi của linh hồn), v́ họ có tinh thần, nhưng chẳng có vật chất. Họ có khổ hay không? Có, khổ ǵ vậy? Hành Khổ. Cảnh giới của họ tốt đẹp, nhưng chẳng thể giữ được vĩnh viễn, hoàn toàn cậy vào Định lực của họ. Định lực của họ mất đi th́ cảnh giới ấy chẳng c̣n nữa. Đó là Hành Khổ. Mỗi sát-na [trôi qua] là họ càng gần với điểm kết thúc, nhưng họ chẳng thể ngăn chặn, đó là Hành, tức là họ chẳng thể giữ vĩnh viễn cảnh giới thù thắng như vậy. Do đó, đức Phật nói “ba cơi đều khổ”. Quư vị thấy Dục Giới có tám khổ, Sắc Giới có Hoại Khổ, Vô Sắc Giới có Hành Khổ; đức Phật thường nói là “ba cơi đều khổ”.

      Qua Tứ Đế, đức Phật đă nêu bày chân tướng sự thật ấy, mọi người hiểu rơ, suy nghĩ sẽ thấy đúng là khổ! Nỗi khổ ấy do đâu mà có? Khổ do Tập mà có. Tập là ǵ? Gom góp hết thảy các nhân thiện và bất thiện. Gom góp thiện nhân, sanh trong ba đường lành. Nói Tam Khổ và Bát Khổ đều là nói về tam thiện đạo. Nếu gom góp những cái nhân bất thiện, th́ v́ tự tư tự lợi, làm những chuyện ḥng đạt được tiếng tăm, lợi dưỡng, tham, sân, si, mạn, làm những thứ ấy, đời sau quư vị sẽ vào trong ba ác đạo, biến thành súc sanh, biến thành ngạ quỷ, biến thành địa ngục, càng là khổ chẳng thể nói nổi! Giảng rơ ràng nhân và quả của lục đạo, chúng ta liền biết. Người thật sự thông minh, giác ngộ, sẽ nghĩ: “Ta chẳng muốn trụ trong lục đạo, có cách nào vượt thoát lục đạo hay không?” Đức Phật bảo người ấy: “Có”. Vượt thoát lục đạo th́ dùng phương pháp ǵ? Quả là ǵ? Quả là Diệt, Diệt chính là Niết Bàn. Niết Bàn (Nirvāṇa) là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Hán là Diệt, diệt ǵ? Diệt khổ, diệt phiền năo tức là diệt khổ. Phiền năo là nhân, Tam Khổ và Bát Khổ là quả; nhân đă diệt, quả đương nhiên chẳng c̣n. Phải dùng phương pháp ǵ để diệt những cái nhân ấy? Tu Đạo. V́ thế, Diệt là quả thuộc về pháp xuất thế. Đạo là cái nhân của pháp xuất thế. Quư vị thấy đó: [Tứ Đế là] nhân và quả của pháp thế gian và xuất thế gian. Đức Phật giảng những đạo lư và phương pháp này cho người sơ học. Đó là Tứ Đế.

      Thuở ấy, sau khi Thích Ca Mâu Ni Phật thành Phật, thuyết pháp cho mọi người, chủ yếu giảng pháp này, giảng bao nhiêu năm? Mười hai năm, dạy người ta phải đoạn Kiến Hoặc và Tư Hoặc. Hoặc () là ngu si, do ngu si mới làm chuyện sai trái. Kiến () là sai lầm về mặt kiến giải, Tư () là sai lầm về tư tưởng. Nói cách khác, quư vị suốt ngày từ sáng đến tối, từ đầu năm đến cuối năm, những ǵ quư vị thấy đều là sai lầm, những ǵ quư vị nghĩ đều là sai lầm. Kiến giải và tư tưởng sai lầm nên tạo tội nghiệp, quả báo là trong tam đồ. Do vậy, đức Phật dạy chúng ta, Kiến Hoặc là cách nh́n của quư vị sai lầm. Đức Phật quy nạp vô lượng vô biên sai lầm [thành hai loại lớn] là kiến giải sai lầm và tư tưởng sai lầm, quy nạp [Kiến Hoặc] thành năm loại lớn cho dễ dạy. Sai lầm thứ nhất, chúng ta nói đến kiến giải, quư vị đă thấy sai. Sai lầm thứ nhất là quư vị lầm tưởng cái thân là chính ḿnh. Điều này gọi là Thân Kiến, coi cái thân là chính ḿnh, sai mất rồi! Thân chẳng phải là chính ḿnh. Thân này chẳng phải là ta, ta chẳng phải là thân. Thân là ǵ? Trước chữ Thân, bèn thêm vào một thứ nữa, “thân của ta”, [hiểu như vậy] là đúng. Nó chẳng phải là ta. Giống như chúng ta mặc quần áo, quần áo của ta, đó là đúng, quần áo chẳng phải là ta. Quư vị thấy lục đạo chúng sanh mê muội sâu đậm, có ai chẳng coi thân là chính ḿnh? Đều v́ thân này mà tạo nghiệp, sau này chịu khổ báo vô cùng, sai mất rồi! Nếu quư vị biết thân chẳng phải là ta, quư vị thấy đó, đầu tiên là buông tự tư tự lợi xuống, buông tiếng tăm, lợi dưỡng xuống, buông tham, sân, si, mạn xuống, phiền năo của quư vị bèn ít đi quá nửa! Con người đều v́ cái thân này mà tạo vô lượng vô biên tội nghiệp, tạo giết, trộm, dâm, dối, chẳng phải đều là v́ thân này ư? Thân chẳng phải là chính ḿnh, quư vị thấy có oan uổng hay không? Đạo lư này rất sâu, chẳng phải là mấy câu đơn giản bèn có thể nói rơ ràng. Thích Ca Mâu Ni Phật giảng cho mọi người suốt mười hai năm, có thể thấy những thứ này sâu xa, phải nghiêm túc khéo học. Đó là kiến giải sai lầm đầu tiên.

      Thứ hai là Biên Kiến, Biên () là nhị biên (hai bên). Các nhà khoa học hiện thời nói đến “tương đối”, tương đối là Biên Kiến. Tất cả hết thảy các pháp đều là đối lập. Đối lập với lớn là nhỏ, đối lập với dài là ngắn, đối lập với chánh là tà. Quư vị thấy đều là tương đối. Đối lập với ta là người khác, toàn là tương đối. Quan niệm ấy là sai lầm, v́ sao? Chẳng biết khắp pháp giới hư không giới và chính ḿnh là một Thể, nên tự nhiên nẩy sanh đối lập. Chúng ta nói đơn giản là “đối lập với người, đối lập với sự, đối lập với hết thảy vạn vật”. Đối lập chẳng phải là chuyện nhỏ, mà là chuyện to tát, tất cả hết thảy các hành vi sai lầm đều phát sanh từ chỗ này. Thế giới hiện thời có quá nhiều xung đột, xung đột do đâu mà có? Do mâu thuẫn mà có, do lợi hại mà có. Mâu thuẫn và lợi hại do đâu mà có? Do đối lập mà có. Quư vị đi t́m cội nguồn, sẽ thấy là đối lập. Nếu chẳng có đối lập, sẽ chẳng có mâu thuẫn, chẳng có lợi hại, nên chẳng có xung đột. Xung đột ở một mức độ cao hơn sẽ là đấu tranh, mức cao hơn nữa của đấu tranh là chiến tranh. V́ thế, đối lập là cội nguồn của hết thảy nhân họa (tai họa do con người gây ra), đức Phật dạy phải ĺa khỏi nó. Đức Phật lại nói: Thành kiến là sai lầm. Thành kiến là ǵ? Tự cho ḿnh là đúng, ta đúng, kẻ khác sai quấy, đó là thành kiến. Thành kiến được chia ra: Thành kiến đối với nhân và thành kiến đối với quả, chia thành hai loại. Thành kiến đối với nhân gọi là Giới Thủ Kiến, thành kiến đối với quả là Kiến Thủ Kiến; những điều này biến thành hành vi, tạo tác hết thảy thiện và bất thiện. Loại cuối cùng là Tà Kiến, tức là tất cả những cách nh́n sai lầm ở ngoài bốn loại trên đây đều gộp vào trong Tà Kiến.

      Nếu quư vị buông xuống, đoạn trừ năm thứ kiến giải sai lầm này, bèn chứng quả Tu Đà Hoàn trong Tiểu Thừa. Tiểu Thừa có bốn quả, quư vị đă đạt được quả thứ nhất. Quư vị đạt tới Tu Đà Hoàn, trí huệ và năng lực của quư vị được khôi phục đôi chút. Trong Phật pháp nói là chút ít, nhưng khi người thế gian chúng ta thấy [sự khôi phục ấy, bèn ca ngợi] quư vị rất phi phàm! Trong sáu thứ thần thông, quư vị đắc Thiên Nhăn và Thiên Nhĩ, th́ cũng là nói: Người khác nh́n không thấy những ǵ quư vị có thể thấy. Quư vị có thể thấy quỷ thần, có thể thấy thiên thần. Đó là tiểu thông, năng lực hoàn toàn chẳng to, nhưng mạnh mẽ hơn người b́nh thường rất nhiều, tường vách chẳng thể chướng ngại. Những người ở pḥng sát vách đang làm ǵ, quư vị bèn thấy thấu suốt, đều trông thấy. Chúng ta nh́n xuống mỗi tầng dưới trong ṭa cao ốc này, họ đang làm ǵ, quư vị cũng thấy rất rơ ràng. Quư vị chỉ cần buông xuống năm thứ Kiến Hoặc, năng lực ấy bèn khôi phục.

      Tư Hoặc là cách nghĩ sai lầm, những thứ ǵ bị nghĩ lầm? Tham là suy nghĩ sai lầm, sân khuể cũng sai lầm, ngu si cũng sai lầm, ngạo mạn cũng sai lầm, hoài nghi cũng sai lầm. V́ sao? Trong tâm thanh tịnh không có những thứ ấy. Những thứ ấy là bệnh căn của hết thảy các điều bất thiện. Do vậy, trong Phật pháp, chúng c̣n được gọi là Tam Độc. Tham, sân, si là Tam Độc. Kể thêm Mạn và Nghi, bèn thành Ngũ Độc. Những thứ độc ấy là bệnh độc (virus), đúng là virus, con người ngă bệnh, v́ sao ngă bệnh? V́ trong tâm quư vị có năm thứ bệnh độc ấy, bên ngoài c̣n phải có cái nhân gây ra bệnh. Đó là cảm ứng, quư vị bèn ngă bệnh. Nếu bên trong đă dứt trừ năm thứ bệnh độc ấy, hết thảy các thứ cảm nhiễm bên ngoài sẽ chẳng thể cảm nhiễm! Y học bảo là “quư vị có năng lực miễn dịch cao, nên chẳng bị lây bệnh”. Năm thứ ấy được gọi là Tư Phiền Năo, tức là quư vị đă nghĩ sai rồi. Chớ nên có ư niệm tham, chớ nên có niệm sân khuể, chớ nên ngu si, chớ nên ngạo mạn, chớ nên hoài nghi, tâm của quư vị bèn khôi phục rất b́nh thường. Tâm b́nh thường là ǵ? Tâm thanh tịnh. Chúng ta thấy tựa đề kinh này có chữ Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác, quư vị đă đạt được điều thứ nhất. Tâm thanh tịnh hiện tiền là quả báo Tiểu Thừa. Quư vị đă thành tựu Tiểu Thừa, c̣n b́nh đẳng là [điều chứng đắc] của Bồ Tát học Đại Thừa. V́ thế, quư vị thấy: Kiến Tư phiền năo đă đoạn th́ tham, sân, si, mạn, nghi chẳng c̣n nữa. Thân Kiến, Biên Kiến, Kiến Thủ Kiến, Giới Thủ Kiến, Tà Kiến chẳng c̣n, quư vị bèn vượt thoát lục đạo luân hồi, đắc thanh tịnh tâm. Thanh tịnh tâm là chân tâm.

      “Xuất Phần Đoạn Sanh Tử”: Phần Đoạn là lục đạo. Lục đạo là từng giai đoạn một. Lần này chúng ta được làm thân người, trụ trong thân người chừng ấy năm, từ sống đến chết là một giai đoạn, đó là Phần Đoạn Sanh Tử. Thật ra, nói lời thật với quư vị: Chẳng có sanh tử! Sanh tử là ǵ? Thân thể sanh tử. V́ sao bảo quư vị “chẳng có sanh tử?” Linh hồn của quư vị bất tử! Hiện thời, trong những năm gần đây, tức là trong ba mươi năm gần đây nhất, thôi miên hết sức phổ biến trong thế giới phương Tây. Các bác sĩ tâm lư đă tiến hành thôi miên, chứng minh linh hồn con người bất tử. Họ cũng chứng tỏ người sau khi chết sẽ đầu thai. Từ thôi miên, có thể liễu giải con người đă qua lại thế gian này rất nhiều đời, xác thực là có lúc trong đời quá khứ làm người, lần này lại đến nhân gian. C̣n có trường hợp đời quá khứ làm súc sanh, đời này sanh vào nhân gian. Họ c̣n phát hiện đời trước sống trên một tinh cầu khác, đời này đến địa cầu. Chúng ta xem những báo cáo nghiên cứu của các nhà thôi miên, từ các báo cáo của họ, quư vị bèn khẳng định luân hồi là thật, chẳng giả. Do vậy, chứng minh con người chẳng chết.

      Kẻ b́nh phàm nói đến “linh hồn”, nhưng Phật giáo chẳng gọi nó “linh hồn”, mà gọi nó là “thần thức”. V́ nó có thể biến, những tướng được hiện là cái được biến (sở biến), nó chẳng chết. Gọi là “linh hồn”, nhưng thật ra nó chẳng linh, nó bị mê, phải gọi là “mê hồn” th́ mới đúng, chẳng thể gọi nó là linh hồn, nó chẳng linh! Nếu nó linh, nó có thể chọn lựa nơi rất tốt đẹp để đi đầu thai. V́ sao đến đầu thai trong nhà người bần cùng, nghèo khổ? Nó chẳng linh! V́ sao đến đầu thai trong loài súc sanh, lại c̣n đến đầu thai trong loài ngạ quỷ hay trong địa ngục? Có thể thấy nó chẳng linh, mà đúng là mê hoặc, điên đảo. Đă giác ngộ, bèn gọi là “linh tánh”; khi nào người ấy giác ngộ? Khi người ấy thành Thanh Văn hay Bích Chi Phật bèn giác ngộ. Thanh Văn là A La Hán, người ấy chứng đắc A La Hán quả, vượt thoát lục đạo, vĩnh viễn chẳng c̣n trở vào lục đạo. Nếu người ấy vào trong lục đạo, người ấy rất sáng suốt, chẳng mê. Người ấy đến làm ǵ? Đến độ chúng sanh, chẳng phải là đến để chịu báo, v́ cái nhân của lục đạo đă đoạn mất, cái nhân ấy là Kiến Tư phiền năo; người ấy đă đoạn hết Kiến Tư phiền năo, nên chẳng có cái nhân của lục đạo. [Hàng Bồ Tát] vào trong lục đạo để độ chúng sanh. Do lẽ đó, “xuất Phần Đoạn Sanh Tử” là [thoát khỏi] sự sanh tử trong lục đạo.

      “Nhi nhập ư Niết Bàn giả” (mà nhập Niết Bàn), Niết Bàn là dịch âm một danh từ trong tiếng Phạn của Ấn Độ, có nghĩa là “bất sanh, bất diệt”. Sanh tử trong lục đạo chẳng c̣n nữa, bất sanh, bất diệt. Người ấy đă chứng đắc bất sanh, bất diệt, nhưng chẳng rốt ráo, chưa viên măn, [đó là] Tiểu Thừa Niết Bàn. Đức Phật chứng đắc Đại Bát Niết Bàn (Mahāparinirvāṇa), đấy mới là rốt ráo. Niết Bàn là ĺa khổ, được vui thật sự. Tịnh Ảnh Sớ chép: “Như Lai sở thuyết ngôn giáo danh Thanh. Xan thanh ngộ giải, cố viết Thanh Văn” (ngôn giáo do đức Như Lai đă nói được gọi là Thanh. Do nếm pháp vị của Thanh mà ngộ giải, nên gọi là Thanh Văn). Đây là trích dẫn cách giảng trong Tịnh Ảnh Sớ, ư nghĩa đại khái giống nhau, đều là nghe đức Phật giảng kinh, thuyết pháp, bèn khai ngộ. “Xan thanh ngộ giải”: Xan () là ăn cơm, tức là nói đến pháp vị. [Xan Thanh] là nếm trải pháp vị. Đây là tỷ dụ, nghe Thanh, tức là nghe thanh giáo (giáo huấn bằng âm thanh) và ngôn luận của Thích Ca Mâu Ni Phật bèn khai ngộ. Khai ngộ là buông Kiến Tư phiền năo xuống. Nếu khai ngộ mà chẳng buông xuống, vô dụng, đó là giải ngộ, không thoát khỏi lục đạo luân hồi. Khi khai ngộ, thật sự buông Kiến Tư phiền năo xuống, chẳng thấy lục đạo nữa. Lục đạo là giả, chẳng thật, giống như giấc mộng, đă tỉnh giấc bèn gọi là Thanh Văn.

