Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa

淨土大經解演義

Phần 64

Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo duyệt: Huệ Trang và Đức Phong

 

Tập 127

 

Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang một trăm bốn mươi sáu, xem từ hàng thứ tư.

      “Ư nhất niệm khoảnh, biến du nhất thiết Phật độ” (Trong khoảng một niệm, dạo khắp hết thảy các cơi Phật), câu này là kinh văn. Kế đó là lời giải thích: “Nhất niệm, chỉ cực đoản xúc chi thời khắc, đản kỳ thời hạn, chư thuyết bất nhất” (Chữ “một niệm” chỉ thời khắc hết sức ngắn ngủi, nhưng thời hạn ấy có nhiều thuyết [giải thích] khác nhau). Chữ “nhất niệm” được kinh nói đến rất nhiều, nhưng giải thích khác nhau. Chúng ta biết thuở đức Phật tại thế, Ngài giảng kinh, thuyết pháp có nguyên tắc. Nguyên tắc chung là “chẳng rời khỏi Nhị Đế”, Nhị Đế là Chân Đế và Tục Đế. Cái gọi là Chân Đế chính là nương theo cảnh giới do Phật đă chứng để nói, đó là Chân Đế. Loại thứ hai (Tục Đế) là tùy thuận bọn chúng sanh chúng ta, thuận theo cơi tục, nên gọi là Tục Đế, nghĩa là thuận theo kiến thức thông thường của chúng ta để nói, rất dễ hiểu, chúng ta vừa nghe bèn hiểu ngay. “Nhất niệm khoảnh” (trong khoảng một niệm) th́ quả thật cũng có Chân Đế và Tục Đế, nên sẽ có các cách nói khác nhau. Tục Đế là lục đạo, mười pháp giới. Nói cách khác, nếu chúng ta giảng [Tục Đế] theo mỗi pháp giới th́ tối thiểu có mười cách giảng. Đối với mười cách giảng ấy, chẳng thể nói cách nào sai, mà cũng chẳng thể nói cách nào hoàn toàn đúng; chúng ta phải hiểu đạo lư này! Một niệm, nếu dựa theo cuộc đối thoại giữa Di Lặc Bồ Tát cùng Thích Ca Mâu Ni Phật, hăy nên biết [những điều được nói trong cuộc đối thoại ấy] là Chân Đế, thời gian một niệm dài bao lâu? Là một phần trong một ngàn sáu trăm triệu phần của một giây, cũng tức là một phần ngàn sáu trăm triệu giây. Đúng là thời khắc vô cùng ngắn ngủi, kinh Phật dạy như vậy. Những cách giải thích khác cũng đều xuất phát từ kinh Phật. “Như Nhân Vương Bát Nhă”, [nghĩa là] theo như kinh Nhân Vương Bát Nhă giảng, “dĩ cửu thập sát-na vi nhất niệm” (coi chín mươi sát-na là một niệm), tức là một niệm  có chín mươi sát-na. “Nhất niệm trung chi sát-na, kinh cửu bách sanh diệt” (trong một sát-na của một niệm, trải qua chín trăm lần sanh diệt), kinh Nhân Vương nói như vậy. Kinh Nhân Vương chẳng phải chỉ có một bản dịch[1]. Theo bản chúng ta thường đọc là Nhân Vương Bát Nhă Ba La Mật Kinh có cách nói như thế này: Trong một cái khảy ngón tay có chín mươi sát-na, trong một sát-na có chín trăm lần sanh diệt. Theo cách nói này, chín mươi sát-na là một niệm, trong một niệm có chín trăm lần sanh diệt, tức là một niệm có chín mươi sát-na. Cách này không nói theo [thời gian] khảy ngón tay, [trong các] kinh [khác] cũng nói theo cách khảy ngón tay. Lại nữa, trong quyển thượng của bộ Văng Sanh Luận Chú, “dĩ bách nhất sanh diệt vi nhất sát-na” (coi một trăm lần sanh diệt là một sát-na), trong một sát-na có một trăm lần sanh diệt. “Lục thập sát-na danh vi nhất niệm” (Sáu mươi sát-na được gọi là một niệm), [khoảng thời gian] ấy được gọi là “niệm khoảnh”. “Lưỡng giả quân dĩ nhất niệm trung cụ đa sát-na dă, đản Trí Độ Luận dĩ nhất đàn chỉ khoảnh hữu lục thập niệm, Hoa Nghiêm Thám Huyền Kư thập bát” (hai thuyết này đều coi một niệm gồm nhiều sát-na, nhưng Trí Độ Luận nói trong khoảng thời gian khảy ngón tay có sáu mươi niệm. Quyển thứ mười tám sách Hoa Nghiêm Thám Huyền Kư), tức là quyển thứ mười tám, “vị sát-na tư vân niệm khoảnh, nhất đàn chỉ khoảnh hữu lục thập sát-na” (nói một sát-na được gọi là “niệm khoảnh”, trong khoảng một cái khảy ngón tay có sáu mươi sát-na). Hai bộ luận này đều coi một niệm là một sát-na. Do đó, đối với chuyện này, kinh luận có nhiều cách giảng, đó là giảng giải thuận theo thế tục.

      Nói theo Chân Đế, chúng tôi nghĩ điều được nói trong kinh Bồ Tát Xử Thai[2] phải là thật, chúng tôi thường nhắc nhở các đồng học điều này. Đức Phật hỏi Di Lặc Bồ Tát, “tâm hữu sở niệm”, tức là nói đến một niệm, phàm phu, tức phàm phu trong lục đạo, hễ trong tâm dấy lên một niệm, trong một niệm ấy, đức Phật hỏi “hữu kỷ niệm, kỷ tướng, kỷ thức?” Hỏi rất cặn kẽ, trong một niệm ấy có mấy tướng, mấy thức? Di Lặc Bồ Tát trả lời: “Nhất đàn chỉ hữu tam thập nhị ức bách thiên niệm” (trong một cái khảy ngón tay có ba mươi hai ức trăm ngàn niệm), nay chúng ta nói ba mươi hai ức trăm ngàn là ba trăm hai mươi triệu, trong một cái khảy ngón tay có ba trăm hai mươi triệu tế niệm. “Niệm niệm thành h́nh”, “h́nh” () là tướng. Đức Phật hỏi “mấy thức”, ngài Di Lặc đáp là “h́nh”, h́nh là tướng, là hiện tượng vật chất. Ngài nói mỗi niệm có h́nh, niệm niệm đều có h́nh. “H́nh giai hữu thức” (h́nh đều có thức), Thức là ǵ? Thức là Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Kinh Phật nói tới Ngũ Uẩn th́ “h́nh” là Sắc Uẩn, trong Sắc có Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Nói cách khác, Ngũ Uẩn vĩnh viễn chẳng tách rời nhau, chẳng thể nào tồn tại độc lập, mà luôn ḥa hợp thành một Thể, thời gian [chúng tồn tại] lại c̣n vô cùng nhanh chóng. Quư vị thấy một cái khảy ngón tay là ba mươi hai ức trăm ngàn niệm, cách nói này rất gần gũi với cách nói của Lượng Tử Lực Học trong hiện thời. Tôi nghĩ trong một giây có người khảy nhanh hơn tôi, nếu một giây có thể khảy năm lần, [tức là] khảy ngón tay năm lần trong một giây, sẽ là như tôi đă nói trước đó: Một ngàn sáu trăm triệu, trong một giây có một ngàn sáu trăm triệu niệm. Hăy nhớ, mỗi niệm đều có hiện tượng vật chất, đều có hiện tượng tinh thần. Vậy th́ vật chất rốt cuộc là như thế nào? Các nhà Lượng Tử Lực Học hiện đại đă nói: Trên thực tế, về căn bản là không có những thứ vật chất! Hiện tượng vật chất là ǵ? Hiện tượng vật chất là ư niệm, trong khoảng một niệm, ở đây gọi là một “niệm khoảnh”, tích lũy lại! Quư vị thấy trong một giây có bao nhiêu niệm? Một ngàn sáu trăm triệu, tích lũy nhiều ngần ấy trong đấy, quư vị thấy dường như có hiện tượng vật chất tồn tại, nhưng trên thực tế, nó là một hiện tượng dao động vô cùng nhanh chóng. Hiện tượng vật chất rất phức tạp, các nhà khoa học đă chia chúng thành ba loại lớn, vật chất có thể đặc, thể lỏng [và thể hơi]. Lấy nước làm tỷ dụ, nước là chất lỏng. Dưới không độ, nó có thể đóng băng, biến thành chất rắn. Ở nhiệt độ cao, nó có thể biến thành hơi nước, biến thành thể hơi. Khoa học cho biết: Do tần số dao động chậm, nên biến thành chất rắn, nhanh hơn một chút biến thành chất lỏng, nhanh hơn nữa biến thành chất hơi; càng nhanh hơn nữa, liền biến thành sóng điện từ. Vô lượng vô biên các hiện tượng trong vũ trụ, các hiện tượng vật chất và hiện tượng tinh thần toàn là do tần số dao động khác nhau mà hiển hiện những thứ ấy. Cách giảng về “Thật Tướng của các pháp” trong khoa học hết sức gần với kinh Phật. Kinh Phật nói: “Hết thảy pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng”, chẳng thật, không có thứ ǵ là thật! Hiện tượng vật chất chẳng thật, hiện tượng tinh thần cũng chẳng thật, đều sanh từ tâm tưởng. Khoa học hiện tại nói đến “tâm thái”, các hiện tượng sanh từ tâm thái là như thế đó. V́ vậy, “niệm” là cội nguồn của tất cả hết thảy các pháp, chúng đều sanh từ niệm. Ư niệm thiện th́ chẳng có pháp nào không tốt đẹp. Tây Phương Cực Lạc thế giới và thế giới Hoa Tạng của Tỳ Lô Giá Na Phật được nói trong kinh Hoa Nghiêm đều do thiện niệm thanh tịnh hiển hiện.

      Đối với địa cầu chúng ta đang sống trong hiện tại, tuy chúng ta chẳng thấy thời đại thượng cổ, nhưng thật ra, chúng ta đă từng trải qua. Khổng phu tử thường tán thán, hoài niệm thời b́nh trị của cổ thánh tiên vương thuở thượng cổ, tức là thời b́nh trị đại đồng! Đại đồng chẳng phải là chuyện lư tưởng, thời Nghiêu - Thuấn đă làm được, sử sách Trung Quốc đă chép như vậy. Khổng Tử sống vào đời Châu, từ giữa đời Châu trở đi, nhà Châu suy vi, từ đại đồng đă biến thành “tiểu khang”[3]. Khổng Tử sống trong thời đại tiểu khang, Ngài thường thường hoài niệm thời đại thịnh trị “đại đồng” thời Nghiêu - Thuấn. Người trong thuở đại đồng thịnh trị chỉ có tâm yêu thương, chẳng có tâm riêng tư. Người thuộc các tầng lớp, các ngành nghề biết giúp đỡ người khác, đều biết phục vụ người khác, đó là thời “đại đồng thịnh trị”! Thời đại tiểu khang bèn v́ chính ḿnh, nhưng v́ chính ḿnh mà cũng v́ người khác, xă hội thời đó tốt đẹp! Cho tới hiện tại đă hơn hai ngàn năm trăm năm, lấy Khổng Tử để nói th́ hai ngàn năm trăm năm trước, thời Khổng Tử là thời tiểu khang. Đại khái là tại Trung Quốc, mấy ngàn năm qua, đều duy tŕ cục diện tiểu khang như vậy. Vào những năm cuối đời Măn Thanh, chẳng c̣n thấy [t́nh trạng] tiểu khang nữa, đời loạn xuất hiện, xă hội hỗn loạn. Cho đến hiện tại, cục diện hiện thời đă loạn lạc đến tột bậc. Có thể hóa giải những tai ương, loạn lạc hay không? Các tai biến trên địa cầu, xă hội hỗn loạn, có thể hóa giải hay không? Có thể khôi phục thuở tiểu khang hoặc thời “đại đồng thịnh trị” trước kia hay chăng? Câu trả lời là khẳng định, có thể! Đều do con người! “Nhân chi sở dĩ dị ư cầm thú”, nghĩa là con người khác cầm thú ở chỗ con người có thể tiếp nhận giáo dục, chứ cầm thú khó lắm! Con người có thể giác ngộ!

      Báo độ của chư Phật Như Lai đều là đại đồng thịnh trị. Người niệm Phật chúng ta tâm luôn hướng tới Tây Phương Cực Lạc thế giới, tức là thế giới của A Di Đà Phật, thế giới ấy là thế giới đại đồng, xă hội ấy là đời thịnh trị đại đồng, c̣n thù thắng hơn những điều được nói trong thiên sách Lễ Vận Đại Đồng[4], cơi nước của chư Phật là như vậy đó! Làm thế nào mới có thể đến được? Thích Ca Mâu Ni Phật đă giới thiệu điều kiện văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, kinh Di Đà nói rơ ràng, đây là một bộ kinh được lưu thông vô cùng rộng răi, phổ biến nhất. Kinh dạy người trong thế giới ấy là thiện nhân, “giai thị thượng thiện chi nhân câu hội nhất xứ” (các vị thượng thiện nhân đều cùng nhóm họp một chỗ). Điều này nói rơ: Muốn đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, chúng ta phải tu thượng thiện, “thiện” ấy là Thập Thiện Nghiệp Đạo, phải thực hiện Thượng Phẩm Thập Thiện. Thượng Phẩm Thập Thiện là tâm thiện, niệm thiện, ư niệm thiện, ngôn hạnh thiện, [tức là] ngôn ngữ và hành vi đều thiện. Tâm niệm và ngôn hành là thượng thiện. Thượng Thiện mà nếu chẳng học Phật, không cầu văng sanh, th́ Thượng Thiện sẽ đến nơi đâu? Thượng Thiện bèn sanh lên trời, làm chư thiên. Trung Phẩm Thập Thiện là nhân đạo, Hạ Phẩm Thập Thiện là A Tu La và La Sát. Ba phẩm Thượng, Trung, Hạ được phân định ra sao? Thượng Phẩm là thuần tịnh, tâm địa thuần tịnh; Trung Phẩm là tâm địa thuần thiện; Hạ Phẩm xen tạp phiền năo, xen tạp tập khí. Tuy tâm địa rất thanh tịnh và cũng rất tốt lành, nhưng kẻ ấy có ngạo mạn, có hiếu thắng, có ganh tỵ, liền biến thành Hạ Phẩm, do người ấy đă xen tạp những tạp niệm, nên biến thành Hạ Phẩm. Nói với chúng ta điều kiện này rất rơ ràng, đó là điều kiện tiên quyết.

Muốn văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, c̣n phải có thêm [điều kiện] nữa, thêm ǵ vậy? Đức Phật dạy: “Không thể do chút thiện căn, phước đức nhân duyên mà được sanh về cơi ấy”. Quư vị có thiện căn và phước đức, thiện căn là ǵ? Đối với pháp môn Tịnh Độ này, đối với những kinh luận Tịnh Độ, quư vị có thể tin tưởng, có thể lư giải, đó là thiện căn. Phước đức là ǵ? Phước đức là thật sự làm, tức là như kinh dạy chúng ta “phát Bồ Đề tâm, một mực chuyên niệm”, quư vị bèn thật sự hành, thật sự phát Bồ Đề tâm. Bồ Đề tâm đă phát khởi, rất tuyệt diệu! Bồ Đề tâm đă phát, người ấy là Bồ Tát. Bồ Đề tâm là ǵ? Là tâm chân thành, [tức là] trong tâm chẳng có hư ngụy, không có tạp niệm. Trong bút kư đọc sách của Tăng Quốc Phiên, ông ta đă định nghĩa chữ Thành, Thành là ǵ? “Một niệm chẳng sanh là Thành”. Tiêu chuẩn này và tiêu chuẩn trong kinh giáo Đại Thừa giống nhau. Chúng ta biết tiên sinh Tăng Quốc Phiên từng đọc kinh Phật, ông thông hiểu, chẳng phải là không hiểu. Nói theo kinh Phật, quư vị có phân biệt, có chấp trước, tâm sẽ chẳng Thành, chẳng có Bồ Đề tâm! Cơ sở của Bồ Đề là buông vọng tưởng, phân biệt, chấp trước xuống, đó mới là Bồ Đề tâm. A La Hán và Bích Chi Phật chỉ buông xuống chấp trước, c̣n vọng tưởng và phân biệt vẫn chưa buông xuống, nên A La Hán chẳng phát Bồ Đề tâm, được gọi là Tiểu Thừa. Phát Bồ Đề tâm là Đại Thừa.

      Hiện tại, rất nhiều đồng học học Phật nẩy sanh hiểu lầm, cứ tưởng “ta đă thọ Bồ Tát giới, ta là Bồ Tát”. Sai rồi! Quư vị là Bồ Tát ǵ vậy? Bồ Tát bằng đất sét, gặp nước là thôi rồi, đúng như vậy đó! Bồ Tát há dễ dàng ư? Bồ Tát th́ điều thứ nhất là chân thành, quư vị c̣n dối gạt chính ḿnh, gạt gẫm người khác, làm sao có thể gọi là Bồ Tát cho được? Là một thiện nhân trong lũ phàm phu mà quư vị c̣n chưa đủ tư cách, làm sao có thể xưng là Bồ Tát cho được? Nếu quư vị xưng là Bồ Tát, đó là đại vọng ngữ. Chư vị phải hiểu: Theo kinh Phật, quả báo của đại vọng ngữ là A Tỳ địa ngục. Quư vị dám mạo nhận là Phật, Bồ Tát hay không? Giả mạo đều nhằm mục đích danh lợi. Nếu quư vị thật sự hiểu nhân quả, sẽ chẳng dám làm theo cách như vậy. Từ tâm chân thành mới có thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác, từ bi. Thanh tịnh, b́nh đẳng, giác là Tự Thọ Dụng, tức là Tự Thọ Dụng của tâm chân thành. Đại từ đại bi là Tha Thọ Dụng của tâm chân thành, tức là đối với người ngoài, đăi người tiếp vật bằng đại từ đại bi. Tâm ấy phát khởi bèn là Bồ Đề tâm. Dùng cái tâm ấy để một mực chuyên niệm, một phương hướng là Tây Phương Cực Lạc thế giới, một câu Nam-mô A Di Đà Phật niệm đến cùng, suốt đời chẳng biến đổi, đó là “một mực chuyên niệm”, người ấy quyết định được sanh về thế giới Cực Lạc. Niệm Phật có thể văng sanh hay không, mấu chốt ở chỗ này!