      Bích Chi Phật là ǵ? Bích Chi (Pratyeka) là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Hán, có nghĩa là Nhân Duyên. Nhân duyên ấy gồm mười hai mối nhân duyên, “Phật” dịch là Giác. “Cố cựu dịch Bích Chi Phật vi Duyên Giác” (nên dịch theo lối cổ th́ là Duyên Giác). Ngài giác ngộ nhờ nhân duyên, chứ không nhất định cậy vào Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh, thuyết pháp. Nói thông thường, ngộ tánh của Ngài rất cao, chúng ta thường nói là những “đứa bé thiên tài”. Chẳng nhất định gặp nhân duyên nào, Ngài khai ngộ, hiểu minh bạch ngay lập tức, hoặc là Ngài thấy, nghe, tiếp xúc [các nhân duyên bèn khai ngộ]. Những vị ấy suốt một đời này, tuy chẳng nghe đức Phật giảng kinh, thuyết pháp, nhưng khẳng định là trong đời quá khứ đă từng nghe, có thiện căn, nên gặp duyên bèn có thể khai ngộ. Nếu vị ấy không có thiện căn, duyên dẫu nhiều đến mấy, vẫn chẳng thể khai ngộ! “Tân dịch vi Độc Giác” (dịch theo lối mới là Độc Giác), Độc Giác càng thông minh hơn nữa. Theo sách Đại Thừa Nghĩa Chương đă giảng, Duyên Giác có hai cách giải thích. Loại thứ nhất là “quán Thập Nhị Nhân Duyên, đoạn Hoặc, chứng Chân, tùng duyên đắc giác, cố danh Duyên Giác” (quán mười hai nhân duyên, đoạn Hoặc, chứng Chân, do duyên mà giác ngộ, nên gọi là Duyên Giác). Mười hai nhân duyên, đầu tiên là Vô Minh (Avidyā). Vô Minh duyên Hành, Hành duyên Thức. Vô Minh ở đây chẳng phải là Căn Bản Vô Minh, mà là Chi Mạt Vô Minh, cũng có nghĩa là những vô minh đă được nói trong lục đạo đều rất thô, hoàn toàn chẳng giống Căn Bản Vô Minh, phá được Căn Bản Vô Minh bèn thành Phật. Trong lục đạo, loại vô minh này (Chi Mạt Vô Minh) biến hiện lục đạo. Khi phá được loại vô minh này, lục đạo chẳng c̣n nữa. Do vô minh, quư vị mới tạo nghiệp. “Hành” (Saṅkhāra) là tạo nghiệp trong đời quá khứ. Mười hai nhân duyên nói về nhân quả ba đời, Vô Minh và Hành là nhân quả đời quá khứ. Có nhân trong đời quá khứ, nên quư vị mới đến đầu thai. “Thức” (Vijñāna) là thần thức, chúng ta thường gọi nó là “linh hồn”. Linh hồn đến đầu thai, t́m cha mẹ, cha mẹ và kẻ ấy có duyên. Trong phần trước đă nói, có ân, có oán, có nợ nần, có những mối quan hệ ấy, nên kẻ đó bèn đến. Chẳng có những mối quan hệ ấy, kẻ đó sẽ chẳng t́m quư vị. V́ thế, con cái là duyên. Tôi nhớ năm 1977, lần đầu tiên tôi đến Hương Cảng giảng kinh tại giảng đường của lăo ḥa thượng Thọ Dă tại đường Lam Đường (Blue Pool Road) ở Hương Cảng, tức là Quang Minh Giảng Đường. Lăo ḥa thượng Thọ Dă học Hoa Nghiêm, tôi giảng tại chỗ Ngài hai tháng, giảng Lăng Nghiêm. Trong giảng đường, có một cặp câu đối do chính lăo pháp sư viết. Vế trên là “phu thê thị duyên, hữu thiện duyên, hữu ác duyên, oan oan tương báo” (vợ chồng là duyên, có thiện duyên, có ác duyên, oan oan tương báo), nói về [mối quan hệ] vợ chồng. Vế dưới là “nhi nữ thị trái, hữu thảo trái, hữu hoàn trái, vô trái bất lai” (con cái là nợ, có đ̣i nợ, có trả nợ, không nợ chẳng đến). Câu đối ấy rất đáng cảnh tỉnh. Tôi ở nơi ấy hai tháng, mỗi ngày đều thấy, nên có thể nhớ kỹ đôi câu đối ấy. Lúc đó, lăo pháp sư đă di đân sang Mỹ; khoảng mấy năm sau, tôi cũng di dân đến Mỹ, gặp Ngài tại Nữu Ước, lăo pháp sư và tôi rất có duyên phận. Do vậy, trong thế gian này, phải thấy thấu suốt sự việc, phải tham thấu th́ quư vị mới có thể thật sự hạ quyết tâm chẳng muốn luân hồi nữa, chẳng làm chuyện ngốc nghếch ấy!

      Quư vị thấy Thức, Thức (Vijñāna) là thần thức, [gọi thông tục là] linh hồn đi đầu thai. Đầu thai trong thai mẹ bèn gọi là Danh Sắc, có h́nh dạng một người chưa phát triển đầy đủ, thường nói là [thai mới tượng h́nh] hai ba tuần, tức là cấn thai hai ba tuần, chưa có h́nh dạng con người, nên gọi là Danh Sắc (Nāmarūpa). Danh là ǵ? Danh là tinh thần, nó có Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Sắc là nó có nhục thể, nhưng chưa có h́nh dạng con người hoàn bị. Dần dà, khoảng chừng năm sáu tháng, bèn có h́nh dạng con người, có đầu, có mắt, quư vị có thể nh́n thấy; khi ấy, chẳng gọi là Danh Sắc nữa, mà gọi là Lục Nhập (Ṣaḍāyatana). Nó giống như con người, nhưng vẫn ở trong tử cung của mẹ, chúng ta thường nói là “trụ thai”. Mười tháng, thời gian trụ thai đă măn, bèn ra khỏi thai, được sanh ra. Sanh ra là ǵ? Sanh ra chẳng gọi là “xuất sanh”, mà gọi là Xúc (Sparśa), v́ thân thể của nó tiếp xúc với ngoại giới, có cảm nhận, [đó là] Thọ (Vedanā), nó có Ái (Tṛṣṇā), có Thủ (Upādāna), có Hữu (Bhava). Nói cách khác, những tập khí phiền năo của nó khởi lên hiện hành. Ái, Thủ, Hữu là suốt cả một đời, từ lúc quư vị lọt ḷng cho đến khi già chết, suốt một đời [luôn là Ái, Thủ, Hữu]. Sáu căn của quư vị tiếp xúc cảnh giới bên ngoài, điều ǵ hợp với ư ḿnh, quư vị bèn tham ái. Từ tham ái, quư vị mong đạt được; đạt được là Thủ. Ta muốn khống chế nó, muốn chiếm hữu nó, đó là hành vi. Có hành vi ấy th́ là Hữu. Hữu là ǵ? Có nghiệp, trong A Lại Da Thức bèn kết nghiệp. Nghiệp có thiện nghiệp và ác nghiệp, nghiệp lực dẫn dắt quư vị thọ báo trong đời sau. V́ thế, đời sau lại có sanh, lại có lăo tử, vĩnh viễn tuần hoàn.

      Mười hai điều này trong luân hồi, được gọi là Thập Nhị Luân (Dvādaśanidāna), đó là nhân duyên. Chỉ cần phá vỡ được một thứ trong mười hai món, toàn thể sẽ bị phá, đoạn hết; nhưng phải phá nơi nhân, chứ không thể phá nơi quả. Đối với nhân, quư vị biết là hai điều trước, tức là Vô Minh và Hành thuộc về đời quá khứ, chúng ta chẳng có cách nào trở lại đời quá khứ để giải quyết vấn đề. Sanh, lăo, tử là vị lai, nói đến ba đời, cũng chẳng có cách nào! Vị lai vẫn chưa xảy tới, chúng ta cũng chẳng thể giải quyết vấn đề trong vị lai, phải [giải quyết] ngay trong hiện tại. Giải quyết vấn đề ngay trong hiện tại th́ nơi nhân chỉ có ba chữ. Do Xúc là quả báo, chẳng thể giải quyết nơi quả. Người giải quyết nơi quả là ǵ? Tự sát là giải quyết nơi quả; tự sát chẳng thể giải quyết vấn đề. Giải quyết nơi nhân bèn có ba thứ là Ái, Thủ, Hữu. Có thể đoạn được một trong ba điều ấy, bèn chứng quả Bích Chi Phật, chư vị phải biết điều này. Ái là mê hoặc, quư vị chẳng liễu giải chân tướng sự thật. Thủ là quư vị tạo tác, nói theo hiện thời là quư vị muốn khống chế, muốn chiếm hữu, quư vị đă tạo nghiệp! Khống chế tạo nghiệp nhẹ, chiếm hữu tạo nghiệp nặng. Trong tạo nghiệp, lại có thiện, ác, có thiện nghiệp, có ác nghiệp, những điều này đều gọi là Hữu. Trong đời này, quư vị lại tạo nhân, đời sau phải chịu quả báo. Do đó, đời sau lại có sanh, lại có lăo tử. Người thông minh tâm địa thanh tịnh, b́nh đẳng, đổ công dốc sức đoạn trừ Ái. Trong một chữ Ái, bao gồm Tam Độc, tham, sân, si, v́ sao? Ưa thích bèn yêu mến, chẳng ưa thích bèn hận, hận là sân. Cội rễ của tham dục và sân khuể là ngu si. Do đó, một chữ Ái bao gồm tham, sân, si. Thủ là hành động, Ái là ư niệm, c̣n chưa có hành động, bao gồm oán hận, sân khuể, nhưng chưa phát tác. Trong tâm có ư niệm ấy, nhưng chưa phát tác. Thủ là đă phát tác; hễ phát tác, nghiệp bèn thành tựu. Cổ nhân nói: “Muôn thứ chẳng mang được, chỉ có nghiệp theo thân”, “có” là nghiệp, quư vị có nghiệp. Quư vị đă tạo nghiệp, đời sau có quả báo, đời sau lại có sanh, đă sanh bèn có lăo tử. Đó là mười hai chữ!

      Đức Phật giảng mười hai nhân duyên, những người ấy thông minh hơn Thanh Văn, Thanh Văn phải giảng Tứ Đế th́ mới có thể khai ngộ. Đức Phật giảng những điều này đơn giản hơn Tứ Đế, vừa nói, người ấy bèn hiểu rơ. Nếu đoạn từ Ái, sẽ là người thông minh nhất, thật sự dốc sức từ Kiến Tư phiền năo, sẽ đoạn sạch làu làu. Tập khí phiền năo, nghiệp chướng sâu nặng, đoạn từ Thủ. Tuy có ư niệm, nhưng chẳng tạo các nghiệp ấy; biết tạo nghiệp th́ về sau phải chịu báo, nên chẳng Thủ, chẳng có hành động. Có ư niệm, nhưng không có hành động th́ cũng được, cũng có thể vượt thoát. Loại thứ ba rất cao, quư vị thấy nhé, người ấy có Ái, có Thủ, nhưng sau đó là ǵ? Người ấy chẳng có Hữu, lợi hại lắm! Đó là ǵ? Tâm địa người ấy thanh tịnh, chẳng lưu lại dấu vết, kẻ b́nh phàm chẳng thể làm được chuyện này; do đó, đây là một người tu hành chân chánh. Người tu hành chân chánh v́ sao c̣n có Ái và Thủ? Ái và Thủ là phương tiện thiện xảo. Đại đa số chẳng có Hữu, đó là ǵ? Là Bồ Tát đến thế gian này, nên dùng thân Thanh Văn để đắc độ, liền hiện thân Thanh Văn để độ thoát. Nên dùng thân Duyên Giác để độ người khác, liền hiện thân Duyên Giác để độ. Đó là bậc Bồ Tát tái lai, kẻ b́nh phàm chẳng thể nào làm được! Trong tiểu thuyết, chư vị thấy Tế Công có Ái, có Thủ, nhưng chẳng có Hữu. Lợi hại lắm, chẳng phải là chuyện kẻ b́nh phàm ḥng làm được. Ngài cười h́ h́, hà hà với mọi người, cũng ăn, uống, vui chơi, nhưng người khác tạo tội nghiệp, Ngài chẳng tạo tội nghiệp, lợi hại lắm! V́ sao? Tâm địa Ngài thanh tịnh, chẳng nhiễm mảy trần. Ngài cùng mọi người chơi đùa, nhưng Ngài chẳng động niệm. Trong ư Ngài, chẳng có phân biệt, chấp trước, người như vậy th́ mới được!

      Tế Công là nhân vật có thật, thật sự có chuyện ấy, chẳng giả. Ngài sống vào thời Tống, sanh nhằm đời Nam Tống, cùng thời với Nhạc Phi, họ đều là người thời ấy. Bố Đại ḥa thượng cũng là người thời ấy. Nhưng vào thời đầu Dân Quốc, lại xuất hiện một vị dường như chẳng khác ǵ Tế Công, được gọi là Kim Sơn Hoạt Phật (Phật sống chùa Kim Sơn). Vị này có thật, chẳng giả. Ngài cũng là người xuất gia, lôi thôi, lếch thếch, ở lẫn lộn với người tại gia, cũng là có ăn, có uống, có cười cợt, có nói năng ồn ào, nhưng chẳng nhiễm mảy trần. Thuở trẻ, tôi giảng kinh tại Đài Bắc. Lăo pháp sư Lạc Quan là người thuộc thế hệ trưởng bối của chúng tôi, nay Ngài đă mất, bảo tôi Sư đă từng gặp gỡ Kim Sơn Hoạt Phật. Kim Sơn Hoạt Phật có pháp danh là Diệu Thiện. Pháp sư Diệu Thiện ở cùng một chỗ với Sư suốt bốn tháng, nên Sư biết Ngài rất rơ. Sư nói [pháp sư Diệu Thiện] quả thật giống như Tế Công, lôi thôi, ăn vận kỳ quặc, thật sự đi một đôi hài cỏ đă rách, khoác một cái áo dài, bên trong mặc một cái quần ngắn, quanh năm suốt tháng mặc bộ quần áo ấy, tới tiết Đông cũng chẳng lạnh, trời Hè cũng chẳng nóng, rất lợi hại! Suốt đời Ngài chẳng tắm rửa, nhưng trên người có hương thơm hoa sen. Cả đời không tắm rửa, cũng chẳng giặt quần áo, nên cổ áo đóng đầy những thứ đen x́, dơ bẩn, nhưng quư vị ngửi th́ vẫn có mùi thơm. Lại c̣n khi ngửi, có rất nhiều người bị bệnh vừa ngửi liền lành bệnh, [ngửi mùi] có thể trị bệnh!

      Đúng là Ngài có thần thông. Lăo ḥa thượng Lạc Quan bảo tôi: “Nếu ngài Diệu Thiện chẳng phải là A La Hán th́ tối thiểu cũng là A Na Hàm”. V́ Lậu Tận Thông [phàm nhân sẽ] chẳng nh́n ra. Ngài có thể phân thân, cùng một lúc thấy Ngài đến chỗ này, mà ở chỗ khác, Ngài cũng tụ hội với những người ở đó, Ngài có thể phân thân! Về sau, người ta thấy: “Ngày nọ, thầy ở chỗ tôi”. “Đâu có! Thầy ở chỗ tôi mà!”, cho nên biết Ngài có thể phân thân. Quư vị hỏi Ngài có phân thân hay không? Ngài cười khúc khích, chẳng trả lời. V́ thế, những sự tích thần kỳ về Ngài rất nhiều. Pháp sư Lạc Quan đă viết một quyển sách về Ngài, có tựa đề là Kim Sơn Hoạt Phật Thần Dị Lục. Tại Đài Loan, c̣n có một vị pháp sư là pháp sư Chử Vân cũng viết một quyển sách ghi các chuyện kỳ lạ của Ngài, nhưng pháp sư Chử Vân chưa hề gặp Ngài! Sư đến khắp nơi hỏi ḍ, thỉnh giáo những vị lăo ḥa thượng biết những chuyện ấy, kể lại chuyện xưa, Sư ghi chép lại thành cuốn Kim Sơn Hoạt Phật Truyền Kỳ. Như vậy th́ quán mười hai nhân duyên, đoạn Hoặc, chứng Chân, từ duyên mà khai ngộ, nên gọi là Duyên Giác.

      Loại thứ hai, “nhân kiến phong động thụ đẳng đẳng ngoại giới sự tướng chi duyên, nhi đắc giác ngộ, viết Duyên Giác” (do thấy những sự tướng bên ngoài như gió lay động cây v.v… làm duyên mà giác ngộ, nên gọi là Duyên Giác). Đó là ǵ? Ra đời nhằm lúc chẳng có Phật pháp tồn tại trong thế gian. Do vị ấy thiện căn sâu dầy, chẳng nhất định do nhân duyên nào, thấy gió thổi lá rụng, mưa rơi trên tàu chuối, bèn khai ngộ. Chẳng nhất định là lúc nào, chẳng nhất định là nơi chốn nào, duyên của vị ấy đă đến. V́ thế, chúng tôi tin tưởng, vị ấy gặp những sự biến hóa trong đại tự nhiên giới đều là do Phật, Bồ Tát gia tŕ, duyên của vị ấy đă chín muồi. Phật, Bồ Tát biết nên dùng phương pháp ǵ để giúp vị ấy giác ngộ. V́ vậy, Phật, Bồ Tát không nhất định hiện thân người, mà có thể hiện thân mưa, gió, có thể hiện ra những hiện tượng tự nhiên, khiến cho vị ấy vừa nh́n bèn hoát nhiên khai ngộ. Đó là Duyên Giác.

      Tiếp đó, [sách Chú Giải] nói: “Thiên Thai nhất gia cánh khu phân thử nhị danh viết” (tông Thiên Thai lại c̣n phân biệt địa vị ấy thành hai danh xưng). Đây là do Thiên Thai đại sư nói. Thông thường, trong Phật pháp, quá nửa là sử dụng [các giáo thuyết] của tông Thiên Thai. Tông Thiên Thai nói [Bích Chi Phật] là Duyên Giác và Độc Giác. “Xuất hữu Phật thế, quán thập nhị nhân duyên nhi đắc ngộ giả, vị Duyên Giác” (người xuất sanh nhằm lúc cơi đời có Phật, quán mười hai nhân duyên, đắc ngộ, th́ là Duyên Giác). Nghe đức Phật giảng mười hai nhân duyên, khai ngộ. [Tông Thiên Thai] chẳng nói là “nghe”, mà nói là Quán. Quán là ǵ? Sử dụng trí huệ, c̣n Nghe là dùng Nhĩ Thức. Kẻ b́nh phàm dùng Nghe, những ǵ quư vị nghe được là tri thức. Dùng Quán th́ những ǵ quư vị ngộ là trí huệ, khác hẳn. V́ thế, Quán có tác dụng mạnh mẽ hơn Nghe. Nghe là dùng Nhĩ Thức, Quán là dùng tánh Nghe, giống như Quán Thế Âm Bồ Tát “phản văn, văn tự tánh, tánh thành vô thượng đạo” (xoay trở lại nghe nơi tự tánh, tánh trở thành đạo vô thượng). Ngài chẳng sử dụng Nhĩ Thức, mà dùng tánh Nghe. Tánh Nghe nghe Thanh Tánh bèn khai ngộ, có ư nghĩa khác hẳn! Nay chúng tôi nói là tri thức và trí huệ th́ mọi người sẽ dễ hiểu. Dùng Nhĩ Thức th́ những ǵ quư vị nghe được là tri thức (kiến thức); nếu dùng tánh Nghe, quư vị nghe được trí huệ, hoàn toàn là chuyện khác nhau! Ở đây, dùng tánh Nghe để nghe mười hai nhân duyên, vị ấy khai ngộ, được gọi là Duyên Giác, [xuất thế] nhằm lúc cơi đời có Phật. “Xuất vô Phật thế” (ra đời nhằm lúc chẳng có Phật), lúc vị ấy xuất sanh, trong thế gian này chẳng có Phật pháp, chẳng có Tam Bảo. Trong hoàn cảnh ấy, vị ấy “quán phong xuy thụ động, diệp lạc, hoa phi chi ngoại duyên” (quán duyên bên ngoài như gió thổi cây rung động, lá rụng, hoa bay), trông thấy những hiện tượng tự nhiên ấy, vị ấy khai ngộ. Hoặc thấy tia chớp, hoặc nghe tiếng sấm cũng khai ngộ, loại người ấy được gọi là Độc Giác. V́ thế, có thể biết Độc Giác là người vô cùng thông minh, thiện căn sâu dầy. Chúng ta cũng có thể hiểu và tin tưởng người ấy trong đời quá khứ đều là đời đời kiếp kiếp tu hành trong Phật môn, do thiện căn sâu dầy, nên gặp những duyên ấy mới có thể xúc động.