      Quư vị chớ nên nói kinh Phật chẳng linh, chính quư vị có lỗi, đức Phật chẳng nói sai, kinh điển chẳng nói sai. Quư vị phải thấy rơ ràng, thấy rành rẽ, tâm của chính quư vị có tương ứng với kinh hay không? Tâm hạnh tương ứng, quư vị là chánh tu, chân tu. Nếu tâm hạnh chẳng tương ứng, chẳng có thành ư, trong tâm có nhiễm ô, sẽ chẳng thanh tịnh. Nhiễm ô là ǵ? Phiền năo là nhiễm ô, tự tư tự lợi là nhiễm ô, tiếng tăm, lợi dưỡng là nhiễm ô, tham, sân, si, mạn là nhiễm ô. Hễ nhiễm ô, tâm quư vị chẳng thanh tịnh. Hễ phân biệt, tâm quư vị bất b́nh đẳng. Hễ tranh cường, hiếu thắng, tâm bèn bất b́nh đẳng. Trong kinh, đức Phật đă dạy rất nhiều. Tâm hiếu thắng, tâm khoe khoang tài năng, tâm cạnh tranh, đều thuộc về A Tu La hoặc La Sát! A Tu La có tâm thái như vậy. Bồ Tát tâm b́nh khí ḥa, sạch làu như nước, chẳng nổi sóng gió, nước tĩnh lặng như gương, giống như một tấm gương soi cảnh giới bên ngoài rơ rệt, rành mạch, vằng vặc, phân minh, đó là trí huệ hiện tiền, [điều này] được gọi là Chiếu Kiến, chẳng phải là cái thấy do phân biệt, mà là Chiếu Kiến. Chiếu Kiến có nghĩa là chẳng có phân biệt, chẳng có chấp trước. Chẳng có phân biệt là B́nh. Nước là b́nh đẳng, chẳng có chấp trước, nó sạch làu, thanh tịnh. Điều này trọng yếu lắm, thật sự tu, thật sự hành! Trong cuộc sống hằng ngày, ǵn giữ sự thanh tịnh và b́nh đẳng chính là thật sự học Phật. Trong công việc ǵn giữ sự thanh tịnh, b́nh đẳng, trong đăi người tiếp vật đều phải ǵn giữ thanh tịnh, b́nh đẳng.

      Thiện Tài đồng tử tham học năm mươi ba lần, Ngài làm chuyện này cho chúng ta thấy. Năm mươi ba lần tham học là phương tiện thiện xảo của Phật, chia hoàn cảnh nhân sự thành năm mươi ba loại, nam, nữ, già, trẻ, các nghề nghiệp. Thiện Tài đồng tử đều đến tiếp xúc, kết giao với họ, nhưng vẫn giữ được thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác, thành tựu chân thành và từ bi, đăi người tiếp vật từ bi chân thành. Đó là học Phật, thành Phật, chúng ta học Phật chớ nên không biết. Nếu sơ sót cương lănh trọng yếu này, trong cuộc sống hằng ngày chẳng tương ứng, chúng ta chẳng phải là đang học Phật, mà là đang tạo nghiệp. Tạo nghiệp bèn là lục đạo phàm phu. Quư vị tạo thiện nghiệp, tương lai đến thọ báo trong ba thiện đạo, thiện nghiệp ấy cũng phải tiêu trừ. Bởi lẽ, trong tự tánh, thiện và bất thiện đều không có. Tạo tác bất thiện nghiệp, tiêu nghiệp trong ba ác đạo, đều là tiêu nghiệp! Sau khi tiêu hết nghiệp, lại trở vào nhân gian. Trở vào nhân gian, nói thật ra, đúng như đức Phật đă nói “gặp duyên khác nhau”, nhân duyên mà! Người Hoa nói về sự dạy học: “Tánh tương cận, tập tương viễn” (xét về bổn tánh th́ gần như nhau, xét về tập tánh th́ khác nhau). Đó là “ngộ duyên” (gặp duyên). Nếu quư vị gặp thánh hiền, gặp Phật, Bồ Tát, chúc mừng quư vị, quư vị sẽ thành thánh, thành hiền, thành Phật, thành Bồ Tát. Nếu gặp ác duyên, tạo tác tham, sân, si, mạn, nhậu nhẹt, chơi bời, cờ bạc, quư vị sẽ đến chốn ngạ quỷ, địa ngục. Đó là “gặp duyên khác nhau”. Cổ nhân nói hai câu rất hay: “Gần son th́ đỏ, gần mực th́ đen”. Đó là ngộ duyên.

      Nay chúng ta gặp duyên khá lắm, được làm thân người, nghe Phật pháp, đó là duyên tốt đẹp. Trong Phật pháp, lại được nghe Đại Thừa, lại nghe Tịnh Độ, có thể nói là duyên ấy thù thắng khôn sánh! Gặp gỡ, có thể tin tưởng hay không? Có thể lư giải hay không? Đó là thiện căn của quư vị. Quư vị đầy đủ thiện căn, có thể tin, có thể hiểu; nhưng quư vị tin chẳng sâu, c̣n có hoài nghi; giải chẳng thấu triệt, [tức là] thiện căn chẳng đủ. Chân tín, chân giải, nhưng chẳng làm được, đó là thiếu phước; quư vị có thiện căn, nhưng không có phước báo. Phước là ǵ? Thật sự hành là phước đức! V́ thế, đức Phật nói: “Chẳng thể do chút thiện căn, phước đức, nhân duyên, mà được sanh về cơi ấy”. Quư vị hội đủ cả ba điều kiện ấy, quư vị thấy thiện căn đầy đủ, phước đức đầy đủ, nhân duyên đầy đủ, há lẽ nào chẳng văng sanh? Chúc mừng quư vị, khẳng định quư vị thành Phật trong đời này. Văng sanh thế giới Cực Lạc là thành Phật. Chuyện này chẳng phải là chuyện tầm thường! Chúng ta đă gặp, tuy gặp, nhưng thiện căn và phước đức không đủ th́ làm thế nào? Phải nghiêm túc cổ vũ, khích lệ chính ḿnh, nhất định phải bổ túc, dũng mănh tinh tấn, phải bổ túc thiện căn và phước đức. Bổ túc từ chỗ nào? Bổ túc từ kinh giáo. Đối với kinh giáo, ta chẳng gặp thầy giỏi, bản thân ta học tập gặp khó khăn, làm cách nào? Cổ nhân có chú giải để giúp đỡ quư vị, người hiện thời càng có phước báo hơn cổ nhân. V́ sao? Hiện thời có đĩa CD, có Internet, có [truyền h́nh] vệ tinh, quư vị có thể học tập tại nhà, lên lớp mỗi ngày, phước báo này quá to tát! Quư vị phải học mỗi ngày th́ mới được. Nếu quư vị không lên lớp mỗi ngày, phước báo vẫn bị luống uổng!

Tôi gặp hai người mà tôi rất bội phục. Hai người ấy đúng là nắm được cách bổ sung thiện căn và phước đức, tức là mỗi ngày nghe kinh mười giờ. Một năm ba trăm sáu mươi ngày, mỗi ngày chẳng bỏ suốt một buổi học nào. Thật ra, nếu có chuyện ǵ, không có cách nào khác, họ không ngủ cũng nghe đủ bốn giờ. Nghe bốn giờ là trong t́nh huống bất đắc dĩ, b́nh thường là mười giờ. Họ thật sự có trí huệ, thật sự nghe lời. Tổ sư đại đức dạy chúng ta “thâm nhập một môn, huân tu lâu dài”, họ đă nắm được, nên nghe kinh bèn nghe một bộ kinh. Nghe một bộ kinh th́ họ cũng chẳng nghe rất nhiều! Nghe rất nhiều th́ sao? Chẳng nhớ được! Mỗi ngày nghe mười giờ, có thể ghi nhớ hay không? Không có trí nhớ và sức lư giải mạnh như vậy, họ c̣n gặp khó khăn. Do đó, họ dùng phương pháp rất xảo diệu, mỗi ngày họ chỉ nghe đĩa ghi âm lời giảng trong một tiếng đồng hồ. Mỗi đĩa CD là một giờ, nghe [đĩa thâu âm] một giờ giảng ấy mười lượt, họ nghe giảng mười tiếng đồng hồ là nghe theo kiểu ấy. Một giờ giảng được nghe lặp đi lặp lại mười lần, họ nhớ được, nghe hiểu. Mỗi ngày nghe một đĩa, cứ mỗi đĩa là một giờ, làm theo cách ấy, ngày hôm sau mới nghe đĩa thứ hai. Nghe xong một bộ kinh, bèn nghe lại từ đầu. Nghe bao lâu? Nghe suốt mười năm. Thưa cùng quư vị, do mười năm ấy, họ đắc Niệm Phật tam-muội. Đắc Niệm Phật tam-muội là đắc Định, khai trí huệ. Trí huệ đă khai th́ kinh chưa từng học, người ấy chẳng cần phải học, giống như Lục Tổ Huệ Năng đại sư, quư vị đọc cho người ấy nghe, người ấy bèn hiểu, và cũng có thể giảng cho quư vị nghe. Đó là ǵ? Một kinh thông, hết thảy các kinh đều thông. Con người chớ nên làm quá nhiều, làm nhiều th́ đúng là “tham nhiều, nhai không nát”, sai mất rồi! Con người chớ nên học làm bậc đại thông gia, “ta thứ ǵ cũng đều hiểu”, sai mất rồi! [Thật ra] quư vị chẳng hiểu thứ ǵ! Quư vị thật sự có thể chuyên ṛng, thông suốt một bộ kinh, sẽ bất tri bất giác trở thành bậc đại thông gia, thứ ǵ cũng đều hiểu! Do vậy, một kinh thông, hết thảy các kinh đều thông, mười năm! Ai nấy đều có thể làm được, vấn đề là quư vị có chịu làm hay không! Đặc biệt là người xuất gia, v́ sao? Người xuất gia không cần phải đi làm, có đồng tu cúng dường quư vị, thời gian mỗi ngày là của chính ḿnh. Mỗi ngày nghe kinh mười tiếng, niệm Phật tám tiếng, quư vị có thể làm được th́ mười năm bèn thành tựu, quư vị đi giáo hóa chúng sanh, là bậc đại sĩ, chẳng phải là người tầm thường!

V́ thế, bao nhiêu người tập khí phiền năo rất nặng, chẳng đầy đủ thiện căn và phước đức, chẳng tin tưởng, phí uổng thời gian, quá đáng tiếc! Nay đă giác ngộ th́ hiện thời vẫn c̣n kịp! Tôi thấy có người sáu mươi tuổi mới bắt đầu, thật sự hành, bảy mươi tuổi thành tựu. Bảy mươi tuổi bắt đầu làm, tám mươi tuổi thành tựu, hạng người ấy đáng để kẻ khác bội phục. Tôi nghe nói có đồng học đă ngoài sáu mươi tuổi mới bắt đầu hành, nay đă bảy mươi mấy tuổi, mười năm bèn thành tựu. Thâm nhập một môn, huân tu lâu dài, một bộ kinh Vô Lượng Thọ, một câu Nam-mô A Di Đà Phật. Người như thế, tại gia bèn là cư sĩ Duy Ma, là Phật tại gia; xuất gia bèn là tổ sư đại đức, chẳng giả! Ai nấy đều làm được, chỉ cần quư vị thật sự nắm lấy cơ hội. Nếu hiện thời quư vị vẫn chưa đầy năm mươi tuổi, bắt đầu làm, mười năm sau quư vị thành tựu. Thứ nhất là chính ḿnh thành tựu, nắm chắc văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, quư vị tu thành công. Quư vị phải chịu phát nguyện, ta trụ trong thế gian này thêm mấy năm nữa, ḥng giúp đỡ chúng sanh khổ nạn, giúp cho chánh pháp trụ thế lâu dài, giúp họ phá mê khai ngộ. Quư vị có thể làm chủ thọ mạng, muốn trụ thế bao nhiêu năm liền trụ bấy nhiêu năm, sanh tử tự tại. Do đó, phải thật sự làm, chớ nên làm giả; hễ làm giả th́ trật mất rồi!

Tiếp đó, Hoàng lăo cư sĩ nói: “Tư vi giản đơn, dị kư, cố tùng hậu giả, dĩ nhất niệm khoảnh tức nhất sát-na” (Nay nhằm đơn giản, dễ nhớ, nên từ nay trở đi, coi “trong khoảng một niệm” là một sát-na), cách nói này khá đơn giản. “Chí ư sát-na nhất niệm chi gian, tức năng biến du chư Phật quốc độ giả” (c̣n như trong khoảng một niệm, liền có thể dạo khắp các cơi Phật), đây là một câu trong kinh, chính là nguyện thứ mười một của A Di Đà Phật. Lời nguyện trong nguyện thứ mười một là: “Ư nhất niệm khoảnh, bất năng siêu quá ức na-do-tha bách thiên Phật sát, châu biến tuần lịch cúng dường chư Phật giả, bất thủ Chánh Giác” (trong khoảng một niệm, chẳng thể vượt qua ức na-do-tha trăm ngàn cơi Phật, lần lượt cúng dường trọn khắp chư Phật, chẳng giữ lấy ngôi Chánh Giác). Quư vị thấy A Di Đà Phật phát nguyện, Ngài nói người sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, trong khoảng một niệm, tức là một sát-na, trong thời gian ngắn ngủi dường ấy, trong khoảng thời gian một niệm, có năng lực dạo khắp các cơi Phật, vượt qua ức na-do-tha trăm ngàn cơi Phật, năng lực ấy do bổn nguyện và oai thần của A Di Đà Phật gia tŕ. Trong lời nguyện ấy, chẳng hề nói người văng sanh cơi Phàm Thánh Đồng Cư là ngoại lệ, Ngài chẳng hề nói lời ấy. Ngài chẳng hề nói lời ấy, tức là cơi Phàm Thánh Đồng Cư cũng có phần, tuyệt diệu thay! Trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư có ba bậc, chín phẩm, đức Phật chẳng nói hạ hạ phẩm văng sanh thuộc vào ngoại lệ, chẳng hề nói như vậy. Nói cách khác, người hạ hạ phẩm văng sanh trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư, sanh vào thế giới Cực Lạc, nếu “chẳng thể vượt qua ức na-do-tha trăm ngàn cơi Phật, lần lượt cúng dường trọn khắp chư Phật”, A Di Đà Phật sẽ chẳng thể thành Phật. Nay A Di Đà Phật đă thành Phật, thành Phật trong thế giới Tây Phương, đến nay đă là mười kiếp, nguyện ǵ của Ngài cũng đều được thực hiện, lời này chẳng giả tí nào!

      Nếu chúng ta tu hành trong thế gian này, đạt đến cảnh giới như vậy, đó là thần thông, tức Thần Túc Thông, có thể trong một niệm dạo khắp các cơi Phật, đi bằng cách nào? Chư vị ngẫm xem, trừ phân thân ra, chẳng thể nào “dạo khắp các cơi Phật”! Do điều này có thể biết, họ có thể trong một sát-na, phân thành ức na-do-tha trăm ngàn thân, mỗi thân đến cơi nước của một vị Phật. V́ lẽ đó, trước vô lượng vô biên cơi Phật đều có người ấy, người ấy đều ở nơi đó, [hiểu như vậy] là có lư, đó phân thân. Đến các cơi Phật để làm ǵ? Lễ Phật! Chư vị phải nhớ: Phật là vô thượng phước điền trong thế gian và xuất thế gian, tu phước th́ phải đến lễ Phật, cúng Phật, đó là tu phước. Cúng Phật, chắc chắn Phật sẽ thuyết pháp cho quư vị. Quư vị cúng dường Phật là Tài Bố Thí, Tài Bố Thí được của cải. Đây là đại đạo lư thiên kinh địa nghĩa. Phật đáp lễ bằng Pháp Bố Thí, nên Phật thuyết pháp cho quư vị. Thuyết pháp cho quư vị, quư vị liền khai trí huệ. Do đó, cúng dường Phật là phước huệ song tu. Người trong Tây Phương Cực Lạc thế giới phước huệ tăng trưởng mỗi ngày, chúng ta chẳng có cách nào tưởng tượng mức độ tăng trưởng ấy, tăng trưởng quá nhanh chóng! V́ sao? Họ có thể sử dụng vô lượng vô biên thân đến cúng vô lượng vô biên Phật, họ có năng lực ấy, bọn chúng sanh luân hồi trong lục đạo như chúng ta chẳng thể làm được điều này!

      Chúng ta biết Tam Quả, tức Tam Quả A Na Hàm của Tiểu Thừa có thể phân thân, Ngài có thể đồng thời phân thành năm trăm thân. Từ truyện kư, chúng ta thấy vào thời đại Tùy - Đường, quả thật có những vị xuất gia như vậy. Trong Thần Tăng Truyện có chép câu chuyện ấy, chắc chắn chẳng phải là giả. Cao Tăng Truyện cũng có, nhưng tôi không nhớ tên vị pháp sư ấy, chỉ nhớ câu chuyện này. Ngài là pháp sư Ấn Độ, đến Trung Quốc truyền giáo, ở đó mười mấy năm, quay về nước. Pháp duyên của pháp sư vô cùng thù thắng. Tín đồ tại Trung Hoa đều rất yêu mến Ngài. Pháp sư phải quay về, mọi người đều muốn thỉnh Ngài dùng cơm để cúng dường. Pháp sư từ bi, đều nhận lời. Người nào mời, Ngài cũng đều nhận lời. Đến bữa ăn ngày hôm sau, Ngài đến nhận cúng dường trọn khắp. Ngày thứ ba, Ngài ra đi, tiễn đến chỗ cái đ́nh mười dặm, [đại chúng] hết sức hoan hỷ, [khoe]: “Pháp sư rất coi trọng tôi, ngày hôm qua đến ứng cúng tại nhà tôi”. Người khác nói: “Sai rồi! Ngày hôm qua rơ ràng là thầy ở nhà tôi”. Nói một hồi như vậy mới biết Ngài đă phân thành năm trăm thân, cùng một lúc đến dùng cơm với năm trăm gia đ́nh. Ngày hôm sau, những người ấy đều tiễn đưa, mới liên kết lại, hiểu rơ ràng chuyện này: Pháp sư có bản lănh phân thân, phân thành năm trăm thân. Người trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, hạ hạ phẩm văng sanh có thể phân vô lượng vô biên thân, có thể cúng mười phương thế giới hết thảy chư Phật. Chuyện này do chính A Di Đà Phật nói ra, Thích Ca Mâu Ni Phật kể lại cho chúng ta, chúng ta có tin hay không? Nếu tin tưởng, có muốn về nơi ấy hay không? Đi ngay lập tức, chẳng thể đợi thêm nữa. Đến Tây Phương Cực Lạc thế giới thành tựu là chân thật, chẳng giả!