      Chúng ta lại xem phần kinh văn tiếp theo: “Thượng chi Thanh Văn, Bích Chi Phật, Nhị Thừa, quân vi Phật đệ tử trung chi hạ căn” (Hàng Nhị Thừa Thanh Văn và Bích Chi Phật trên đây đều là kẻ hạ căn trong các đệ tử của đức Phật), thượng căn là Bồ Tát, hạ căn là Thanh Văn và Duyên Giác. “Kim chư đại sĩ”, [nghĩa là] nay kinh này toàn nói đến các vị đại sĩ, những vị Bồ Tát ấy “viễn siêu ư thử”, [nghĩa là] vượt trỗi bọn họ (hàng Nhị Thừa) quá nhiều. “Như Chân Giải viết: Nhị Thừa tuy đắc tam Không môn” (Như sách Chân Giải nói: “Nhị Thừa tuy đắc ba Không môn”), trong phần sau sẽ nói về ba Không môn là Không, Vô Tướng, Vô Nguyện, họ cũng đạt được [ba môn ấy]. Tuy đạt được, “duy trầm Thiên Không” (chỉ ch́m đắm nơi Thiên Không), đọa trong Thiên Chân Niết Bàn, đă lệch về Không. Do đó, chẳng thể thọ dụng, chẳng thể đắc đại tự tại, chỉ có thể chứng tiểu quả. Trong ba học vị, họ chỉ đạt được học vị thứ nhất. A La Hán và Bích Chi Phật là học vị thứ nhất, đều gọi là Tiểu Thừa. Bồ Tát là học vị thứ hai, Phật Đà là học vị thứ ba, là học vị cao nhất. Thanh Văn và Duyên Giác giống như học vị Học Sĩ (Cử Nhân) trong nhà trường hiện thời; Bồ Tát là Thạc Sĩ (Cao Học), Phật Đà là Tiến Sĩ. Tỷ dụ như vậy th́ mọi người rất dễ hiểu!

      “Bồ Tát bất nhiên, năng đạt huyễn vơng” (Bồ Tát chẳng vậy, có thể thấu đạt lưới huyễn). Bồ Tát chẳng giống họ, cao minh hơn họ rất nhiều. Bồ Tát thông đạt y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới đều chẳng thật. “Huyễn vơng” (幻網) là tỷ dụ, huyễn là giả, mộng, huyễn, bọt, bóng, chẳng thật. Nhưng người Tiểu Thừa coi chúng là thật, thật sự tách rời chúng, chẳng dám tiến lên nữa, tiến lên th́ sợ đọa lạc. Do vậy, họ trụ trong Chân Không, ngỡ Không là thật. Bồ Tát thông đạt “tướng là giả tướng, tướng chẳng có chướng ngại”. “Đắc b́nh đẳng pháp, cố tuy trụ tam Không môn, nhi bất trụ vô vi, bất trụ hữu vi” (đắc pháp b́nh đẳng, nên tuy trụ trong ba Không môn, mà chẳng trụ vô vi, chẳng trụ hữu vi), điều này cho thấy các Ngài cao minh hơn Nhị Thừa quá nhiều. Nhị Thừa th́ như thế nào? Đă vượt trỗi pháp hữu vi, nhưng trụ trong pháp vô vi. Nhị Thừa trụ Không, vô vi là Không, hữu vi là Có. Có là Huyễn Hữu, Không là Chân Không. Chân Không và Huyễn Hữu là một, chẳng hai. Người Nhị Thừa chẳng biết điều này, chẳng đạt tới cảnh giới này. Bởi lẽ đó, như ngài Tế Công tuy hiện thân La Hán, nhưng trên thực tế, Ngài vượt xa hàng A La Hán, v́ sao? Không lẫn Có đều chẳng trụ, đắc đại tự tại. A La Hán trụ Không, chẳng trụ Có, chẳng đến nhân gian. Những vị đến nhân gian đều do duyên phận đặc thù, đến giúp đỡ người khác.

      Như trong Từ Bi Tam Muội Thủy Sám có nói quốc sư Ngộ Đạt có duyên phận đặc biệt với một vị A La Hán là tôn giả Ca Nặc Ca. Vị A La Hán ấy biết trong tương lai Sư sẽ gặp chuyện không may, sẽ gặp tai nạn lớn, Ngài sẽ giúp Sư hóa giải tai nạn ấy. V́ thế, Ngài biến hóa thành một gă ăn mày, lại c̣n là một gă ăn mày bệnh tật rất nặng, thân thể tươm mủ, hôi thối khôn sánh, người b́nh phàm đều chẳng muốn đến gần! Vị A La Hán ấy cố ư khiến cho quốc sư Ngộ Đạt trông thấy. Lúc đó, ngài Ngộ Đạt c̣n chưa là quốc sư, c̣n chưa nổi tiếng. Quốc sư Ngộ Đạt là cao tăng mười đời. Sư xuất gia tu hành lần này là đời thứ mười, mỗi lần mất đi lại trở vào nhân gian, lại xuất gia, mười đời đều là xuất gia cao tăng, làm thầy của đế vương. V́ thế, người xuất gia lỗi lạc hơn mọi người đều chẳng phải do một đời tu thành, mà là mười đời! Khi Sư chưa nổi danh, gặp người ăn mày ấy, thấy người ấy rất đáng thương. Sư thật sự giúp đỡ, dùng đầu lưỡi liếm vết thương ứa mủ, hút chất độc ra, người b́nh thường chẳng thể làm được! Vị A La Hán ấy khảo nghiệm Sư, thấy Sư từ bi chân thật, chẳng giả, từ bi đến mức độ nào? Khá lắm! Ngài thấy rất vừa ḷng, bèn bảo quốc sư Ngộ Đạt: “Trong tương lai, nếu thầy gặp tai nạn to lớn, hăy đến t́m tôi”. Ngài nói: “Tôi ở Tứ Xuyên”, cho Sư biết địa phương đó. “Thầy lên trên núi, thấy trên núi có hai cây tùng mọc cùng một chỗ, đến chỗ cây ấy gọi tên tôi, tôi sẽ xuất hiện”.

      Chẳng biết trải qua bao nhiêu năm, Hoàng Thượng thật sự bái Sư làm thầy, phong làm Quốc Sư. Có một ngày, Hoàng Thượng tặng Sư một bảo tọa bằng trầm hương. Quư vị thấy đồng tu tặng tôi chuỗi hạt bằng trầm hương này, nghe nói mấy hạt này rất quư, tôi chẳng biết, trước nay tôi chưa hề dùng thứ trân quư này. Người ở Đài Loan tặng cho tôi, phải đến mười mấy vạn đồng Đài Loan mới có được một chuỗi hạt như vậy! Trầm Hương làm thành ghế Thái Sư[3], rất nổi tiếng quư báu. Bảo tọa trầm hương ấy, hai người chẳng khiêng được! Hoàng Thượng tặng Sư bảo tọa ấy. Sư ngồi trên đó cảm thấy rất đắc ư, cảm thấy dường như chính ḿnh tuyệt diệu lắm, người xuất gia nào trong thiên hạ cũng chẳng thể sánh bằng ta! Tâm niệm ngạo mạn vừa sanh khởi, thần hộ pháp ĺa bỏ. Thần hộ pháp vừa rời khỏi, oán thân trái chủ t́m đến bên thân. Oán thân trái chủ rất lợi hại, [đời trước], Sư và kẻ ấy cùng làm quan đời Hán, là đồng sự của nhau. Quốc sư Ngộ Đạt thuở ấy hại chết, hăm hại kẻ ấy, khiến cho Hoàng Thượng xử tử kẻ ấy. Kẻ ấy niệm niệm chẳng bỏ ḷng oán hận, muốn báo cừu; nhưng Sư đă xuất gia, tu hành rất nghiêm túc, có thần hộ pháp bảo vệ, quỷ hồn chẳng thể kề cận. Lần này, làm quốc sư, thần hộ pháp càng nhiều hơn. V́ nhận lănh bảo tọa trầm hương ấy, dấy lên một niệm tâm ngạo mạn, thần hộ pháp bỏ đi, oan gia bèn tới dựa vào thân Sư, khiến cho trên đầu gối Sư mọc lên một mụn ghẻ h́nh mặt người, gần như sắp mất mạng. Vị này là thầy của Hoàng Thượng, những thầy thuốc giỏi nhất nước và ngự y đều trị liệu, nhưng chẳng có cách nào [chữa lành]. Sư đột nhiên nhớ tới thuở trước từng gặp một gă ăn mày. Nghĩ tới người ấy, Sư nói: “Nay ta gặp phải đại nạn này, hăy đi t́m thử xem!” Tới nơi đă được chỉ ở Tứ Xuyên, quả nhiên thấy hai cây tùng. Sư bèn gọi to ở đó. Vừa gọi, bèn thấy sau cây có chùa miếu, A La Hán Ca Nặc Ca tôn giả bèn xuất hiện. Vừa thấy Ngài xuất hiện, xa ĺa đă lâu nay mới gặp gỡ: “Ta bảo ông tới, quả nhiên ông thật sự tới”. Ngài bèn giảng cho Sư biết nhân duyên nhiễm bệnh: “Mười đời trước, các ông là đồng sự[4], các ông là bạn bè. Do ông ghen ghét, chướng ngại bèn hại ông ta. Người ta niệm niệm chẳng quên”. Do vậy, dùng nước Từ Bi Tam Muội rửa ghẻ mặt người để hóa giải, điều đ́nh, hóa giải. Đối phương đă nhận lời, mối oán kết ấy được hóa giải, ghẻ mặt người bèn khỏi hẳn! Quư vị ngẫm xem, cao tăng mười đời, lỡ hại chết một người, mà kẻ đó chẳng bỏ mối oán cừu ấy, đợi cơ hội để báo thù, đáng sợ quá!  

      Pháp sám hối Từ Bi Thủy Sám vẫn c̣n lưu truyền. Hiện thời, trong Phật môn, lạy Thủy Sám rất nhiều. Lạy Thủy Sám th́ nhất định phải nói rơ ràng, minh bạch chuyện này. Con người phải dùng cái tâm từ bi thật sự để đối đăi người khác, tiếp độ vật, chớ nên hại người. Sát sanh hại mạng, quư vị hại người ta, người ta hận quư vị. Quư vị hại súc sanh, quư vị giết nó, ăn nó, nó có cam tâm t́nh nguyện hay chăng? Do vậy, nghĩ đến chỗ này, [sẽ cảm thấy] hết sức đáng sợ; quư vị c̣n dám ăn thịt chúng sanh hay không? Trong kinh, đức Phật có nói: “Quư vị ăn kẻ khác tám lạng, đời sau phải trả kẻ ấy nửa cân[5]”. Nợ mạng phải trả bằng mạng, thiếu nợ phải đền tiền. Nhân quả ba đời chẳng trốn được! Chúng ta hiểu rơ đạo lư này, liễu giải chân tướng sự thật, trong cuộc đời này, đăi người tiếp vật, tâm bèn b́nh lặng. Nếu chúng ta bị thua thiệt, người ta dùng thủ đoạn chẳng chánh đáng để tước đoạt tài vật của chúng ta, chúng ta cười, chắc là đời trước ta thiếu nợ hắn, hăy trả lại cho hắn, chẳng có tâm oán hận! Nếu ta chẳng nợ hắn, hắn đoạt đi cũng chẳng sao! Đời sau hắn c̣n phải trả kèm thêm tiền lời cho ta. Tâm b́nh khí ḥa để xử lư chuyện này, đó là chánh xác. Hắn cướp đoạt những thứ của ta, đó là trộm lấy, là “đạo tâm” (盜心: cái tâm trộm cắp). Nếu ta dùng thủ đoạn để lấy lại th́ cũng là “đạo tâm”, cũng phạm vào sai lầm. Kẻ ấy phạm lỗi lầm, ta chẳng phạm lỗi lầm, chẳng cần phải so đo, hăy thành tựu đức hạnh của chính ḿnh. Không chỉ chẳng oán hận, mà c̣n phải cảm tạ. Giống như khảo thí, công phu của ta rốt cuộc như thế nào? Bố thí, tŕ giới, nhẫn nhục, trải qua sự việc để luyện tâm, trải qua những chuyện ấy để khảo nghiệm chính ḿnh có thành tựu hay không. V́ thế, luôn dùng cái tâm cảm ơn để xử lư.

      Phàm là kẻ hủy báng, ganh ghét, lăng nhục, tổn thương ta, ta đều cảm ơn. V́ sao? Toàn là đến khảo nghiệm ta để xem rốt cuộc ta là học Phật thật sự hay giả vờ học. Nếu đối với những nghịch cảnh và các kẻ ác ấy mà c̣n có tâm oán hận, chứng tỏ chúng ta đă học Phật uổng công rồi! Đức Phật dạy như thế nào, đều quên sạch cả rồi! Quư vị thấy Thích Ca Mâu Ni Phật trong lúc tu nhân, tu Nhẫn Nhục Ba La Mật, gặp phải vua Ca Lợi, bị lăng tŕ xử tử, Bồ Tát chẳng có chút tâm oán hận nào, Nhẫn Nhục Ba La Mật bèn viên măn. Nếu không gặp t́nh cảnh ấy, Ngài vẫn chưa tu viên măn Nhẫn Nhục Ba La Mật. Trong lần khảo đảo to lớn cuối cùng ấy, Ngài trúng cách, vượt qua, chẳng oán hận vua Ca Lợi, mà c̣n cảm tạ nhà vua. Lúc sắp chết, bảo vua Ca Lợi: “Trong tương lai, ta thành Phật, sẽ độ nhà vua đầu tiên”. Đó là báo ân, như vậy mới là đệ tử đức Phật, chúng ta hăy nên học tập điều này. Đúng là thật sự học hiểu, chẳng trụ vô vi, chẳng trụ hữu vi. Bất luận trong thuận cảnh hay nghịch cảnh, thiện duyên hay ác duyên, đều chẳng động tâm, giữ ǵn sự “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác” của chính ḿnh, vĩnh viễn giữ tâm cảm ân, tâm báo ân, đó là đúng. Đừng sợ bị thua thiệt. Bị thua thiệt là có phước, đừng chiếm tiện nghi của kẻ khác. Chiếm tiện nghi là họa hại, là tai họa, biết bị thua thiệt là phước, cổ thánh tiên hiền nói chẳng sai! Hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng ta học tập tới chỗ này!

 

Tập 118

 

      Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang một trăm ba mươi bảy, ḍng thứ hai từ dưới đếm lên, xem từ câu cuối cùng, xem từ “như Chân Giải viết” (như sách Chân Giải nói), xem từ đoạn này.

      “Như Chân Giải viết: Nhị Thừa tuy đắc tam Không môn, duy trầm Thiên Không. Bồ Tát bất nhiên, năng đạt huyễn vơng, đắc b́nh đẳng pháp. Cố tuy trụ tam Không môn, nhi bất trụ vô vi, bất trụ hữu vi. Cố năng hành Thanh Văn, năng hành Duyên Giác, nhi siêu việt Thanh Văn, Duyên Giác chi địa” (như sách Chân Giải nói: “Nhị Thừa tuy đắc ba Không môn, nhưng chỉ ch́m đắm trong Thiên Không. Bồ Tát chẳng vậy, có thể thấu đạt lưới huyễn, đắc pháp b́nh đẳng. V́ thế, tuy trụ trong ba Không môn, nhưng chẳng trụ vô vi, chẳng trụ hữu vi. V́ thế, có thể hành Thanh Văn, có thể hành Duyên Giác, vượt trỗi địa vị Thanh Văn và Duyên Giác”). Trong buổi học trước, chúng ta học đến chỗ này, hôm nay, tôi sẽ nói từ đoạn này. Đây là nói những vị Bồ Tát tham dự pháp hội này đều đắc ba Không môn, kinh nói Tam Không là “nhập Không, Vô Tướng, Vô Nguyện pháp môn”, ba môn này Tiểu Thừa và Đại Thừa đều nói tới. Tuy người Nhị Thừa là Thanh Văn và Duyên Giác chấp trước Không, họ chấp trước Không Môn, nhập Không Môn, bèn chấp trước Không Môn; do đó, họ chẳng có cách nào tiến cao hơn. Bồ Tát thông minh hơn họ, Bồ Tát có thể thấu đạt lưới huyễn, biết Hữu Môn là huyễn. Hữu chẳng phải là Chân Hữu, Không cũng chẳng phải là Chân Không. Không và Hữu bất nhị. Đại Thừa Bồ Tát liễu giải chân tướng sự thật này, nhưng Tiểu Thừa chẳng liễu giải, nên nhập Không bèn trụ Không, nghe đức Phật nói hết thảy Hữu là giả: “Phàm những ǵ có h́nh tướng đều là hư vọng”, họ bèn buông tướng hư vọng xuống, trụ vào Không. Thật ra, đó vẫn là sai lầm, chẳng phải là thật sự giác ngộ. Bồ Tát biết chân tướng của Không và Hữu, nên đắc pháp b́nh đẳng, Không và Hữu bất nhị, Không và Hữu như một; đó là pháp b́nh đẳng. Tuy trụ ba Không môn, Ngài chẳng chấp trước hai bên Không và Hữu, mà cũng có thể nói là đối với hai bên Không và Hữu, tức là hai bên Tánh và Tướng, Tánh là Không, Tướng là Hữu; đối với hai bên đều chẳng khởi tâm, không động niệm, chẳng phân biệt, không chấp trước. V́ thế, Ngài có thể hành Thanh Văn, mà cũng có thể hành Duyên Giác. Thanh Văn, nếu nói theo hiện thời, là từ giáo học mà khai ngộ, Ngài có thể dùng phương pháp này, mà cũng có thể dùng hiện tượng đại tự nhiên như một thứ chỉ dạy, khơi gợi người tu hành, đó là Duyên Giác. Ngài đă đạt đến cảnh giới vô chướng ngại, Lư Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại; v́ thế, có thể vượt trỗi các địa vị Thanh Văn và Bích Chi Phật.

      “Hựu Đại Bảo Tích Kinh, Thiện Đức Thiên Tử Hội thuyết” (lại nữa, trong hội Thiện Đức Thiên Tử của kinh Đại Bảo Tích), hội này cũng do Thích Ca Mâu Ni Phật giảng; trong ấy, đức Phật có nói mấy câu như thế này: “Dĩ Thanh Văn pháp giáo hóa chúng sanh, cố ngă thị Thanh Văn. Dĩ Bích Chi Phật pháp hóa ích chúng sanh, cố ngă thị Bích Chi Phật. Dĩ đại bi pháp giáo hóa chúng sanh, cố ngă thị Bồ Tát. Ư nhất thiết pháp đắc giải thoát, nhất thiết vô ngại cố. Tùng sở hóa chúng sanh, hoặc dĩ Thanh Văn pháp hóa ích, hoặc dĩ Bích Chi Phật pháp hóa ích, hoặc dĩ Bồ Tát pháp hóa ích. Cố ngă thị Thanh Văn, ngă thị Duyên Giác, ngă thị Bồ Tát” (Dùng pháp Thanh Văn giáo hóa chúng sanh, nên ta là Thanh Văn. Dùng pháp Bích Chi Phật giáo hóa, lợi ích chúng sanh, nên ta là Bích Chi Phật. Dùng pháp đại bi giáo hóa chúng sanh, nên ta là Bồ Tát. Trong hết thảy các pháp đắc giải thoát, nên hết thảy vô ngại. Do giáo hóa chúng sanh, hoặc dùng pháp Thanh Văn để giáo hóa, lợi ích, hoặc dùng pháp Bích Chi Phật để giáo hóa, lợi ích, hoặc dùng pháp Bồ Tát để giáo hóa, lợi ích, nên ta là Thanh Văn, ta là Duyên Giác, ta là Bồ Tát). Đoạn kinh này nói rơ, các vị Pháp Thân Bồ Tát và Như Lai chẳng sai biệt, nên dùng thân ǵ để giáo hóa, các Ngài bèn hiện thân ấy. Ở chỗ này, đối tượng toàn là đệ tử trong Phật môn, có duyên với Phật. Phật, Bồ Tát có thể hiện thân A La Hán, tức là Thanh Văn, dùng thân phận A La Hán để giáo hóa chúng sanh. V́ sao? Chúng sanh là căn tánh Tiểu Thừa, quư vị phải dùng thân phận căn tánh Tiểu Thừa để dạy họ. Họ là căn tánh Duyên Giác Thừa, quư vị bèn thị hiện Duyên Giác. Họ là căn tánh Bồ Tát, quư vị bèn hiện làm Bồ Tát. Chúng tôi dùng tỷ dụ để nói, chư vị sẽ hiểu rơ hơn. Phật, Bồ Tát là nhà đại giáo dục, là một vị thầy tốt thật sự, đối với học tṛ Tiểu Học, dạy học tại trường Tiểu Học, các Ngài là giáo viên Tiểu Học. Dạy học tại trường Trung Học, các Ngài là giáo viên Trung Học. Dạy học tại Đại Học, các Ngài là giáo sư Đại Học, hoàn toàn tùy thuộc đối tượng. Đối tượng như thế nào, các Ngài bèn chuyển biến thân phận [như thế ấy]. Đoạn này nhằm nói lên ư nghĩa sau đây: Tùy loại hóa thân. Nếu nói theo tôn giáo, đối tượng là tín đồ Phật giáo bèn dùng thân phận trong Phật giáo để giáo hóa, nay chúng ta gọi [những vị ấy] là A Xà Lê trong Phật môn. Nếu đối tượng là thân phận Cơ Đốc Giáo, là căn tánh Cơ Đốc Giáo, các Ngài bèn hiện thân phận Gia Tô (Jesus) để dạy họ, khác nhau! Căn tánh ǵ bèn hiện thân tướng đó. Chúng ta hiểu rơ đạo lư này, tức là thật sự thấu hiểu: Các tôn giáo trên thế giới là một nhà. Tôi qua lại với rất nhiều tôn giáo, [nhận thấy] tất cả những vị thánh nhân sáng lập tôn giáo đều là hóa thân của một Chân Thần. Tôi nói như vậy, quư vị có tin hay không? Nhiều năm qua, chẳng có ai phản đối, mọi người đều cảm thấy có lư, xác thực là một chân thần thị hiện nơi đó. Trong đoạn kinh văn này, những vị Pháp Thân đại sĩ tượng trưng cho chân thần. Quư vị thấy: Do căn tánh của chúng sanh bất đồng, các Ngài bèn hiện các thân bất đồng, thuyết pháp bất đồng, khiến cho hết thảy chúng sanh ai nấy đạt được lợi ích hiện tiền. Mọi người hiểu rất rơ lợi ích hiện tiền cần thiết của chính ḿnh, các Ngài cũng đem lại cho họ lợi ích vĩnh viễn, đó mới là viên măn.

      Cuối cùng, cụ Hoàng Niệm Tổ tổng kết: “Thử minh chư đại sĩ thiện xảo phương tiện” (đây là nói rơ phương tiện thiện xảo của các vị đại sĩ). Nói rơ trong đại hội Vô Lượng Thọ, trong hội ấy, đức Phật giảng kinh Vô Lượng Thọ, những vị đại Bồ Tát, các vị đại sĩ đến tham gia pháp hội, các vị đại sĩ là đại Bồ Tát. Quư vị thấy người Hoa thường nói Quán Âm Đại Sĩ, gọi theo tiếng Phạn sẽ là Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát, Ma Ha Tát (Mahasattva) là Đại Bồ Tát, tức Pháp Thân Bồ Tát. Những vị Bồ Tát này trụ trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm. Chư Phật Như Lai, chỉ có chư Phật Như Lai trụ trong Thường Tịch Quang Tịnh Độ, kinh Hoa Nghiêm nói là Diệu Giác, Diệu Giác trụ trong Thường Tịch Quang. Bốn mươi mốt địa vị từ Sơ Trụ cho đến Đẳng Giác trụ trong cơi Thật Báo đều được gọi là Đại Sĩ. Quư vị thấy các Ngài phương tiện thiện xảo. “Tùy cơ độ sanh”: Nên dùng thân ǵ để đắc độ, bèn hiện thân ấy. Các Ngài chẳng có thân, chẳng có thân bèn gọi là Pháp Thân; do chẳng có thân, nên có thể hiện hết thảy các thân. Trong loài người chúng ta, quư vị thấy loài người vẽ Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Biến Tướng Đồ[6] th́ trong Tây Phương Cực Lạc thế giới đều là người; Phật, Bồ Tát cũng là thân người. Nếu là chư thiên, đức Phật giảng kinh Vô Lượng Thọ trên cơi trời, giảng về thế giới Cực Lạc th́ trong Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đồ toàn là thân tướng chư thiên. Phải hiểu điều này! Chẳng phải là cố định, chẳng nhất định, Phật không có pháp cố định để có thể nói. Đức Phật chẳng có pháp để có thể nói, đức Phật thuyết pháp luôn “thuận theo tâm chúng sanh, ứng với khả năng hiểu biết của họ”. Do vậy, chúng tôi bèn liên tưởng, nếu những vị đại Bồ Tát thấy duyên của chúng sanh trong súc sanh đạo đă chín muồi, sẽ thật sự hiện thân súc sanh để giảng về thế giới Cực Lạc, khuyên dạy các súc sanh ấy niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, chuyện này chẳng giả! [Khi đó], các Ngài vẽ Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đồ toàn là súc sanh. Trong ngạ quỷ đạo, Cực Lạc Thế Giới Biến Tướng Đồ toàn là ngạ quỷ, nhất định phải hiểu đạo lư này. Đó gọi là “phương tiện thiện xảo, tùy cơ độ chúng”.

      V́ thế, ở đây, các Ngài “thị hiện Nhị Thừa”. Tuy thị hiện Nhị Thừa “nhi ly Thanh Văn, Bích Chi Phật chi tướng” (nhưng ĺa tướng Thanh Văn, Bích Chi Phật), đó là siêu việt, là nguyên lư. Trong loài người, Bồ Tát thị hiện thân người, hóa độ mọi người th́ cũng chẳng ĺa tướng người, nhưng Ngài chẳng chấp tướng. Bất luận thị hiện ở chỗ nào, thị hiện trong đường nào, chúng ta hăy nhớ một nguyên tắc, các Ngài chắc chắn chẳng khởi tâm động niệm. Khởi tâm động niệm c̣n không có, lấy đâu ra phân biệt, chấp trước? Nguyên tắc này vĩnh hằng bất biến, nên gọi là chân lư. Trong kiến trúc của Phật giáo Trung Quốc, chúng ta đến viếng một ngôi chùa, quư vị thấy đầu tiên là sơn môn, Thiên Vương Điện và thần Hộ Pháp. Hai bên sơn môn thờ Tứ Đại Thiên Vương, chính giữa thờ Di Lặc Bồ Tát. Tượng Di Lặc Bồ Tát luôn tạc h́nh Bố Đại ḥa thượng đời Tống. Lúc lâm chung, Bố Đại ḥa thượng bảo mọi người Ngài là Di Lặc Bồ Tát hóa thân. Nói xong, ngồi xếp bằng mà tịch, đó là thật, chẳng giả. Nói là Phật, Bồ Tát chi đó tái lai, nói xong chẳng đi, tức là giả, chẳng thật! Thân phận vừa bộc lộ, bèn ngay lập tức ra đi, bất luận do chính ḿnh nói hay do người khác nói; nếu thân phận bị bộc lộ bèn ra đi. Do vậy, tại Trung Quốc, từ đó trở đi, hễ tạo tượng Di Lặc Bồ Tát, bèn tạc tượng Bố Đại ḥa thượng. Tại Trung Quốc, Bố Đại ḥa thượng biểu thị pháp ǵ? Biểu thị đại từ đại bi, phô ra khuôn mặt tươi cười đón tiếp người khác, biểu thị sự đối đăi b́nh đẳng, đối xử ḥa hài với nhau, biểu thị điều này. Người biết nh́n, sẽ có thể thấy sâu hơn nữa, Ngài biểu thị buông xuống, buông xuống vạn duyên. Ngài hằng ngày khất thực trên đường, người khác cúng dường Ngài thứ ǵ, Ngài đều bỏ vào trong túi vải; mỗi ngày Ngài xách một cái túi vải to. Đă có người hỏi Ngài: “Phật pháp là ǵ?” Lăo nhân gia buông túi vải xuống đất, hai tay buông thơng. Người khác thấy dáng vẻ ấy liền biết là buông xuống. Buông xuống là Phật pháp, người ta nh́n bèn hiểu là “buông xuống”. Lại hỏi lăo nhân gia, sau khi đă buông xuống th́ nên làm như thế nào? Ngài cầm lấy túi vải, đặt trên lưng bước đi, chẳng ngoảnh đầu lại. Ư nghĩa ǵ vậy? Sau khi đă buông xuống, bèn nâng lên; nâng lên là hóa độ chúng sanh. Buông xuống là chính ḿnh, giống như Ly (rời ĺa) đang được nói ở đây; Ly là buông xuống. Quư vị thấy “thị hiện Thanh Văn, Bích Chi Phật” là nâng lên, [tức là] nên dùng thân ǵ để đắc độ, bèn hiện thân ấy. Tuy hiện thân độ chúng sanh, chính ḿnh chẳng chấp trước dấu vết, đó là buông xuống. Buông xuống và nâng lên là cùng một chuyện, chẳng phải là hai chuyện. Thấy thấu suốt vốn là buông xuống, buông xuống là thấy thấu suốt. Hoặc chúng ta nói cách khác, nâng lên là buông xuống, buông xuống là nâng lên, là một, không hai. Đó là diệu pháp. Buông xuống nhưng chẳng nâng lên, nâng lên mà chẳng buông xuống th́ pháp ấy chẳng diệu! Quư vị thấy diệu ở chỗ “hành thế gian pháp, nhưng chẳng chấp thế gian pháp”, đó là Diệu. Cùng hết thảy chúng sanh ḥa quang đồng trần, nhưng trên thực tế, chẳng nhiễm mảy trần, cùng đại chúng ḥa quang đồng trần, nhưng chẳng nhiễm mảy trần. Đó là Bồ Tát đại triệt đại ngộ chẳng trụ vô vi, chẳng trụ hữu vi, có thể hành thế gian pháp, nhưng y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới chẳng mảy may trở ngại Ngài, Lư Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại.   

      Câu kế tiếp là “khế nhập tam-muội”. Ba chuyện này c̣n gọi là Tam Giải Thoát Môn. Chữ Giải () đọc giọng Khứ Thanh, đọc giống như Tạ ()[7], dùng làm động từ, chẳng phải là danh từ, mà dùng như động từ. Quư vị thật sự đắc đại tự tại, thật sự đắc giải thoát. “Giải” là giải trừ phiền năo, tập khí chẳng c̣n nữa. “Thoát” là thoát ly lục đạo luân hồi, thoát ly mười pháp giới, thoát ly sanh tử khổ năo, [gồm có] ba môn! Trước hết, chúng tôi giới thiệu ba môn ấy đôi chút, sau đó mới đọc những dẫn chứng trong sách Chú Giải. [Định nghĩa giản lược của] ba môn giải thoát [như tôi sẽ tŕnh bày dưới đây] được trích lục từ Tam Tạng Pháp Số[8], có xuất xứ là trích dẫn từ sách Pháp Giới Thứ Đệ[9] của tông Hoa Nghiêm. Trước hết là phần giới thiệu sơ lược, “giải thoát, tức tự tại chi nghĩa dă” (giải thoát nghĩa là tự tại). Thành Phật là chứng đắc Tam Đức Bí Tạng. Tam Đức Bí Tạng là Pháp Thân, Bát Nhă, và Giải Thoát, ba điều này vốn có trong tự tánh. Như chúng tôi vừa mới nói, Bồ Tát có thể hiện thân khắp pháp giới, hiện vô lượng vô biên thân, tự tại. Hiện thời, chúng ta chẳng có bản lănh ấy, c̣n Ngài đắc đại tự tại. Trọn đủ trí huệ viên măn, tướng hảo viên măn. Tướng hảo viên măn là thứ ǵ cũng chẳng khiếm khuyết, có thể hiện y báo và chánh báo trang nghiêm của Phật, Bồ Tát, mà cũng có thể hiện ngạ quỷ, địa ngục, không có điều ǵ chẳng thể hiện, đấy mới là tướng hảo trang nghiêm. Quư vị có thể hiện Phật, Bồ Tát, chẳng thể hiện thân địa ngục, th́ tướng hảo của quư vị chẳng thể coi là viên măn. Thứ ǵ cũng đều có thể hiện, như tỷ dụ của cổ đại đức: “Dùng vàng làm đồ vật, món ǵ cũng đều là vàng”. Chúng ta dùng một khối vàng tạc tượng Phật, mọi người trông thấy ưa thích, th tại đó, hằng ngày l bái. Chúng ta vẫn dùng bức tượng Phật ấy, đúc lại thành h́nh tướng ng qu hay đúc thành h́nh tướng địa ngục, vẫn là cùng một bức tượng, chẳng thay đổi, ch là h́nh dạng b biến đổi. Quư v bèn khởi lên phân biệt, chấp trước, đây là tướng ngạ quỷ, đây là tướng địa ngục, sanh tâm khinh mạn đối với nó, chẳng cung kính ngần ấy nữa! Sai mất rồi! Nó vốn là tượng Phật, là tượng Phật được đúc lại [thành h́nh dạng khác], nó vốn là tượng Phật mà! Do vậy, đức Phật nói “hết thảy chúng sanh vốn là Phật”. Tổ tiên chúng ta thường nói “bổn tánh vốn lành”, lành chính là Phật. Vốn là Phật, cớ sao tướng ấy mới biến đổi đôi chút, quư vị bèn dấy lên phân biệt, chấp trước? Sai mất rồi. Trong chân tâm, không có phân biệt, không có chấp trước, không có nhiễm bẩn, không có dao động, như như bất động, chẳng có khởi tâm động niệm. Nay chúng ta đă mê, mê mất chân tâm, trong hết thảy hiện tượng bèn sanh khởi vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, mê nơi tướng, chẳng thấy tánh. Xin hỏi quư vị, đó là ai? [Quư bèn trả lời] là Bồ Tát, là chư thiên, là ngạ quỷ, là súc sanh, quư vị mê nơi tướng! Hỏi quư vị vàng ở chỗ nào? [Quư vị khăng khăng]: “Chẳng có vàng! Nơi đây không có vàng, chỉ có tượng Bồ Tát, chỉ có h́nh tướng súc sanh, chỉ có tướng ngạ quỷ, chẳng có vàng!” Kẻ ấy chẳng biết các tướng đó là vàng, phàm phu thuộc vào trạng thái như thế, đă mê mất rồi! Nếu giác ngộ, vàng ở chỗ nào? Tùy tiện cầm lấy thứ nào, cũng đều là vàng, chẳng sai, toàn thể đều là vàng! Nói theo Tánh th́ hoàn toàn b́nh đẳng. Nói theo Tướng bèn khác nhau. Bồ Tát thông đạt Tánh - Tướng bất nhị; phàm phu mê mất tự tánh, chấp trước huyễn tướng, trong bất nhị lại phân biệt thành hai, chấp trước thành hai, phiền phức nẩy sanh từ đó. V́ thế, Giải Thoát có nghĩa là “tự tại”. “Môn” có nghĩa là thông đạt, chẳng phải là thật sự có Môn ấy!