      V́ thế, cúng Phật rất trọng yếu. Cúng Phật là cầu học, cầu phước, cầu huệ. Thành Phật là phước huệ viên măn, phước huệ viên măn th́ quư vị mới có thể phổ độ chúng sanh. Có huệ, chẳng có phước, chẳng thể độ chúng sanh. Có phước, chẳng có huệ, cũng không thể độ chúng sanh, nhất định phải là phước huệ viên măn. Chúng ta ở trong thế gian này, hiểu chuyện này rất rơ. Học Phật nhằm thành tựu chính ḿnh, thật sự nắm lấy thời gian, chẳng bỏ uổng ngày nào, mười năm thành công, đúng như cổ nhân Trung Quốc đă nói: “Mười năm quạnh quẽ, thi đỗ thành danh”. Người đọc sách trong thế gian tốn mười năm để thành tựu, tu hành trong Phật pháp cũng là mười năm. Mười năm ấy căn sâu, cội chắc, thành tựu Giới, Định, Huệ của chính ḿnh. Thưa cùng chư vị, Giới là đức hạnh, Định là tam-muội, Huệ là đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh. Dẫu chưa thể đại triệt đại ngộ, mười năm cũng chắc chắn là đại ngộ, chẳng triệt ngộ th́ cũng là đại ngộ. V́ thế, đối với những thứ chưa từng học, nhưng hễ tiếp xúc bèn thông suốt. Thật sự vâng theo phương pháp này để tu hành, mười năm chẳng thể nào không thành tựu. Nếu chẳng có thành tựu, chính quư vị hăy suy xét kỹ, quư vị đă dùng sai cái tâm! Trong mười năm. tuy là thâm nhập một môn, huân tu lâu dài, nhưng công phu của quư vị nhất định có xen tạp, tâm quư vị chẳng thanh tịnh, tâm quư vị bất b́nh đẳng, nên sự thành tựu của quư vị chẳng thù thắng. Nếu tâm địa thật sự giữ được thanh tịnh, b́nh đẳng, thành tựu ấy là chân thật, thành tựu ấy đáng để người khác tán thán. Hy vọng các đồng học thật sự có chí làm thánh, làm hiền, làm Bồ Tát, làm Phật, hăy ghi nhớ: Khéo học trong mười năm sẽ thành công! Hiện thời có đĩa CD giúp đỡ quư vị, có chú giải giúp đỡ quư vị, chớ nên hành quá nhiều, chỉ có thể hành một môn, phải tin tưởng “một kinh thông, hết thảy các kinh đều thông”. Nếu muốn thứ ǵ cũng đều hiểu, hăy bắt đầu từ một môn, đặt nền tảng vững vàng nơi một môn, chớ nên học quá nhiều. Học quá nhiều sẽ thành học tạp, tư tưởng rối bời, quư vị chẳng thể đắc tam-muội, không thể khai trí huệ. Tuân thủ giáo huấn của cổ nhân, quư vị sẽ thành công. Nếu quư vị cậy ḿnh thông minh, mười năm sẽ uổng phí, thứ ǵ cũng đều chẳng đạt được!

      “Thượng văn dĩ viết”, [nghĩa là] trong phần trên đă nói: “Thị chư đại sĩ, tùy thời ngộ nhập Hoa Nghiêm tam-muội” (các vị đại sĩ ấy tùy thời ngộ nhập Hoa Nghiêm tam-muội). Câu“thị chư đại sĩ” là nói trong phần trước, kinh văn đă liệt kê một vạn hai ngàn người tham gia pháp hội giảng kinh Vô Lượng của Thích Ca Mâu Ni Phật lần này, thính chúng đông ngần ấy! Những người ấy được gọi là Đại Sĩ, đă đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, chúng ta thường gọi họ là Ma Ha Tát, tức là Đại Bồ Tát. Họ tùy thời ngộ nhập Hoa Nghiêm tam-muội, Hoa Nghiêm tam-muội đă được giới thiệu trong phần trước, cũng là “một ngộ, hết thảy đều ngộ”. Tiếp theo đó là lời giải thích đơn giản: “Thử tam-muội cứ quả nhi ngôn, diệc danh Hải Ấn tam-muội” (nếu xét theo quả để nói, tam-muội này c̣n gọi là Hải Ấn tam-muội). Chúng ta đọc Hoàn Nguyên Quán, thấy: Hải Ấn là tỷ dụ. Quư vị thấy [cụ Hoàng viết] “danh vi Ấn giả” (gọi là Ấn), lấy con dấu trong thế gian làm tỷ dụ. “Ấn thượng văn tự năng đồng thời đốn hiện, nhi vô tiền hậu chi sai” (Những chữ và nét khắc trên quả ấn có thể cùng một lúc nhanh chóng hiện ra, chẳng có sai biệt trước hay sau). Trên một quả ấn có khắc rất nhiều văn tự, trong Phật môn chúng ta thường thấy kinh văn được khắc thành con dấu. Bốn câu kệ rất nổi tiếng trong kinh Kim Cang: “Hết thảy pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng; như sương, cũng như chớp, hăy nên quán như thế”. Khắc bốn câu kệ gồm hai mươi chữ này thành con dấu, đóng dấu một cái, hai mươi chữ ấy đồng thời xuất hiện, chẳng phải là từng chữ một, đó là Ấn. Ấn có ư nghĩa là “đồng thời”, tức là “cùng hiện một lúc, chẳng có trước sau”. “Cử Thể tề chương, diệc vô hoặc ẩn chi xứ” (toàn bộ Thể đều cùng phô bày, cũng chẳng có chỗ nào ẩn tàng), “chương” () có nghĩa là phô bày rơ ràng, rành rành, chẳng sót một chữ nào, toàn bộ đều in ra, đồng thời in ra.

      Phật dùng chữ này nhằm bảo chúng ta: Toàn thể vũ trụ xuất hiện cũng giống như vậy. Trong quá khứ, các nhà khoa học đă nói tới thuyết Tiến Hóa Luận trong sự xuất hiện của vũ trụ, nhưng nói theo Phật giáo th́ Tiến Hóa Luận chẳng thông! Phật pháp bảo vũ trụ chẳng phải là tiến hóa, mà là xuất hiện cùng một lúc. Thông thường, khi nói về chuyện này, chúng tôi dùng phim ảnh làm tỷ dụ, v́ những kiến thức thông thường về phim ảnh chẳng khó hiểu, chỉ là các tấm phim được chiếu lên màn bạc. Chúng ta bỏ phim vào máy chiếu phim, nhấn nút một cái, tấm phim ấy bèn chiếu ngay lên màn bạc, [các h́nh ảnh] đồng thời xuất hiện, trọn chẳng phải là từng bộ phận một, chẳng có thứ tự trước, sau, mà là đồng thời xuất hiện. Điện ảnh sử dụng nguyên tắc chiếu phim, tức là dùng tốc độ rất nhanh để chụp thành phim, sau đó, dùng cùng một tốc độ để chiếu, nên chúng ta thấy giống hệt như người thật, động tác giống y hệt, đạo lư là như vậy đó. Toàn thể vũ trụ xuất hiện cũng giống như thế, lại c̣n là y báo và chánh báo đồng thời xuất hiện. Chuyện này rất sâu, đạo lư rất sâu, quư vị phải tham cứu dần dần mới có thể chứng đắc. Đức Phật đă chứng đắc, nói rơ chân tướng sự thật này với chúng ta. Tuy Ngài đă nói minh bạch, chúng ta cũng hiểu rơ ràng, nhưng chuyện ấy vẫn là chuyện của Ngài, chẳng phải là chuyện của chúng ta! Đức Phật yêu cầu chúng ta cũng phải chứng đắc th́ [cảnh giới ấy] mới là của chúng ta. V́ thế, đức Phật thường nói “chỉ có chứng mới biết, đó là quư vị đă thật sự biết. Quư vị chưa chứng đắc, do thấy nghe mà biết, do đọc sách, hoặc do nghe giảng mà biết, đó chẳng phải là thật, v́ là sự chứng đắc của người khác, chẳng do chính ḿnh chứng đắc; đức Phật yêu cầu: Phải do chính ḿnh đích thân chứng đắc. V́ vậy, Phật pháp là khoa học, chẳng phải là huyền học, mà là khoa học, đ̣i hỏi học tṛ phải đích thân chứng đắc. Quư vị chưa văng sanh thế giới Cực Lạc, làm sao biết thế giới Cực Lạc? Trong bộ kinh này, Thích Ca Mâu Ni Phật đă giới thiệu thế giới Cực Lạc, đó là Ngài đă đích thân chứng đắc. Chúng ta nghe xong, có thể tin, có thể hiểu, thật sự hành, sẽ có thể đến đó, cuối cùng chúng ta cũng chứng đắc. Lời Thích Ca Mâu Ni Phật nói chẳng giả, những ǵ đă nói trong kinh, quư vị đến thế giới Cực Lạc xem, sẽ thấy toàn bộ. Bốn mươi tám nguyện của A Di Đà Phật, nguyện nào cũng đều được thực hiện, thật sự gia tŕ, khiến cho quư vị thật sự được thọ dụng. Đây là chỗ khiến cho Phật pháp thù thắng khôn sánh hơn bất cứ học thuật nào trong thế gian này!