      “Vị do thử tam giải thoát môn, tắc năng thông chí Niết Bàn, cố danh tam giải thoát môn” (Nghĩa là do giữ lấy ba môn giải thoát, nên có thể thông đạt Niết Bàn; v́ thế, gọi là Tam Giải Thoát Môn). Quư vị thấy ba thứ giải thoát môn này có thể kiến tánh, có thể thấy chân tánh. Bất cứ một môn nào trong ba môn đều được. Môn thứ nhất là Không, có thể từ Không Môn trực tiếp minh tâm kiến tánh. Môn thứ hai là từ Vô Tướng, biết tất cả hết thảy các tướng chẳng thật, tướng đều là huyễn tướng. Kinh thường nói là “ĺa hết thảy tướng, tức là hết thảy các pháp”, hễ ĺa tướng bèn là tánh. Loại thứ ba là Vô Tác. Vô Tác c̣n gọi là Vô Nguyện, chẳng có bất cứ điều ǵ mong cầu, v́ sao? Mong cầu là vọng tưởng, trong tự tánh chẳng có vọng tưởng, buông hết thảy mong cầu xuống bèn kiến tánh. Vô nguyện, vô cầu, tự tánh hiện tiền. Do ba môn này, có thể trực tiếp minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật. Trước hết, chúng tôi giới thiệu những môn này đôi chút. Thứ nhất là “Không giải thoát môn, vị quán nhất thiết pháp, giai tùng nhân duyên ḥa hợp nhi sanh, tự tánh bổn Không” (Không giải thoát môn, nghĩa là quán hết thảy các pháp đều do nhân duyên ḥa hợp mà sanh, tự tánh vốn là Không). Hết thảy các pháp chẳng có tự thể; tự tánh, tánh là thể chất. [Các pháp] chẳng có tự thể, nên Thể đúng là Không. Hiện thời, các nhà Lượng Tử Lực Học bảo chúng ta, vật chất rốt cuộc là ǵ? Hiện tại, đây là ngành khoa học kỹ thuật tiên phong, họ đă phát hiện: Chẳng có vật chất. Vật chất là một huyễn tướng do ư niệm tích lũy liên tục. Nói theo cách này th́ tự tánh vốn Không, nên nếu chúng ta chấp trước [vật chất] là có th́ sai mất rồi, đă mê rồi! Quư vị phải biết: Có là Không, Không là Có. Tâm Kinh dùng Sắc để làm đại biểu, Sắc đại biểu vật chất. “Sắc tức là Không, Không tức là Sắc, Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác Sắc”, cùng một thứ! Không và Sắc là cùng một thứ. Sắc là ǵ? Là Không, Không là vọng niệm. Vọng niệm tích lũy thành hiện tượng. Bốn câu trong Tâm Kinh đă giảng thấu suốt: “Sắc tức là Không, Không tức là Sắc. Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác Sắc”. Giảng thấu suốt, hiện thời điều này đă được các nhà khoa học Lượng Tử chứng minh.

      Quư vị hiểu rơ đạo lư này, liễu giải chân tướng sự thật “vạn pháp đều là Không”. Có Tướng hay không? Tướng là có. Tướng có trở ngại Không hay chăng? Chẳng trở ngại Không! Không cũng chẳng trở ngại Có, Không và Có vô ngại. Đó là quư vị thật sự thông đạt, hiểu rơ! V́ thế, nói hết thảy các pháp là do các duyên ḥa hợp sanh ra; ư niệm là nhân, tích lũy là duyên, vọng niệm tích lũy liên tục thành hiện tượng. Chúng ta coi chúng là vật chất, thấy chúng là Sắc pháp. Hiện tượng vật chất vô lượng vô biên, thiên sai vạn biệt. Có những thứ vật chất hết sức kiên cố, [thí dụ như] những thứ kim loại nặng hết sức kiên cố, đó là ǵ? Các nhà khoa học cho biết, hiện tượng sanh khởi chẳng ngoài chấn động. Chấn động thuộc về năng lượng. Chấn động đương nhiên có tần số. Tần số khác nhau. Tần số chậm bèn biến thành kim loại nặng. Tần số chấn động nhanh hơn một chút, bèn biến thành bùn cát. Cây cối, hoa, cỏ, da dẻ trên thân thể chúng ta đều là những chấn động tương đối nhanh một chút. Nhanh hơn chút nữa bèn biến thành sóng điện từ trong hiện thời. Hiện thời, nhân loại ứng dụng sóng điện từ để chế tạo nhiều thứ máy móc chạy bằng điện, như hiện nay chúng ta coi TV, truyền tin bằng vô tuyến điện, hay mạng Internet, đó là những thứ có tần số chấn động cao. Hiện tượng vật chất dẫu nhiều, nhưng toàn là tần số chấn động khác nhau, nên những hiện tượng được hiện ra cũng chẳng thật. V́ lẽ đó, bất cứ hiện tượng vật chất hay tinh thần nào đều có thể trở về năng lượng, tức là các thứ chấn động đều có thể quy hồi [năng lượng], chẳng khác nhau, là pháp b́nh đẳng. Do vậy, trong ấy là Vô Ngă. Chữ Vô này thông với những chữ sau, tức là Vô Ngă, Vô Ngă Sở. Ngă c̣n không có, đương nhiên chẳng có Ngă Sở. Nói đến những thứ được sở hữu bởi Ngă th́ là chuyện chẳng có, Ngă và Ngă Sở đều bất khả đắc.

      “Nhược năng như thị thông đạt, tắc ư chư pháp nhi đắc tự tại, cố danh Không giải thoát môn” (nếu có thể thông đạt như thế, bèn được tự tại nơi các pháp; v́ thế, gọi là Không Giải Thoát môn). Nếu quư vị hoàn toàn hiểu rơ, minh bạch, thông đạt đạo lư này, quư vị được đại tự tại trong hết thảy các pháp, v́ sao? Chẳng c̣n chấp trước nữa, mà cũng chẳng c̣n phân biệt nữa. Nay chúng ta chẳng tự tại trong hết thảy các pháp, nguyên nhân ở chỗ nào? Ta muốn chiếm hữu, muốn khống chế chúng, há có thể tự tại ư? Thân c̣n chẳng chiếm hữu được, chẳng khống chế được, lại toan chiếm hữu vật ngoài thân, há chẳng phải là dấy vọng tưởng ư? Đó là tự chuốc khổ! Nếu có thể khống chế cái thân, sẽ là [thân] Kim Cang bất hoại th́ tốt hơn nhiều! Chẳng cần nói tới các vị Pháp Thân Bồ Tát, chúng ta nói tới phàm phu cao cấp; trong bốn thánh pháp giới, họ có thể khống chế thân thể chẳng ngă bệnh, có thể khống chế thân thể không ngă bệnh, tức là có thể khống chế thân thể trường sanh bất lăo. A La Hán có bản lănh ấy. Bản lănh của các Ngài do đâu mà có? Trong phần trước đă nói, họ đạt được ba môn giải thoát này. Các Ngài đạt được ở mức độ nông cạn, v́ c̣n có chướng ngại, do trụ vào Không, chẳng trụ Có. V́ thế, các Ngài chẳng có hết thảy phiền năo chướng ngại về Có, các Ngài đă buông xuống. A La Hán trụ nơi Không; thật ra, trụ nơi Không là sai lầm. Trụ Không th́ chính ḿnh đắc tự tại, nhưng chẳng thể giúp đỡ người khác! Bồ Tát biết Không và Có bất nhị, Không là Có, Có là Không, nên Bồ Tát có thể giúp đỡ hết thảy chúng sanh, có thể cảm ứng thuận theo ư niệm của chúng sanh. Chúng sanh muốn thấy thân nào, Ngài bèn hiện thân như thế ấy, quư vị thấy tự tại lắm chứ! Đây là giảng cho chúng ta biết chân tướng sự thật.

      Loại thứ hai là “Vô Tướng giải thoát môn, vị kư tri nhất thiết pháp Không, cố quán nam nữ, nhất dị đẳng tướng, thật bất khả đắc” (Vô Tướng giải thoát môn, nghĩa là đă biết hết thảy các pháp là Không, nên quán các tướng như nam, nữ, một, khác v.v… thật sự chẳng thể được). Tướng là huyễn tướng, cảnh giới ấy chẳng dễ hiểu. Hiện thời có những thứ khoa học kỹ thuật rất hữu ích cho sự học Phật của chúng ta, Phật pháp là khoa học. Xưa kia, tôi theo thầy Phương học Triết, thầy bảo tôi: “Phật pháp là triết học”. Khi thầy giới thiệu Phật pháp cho tôi, [đă bảo]: “Thích Ca Mâu Ni Phật là vị triết gia vĩ đại nhất thế giới, kinh Phật là đỉnh cao nhất trong triết học, là đỉnh cao nhất trong triết học của toàn thể thế giới. Học Phật là sự hưởng thụ cao nhất trong đời người”. Tôi được dẫn dắt vào Phật môn như thế, học gần sáu mươi năm, nay đă biết: Không chỉ là đỉnh cao nhất trong triết học, mà c̣n là đỉnh cao nhất trong khoa học. Thích Ca Mâu Ni Phật không chỉ là một triết gia vĩ đại, mà c̣n là một khoa học gia vĩ đại, thật đấy, chẳng giả đâu! Ba ngàn năm sau khi đức Phật diệt độ, hiện thời các nhà Lượng Tử Lực Học mới phát hiện “vật chất là hiện tượng do ư niệm tích lũy liên tục”, nhưng từ ba ngàn năm trước, trong kinh Đại Thừa, đức Phật đă nói tới rồi. Do vậy, kinh Phật vượt trỗi khoa học hiện đại. Lượng Tử Học là ngành khoa học mới nhất, mà đă lạc hậu ba ngàn năm so với Thích Ca Mâu Ni Phật. Đức Phật giảng rơ ràng, minh bạch. Các hiện tượng ấy, giống như nay ta xem TV, hoặc xem phim ảnh, thấy [h́nh ảnh] trên màn bạc. Chúng ta biết [những h́nh tướng] trên màn bạc chẳng thật, ta có thể nh́n, nhưng chẳng thể khống chế nó, chẳng thể chiếm hữu nó, ta có thể thưởng thức nó. Nếu có một người, vào một ngày nào đó, giống như những nhà khoa học Lượng Tử thật sự hiểu rơ, thật sự thông đạt, có phải là sẽ thấy hết thảy các hiện tượng trong hiện thời, thấy hết thảy nam nữ, thấy hết thảy các thứ một và khác; “một” là giống nhau, “khác” là chẳng giống nhau, tức là nói đối với hết thảy vạn vật, [họ] có thấy là “thật sự chẳng thể được” hay không? Có! Họ đă thấy được! Chúng tôi đọc báo cáo của họ, thấy đă nói tới chuyện ấy, nhưng họ như thế nào? Họ vẫn có ư niệm chiếm hữu, vẫn có ư niệm khống chế, họ vẫn đang thật sự làm, đó là ǵ? Nói theo Phật pháp, nhà khoa học giải ngộ, đă hiểu rơ, nhưng chưa đoạn tập khí phiền năo. Họ khác với người tu hành trong Phật môn! Người tu hành trong Phật môn là chứng ngộ. Quư vị thấy một đằng là giải ngộ, một đằng là chứng ngộ. Nay chúng ta gọi giải ngộ là tri thức (kiến thức), chứng ngộ là trí huệ. Trí huệ có thể giải quyết vấn đề, chẳng để lại hậu quả. Tri thức có thể giải quyết vấn đề, nhưng sau đó có hậu quả! Quư vị thấy họ nói giống như Phật pháp, nhưng họ vẫn một mực tranh danh đoạt lợi, vẫn có tự tư tự lợi. Đó là hậu quả, thuộc về giải ngộ, chẳng phải là chứng ngộ. Chứng ngộ hữu dụng, chính ḿnh được thọ dụng, chính ḿnh thật sự vượt thoát. Trong phần trước đă nói là “vượt thoát Nhị Thừa”. Chứng ngộ th́ mới có thể vượt thoát, giải ngộ sẽ chẳng thể vượt thoát. Giải ngộ th́ quư vị biết nhiều hơn Nhị Thừa, nhưng quư vị thọ dụng chẳng bằng Nhị Thừa, vẫn là phàm phu! Nói cách khác, trước kia, thầy Lư thường nói: “Đáng luân hồi như thế nào th́ vẫn luân hồi như thế ấy, chẳng thoát khỏi lục đạo luân hồi”. Hàng Nhị Thừa vĩnh viễn thoát luân hồi, tuy chưa thoát ly mười pháp giới, nhưng đă thoát ly luân hồi. Các nhà khoa học chẳng có cách nào thoát ly luân hồi. Nếu họ thật sự giác ngộ, chẳng bận ḷng v́ thế giới hư huyễn này, chẳng khởi tâm, không động niệm nơi cảnh giới, bèn vượt thoát, nhập vào [các địa vị] Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, đă chứng đắc.

      Phật pháp chú trọng hành - chứng, tín - giải, đó là phương tiện. Công phu đắc lực do hành. Có hành và có chứng th́ mới thật sự thọ dụng. Chẳng có hành, chẳng có chứng, chỉ dốc công đổ sức nơi tín giải, chưa đủ! Đó là gieo thiện căn trong Phật môn mà thôi! Thiện căn cũng cần thiết, v́ người hành chứng trọn chẳng phải là thành tựu ngay trong một đời! Đời đời kiếp kiếp, vô lượng kiếp tu hành th́ mới có thể chứng đắc. Chúng ta thấy Thích Ca Mâu Ni Phật đă v́ chúng ta thị hiện, biểu diễn: Mười chín tuổi, rời khỏi gia đ́nh đi ra ngoài tham học, ba mươi tuổi buông xuống vạn duyên, nhập Định dưới cội Bồ Đề, đêm nh́n sao Mai, giống như Duyên Giác, cũng chẳng có thầy, nh́n ngôi sao ấy mỗi ngày nhưng chẳng khai ngộ. Ngày hôm ấy bèn khai ngộ, có nhiệm mầu hay chăng? Hằng ngày nh́n thấy mà chẳng khai ngộ, ngày hôm ấy trông thấy bèn khai ngộ là v́ ngày ấy khác hẳn, t́nh tự khác nhau, cảnh quan bên ngoài của ngày hôm ấy được Phật lực gia tŕ, linh tánh dẫn dắt, hoát nhiên đại ngộ, minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật, có phải là ngẫu nhiên hay chăng? Là biểu diễn. Trên thực tế th́ sao? Trong kinh Phạm Vơng, đức Phật đă nói thật: Ngài giáng thế lần này là thị hiện thành Phật lần thứ tám ngàn. Ngài đă sớm thành Phật, quư vị nói xem công phu hành chứng của Ngài sâu cỡ nào? Chúng ta là kẻ sơ học, làm sao có thể đạt đến cảnh giới ấy? Lục Tổ Huệ Năng đại sư đă thị hiện: Hai mươi bốn tuổi đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, cảnh giới của Ngài hoàn toàn b́nh đẳng với Thích Ca Mâu Ni Phật, chẳng hai, chẳng khác. Thuở ấy, Thích Ca Mâu Ni Phật [quán sát căn cơ của chúng sanh, thấy] nên dùng thân Phật để độ, Ngài bèn hiện thân Phật. Huệ Năng đại sư ở Trung Quốc, hoàn cảnh của Trung Quốc thuở đó đă chẳng thích hợp thị hiện thân Phật, nên Ngài thị hiện thân tỳ-kheo, dùng thân tỳ-kheo để xuất hiện, nhưng cảnh giới b́nh đẳng, chẳng khác nhau. Điều này nói rơ: Dẫu trong một đời này, chúng ta chẳng thể khế nhập cảnh giới này, chúng ta ngừng ở nơi tín giải, cũng có thể nói là tích lũy tín giải trong một thời gian rất lâu rồi mới có chân hành. Hiện thời, chúng ta đều chẳng phải là chân hành. V́ sao? Xen tạp vọng tưởng, tạp niệm, tự tư tự lợi, tiếng tăm, lợi dưỡng, ít nhiều ǵ th́ trong ấy cũng xen tạp, chẳng thuần! Muốn đạt tới không xen tạp, trong kinh Đại Thừa, Phật, Bồ Tát thường dạy chúng ta, mà [pháp môn] Niệm Phật cũng dạy chúng ta. Ngài Đại Thế Chí dạy chúng ta “tịnh niệm tiếp nối”. Tịnh niệm là ǵ? Chúng ta niệm Phật mà hoài nghi thế giới Cực Lạc th́ ư niệm chẳng thanh tịnh. Chúng ta niệm Phật c̣n xen tạp, vẫn thường nghĩ đến chính ḿnh, niệm ấy chẳng thanh tịnh. Niệm thanh tịnh, chẳng có hoài nghi, chẳng xen tạp, trong tâm đúng là một câu Phật hiệu bèn hữu dụng!

      Cư sĩ Lưu Tố Vân mắc chứng hồng ban lang sang (Systemic Lupus Erythematosus) gần mất mạng, c̣n nghiêm trọng hơn ung thư, đối với chứng bệnh này, Trung Y lẫn Tây Y đều chẳng có cách nào. Bà ta niệm Phật được lành, hiệu quả khiến cho kẻ khác kinh ngạc. Khi lành bệnh, trên mặt ngay cả một vết sẹo cũng không có! Điều này khiến vị bác sĩ điều trị chánh yếu của bà ta cũng chẳng có cách nào tưởng tượng được! Bà ta lành bệnh như thế nào? Thưa cùng quư vị, tịnh niệm tiếp nối! Bà ta thật sự làm được câu ấy, bà ta niệm A Di Đà Phật, chẳng hoài nghi tí nào, chẳng xen tạp chút nào! Từ tấm gương của bà ta, chúng ta có thể hiểu: Thân thể chúng ta bất luận bệnh tật ǵ, khi quư vị thật sự là “tịnh niệm tiếp nối”, sẽ niệm lành bệnh, có đạo lư hay không? Có! Đạo lư ǵ vậy? Hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng. Thân và tâm của quư vị do tâm tưởng của chính quư vị sanh ra, nên tâm tưởng của chính quư vị có thể biến đổi nó. Tâm tưởng của chúng ta bất thiện, nó bèn phát triển theo hướng trái nghịch, bèn ốm đau, tử vong, đi theo phương hướng ấy. Nếu chúng ta là tịnh niệm tiếp nối, nó bèn phát triển theo phương hướng tốt đẹp. Tốt đẹp là ǵ? Khỏe mạnh, sống lâu, đạo lư là như vậy đó! Có cần đến thuốc men hay không? Chẳng cần! Cư sĩ Lưu Tố Vân đă nêu gương khó có. Con người hiện thời chẳng có một mẫu gốc[10] ở chỗ nào th́ mọi người chẳng tin. Hễ có tấm gương th́ quư vị bèn tin tưởng. Chúng ta nói “con người tánh vốn lành”, Tam Tự Kinh đă nói [như thế], [điều ấy] đă được học mấy ngàn năm: “Nhân chi sơ, tánh bổn thiện”. Con người do giáo dục mà tốt đẹp, nhưng chẳng có ai tin tưởng. Mọi người nghe xong đều rất hoan hỷ, đều rất tán thán, nhưng làm chẳng được! Đó là lư tưởng, há có thể làm được? Chúng tôi làm thí nghiệm tại Thang Tŕ, chính chúng tôi cũng chẳng ngờ làm ba bốn tháng liền thành công, hiệu quả rơ rệt. Chúng tôi cảm tạ, bội phục tổ tiên, sao mà con người dễ dạy dường ấy? Chỉ cần có người cầm đầu, có giáo viên tốt nêu gương cho họ thấy, xướng suất, họ tin tưởng, thật sự học theo. Quư vị thấy sau ba, bốn tháng, [người dân Thang Tŕ] bèn quay đầu. Quay đầu là bờ, phàm phu vừa quay đầu bèn là Phật, Bồ Tát.

      Trong thế giới hiện tiền, bất luận làm ǵ đều phải có gương tốt, có điển h́nh tốt; nếu chẳng có, người ta chẳng tin! Phật pháp tốt đẹp như thế, thật sự có mấy người làm gương rơ rệt, xác thực là thân tâm của chính ḿnh khỏe mạnh, gia đ́nh ḥa thuận, sự nghiệp rất thuận lợi, đối xử ḥa hài với xóm giềng làng nước nơi ta cư trụ, xă hội an định, thế giới ḥa b́nh, [những điều này] có thể làm được, chẳng phải là không làm được! Do vậy, quư vị nhất định phải hiểu: Đây là trí huệ chân thật, hoàn toàn giống như kinh Đại Bát Nhă đă nói. Kinh Đại Bát Nhă đă dạy: “Hết thảy các pháp vô sở hữu, rốt ráo không, bất khả đắc”. Có rất nhiều người thấy điều này, [tưởng là Bát Nhă] dường như quá tiêu cực! Bất khả đắc th́ ta học nó để làm ǵ? Bất khả đắc mà hết thảy quư vị đều đạt được, quư vị đạt được ǵ? Quư vị đạt được tận hư không, khắp pháp giới. Quư vị có sở đắc, dốc hết tánh mạng mong cầu, nhưng đạt được hết sức hữu hạn, đạt một chút ít như thế! Lại nữa, một tí tẹo ấy, đến cuối cùng, quư vị vẫn chẳng mang theo được. Thứ ǵ quư vị cũng đều chẳng đạt được. Khi quư vị bất khả đắc, thứ ǵ cũng đều đạt được, quư vị đạt được toàn thể pháp giới. Quư vị thấy chẳng phải là các vị Bồ Tát ấy đă đạt được hay sao? Khắp pháp giới hư không giới, chúng sanh có cảm, các Ngài bèn có thể hiện thân thuyết pháp, chẳng phải là các Ngài đă đạt được ư? Tự tại lắm! Tuy hiện hết thảy các thân, tuy nói hết thảy các pháp, nhưng tâm địa của chính ḿnh là tâm thanh tịnh, b́nh đẳng, chẳng nhiễm trước mảy may, chẳng kể công, chẳng nói “hôm nay ta làm chuyện tốt”. Chẳng có ư niệm ấy, làm mà chẳng làm! Tiếp đó, nói tới Vô Tác th́ Vô Tác mang ư nghĩa này.

      Bồ Tát, như Thích Ca Mâu Ni Phật đă biểu diễn trong thuở trước: Mỗi ngày đều v́ mọi người giảng kinh, thuyết pháp, giáo học chẳng ngưng nghỉ. Một người t́m đến bèn dạy một người, hai người t́m đến bèn dạy hai người. Mấy trăm, mấy ngàn người t́m đến, bèn dạy mấy trăm, mấy ngàn người. Hằng ngày, người từ bốn phương tám hướng t́m đến rất náo nhiệt. Chúng ta thấy Phật giáo học khá vất vả, nhưng thật ra, đức Phật có mệt hay không? Đức Phật chẳng mệt! V́ sao? Ngài chẳng chấp tướng, Ngài chẳng làm, làm mà không làm. “Không làm” là về mặt tướng th́ có làm, về mặt Sự th́ có làm; nhưng theo Lư, chẳng làm; trong tâm chẳng làm! Ngài chẳng có phân biệt, chẳng có chấp trước, Ngài làm ǵ? Do vậy, có người hỏi Ngài: “Vô Tác th́ làm sao làm được?” Đức Phật dùng chuông, trống làm tỷ dụ. Ngài nói: “Quư vị thấy cái chuông đó, trong chuông có ǵ hay không?” “Trống không!” “Trong bụng cái trống có ǵ hay không?” “Trống không!” Gơ to bèn kêu to, gơ nhỏ bèn kêu nhỏ. Chẳng gơ, chẳng kêu! Khi quư vị gơ, trống có chẳng kêu hay không? Chẳng có! Chuông có chẳng kêu hay không? Không có. Chuông chẳng nói: “Quư vị gơ ta một tiếng, ngay lập tức ta dùng âm thanh đáp ứng”. Chẳng có! [Chuông, trống] chẳng khởi tâm, chẳng động niệm, chẳng phân biệt, chẳng chấp trước. Gơ là ǵ? Đức Phật bảo “pháp nhĩ như thị”, [nghĩa là] tự nhiên là như vậy. Chúng ta phàm phu th́ không được! Người ta nêu câu hỏi, chúng ta suy nghĩ phải trả lời người ấy như thế nào; đó là hữu tác, hữu vi. [Đối với Phật, Bồ Tát], căn bản là chẳng nghĩ ngợi ǵ cả, thuận theo tự nhiên mà trả lời, vô tác, vô vi! Vô tác, vô vi là Tánh Đức khởi dụng; hữu tác, hữu vi là ư thức khởi dụng, khác hẳn! Ư thức khởi dụng là tạo nghiệp, tự tánh khởi dụng chẳng tạo nghiệp. Phật, Bồ Tát chẳng làm, không làm mà làm, làm mà không làm. Chư Phật, Bồ Tát hiện thân, hiện mà vô hiện, vô hiện mà hiện. Thích Ca Mâu Ni Phật thuyết pháp, vô thuyết mà thuyết, thuyết nhưng vô thuyết, mầu nhiệm ở chỗ này! Từ chỗ này, chúng ta có thể biết: Tam Không của Tiểu Thừa đúng là khác hẳn Tam Không của Đại Thừa. Tam Không của Tiểu Thừa có Tự Thọ Dụng, chẳng có Tha Thọ Dụng, cho nên chẳng viên măn! Tam Không của Đại Thừa th́ Tự Tha Thọ Dụng b́nh đẳng, chẳng có chướng ngại. Đó gọi là viên măn, là Đại Tam Không tam-muội.

      Tiếp đó, sách viết: “Nhược năng như thị thông đạt chư pháp vô tướng, tức đắc tự tại, cố danh Vô Tướng giải thoát môn” (Nếu có thể thông đạt các pháp vô tướng như thế, liền đắc đại tự tại, nên gọi là Vô Tướng Giải Thoát Môn). Tu môn giải thoát ấy, tôi tin tưởng người biết tu sẽ chẳng cần một thời gian rất dài, chắc chắn ba năm sẽ nhập tam-muội. Cách tu như thế nào? Xem TV phải biết xem. Khi xem TV mà chẳng biết xem, hoàn toàn bị ô nhiễm bởi TV. Khi biết xem, bản thể chính là Không, trọn chẳng thể được! Hằng ngày, quư vị thấy những ǵ diễn ra trên TV hoàn toàn giống như thế gian này. Những thứ ấy là giả, thế gian cũng là giả. Xem bằng cách như vậy suốt ba năm, quư vị bèn khai ngộ, xem TV bèn có thể thành Phật! Chẳng biết xem, sẽ đọa địa ngục, quư vị bị nó làm hư, trong tương lai, quư vị khởi tâm động niệm đều là tự tư tự lợi, tổn người, lợi ḿnh, nên đọa địa ngục A Tỳ. Biết xem sẽ khai ngộ, biết xem là ǵ? Nguyên lai toàn là giả, chẳng có ǵ là thật, quư vị đắc tự tại! Vô tướng giải thoát, từ trong tướng mà thấy vô tướng. Do vậy, trong cảnh giới chẳng có thiện hay ác thật sự. Nói cách khác, hết thảy các pháp chẳng có đối lập. Thiện và ác là đối lập, chân và vọng là đối lập, tốt và xấu là đối lập, không có những thứ ấy. Chúng ta thấy Thiện Tài đồng tử tham học năm mươi ba lần, nêu ra năm mươi ba pháp môn đều có thể chứng Vô Thượng Bồ Đề, đều có thể thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, há có chướng ngại! Nơi pháp chẳng có chướng ngại, nơi Lư và Sự chẳng có chướng ngại, chư pháp chẳng có chướng ngại. Chướng ngại là do vọng niệm của chính ḿnh, đức Phật quy nạp các vọng niệm ấy thành ba món chướng ngại: Khởi tâm động niệm là món thứ nhất, phân biệt là món thứ hai, chấp trước là món thứ ba, những thứ ấy gây chướng ngại. Buông phân biệt, chấp trước xuống, chướng ngại bèn giảm một nửa. Đă đắc ba môn giải thoát của Tiểu Thừa, buông khởi tâm động niệm xuống bèn đắc ba môn giải thoát của Đại Thừa. Người Tiểu Thừa nhập cảnh giới, đắc Thiên Chân Niết Bàn, buông phân biệt, chấp trước xuống, vượt thoát lục đạo luân hồi. Đại Thừa buông khởi tâm động niệm xuống, vượt thoát mười pháp giới, đắc đại tự tại.

      Thứ ba, “Vô Tác giải thoát môn. Vô Tác, hựu vân Vô Nguyện, vị nhược tri nhất thiết pháp vô tướng, tắc ư tam giới vô sở nguyện cầu” (Vô Tác giải thoát môn. Vô Tác c̣n gọi là Vô Nguyện, ư nói: Nếu biết hết thảy các pháp vô tướng, sẽ đối với tam giới chẳng có mong mỏi ǵ). Quư vị biết “phàm những ǵ có tướng đều là hư vọng”, sẽ trừ bỏ ư niệm mong cầu. Khế nhập cảnh giới ǵ? Khế nhập “khắp pháp giới hư không giới và ta là một Thể”. Thân của chúng ta là vật chất, bên trong là tinh thần, tinh thần của chúng ta tương ứng với tự tánh. Kinh Hoa Nghiêm nói Pháp Tánh, quư vị thấy đă mở rộng cỡ nào? Khôi phục đến mức viên măn, thân thể chúng ta và tất cả vật chất trong pháp giới hư không giới trở thành một Thể. Tâm là Pháp Tánh, thân là Pháp Tướng, đó là Pháp Thân Bồ Tát, là minh tâm kiến tánh. Minh tâm kiến tánh bèn chẳng c̣n chấp trước thân này là ta, [mà sẽ nhận biết] Pháp Tướng là thân ta, Pháp Tánh là tâm ta. Thân tâm ta c̣n lớn hơn cả vũ trụ, toàn thể vũ trụ là một hiện tượng do thân tâm của ta biến hiện, đó là Diệu Giác, viên măn thành Phật. Trong khắp pháp giới hư không giới, quư vị khởi tác dụng là Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm, Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm nhằm giảng chuyện như thế. Tâm và Pháp Tánh kết hợp thành một Thể, thân và Pháp Tướng dung hợp thành một khối. Chuyện là như vậy đó, nói về chuyện này, đó gọi là “nhập Đại Bát Niết Bàn”, vĩnh viễn chẳng có sanh tử. Trong ấy tràn ngập trí huệ, tràn đầy đức năng, tràn đầy tướng hảo. Cổ nhân có hai câu nói: “Chẳng đọc Hoa Nghiêm, chẳng biết sự phú quư do thành Phật”. Quư vị đọc Hoa Nghiêm rồi mới biết, thật sự đạt được phú quư viên măn! Vua chúa trong nhân gian quá nhỏ. Đại Phạm Vương vẫn thua kém quá nhiều, Ma Hê Thủ La Thiên Vương vẫn chẳng sánh bằng! Cảnh giới ấy lại là b́nh đẳng, ai nấy đều có thể chứng đắc.

      Bởi lẽ, hễ có nguyện cầu th́ trật mất rồi! Chúng ta học Phật, Phật c̣n bảo chúng ta phát nguyện, cầu sanh Tịnh Độ, v́ sao? Cảnh giới [Cực Lạc] tốt đẹp như thế! Trong hoàn cảnh lục đạo của cơi này, chúng ta học chẳng thành công. Hoàn cảnh hiện thời bất lợi cho tu hành, quá nhiều chướng duyên; trong hoàn cảnh này, nếu chẳng có thiện tri thức chân chánh, thiện tri thức chân chánh là Phật, nhưng Phật chẳng tại thế, chẳng có đồng tham đạo hữu chân chánh, nên tu học vô cùng khó khăn. Đức Phật bảo chúng ta phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, nhằm thay đổi hoàn cảnh học tập. Hoàn cảnh trong cơi kia tốt đẹp, chẳng có chướng ngại, thầy ở bên kia là A Di Đà Phật. Ngoài A Di Đà Phật, c̣n có mười phương chư Phật Như Lai đều giúp A Di Đà Phật giáo hóa. Các Ngài thường đến thế giới Cực Lạc chẳng gián đoạn, thường xuyên lui tới. Nếu chúng ta sanh về thế giới Cực Lạc, sẽ có cơ hội thường xuyên gặp gỡ chư Phật, nghe các Ngài dạy bảo, thỉnh giáo các Ngài, hoàn cảnh ấy quá tốt đẹp. Trong hoàn cảnh ấy, muốn ǵ bèn có nấy, khi chẳng dùng, nó sẽ không c̣n nữa. Ở nơi đây, chúng ta cần tài liệu th́ vẫn phải dùng kệ sách chất một đống lớn. Ở bên đó, họ muốn có tài liệu ǵ, nó liền bày ra trước mặt. Chẳng cần th́ chẳng c̣n nữa. Không cần tồn trữ, quư vị nói xem có tự tại lắm hay không? Do vậy, giảng đường trong Tây Phương Cực Lạc thế giới sạch làu, chẳng nhiễm mảy trần, một chút thừa thăi cũng chẳng có. Khi cần bèn biến hiện ở ngay trước mặt. Khi chẳng cần, bèn không c̣n nữa. Quư vị nói xem: Tự tại lắm, đúng là thuận theo ḷng muốn!

      Hoàn cảnh tốt đẹp dường ấy, quư vị muốn ăn, thích ăn, đến thế giới Cực Lạc muốn ăn thứ ǵ, thứ ấy bèn bày ngay trước mặt, chẳng cần phải nấu nướng, mùi vị đều là ngon lành nhất. Ăn xong, chẳng cần nữa, chẳng phải rửa chén, đĩa, chúng chẳng c̣n nữa, chẳng thấy nữa, giống như ảo thuật biến hiện. Chúng ta phải tin tưởng lời đức Phật nói là chân thật, chẳng phải là lời lẽ giả dối. Cách nói ấy chẳng phải là ảo tưởng, các nhà khoa học đă chứng thực. Nói theo Lư th́ thông suốt, nhưng trên mặt Sự vẫn chưa làm được, v́ sao không làm được? Khoa học kỹ thuật chưa đủ sức, vẫn chưa đạt tới cảnh giới ấy. Nói theo Lư th́ năng lượng và vật chất có thể chuyển biến [thành lẫn nhau]. Họ có năng lượng ấy, trí huệ viên măn, đức năng viên măn. Điều ấy thuộc về đức năng, họ có năng lực dùng niệm lực biến đổi năng lượng thành vật chất. Khi chẳng cần, bèn biến những vật chất ấy trở về năng lượng, chẳng c̣n nữa! Các nhà Vật Lư Học cận đại đă biết chuyện này, nghe nói bom nguyên tử được phát minh theo đạo lư này, từ vật chất giải phóng năng lượng. Hiện thời, chẳng có cách nào biến năng lượng thành vật chất, [phương pháp] khoa học kỹ thuật ấy vẫn chưa có. Nếu có, mọi người chẳng cần tranh đoạt tài nguyên như trong hiện tại, tự ḿnh có thể biến ra! Tất cả vật chất đều do năng lượng biến hiện; hiện thời, mọi người đều hiểu đạo lư này. Chúng ta cần có vàng, bèn biến năng lượng thành vàng, vàng dùng chẳng hết. Hiện thời đă hiểu đạo lư sau đây: Hiện tượng vật chất khác nhau, có nhiều thứ vật chất là do tần số dao động khác nhau. Khi nào có thể khống chế tần số dao động, há chẳng phải là “thuận theo ḷng muốn” ư? Người kiến tánh có bản lănh, kẻ đă mê mất tự tánh bèn đánh mất bản năng (năng lực sẵn có). Đức Phật dạy chúng ta: Chẳng phải là thật sự đánh mất, mà là tạm thời mất đi; khi nào quư vị giác ngộ, nó bèn trở lại nguồn. Ngày nào giác ngộ, ngày ấy trở lại nguồn! Khi mê bèn mất đi, khi ngộ bèn trở lại nguồn, nó là Tánh Đức, Tánh Đức vĩnh viễn chẳng mất đi. V́ thế, có thể thật sự lư giải điều này, sau đấy khắc chế chính ḿnh, nghiêm túc tu hành, tu hành như thế nào? Chẳng tạo tác nghiệp sanh tử.

      “Nhược vô sanh tử chi nghiệp, tức vô quả báo chi khổ nhi đắc tự tại” (nếu không có nghiệp sanh tử, sẽ được tự tại v́ chẳng có nỗi khổ do quả báo). Nghiệp sanh tử là ǵ? Trong giáo pháp Đại Thừa thường nói, kinh này cũng có nói, Kiến Tư phiền năo là nghiệp sanh tử, đừng nên tạo tác những nghiệp ấy nữa. Kiến Tư phiền năo quy nạp thành sáu điều là tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến. Chẳng c̣n tạo sáu chuyện ấy, sẽ chẳng có sanh tử. Sanh tử là nghiệp luân hồi, [chẳng c̣n tạo Kiến Tư phiền năo, sẽ] chẳng c̣n luân hồi trong lục đạo nữa. Do vậy, chớ nên tham. Đức Phật bảo chúng ta đoạn tâm tham, chẳng bảo chúng ta thay đổi đối tượng, nhất định phải hiểu rơ điều này. V́ sao? Rất nhiều người học Phật, sanh khởi tâm tham đối với Phật pháp, sai mất rồi! Đó là thay đổi đối tượng, chứ quư vị chẳng đoạn tâm tham. Như Lương Vũ Đế xưa kia, Lương Vũ Đế tham công đức, tham Phật pháp. Nhà vua chẳng làm chuyện ác, đă đoạn hết thảy ác, nhưng tham tu hết thảy thiện, đó là sai lầm! Đoạn ác tu thiện là đúng, chẳng sai, nhưng trong ấy chẳng có tham, sân, si, mạn, nghi, th́ là đúng, đó là Phật pháp. Đoạn ác tu thiện, nhưng trong ấy c̣n có tham, sân, si, mạn, nghi, th́ chỉ có thể nói là thiện pháp thế gian! Tu những thiện pháp ấy, đắc phước báo nhân thiên, chẳng đọa lạc tam đồ, nhưng không thoát khỏi luân hồi, chớ nên không biết điều này! Trong đoạn ác tu thiện, chẳng v́ tự tư tự lợi, chẳng có đúng, sai, ta, người, chẳng có tham, sân, si, mạn, bèn thoát khỏi lục đạo. Nếu niệm Phật, đem công đức ấy hồi hướng cầu sanh Tịnh Độ, quyết định được sanh, không chỉ vượt thoát lục đạo, mà c̣n vượt thoát mười pháp giới, công đức ấy thù thắng khôn sánh. Đây là cách giải thích thông thường đối với ba môn giải thoát.