      Tiếp đó, [cụ Hoàng] giải thích Hải, Hải là ǵ? Biển cả, “do như đại hải, đồng thời ảnh hiện chủng chủng sai biệt chi tướng. H́nh tượng thiên sai, thủy thể vô biệt” (giống như biển cả, cùng lúc hiện bóng các tướng sai biệt. H́nh tượng muôn ngàn sai khác, nhưng thể chất của nước chẳng khác), dùng biển cả làm tỷ dụ. Dù sao th́ tỷ dụ vẫn là tỷ dụ, chẳng có cách nào tỷ dụ khít khao, chúng ta phải thấu hiểu [điều này]. Bởi lẽ, nước phẳng lặng như gương, nên nó mới có thể chiếu thấy. Thông thường, chúng ta dùng hồ [làm tỷ dụ]. Hồ nhỏ, chẳng lớn, khi chẳng có gió, hồ chẳng có sóng, không nổi sóng, nước cũng rất sạch, chẳng bị ô nhiễm, đúng là giống như một tấm gương, phong cảnh bên bờ đều phản chiếu trong đó. Trong biển có sóng, sóng rất lớn, có thể in bóng rơ ràng như vậy hay không? Cũng có, nhưng chẳng in bóng rơ ràng như vậy. Khi chúng ta sắp đến bờ biển, cũng có thể thấy [bóng phản chiếu của] núi và các kiến trúc bên bờ, đó là kinh nghiệm đích thân từng trải của chúng ta. Tuy có, nhưng chẳng rơ ràng như cảnh được hiện trong hồ, [rơ rệt] giống như soi vào gương. Phật dùng biển cả làm tỷ dụ. Nếu biển cả gió êm, sóng lặng, chẳng cuộn sóng, khi đó sẽ là “ảnh hiện chủng chủng sai biệt chi tướng, h́nh tượng thiên sai, thủy thể vô biệt” (hiện bóng các tướng sai biệt, h́nh tượng ngàn muôn sai khác, nhưng thể chất của nước chẳng khác), nước có thể chiếu là một. “Vạn tướng phồn hưng, nhi thủy trạm nhiên” (muôn tướng khởi lên đầy dẫy, nhưng nước vẫn trong lặng). “Vạn tướng” là những h́nh ảnh thiên sai vạn biệt trong ấy, nhưng nước chẳng động. Giống như chúng ta xem TV, [h́nh ảnh] biểu diễn trong TV, màn ảnh chẳng động, màn ảnh b́nh thản, tĩnh lặng, lại c̣n chắc chắn chẳng nhiễm trước. “Uyển nhiên vạn tướng, uyển nhiên vô tướng” (rành rành vạn tướng, rành rành vô tướng). Vạn tướng hiển hiện nơi màn bạc [của rạp chiếu phim], vạn tướng hiển hiện trên màn h́nh TV, “uyển nhiên vô tướng” là bản thân màn h́nh, màn h́nh thật sự vô tướng, chẳng có tơ hào nhiễm trước nào! Vạn tướng là những cái được sanh, được hiện, được biến bởi tự tánh của chúng ta, c̣n vô tướng là tự tánh có thể hiện, có thể biến. Tự tánh giống như nước, trong ấy chẳng có thứ ǵ, vạn tướng là huyễn tướng.

      V́ lẽ đó, tướng chẳng thật, đó mới là chân tướng sự thật. Tướng là Giả Hữu, tánh là Chân Không. Chân Không và Giả Hữu là một chuyện, chẳng phải là hai chuyện. Giống như chúng ta xem TV, màn h́nh là Chân Không, khi h́nh tướng xuất hiện trên băng tần, đó là Giả Hữu, Huyễn Hữu. Huyễn Hữu chẳng trở ngại Chân Không, Chân Không chẳng trở ngại Huyễn Hữu, chúng có thể đồng thời tồn tại, đó là nói về chân tướng của hoàn cảnh hiện thực. Tuy đồng thời tồn tại, chúng ta phải hiểu thật rơ ràng, thật rành rẽ chân và vọng. Chớ nên chấp trước vọng, chớ nên phân biệt, nắm vững chân là đúng. Khi huyễn tướng dấy lên tơi bời, tâm vẫn định, chẳng động, đó là đúng. Nếu tâm chúng ta động theo cảnh giới bên ngoài, sai mất rồi, sẽ sanh phiền năo. Trong tâm quư vị có tham ái, c̣n có sân khuể, sai mất rồi! Chư Phật, Bồ Tát ứng hóa trên thế gian, thuở Thích Ca Mâu Ni Phật trụ thế, đă v́ chúng ta thị hiện tám tướng thành đạo, trụ thế tám mươi năm, chúng ta chẳng thấy, nhưng người minh tâm kiến tánh trông thấy, thấy ǵ vậy? Thấy đức Phật suốt tám mươi năm chẳng khởi tâm động niệm, nên gọi là Phật. Chẳng khởi tâm, không động niệm, chư vị nghĩ xem: Ngài c̣n có phân biệt, chấp trước hay chăng? Phân biệt do khởi tâm động niệm mà có, chấp trước do phân biệt mà có. Người có chấp trước, chắc chắn khởi tâm động niệm; phân biệt, chấp trước, chính là phàm phu, lục đạo phàm phu mê chứ không giác. A La Hán giác ngộ, chẳng chấp trước hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian, nhưng c̣n có phân biệt, c̣n có khởi tâm động niệm. Tuy các Ngài chưa phải là rốt ráo, nhưng đă vượt thoát lục đạo, lục đạo chẳng c̣n nữa. Do điều này, có thể biết lục đạo do chấp trước biến hiện!

      Chúng ta ở trong lục đạo là do nghiệp lực biến hiện. Thuở ấy, Thích Ca Mâu Ni Phật ở trong lục đạo, nhưng chẳng do nghiệp lực biến hiện, mà là ǵ? Do chúng sanh có cảm, Phật bèn ứng hiện; bởi lẽ, Ngài chẳng có khởi tâm động niệm. Phật biết chân và vọng chẳng trở ngại, cảnh giới hư huyễn chẳng trở ngại chân tâm, chân tâm chẳng trở ngại cảnh giới hư huyễn xuất hiện, chẳng chướng ngại, không sao cả! V́ tâm của Phật vĩnh viễn thanh tịnh, chẳng bị cảnh giới bên ngoài xoay chuyển, đó là công phu. Tâm chúng ta chuyển theo cảnh, rất đáng thương, v́ sao? Cảnh giới là giả, chẳng thật. quư vị bị ngoại cảnh xoay chuyển, bị hư vọng lay chuyển, rất khổ! Cái bị chuyển là vọng tâm, lại chẳng phải là chân tâm, quư vị thấy có oan uổng hay không? Chân tâm xác thực là như như bất động. Phàm phu và Phật sai biệt [ở chỗ] Phật dùng chân tâm, phàm phu dùng vọng tâm, sai biệt ở chỗ này! Vọng tâm là tâm sanh diệt, c̣n chân tâm th́ bất sanh, bất diệt. Vọng tâm là ư niệm. Quư vị thấy ư niệm của chúng ta, niệm trước diệt, niệm sau liền sanh, từng niệm nối tiếp nhau. Chân tâm chẳng có hiện tượng này, chân tâm chẳng có sanh diệt. Huệ Năng đại sư kiến tánh là thấy chân tâm, Ngài bảo chúng ta: Chân tâm là thanh tịnh; chân tâm bất sanh, bất diệt. Chẳng có hiện tượng sanh diệt, cũng là trong khoảng một niệm chẳng có hiện tượng sanh diệt. Trong khoảng một niệm, động tâm tức là khởi tâm động niệm. Tuy không có hiện tượng trong khoảng một niệm, nhưng chẳng trở ngại, chẳng liên can ǵ đến khoảnh khắc một niệm ấy. Giống như nước, nước thanh tịnh, chẳng bị ô nhiễm, nhưng có thể do gió mà dậy sóng. Gió nhỏ, sóng nhỏ; gió lớn, sóng to, tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên.