      Nay chúng ta quay lại đọc lời chú giải, tức chú giải kinh Vô Lượng Thọ: “Không, Vô Tướng, Vô Nguyện giả, Tịnh Ảnh Sớ viết: Chúng sanh cập pháp, tất vô tự tánh, cố danh vi Không” (Không, Vô Tướng, Vô Nguyện: Tịnh Ảnh Sớ giảng: “Chúng sanh và pháp đều chẳng có tự tánh, nên gọi là Không”). “Chúng sanh và pháp”: Nói thật ra, chúng sanh và pháp là một chuyện. Trong vũ trụ, Phật pháp gọi [vũ trụ] là “pháp giới”, chẳng gọi là vũ trụ mà gọi là pháp giới, pháp giới to hơn vũ trụ. Vạn sự vạn vật trong khắp pháp giới hư không giới phẩm loại vô lượng, vô biên, vô số, vô tận; trong giáo học, nhằm thuận tiện, đức Phật dùng một danh từ để gọi chung [vạn sự vạn vật] là Pháp. V́ thế, Pháp là danh từ chung thay cho hết thảy sự vật trong khắp pháp giới hư không giới. Chúng sanh và pháp do đâu mà có? Do các duyên ḥa hợp sanh khởi, nên gọi là “chúng sanh”. V́ thế, “chúng sanh” có ư nghĩa vô cùng rộng răi, chẳng có pháp nào sanh khởi độc lập, mà đều là các duyên ḥa hợp. Thí dụ như hiện thời nói đến vật chất, các nhà khoa học thoạt đầu nói tới nguyên tử, nghĩ nguyên tử là nhỏ nhất. Về sau, khoa học tiến bộ hơn, biết nguyên tử chẳng phải là nhỏ nhất, c̣n có thể phân chia, chia thành điện tử, lại chia thành các hạt, lại chia thành những hạt cơ bản, gọi là Khoa-khắc (Quark). Nay lại biết thứ này vẫn có thể chia nhỏ, chia thành lượng tử (Quantum). Lượng tử c̣n gọi là tiểu quang tử, đại khái chẳng thể chia nhỏ hơn nữa. Phật pháp gọi những hiện tượng ấy là “vi trần”, hạt bụi rất nhỏ là “vi trần”. Vi trần vô cùng vi tế, trong kinh Phật cũng dùng tỷ dụ. Thô nhất, nhục nhăn vẫn có thể thấy được th́ gọi là Ngưu Mao Trần (Go-raja). Lông ḅ rất thô, trên đầu sợi lông ḅ có một mảnh bụi dính ở đó, nay chúng ta biết nó có sức hút, vật chất có sức hút khiến mảnh trần ấy chẳng rơi xuống. Hạt trần ấy chia thành bảy phần, một phần bảy bèn gọi là Dương Mao Trần (Avi-raja). Lông dê mịn hơn lông ḅ, hạt trần dính trên đầu một sợi lông dê [th́ gọi là Dương Mao Trần]. Dương Mao Trần lại chia thành bảy phần, một phần ấy gọi là Thố Mao Trần (Śaśa-raja). Lông thỏ càng mịn hơn nữa. Người Trung Quốc dùng bút lông, rất nhiều loại bút chế bằng lông thỏ. Thố Mao Trần rất nhỏ, dính trên đầu sợi lông [con thỏ] chẳng rớt. Thố Mao Trần lại chia thành bảy phần, một phần ấy gọi là Thủy Trần (Ap-raja). Thủy là hiện tượng vật chất, nó có những kẽ hở, nh́n dưới kính hiển vi, những kẽ hở ấy rất lớn. Hạt bụi ấy có thể bơi qua bơi lại không chướng ngại giữa các khe hở của [những phân tử nước], nên gọi là Thủy Trần. Thủy Trần lại chia thành bảy phần th́ một phần ấy gọi là Kim Trần (Loha-raja). Kim loại có mật độ cao, nhưng vẫn có các kẽ hở [giữa các phân tử]. Các hạt ấy có thể di chuyển tự do giữa các kẽ hở [của các phân tử] trong kim loại, chẳng bị chướng ngại. Hạt này quá nhỏ, nhục nhăn của chúng ta chẳng thấy được. Kim Trần lại chia thành bảy phần, một phần ấy gọi là Vi Trần (Aṇu), kinh dạy: Thiên Nhăn của A La Hán có thể thấy vi trần, chẳng cần dùng máy móc mà có thể thấy. Vi Trần c̣n có thể chia nhỏ, lại chia thành bảy phần th́ một phần ấy gọi là Sắc Tụ Cực Vi (Paramāṇu), A La Hán chẳng nh́n thấy, nhưng Bồ Tát có thể nh́n thấy. Sắc Tụ Cực Vi vẫn c̣n có thể chia nhỏ, lại chia thành bảy phần th́ một phần gọi là Cực Vi Chi Vi, các vị Bồ Tát b́nh phàm chẳng nh́n thấy, đại khái là từ Thất Địa Bồ Tát trở lên mới có thể thấy. V́ thế, đức Phật dùng Trần làm đại biểu. Di Lặc Bồ Tát nói “một hạt vi trần” th́ đại khái là nói tới Cực Vi Chi Vi, nhục nhăn của chúng ta tuyệt đối chẳng thấy được, trong một hạt vi trần ấy có thế giới. Có lẽ các nhà khoa học đă nh́n thấy Cực Vi Chi Vi như đức Phật đă nói, đó là ǵ vậy? Nhà khoa học nói tiểu quang tử, c̣n gọi là lượng tử, rất có thể là Cực Vi Chi Vi như Phật đă nói. Đức Phật nói trong ấy có thế giới, khoa học chưa nói đến. Người nào có thể tiến vào thế giới ấy? Kinh Hoa Nghiêm nói Phổ Hiền Bồ Tát có thể vào thế giới trong một vi trần. Thế giới trong vi trần và thế giới của chúng ta to như nhau, cũng có mười phương các cơi Phật, cũng náo nhiệt. Phổ Hiền Bồ Tát có thể tiến nhập thế giới trong vi trần để tham học. Trong mỗi vi trần đều có thế giới, trong thế giới ấy c̣n có vi trần, trong vi trần c̣n có thế giới, trùng trùng vô tận, chẳng thể nghĩ bàn! Do nguyên nhân ǵ? Công đức của tự tánh vốn là như thế. Tuyệt đối chẳng một ai có thể suy lường hay tưởng tượng được. Tự tánh vốn trọn đủ đức tướng, [tức là] đức năng và tướng hảo, trùng trùng vô tận. Đúng như hai câu nói của cổ nhân: “Không ǵ lớn ra ngoài, không ǵ nhỏ chẳng ở trong”. Dùng Phật pháp để giải thích hai câu ấy sẽ giảng thấu triệt, chẳng sai tí nào! Cổ nhân Trung Quốc chẳng giảng rơ hai câu ấy. V́ thế, Phật giáo truyền đến Trung Quốc, đúng như ông Thang Ân Tỷ (Arnold J. Toynbee) đă nói: “Phong phú hóa văn hóa bản địa của Trung Quốc”. Tổ tiên đă nêu ra quan niệm này, đức Phật đă giải thích nó, chẳng khác nhau! Do vậy, trong Phật pháp có khoa học cao cấp, chẳng giả! Tin tưởng khoa học th́ phải học ở nơi đâu? Phải học Phật. A Di Đà Phật là đại triết gia, đại khoa học gia. Các nhà khoa học phải đến du học trong thế giới Cực Lạc th́ mới có thể đạt tới mức đăng phong tạo cực. Nếu không, học những thứ khoa học [trong hiện thời], đều là những thứ khoa học trong vườn trẻ, chẳng mang lại hạnh phúc cho chúng sanh, mà đem lại tai nạn, nay chúng ta đă nếm mùi đau khổ rồi! Khi khoa học vừa mới khởi đầu h́nh thành, tuy rất ấu trĩ, nhưng rất khá, đem lại rất nhiều thuận tiện cho chúng ta, v́ sao? Chẳng phá hoại thiên nhiên nghiêm trọng! Hiện thời, khoa học phát triển, nhưng chẳng liễu giải chân lư khoa học, mà cũng chẳng liễu giải triết học, thuận theo tham, sân, si mạn của chính ḿnh mà phá hoại sự cân bằng sinh thái trong thiên nhiên, nay thiên nhiên trả thù, đó là dẫn đến hậu quả. Đấy chẳng phải là trí huệ, mà là tri thức. Trong tri thức vẫn có ngu mê y như cũ! Các nhà khoa học chẳng sánh bằng Thanh Văn, Duyên Giác. Thanh Văn, Duyên Giác đă đạt được vô ngă, vô tư, c̣n các nhà khoa học Ngă Chấp hết sức kiên cố, v́ tự tư tự lợi, khởi tâm động niệm tổn người, lợi ḿnh. Khoa học dùng các thứ kỹ thuật để làm ǵ? Mở rộng tham, sân, si, mạn của họ, sai mất rồi! V́ thế, mang lại tai nạn cho cả địa cầu, chúng ta chớ nên không biết điều này. Chúng ta phải lư giải ư nghĩa của chúng sanh và pháp.

      Sau đó, bảo quư vị, “tất vô tự tánh” (đều chẳng có tự tánh). Tự tánh là thể tánh của chính ḿnh. Chẳng có tự tánh. Chúng do các duyên ḥa hợp, duyên tụ th́ có, duyên tán bèn chẳng c̣n nữa. Giống như căn nhà này, căn nhà chẳng có tự thể. Tự tánh là tự thể, thực thể; chẳng có [tự thể], nó do các duyên ḥa hợp. Quư vị thấy cốt sắt, xi-măng, gạch, ngói, những thứ vật liệu xây dựng, do sức người kết hợp lại. Đó là các duyên ḥa hợp, dựng lên căn nhà. Phá hủy đi, chất đống tại đó, bèn là vật liệu xây dựng, chẳng thấy nhà nữa! Đức Phật bảo chúng ta, tất cả hết thảy các pháp tướng đều là các duyên ḥa hợp mà hiện. Duyên tụ bèn có, duyên tán bèn diệt; v́ thế, chúng chẳng phải là thật, mà là giả. Quư vị phải biết: Chúng chẳng có tự thể, chẳng có tự tánh, nên gọi là Không. Không là ǵ? Bản thể của nó chính là Không, căn nhà có tồn tại hay không? Người hiểu rơ ràng điều ấy, nó chẳng có bản thể, chỉ là [các duyên] kết hợp mà thôi, hễ tách rời [các duyên] bèn chẳng c̣n nữa! V́ thế, phải biết: Không là thật, Có là giả, chớ nên chấp trước giả hữu! “Năi chí nhân duyên, tướng diệc bất hữu” (cho đến nhân duyên cũng chẳng có tướng); nhân duyên cũng chẳng thể đạt được. “Thuyết vi Vô Tướng” (nên nói là Vô Tướng). Chúng sanh và pháp đều vô tự tánh, nên gọi là Không. Vô Tướng do đâu mà có? Tướng nhân duyên cũng chẳng thật, nên gọi là Vô Tướng.

      “Thử ly sở thủ” (do vượt khỏi những cái bị giữ lấy), thật sự hiểu rơ ràng, minh bạch. Thủ () là chiếm hữu, khống chế. Đối với hết thảy các pháp, chẳng có ư niệm khống chế, chẳng chiếm hữu, kể cả thân thể của chính ḿnh. Điều này rất trọng yếu. V́ nếu ta chiếm hữu thân thể này, ta muốn có thân thể này, thân thể sẽ sanh bệnh, v́ sao? Tâm quư vị chẳng b́nh thường, tâm ấy là vọng tâm. Phật, Bồ Tát chẳng có tâm ấy, vô ngă, không có ta, nên thân thể các Ngài là tự nhiên. Thân thể của các Ngài tương ứng với Pháp Tánh, tương ứng với Pháp Tướng. V́ thế, các Ngài vĩnh viễn chẳng suy, vĩnh viễn chẳng già, đạo lư là ở chỗ này. “Viễn ly vọng tưởng năng thủ chi tâm” (Xa ĺa cái tâm vọng tưởng chấp lấy), Ngài chẳng có vọng tưởng, chẳng có phân biệt, chẳng có chấp trước. “Cố viết Vô Nguyện” (nên nói là Vô Nguyện). Vô Nguyện chẳng phải là không làm chuyện ǵ, [mà là] chuyện ǵ cũng đều làm. Quư vị thấy Thích Ca Mâu Ni Phật, lấy Ngài làm thí dụ. Ngài xuất sanh trong thế gian này, v́ chúng ta giảng kinh, giáo học suốt bốn mươi chín năm, vui sướng, chẳng mệt nhọc; nhưng suốt một đời Ngài, Ngài chẳng có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, nên gọi là Vô Nguyện. Vô Nguyện chẳng phải là không làm lụng, mà là làm lụng hết sức siêng năng. Do đó, nói: “Làm nhưng chẳng làm th́ gọi là Vô Nguyện, c̣n gọi là Vô Tác”. Tướng mà vô tướng, chẳng chấp tướng, biết tướng ấy là huyễn tướng. Đối với hết thảy cảnh giới, đối với người, đối với sự, đối vật, đều phải làm như thế nào? Phải thực hiện hiếu đễ, trung tín, lễ nghĩa, liêm sỉ, nhân ái, ḥa b́nh. Tuy đă làm được, nhưng tâm địa thanh tịnh, chẳng nhiễm mảy trần, đó gọi là Vô Tướng. Tiểu Thừa gặp rắc rối ở chỗ nào? Tiểu Thừa thật sự rớt vào Không, họ chẳng làm, chẳng có nguyện, thật sự không làm, thật sự chẳng nghĩ tới, nên thật sự không làm. V́ thế, họ rơi vào bên Không, được gọi là Thiên Chân Niết Bàn. Trong Thiên Chân Niết Bàn, có sự vui sướng ǵ? Thanh tịnh! Thanh tịnh vô vi, họ hưởng thụ điều ấy. Bất quá, trong kinh, đức Phật đă nói: Họ hưởng thụ đă lâu, bèn từ từ giác ngộ, phải mất bao lâu? Hai vạn đại kiếp! Bích Chi Phật thông minh hơn họ, Bích Chi Phật một vạn đại kiếp bèn quay đầu. A La Hán phải mất hai vạn đại kiếp mới hồi Tiểu hướng Đại, hành theo Bồ Tát, cũng có thể ở trong tướng mà chẳng chấp tướng, tuy làm mà chẳng chấp tướng, mang ư nghĩa này.

      Chúng ta xem đoạn tiếp theo: “Hựu vân: ‘Quán chư pháp Không, thị danh Không” (Lại nói: “Quán hết thảy các pháp là Không, nên gọi là Không”), biết hết thảy các pháp vô tự tánh. “Ư Không trung, bất khả thủ tướng” (Trong cái Không, chẳng thể giữ lấy tướng). “Thủ tướng” là quư vị chấp trước. Trong Không, chẳng thể chấp trước Không. Chấp trước Không th́ sai mất rồi! V́ vậy, trong Không chẳng thể giữ lấy tướng. “Thị thời, Không chuyển danh Vô Tướng” (khi ấy, Không đổi tên thành Vô Tướng). Vô Tướng là Không, Không là Vô Tướng, thay đổi danh từ, chúng ta gọi nó là Vô Tướng. “Vô Tướng trung, bất ưng hữu sở tác”, [nghĩa là] nếu là vô tướng, [tuy vẫn làm] nhưng chớ nên thấy có làm chuyện ǵ. “Vi tam giới sanh, thị thời, Vô Tướng chuyển danh Vô Tác (tức Vô Nguyện)” (để sanh trong tam giới, khi ấy, Vô Tướng đổi tên thành Vô Tác, tức là Vô Nguyện) Đây là giải thích ư nghĩa của ba danh từ, tương đồng với những ư nghĩa đă nói trong phần trước. Tiếp theo là một tỷ dụ: “Thí như thành hữu tam môn, nhất nhân thân bất đắc nhất thời tùng tam môn nhập” (Ví như cái thành có ba cửa, một thân người chẳng thể cùng một lúc vào được ba cửa). Mỗi người chúng ta có một thân thể, quư vị chẳng có cách nào vào ba cửa cùng một lúc. Quư vị chỉ có thể vào một cửa, một cửa th́ quư vị có thể tiến vào được. “Nhược nhập, tắc tùng nhất môn” (nếu vào th́ theo một cửa). “Chư pháp Thật Tướng thị Niết Bàn thành” (Thật Tướng của các pháp là thành Niết Bàn). Thật Tướng của chư pháp là Pháp Tánh, là tự tánh. Nếu quư vị muốn kiến tánh, tức là “nhập Niết Bàn thành”. Vào như thế nào? Thành có ba cửa, có Không, có Vô Tướng, có Vô Tác, có ba môn ấy. “Nhược nhân nhập Không môn, bất đắc thị Không, diệc bất thủ tướng, thị nhân trực hạ sự biện” (Nếu người theo cửa Không mà vào, chẳng thấy là Không, cũng chẳng chấp tướng, th́ người ấy ngay khi đó đă xong việc), [tức là] người ấy đă viên măn. “Cố bất tu nhị môn” (nên chẳng cần đến hai cửa kia nữa), không cần theo hai cửa khác [để vào thành nữa], hễ vào được [một cửa] th́ hết thảy đều đạt được! “Bất đắc thị Không” là chẳng chấp Không, “diệc bất thủ tướng” là chẳng chấp Có, tức là như trong phần trước đă nói: “Chẳng trụ vô vi, chẳng trụ hữu vi”. Quư vị thật sự kiến tánh! Nếu quư vị chấp Không, chấp Có, trọn chẳng vào được, chẳng tiến nhập được! Do hàng Tiểu Thừa chấp Không, chẳng chấp Có, tự nghĩ chính ḿnh đă tiến nhập, nhưng [sự nhập ấy] chẳng thật, nên gọi là Thiên Chân Niết Bàn (Niết Bàn chấp chặt nơi Chân Đế). Nói cách khác, đó là tương tự Niết Bàn, chẳng phải là thật sự. [Niết Bàn] thật sự là nhị biên đều chẳng thể chấp, đó là Bồ Tát nhập. Bồ Tát nhập Bát Niết Bàn bèn thành Phật. Kinh Hoa Nghiêm nói người nào nhập đại tam không tam-muội? Đại Thừa, tức là Sơ Trụ Bồ Tát bèn nhập Không, Vô Tướng, Vô Nguyện. Sơ Trụ Bồ Tát dựa vào đâu để nhập? Ngài chẳng chấp trước. Ư niệm chấp trước đă đoạn, tâm phân biệt đă đoạn, khởi tâm động niệm cũng đă đoạn. Khởi tâm động niệm là Vô Minh, phân biệt là Trần Sa phiền năo, chấp trước là Kiến Tư phiền năo. Quư vị thấy đă đoạn Kiến Tư, đă đoạn Trần Sa, đă đoạn Vô Minh, vị ấy bèn minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật, bèn chứng đắc Sơ Trụ trong Viên Giáo, vừa mới chứng đắc [ba môn giải thoát ấy]. Ngài trụ nơi đâu? Thật sự trụ trong thành Đại Niết Bàn. Thành Đại Niết Bàn là chỗ nào? Cơi Thật Báo Trang Nghiêm của chư Phật Như Lai.

      Chúng ta bèn hiểu đoạn văn này giảng về cảnh giới của cơi Thật Báo Trang Nghiêm. Chúng ta chưa đạt tới cảnh giới này, quư vị chẳng tương ứng với nó. Cơi Thật Báo chẳng có cửa, đi vào bằng cách nào? Khí phận phù hợp bèn tiến nhập! Người ta tâm rất thanh tịnh, vọng tưởng, phân biệt, chấp trước đều chẳng có. Nếu chúng ta nói chính ḿnh đă đoạn hết phân biệt, chấp trước, nhưng c̣n khởi tâm động niệm, [như vậy th́] sẽ chẳng vào được! C̣n khởi tâm động niệm sẽ đến nơi đâu? Đến bốn thánh pháp giới, là “Niết Bàn thành” của Tiểu Thừa. Cơi Thật Báo là “Niết Bàn thành” của Đại Thừa Bồ Tát, khác hẳn. Chúng ta phải hiểu những điều này, phải liễu giải rất sâu, phải nhận thức rất rơ rệt, giúp chúng ta nâng cao cảnh giới, giúp chúng ta thật sự chịu buông xuống. Chẳng liễu giải sẽ chẳng chịu buông xuống; chẳng biết buông xuống tốt đẹp dường ấy! Buông xuống là trở về quê nhà, phải biết Thường Tịch Quang Tịnh Độ là quê hương của chúng ta. Chúng ta đến thế giới Cực Lạc, đến cơi Thật Báo Trang Nghiêm của A Di Đà Phật, là đến cửa ngơ của quê hương. Phải biết điều này! [Đă đến cửa ngơ, nhưng] chưa vào cửa, v́ sao? Tập khí vô thỉ vô minh chưa đoạn sạch. Trong kinh Phật có nói: Đoạn sạch tập khí của bốn mươi mốt phẩm vô minh, quư vị bèn bỏ địa vị Đẳng Giác, chứng đắc Diệu Giác, nhập Thường Tịch Quang Tịnh Độ. Chúng ta từ Thường Tịch Quang mà ra, chư vị phải biết điều này. Thường Tịch Quang là quê nhà, từ Thường Tịch Quang đi ra. Thường Tịch Quang được sách Hoàn Nguyên Quán gọi là “tự tánh thanh tịnh viên minh thể”, đó là bản thân chân thật của chúng ta, là quê nhà của chúng ta. Do một niệm bất giác, bèn ra khỏi, từ Thường Tịch Quang biến hiện cơi Thật Báo, nhưng chúng ta vẫn chưa hưởng thụ cơi Thật Báo, đọa quá nhanh, đọa xuống dưới. Một niệm bất giác, xuất hiện ba tế tướng, tức là ba tế tướng của A Lại Da; khi ấy, có thể biến hiện y báo và chánh báo trang nghiêm của mười pháp giới. Khởi tâm động niệm, vô minh dấy lên, kế đó là phân biệt, từ phân biệt, ngay lập tức dấy lên chấp trước. Phân biệt là bốn thánh pháp giới xuất hiện, chấp trước là lục đạo luân hồi xuất hiện. Đến như thế nào, trở về ra sao, phải hiểu rơ ràng, phải minh bạch điều này!

      Chúng ta cũng chẳng bỏ nơi đây được! Vẫn lưu luyến như thế đó, rất phiền! Quư vị có phải quay về hay không? Phải quay về, dù sớm hay trễ! Quư vị đă lưu luyến, bỏ chẳng được, thôi rồi! Quư vị lại luân hồi trong lục đạo! Phật, Bồ Tát thừa kiên nhẫn, Phật, Bồ Tát thật sự từ bi, các Ngài chờ quư vị bên đó, ngày nào quư vị thật sự [cảm nhận] chịu tội trong lục đạo đủ rồi, chẳng muốn chịu nữa, Phật, Bồ Tát bèn đưa tay giúp đỡ, đến dạy quư vị. “Thượng căn lợi trí, thiện căn sâu dầy” là ǵ? Đó là ǵ? Trong lục đạo chịu hết mọi nỗi khổ, đă giác ngộ, chẳng muốn luân hồi nữa. Oan oan tương báo với các chúng sanh, đ̣i nợ, trả nợ chẳng xong, chẳng hết! Hằng ngày diễn những tṛ đó, chẳng biết những thứ ấy toàn là rỗng tuếch, là một giấc mộng. Thật sự hiểu rơ th́ như kinh Kim Cang đă nói rất hay: “Hết thảy pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng”, đời người như giấc mộng, thật đấy, chẳng giả đâu! Tạo thiện bèn hưởng vui trong mộng; tạo ác bèn chịu khổ trong mộng. Tỉnh giấc, hoàn toàn rỗng tuếch, thứ ǵ cũng chẳng có, đạo lư này rất sâu, rất khó hiểu. Do vậy, thuở tại thế, đức Phật giảng chuyện này, giảng đạo lư này, giảng Bát Nhă suốt hai mươi hai năm. Hai mươi hai năm chẳng kể là dài, đă thật sự giác ngộ, quư vị sẽ vĩnh viễn thoát ly lục đạo luân hồi, chẳng làm chuyện ngốc nghếch nữa. Duyên đặc biệt thù thắng, chúng ta rất may mắn, chúng tôi đang nói điều ǵ vậy? Nói quư vị gặp gỡ pháp môn Tịnh Độ, quư vị thật may mắn, Bồ Tát đều hâm mộ quư vị, gặp gỡ Tịnh Độ là thành Phật trong một đời! Chẳng phải là thành A La Hán, chẳng phải chỉ thoát ly lục đạo luân hồi, thoát ly mười pháp giới, mà c̣n thoát ly cơi Thật Báo, trực tiếp trở về tự tánh, trở về tự tánh viên minh thể, tuyệt diệu quá! Hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng ta học tập tới chỗ này.

Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa

Phần 59 hết

 



[1] Tánh thị (姓氏) hiểu theo nghĩa hiện thời là những tiêu chí (criteria) để phân biệt các gia tộc khác biệt. Tánh thị có tác dụng phân biệt những người cùng thị tộc (có quan hệ huyết thống trực tiếp) để tránh xảy ra hôn nhân giữa những người có cùng huyết thống. Thoạt đầu, Tánh và Thị là hai khái niệm khác nhau. Nghĩa gốc của Tánh là con cái do cùng một mẹ sinh ra, v́ thời cổ chưa có chế độ phụ hệ. Do đó, các họ cổ như Cơ, Tự, Quy, Diêu, Khương, Doanh… đều viết với bộ Nữ. Sau này, khi chế độ phụ hệ thành lập, Tánh mới gọi theo tên cha, và mang ư nghĩa, những người cùng Tánh là những người có cùng một ông tổ. Do con cháu ngày càng nhiều, h́nh thành các chi họ khác nhau, sống rải rác khắp nơi, thường lấy tên đất, tên chức quan, tên tự của ông tổ, hoặc nghề nghiệp để gọi các chi họ, h́nh thành nên khái niệm Thị. Như vậy, Tánh là danh xưng chung của toàn thể gia tộc, c̣n Thị là danh xưng của một chi tộc. Thời Tam Đại (Hạ, Thương, Châu), quy tộc hôn nhân dựa trên tánh Thị: Cùng Tánh, chẳng cần biết là Thị giống nhau hay khác nhau đều chẳng được lấy nhau. Thị giống nhau, nhưng Tánh khác nhau th́ có thể lấy nhau. Lại c̣n quy định nam dùng Thị, nữ dùng Tánh. Về sau, hầu như Thị đóng vai tṛ chủ yếu để phân định ḍng họ và Tánh Thị được gộp chung lại để chỉ ḍng họ. Rất nhiều Thị thoạt đầu tuy cùng một tổ tiên, nhưng do quá tŕnh thiên di và sinh hoạt, được coi như là những ḍng họ riêng biệt. Một thí dụ nổi tiếng là Chúc Dung Bát Tánh, tức là con cháu của vua Chúc Dung (cháu bốn đời của Viêm Đế, họ Khương) được chia thành tám họ là Kỷ, Đổng, Bành, Vân, Tào, Châm, Thốc, Tân. Trong khi đó, riêng chính họ Khương lại chia thành các họ Lă, Tề, Tạ, Cao, Lư, Thôi v.v… Câu “Hoàng Đế có hai mươi lăm người con, mười bốn người có tánh thị” xuất phát từ thiên Ngũ Đế Bản Kỷ trong Sử Kư của Tư Mă Thiên, theo đó, những Thị ban đầu là Cơ, Dậu, Kỳ, Kỷ, Đằng, Châm, Nhậm, Tuân, Hy, Cật, Hoàn, Y v.v…

[2] Sách Bách Gia Tánh là một cuốn sách ghi các họ phổ biến tại Trung Quốc, không rơ ai là tác giả. Sách được h́nh thành vào đầu thời Bắc Tống, thoạt đầu chỉ ghi 411 họ, về sau, tăng thêm thành 504 họ. Trong đó, có 444 họ đơn và 60 họ kép (như Tư Mă, Thượng Quan, Âu Dương, Lệnh Hồ, Hoàng Phủ, Tư Đồ, Vũ Văn, Hô Diên, Đoan Mộc, Uất Tŕ, Hạ Hầu, Hiên Viên, Tư Khấu, Tư Đồ, Công Dă, Thuần Vu, Độc Cô, Nam Cung…). Thứ tự các họ không được ghi theo số lượng người mang họ ấy mà ghi sao đọc lên cho thuận miệng. Họ Triệu được xếp đứng đầu v́ là họ của các vua nhà Bắc Tống. Sách ghi theo kiểu bốn chữ một, xin trích đoạn mở đầu như sau: “Triệu, Tiền, Tôn, Lư. Chu, Ngô, Trịnh, Vương. Phùng, Trần, Chử, Vệ. Tưởng, Trầm, Hàn, Dương. Châu, Tần, Vưu, Hứa. Hà, Lă (Lữ), Thí, Trương. Khổng, Tào, Nghiêm, Hoa. Kim, Ngụy, Đào, Khương…”

[3] Ghế Thái Sư (Thái Sư Ỷ) là một loại ghế dựa xuất hiện từ thời Tống. Ghế Thái Sư hiện thời phổ biến nhất theo kiểu đời Thanh, lưng cao, thường chạm rỗng. Ghế làm bằng gỗ quư (như tử đàn, hồng mộc, lê hoa v.v…), lưng ghế thường chạm trổ thành h́nh hoa lá, có chỗ để dựa tay hai bên. Chỗ dựa tay cũng chạm rỗng thành h́nh mây cuộn, hoa, lá, hoặc chữ Triện, chữ Thọ, chữ Phước v.v... Thái Sư Ỷ kiểu đời Thanh đ̣i hỏi lưng dựa và hai chỗ dựa tay phải tạc liền một khối. Ghế thường to và rộng, không lót đệm. Thoạt đầu, loại ghế này chỉ dùng trong cung đ́nh, hoặc nha môn. Về sau, chỉ có những người có địa vị, quan chức trong xă hội mới được dùng. Hiện thời, ghế Thái Sư thường được trưng bầy trong tư gia như một cách khoe giàu sang kín đáo (v́ do làm bằng gỗ quư và tốn nhiều công chạm trổ nên khá đắt tiền). Chỉ từ đời Thanh trở đi, mới bắt đầu có khuynh hướng gắn một phiến đá quư (thường là đá Đại Lư chạm trổ thành h́nh sơn thủy gắn vào giữa lưng ghế), nhưng kiểu ghế Thái Sư có gắn đá vẫn không được ưa chuộng cho lắm. Thậm chí có người chê kiểu ghế Thái Sư có lưng gắn đá là thô tục.

[4] Đời trước, quốc sư Ngộ Đạt là Viên Áng (200-150 trước Công Nguyên), tự là Ty, là người nước Sở, rất tài giỏi, được người thời ấy xưng tụng là Vô Song Quốc Sĩ. Viên Áng làm quan dưới thời Hán Văn Đế, do can vua quá thẳng thừng, khiến vua nổi giận, đuổi ra làm Thứ Sử Lũng Châu. Sau đó, Viên Áng được phái làm Thừa Tướng cho Ngô Vương (Lưu Tỵ) rất được trọng đăi (thời ấy, tông thất nhà Hán được phong vương, đất phong được gọi là Quốc, nên mới có nước Ngô, nước Sở v.v… và mỗi nước chư hầu ấy cũng có triều đ́nh riêng). Tiều Thố (200-154 trước Công Nguyên) được coi là “trí nang” (cái túi khôn) của Hán Văn Đế, quê ở Dĩnh Châu, thoạt đầu giữ chức quan Thái Thường đời Hán Văn Đế. Về sau, lần lượt giữ các chức Thái Tử Xá Nhân, Bác Sĩ, Thái Tử Gia Lệnh (thầy dạy Thái Tử). Thái Tử Lưu Khải (tức Hán Cảnh Đế sau này) hết sức tôn trọng ông, thường dùng mỹ hiệu “trí nang” để gọi ông thay v́ gọi thẳng tên. Đầu thời Cảnh Đế, Tiều Thố giữ chức Ngự Sử Đại Phu. Ông từng dâng thư xin vua chú trọng nông nghiệp, tăng cường pḥng vệ biên cương, tập trung quyền lực bằng cách tước đoạt binh quyền và đất phong của chư hầu. Thế là vua bảy nước chư hầu gồm Ngô Vương Lưu Tỵ, Sở Vương Lưu Mậu, Giao Tây Vương Lưu Ngang, Giao Đông Vương Lưu Hùng Cừ, Truy Xuyên Vương Lưu Hiền, Tế Nam Vương Lưu Tích Quang và Triệu Vương Lưu Toại phất cờ làm phản, cùng kéo binh về kinh đô, giương chiêu bài “tru Tiều Thố, thanh quân xí” (giết Tiều Thố, dọn sạch những kẻ kết bè kéo cánh bên cạnh nhà vua). Do sẵn ganh tỵ và đụng chạm từ trước, Viên Áng lén vào cung khuyên vua giết Tiều Thố để xoa dịu quân phản loạn. Vua nghe lời, sai người lôi Tiều Thố ra chợ chém ngang lưng. Tuy Tiều Thố đă chết, quân phản loạn không rút lui, Ngô Vương tự xưng là Hoàng Đế. Cuối cùng nhờ Thái Úy Châu Á Phu và Đại Tướng Quân Đậu Anh dốc sức mới dẹp tan quân phản loạn. Tuy vậy, do khéo ăn nói và khéo đón gió, Viên Áng rất được vua tin dùng. Về sau, do Viên Áng can ngăn vua đừng lập Lương Vương Lưu Vũ làm Thái Tử, nên kết oán với Lương Vương, bị Lương Vương thuê thích khách giết chết.

[5] Một cân là mười sáu lạng. Cân tại Hương Cảng, Macao và Đài Loan chừng 605g, cân tại Trung Hoa Đại Lục chỉ có 500g.

[6] Biến Tướng Đồ (變相圖, hay c̣n gọi tắt là Biến) là những tranh ảnh hoặc điêu khắc trong Phật giáo nhằm thể hiện những câu chuyện trong kinh. Biến Tướng Đồ phổ biến nhất là các loại miêu tả địa ngục hay Tịnh Độ của chư Phật như Tây Phương Cực Lạc Tịnh Độ hoặc cơi Lưu Ly của Dược Sư Phật.

[7] Đây là cách đọc theo âm Quan Thoại. Chữ Giải dùng như danh từ sẽ đọc là Jiě, c̣n dùng như động từ sẽ đọc là Xiè (giống như âm đọc của chữ Tạ trong Quan Thoại). Âm Hán Việt chỉ đọc là Giải (tuy có một số trường hợp, theo cụ Thiều Chửu, phải đọc là Giái (với ư nghĩa giải tù đi, hoặc đỗ đầu khoa thi Hương được gọi là Giái Nguyên), hoặc Giới như con Giới Trăi (解廌) một loài thú giống như hươu, nhưng chỉ có một sừng; nhưng do thói quen, chẳng ai đọc chữ này là Giái hoặc Giới).

[8] Tam Tạng Pháp Số, tên gọi đầy đủ là Đại Minh Tam Tạng Pháp Số, là một từ điển về các danh từ thuật ngữ Phật Học do ngài Nhất Như chủ biên vào đời Minh, gồm năm mươi quyển, hoàn thành trong niên hiệu Vĩnh Lạc. Nội dung gồm 1.555 từ ngữ, khởi đầu bằng Nhất Tâm và kết thúc bằng Bát Vạn Tứ Thiên Pháp Môn. Mỗi từ ngữ đều được chú giải tỉ mỉ, ghi rơ những lời trích dẫn phát xuất từ kinh, luận nào. Ngài Nhất Như quê ở Cối Kê, là đệ tử của cao tăng Cụ Am, trụ tại chùa Thiên Trúc. Năm Vĩnh Lạc 17 (1419), Sư vâng chiếu giảo duyệt Đại Tạng Kinh và biên soạn tác phẩm này.

[9] Pháp Giới Thứ Đệ có tên gọi đầy đủ là Pháp Giới Thứ Đệ Sơ Môn do ngài Trí Khải (Trí Giả đại sư, Thiên Thai đại sư) soạn vào đời Tùy, nương theo thứ tự các nghĩa lư để giải thích các danh từ pháp số thường gặp.

[10] Nguyên văn là “tiêu bản” (標本), hiểu theo nghĩa hẹp là một thứ ǵ để làm mẫu, làm gốc trong sinh vật học. Chẳng hạn như người ta cắt một lát mô của một con vật ép lên một phiến thủy tinh mỏng để dễ quan sát hoặc dùng trong giảng dạy. Hiểu theo nghĩa rộng, tiêu bản là cái để nêu gương, làm mẫu.