      “Thời vô tiên hậu, cố diên xúc đồng thời” (chẳng có thời gian trước sau, nên rút ngắn hay kéo dài đồng thời), chẳng có thời gian, mà cũng chẳng có không gian. V́ thế, quư vị nói thời gian rất dài hay thời gian rất ngắn, đối với Ngài là như nhau, b́nh đẳng. Do đó, trong kinh Phật, đối với thời gian, chỉ nói hai chữ “nhất thời”. Nhất Thời có ư nghĩa là thời gian chẳng có trước hay sau. Chư vị phải hiểu, “thời gian không có trước hay sau” đă cho chúng ta biết chuyện ǵ? Cho chúng ta biết con người chẳng có sanh tử. Sanh tử chẳng phải là trước hay sau ư? Có trước sau bèn có sanh tử, không có trước sau, lấy đâu ra sanh tử? Chẳng có quá khứ, chẳng có hiện tại, chẳng có vị lai. Kinh Kim Cang nói “tam tâm bất khả đắc” (ba tâm chẳng thể được). Đó là cảnh giới ǵ? Đó là vô lượng thọ trong thế giới Cực Lạc, vô lượng thọ là chẳng có sanh tử. Do kéo dài và rút ngắn đồng thời, quư vị có thể trở lại quá khứ, mà cũng có thể tiến nhập vị lai, thấy một ngàn năm sau thế giới có t́nh trạng như thế nào, quư vị đều trông thấy. Hai ngàn năm sau, t́nh h́nh thế giới sẽ như thế nào? Một ngàn năm, hai ngàn năm trong quá khứ, quư vị thấy toàn bộ, người và sự vật vẫn c̣n tồn tại, siêu việt thời gian! Không gian cũng chẳng tồn tại, thời gian và không gian đều chẳng có, nên kinh Phật thường nói “tức tại đương hạ” (ngay trong lúc này), nói lời thật với quư vị. Chúng ta chẳng hiểu “đương hạ”, dường như hiểu, nhưng trên thực tế chẳng hiểu! “Đương hạ” (當下) là ǵ? Ở đây, “đương hạ” là nói tới “nhất niệm khoảnh” (念頃: trong khoảng một niệm), tức là một phần của một ngàn sáu trăm triệu phần trong một giây, bèn gọi là “đương hạ”. “Tam thế cổ kim, bất ly ư đương niệm” (ba đời xưa nay chẳng rời một niệm ngay trong hiện tại), câu này chỉ ra, “đương niệm” tức là “đương hạ nhất niệm” (một niệm ngay trong hiện tại). “Tam thế” là nói đến thời gian, “cổ kim” là nói đến không gian. “Tề hiện thủy trung, cố quảng hiệp tự tại” (đều cùng hiện trong nước, nên rộng hẹp tự tại), đấy là tỷ dụ Hải Ấn. “Thập phương thế giới bất ly ư đương xứ” (mười phương thế giới chẳng ĺa khỏi chỗ này), ba đời xưa nay, mười phương thế giới ở ngay tại nơi đây, ở ngay trong một niệm này, đó là chân tướng sự thật. Các vị Bồ Tát dự hội chứng đắc chuyện này, mà cũng có nghĩa là những người đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh cũng đă chứng đắc [chuyện này]. Đạt được công phu như vậy, xác thực là chẳng dễ dàng!

      Trong quá khứ, pháp sư Đàm Hư đă ở Hương Cảng rất nhiều năm, tuổi già, Ngài văng sanh tại Hương Cảng. Tôi chưa từng gặp lăo nhân gia, năm 1977, tôi đến Hương Cảng lần đầu tiên, lúc ấy, Ngài đă văng sanh mấy năm rồi. Tôi nghe Ngài giảng kinh, thuở ấy là [nghe qua] băng thâu âm, nghe băng thâu âm lời Ngài khai thị. Lăo nhân gia đă nói: Trong thời ấy, đă chẳng có người tham Thiền đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh. Ngài chưa từng thấy qua, mà cũng chưa hề nghe qua. Ngài đă thấy người đắc Định, tuy đắc Định, chẳng khai ngộ! Lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ ở Bắc Kinh bảo tôi: “Trong thời đại hiện tiền, ngay cả tham Thiền đắc Định cũng chưa nghe nói tới!” Do đó, bản thân cụ văng sanh, niệm Phật văng sanh Tịnh Độ. Cụ Hoàng đă từng học Thiền, học Mật, vào lúc trọng yếu nhất, cụ đổi lại, đổi thành niệm Phật. Cụ bảo tôi, mỗi ngày cụ niệm mười bốn vạn câu Phật hiệu, trong giai đoạn ngă bệnh, mỗi ngày là mười bốn vạn câu Phật hiệu, cụ niệm Phật văng sanh. Khi viết bộ chú giải này, cụ đă bị bệnh, thân thể đă chẳng khỏe lắm! Sau khi cụ viết xong bản chú giải này, tôi mới quen biết cụ. Khi đó, đă viết xong, c̣n chưa lưu thông, cụ tặng tôi một quyển in bằng ronéo, trước kia in ronéo bằng stencil. Chúng tôi biết, trước kia chúng tôi đă dùng stencil, in bằng stencil, đại khái in được hơn một trăm bản, từ một trăm hai mươi cho đến một trăm ba mươi bản. Sau khi in tới bản một trăm năm mươi, sẽ chẳng thấy rơ ràng lắm, [chữ in] bị mờ nḥe. Có thể thấy rơ là khoảng chừng một trăm hai mươi, một trăm ba mươi bản! V́ thế, số lượng bản in bằng ronéo không nhiều lắm, cụ tặng cho tôi một quyển. Khi ấy, tôi trông thấy rất hoan hỷ, thỉnh giáo lăo nhân gia: “Cụ có giữ bản quyền hay không?” Cụ bảo: “Không có”. Tốt quá! Không có bản quyền th́ tôi in lại, lưu thông bản ấy. Cụ hết sức hoan hỷ. Tôi nói: “Nếu có bản quyền, tôi chẳng dám động đến tác phẩm của cụ”. Do cụ nói “không giữ bản quyền”, tôi liền đem bản chú giải của cụ, khi ấy tôi đang ở Mỹ, giao cho các đồng học tại Đài Loan in thành một vạn cuốn, tức là một vạn cuốn đóng b́a cứng, cụ thấy vậy rất hoan hỷ.

Thân thể cụ đă chẳng khỏe lắm! Do đó, trong thời gian ấy, hằng năm tôi tới Bắc Kinh tối thiểu hai lần, có lúc sang đó đôi ba lượt, đến làm ǵ? Đến gặp lăo nhân gia. Cụ ra [ngoại quốc] chẳng dễ dàng, c̣n tôi đến thăm cụ dễ dàng, thật sự là chí đồng đạo hợp! Tại hải ngoại, chỉ có một ḿnh tôi học và giảng bộ kinh này, trong nước cũng chỉ có ḿnh cụ Hoàng, chẳng có ai khác! Bộ kinh này do lăo cư sĩ Lư Bỉnh Nam giới thiệu cho tôi, chính cụ đă từng giảng một lần, có viết lời “mi chú” (眉註), tức là viết chú giải ngay trên bản kinh, viết bằng bút lông. H́nh như lúc đó lăo cư sĩ sáu mươi bảy, sáu mươi tám tuổi, cụ đă giảng một lần! Hết sức khó có. Tôi đă giảng bộ kinh này, thuở ấy c̣n chưa gặp bản chú giải này của cụ Hoàng, tôi hoàn toàn dùng chú giải của thầy Lư, dựa theo lời mi chú. Trông thấy bản chú giải này, tôi hết sức hoan hỷ, cụ thật sự dụng tâm, không cô phụ lời thầy giáo huấn. Thầy của cụ là lăo cư sĩ Hạ Liên Cư. Cụ Hạ hội tập đại kinh, tự ḿnh đă giảng bộ kinh này, cụ Hoàng Niệm Tổ luôn hết sức dụng tâm nghe giảng. V́ vậy, bộ chú giải này là một sự thành tựu hết sức gian nan, vất vả! Lần này chúng tôi đặc biệt chọn giảng, nhằm học tập những điều tâm đắc được chia sẻ trong bản chú giải của cụ Hoàng Niệm Tổ, mà cũng nhằm kỷ niệm một phen quen biết giữa lăo cư sĩ và chúng tôi lúc tuổi già!

      Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Nhất thiết tự tại nan tư nghị, Hoa Nghiêm tam-muội thế lực cố” (hết thảy tự tại khó nghĩ bàn, là do thế lực của Hoa Nghiêm tam-muội), điều quan trọng ở đây là “hết thảy tự tại”. Tự tại là không có chướng ngại; “nan tư nghị” là chẳng thể nghĩ bàn, chẳng có cách nào tưởng tượng. Quư vị thấy trong phần trước đă nói: Một thân có thể phân thành vô lượng thân, mười phương vô lượng vô biên các cơi Phật, ở trước mặt mỗi vị Phật đều có thân của chính ḿnh tham gia pháp hội, đó là đắc đại tự tại! Nếu quư vị hỏi, nói theo lư th́ chuyện này có thể nói xuôi rót hay không? Nói xuôi rót! Đạo lư ǵ vậy? [Đạo lư ấy] đă có trong kinh Hoa Nghiêm. Kinh Hoa Nghiêm quá to, thiên luận văn Tu Hoa Nghiêm Áo Chỉ Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán của Hiền Thủ quốc sư không dài, nhưng đă giảng đạo lư này rất rơ ràng, rất minh bạch. Chẳng phải là giả, mà là có căn cứ lư luận. Lư là tự tánh chẳng thể nghĩ bàn, khoa học hiện thời cũng đề xướng “năng lực của ư niệm cũng to lớn chẳng thể nghĩ bàn”. Tức là nói ư niệm của chúng ta to đến mức độ nào? Kinh Phật thường nói, nhưng chúng ta xem, đọc, đều là sơ ư, vô tâm, chẳng nghiêm túc, xem lướt qua. Thuở đức Phật tại thế giảng kinh, thuyết pháp, cũng thường nói Bồ Tát có năng lực như thế này: Cầm quả cầu lửa mặt trời trên tay, có thể ném nó tới một góc trời rất xa, rồi lại nhặt về. Đó là ǵ? Niệm lực. Các tinh hệ vận hành trong vũ trụ, ta khiến chúng thay đổi quỹ đạo, chúng nó rất nghe lời. Kinh Phật thường nói chuyện này: Bồ Tát thần thông du hư, oai đức chẳng thể nghĩ bàn. Đức Phật nói lời thật, chẳng giả, chúng ta có lư do để tin tưởng. V́ sao? Khắp pháp giới hư không giới do đâu mà có? Do niệm lực biến hiện. Nếu niệm lực đă có thể biến hiện, v́ sao nó chẳng thể thay đổi niệm lực?

      Nếu chúng ta thật sự hiểu rơ ràng, thông hiểu đạo lư này, trên địa cầu hiện thời có lắm tai nạn dường ấy, có thể hóa giải hay không? Hóa giải dễ dàng! Hễ ư niệm chánh đáng, tai nạn chẳng c̣n. Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật đă dạy, v́ sao có thủy tai? Tham lam. Chúng ta sống ở nơi đây, dứt trừ tâm tham, sẽ chẳng c̣n thủy tai nữa. Hỏa tai do đâu mà có? V́ sao nhiệt độ địa cầu tăng cao? Sân hận! Nếu cư dân trên địa cầu buông sân hận xuống, nhiệt độ địa cầu sẽ khôi phục b́nh thường. Cảnh chuyển theo tâm mà! Ngu si cảm ứng phong tai, ngạo mạn cảm ứng động đất; trong kinh, đức Phật đă nói trọn hết. Cái gọi là “thiên tai” chẳng phải là tự nhiên, mà là phản ứng [của thiên nhiên] đối với tâm t́nh và ư niệm của con người chúng ta, đạo lư là như thế đó! Xă hội hỗn loạn, nhưng ḷng người chánh đáng, th́ toàn bộ đều chánh đáng, vạn vật đều chánh đáng. Do vậy, khi học tập kinh giáo trong những năm qua, tôi cũng thường nói: Địa cầu này và Tây Phương Cực Lạc thế giới có khác biệt hay không? Chẳng hề khác biệt mảy may, hoàn toàn b́nh đẳng. V́ sao thế giới của người ta tốt đẹp như vậy? Cư dân của người ta tâm tánh thiện lương, đều là thượng thiện, nên hoàn cảnh cư trụ chẳng phát sanh khuyết điểm! Hiện thời, cư dân trong thế giới chúng ta hoàn toàn điên đảo, chúng ta là thượng ác, tức là ác đến tột bậc, nên hoàn cảnh trên địa cầu này cũng băng hoại. Ư niệm trọng yếu lắm, trong kinh đức Phật đă nói điều này quá nhiều! Vô cùng khó có là hiện thời Lượng Tử Lực Học cũng nói như thế, nói giống như đức Phật, cũng có nghĩa là những đạo lư và chân tướng sự thật đă giảng trong kinh Phật có thể dùng khoa học hiện thời để chứng minh.

      Xă hội thời cổ tốt đẹp hơn hiện thời, ḷng người thuần hậu, đạo lư ở ngay chỗ này. Tư tưởng, khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, và tạo tác của con người đều tuân theo khuôn mẫu luân lư và đạo đức. Cổ thánh tiên hiền dạy chúng ta Ngũ Luân, Ngũ Thường, Tứ Duy, Bát Đức, thật sự làm được bốn điều mục ấy, sẽ là thời thịnh trị thế giới đại đồng, thế giới này sẽ là thế giới Cực Lạc. Hiện thời đă hoàn toàn vi phạm, chẳng có Ngũ Luân; Ngũ Thường cũng không có, Tứ Duy và Bát Đức hoàn toàn không có, nên xuất hiện vấn đề, xă hội là một khối động loạn, khắp nơi trên địa cầu đều gặp tai nạn là do nguyên nhân này. Trong Phật pháp có nói biệt nghiệp và cộng nghiệp, tuy chúng ta sống trên địa cầu này là cộng nghiệp, nhưng trong cộng nghiệp c̣n có bất cộng nghiệp. Chúng ta có thể tuân thủ luân lư đạo đức, Tứ Duy và Bát Đức, tuy có tai nạn, chúng ta vẫn có thể tránh khỏi. Khi tai nạn xảy đến, thí dụ như đại địa ch́m xuống, chúng ta có thể chẳng chết hay không? Chúng ta cũng chết. Vậy th́ có khác ǵ đâu? Khác chứ! Sau khi chết, chúng ta về thế giới Cực Lạc, làm sao có thể giống nhau cho được? Sẽ đến chỗ khác nhau. Khi tai nạn xảy đến, chúng ta chẳng kinh hoảng chút nào, tâm định, v́ sao? Liễu giải chân tướng sự thật, chúng ta ra đi tự tại, ra đi an tường, chẳng có một tí kinh hoảng nào! Những kẻ b́nh phàm do bị kinh hăi, đă bị kinh hăi nên chết trong kinh hoảng, sẽ đến chỗ chẳng tốt đẹp, chẳng tốt lành, chẳng thoát khỏi lục đạo, vẫn tiếp tục tạo quả báo trong tam đồ. V́ thế, làm sao mà có thể giống nhau cho được?

Tiếp theo đó, “hựu Chân Giải viết: Nhất niệm chi khoảnh, châu biến vô lượng Phật độ giả, sở đáo Nhất Thừa thanh tịnh vô lượng thọ thế giới cố, kết quy Niệm Phật tam-muội dă” (Sách Chân Giải lại nói: “Trong khoảng một niệm trọn khắp vô lượng cơi Phật, do đă đạt đến thế giới Nhất Thừa thanh tịnh vô lượng thọ, bèn kết quy Niệm Phật tam-muội”), câu này nói rất hay. Sau đó, cụ Hoàng cũng có giải thích: “Thử thuyết thậm diệu, dĩ niệm Phật cố, đắc sanh Cực Lạc, tức khả thừa A Di Đà Như Lai Nhất Thừa nguyện hải trung đệ thập nhất nguyện” (thuyết này rất sâu sắc, do niệm Phật, được sanh về cơi Cực Lạc, bèn có thể nương vào nguyện thứ mười một trong biển nguyện Nhất Thừa của A Di Đà Như Lai). Nguyện thứ mười một là nguyện “cúng khắp chư Phật”, do được nguyện lực ấy gia tŕ, nên xuất hiện thần thông diệu dụng chẳng thể nghĩ bàn như thế, “ư nhất niệm khoảnh, biến du Phật độ, phi Nhị Thừa sở năng trắc” (trong khoảng một niệm, đi trọn khắp các cơi Phật, hàng Nhị Thừa chẳng thể suy lường được). Chúng ta phải cùng nhau khéo học tập điều này. Hôm nay đă hết thời gian rồi, ngày mai chúng ta lại học tiếp đoạn ngắn này.

 

Tập 128

 

Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang một trăm bốn mươi bảy, hàng thứ hai, xem từ câu thứ hai:

“Hựu Chân Giải viết: Nhất niệm chi khoảnh, châu biến vô lượng Phật độ giả, sở đáo Nhất Thừa thanh tịnh vô lượng thọ thế giới cố, kết quy Niệm Phật tam-muội dă” (Sách Chân Giải lại nói: “Trong khoảng một niệm trọn khắp vô lượng cơi Phật, do đă đạt đến thế giới Nhất Thừa thanh tịnh vô lượng thọ, bèn kết quy Niệm Phật tam-muội”). Đây là một đoạn trong sách Vô Lượng Thọ Kinh Chân Giải nhằm giải thích câu “ư nhất niệm khoảnh, biến du nhất thiết Phật độ” (trong khoảng một niệm, dạo khắp hết thảy các cơi Phật). Nói “trong khoảng một niệm” th́ thời gian này rất ngắn ngủi, tạm bợ, trong phần trước chúng ta đă học, [các vị Bồ Tát tham dự pháp hội Vô Lượng Thọ] có thần thông năng lực như thế này, “dạo khắp vô lượng cơi Phật”. Kinh nói “hết thảy các cơi Phật” tức là vô lượng vô biên các cơi Phật. “Sở đáo Nhất Thừa thanh tịnh vô lượng thọ thế giới” (đạt đến thế giới Nhất Thừa thanh tịnh, vô lượng thọ). Nói theo thực tế, y báo và chánh báo của hết thảy các cơi Phật đều b́nh đẳng, chẳng khác ǵ Tây Phương Cực Lạc thế giới. Chỗ thù thắng của thế giới Tây Phương so với những cơi Phật khác là do nguyện lực của A Di Đà Phật chẳng thể nghĩ bàn. Nguyện lực ấy đă phát ra khi Ngài tu nhân, trong phần sau chúng ta sẽ đọc đến. Khi chư Phật hành Bồ Tát đạo, đă phát nguyện khác với một đại nguyện chung[5], [đại nguyện chung ấy] tức là Tứ Hoằng Thệ Nguyện thường được nhắc đến trong kinh giáo. Tứ Hoằng Thệ Nguyện là tổng cương lănh, mỗi vị Phật đều có, nhưng tế hạnh sẽ khác nhau. Chúng ta có thể nói là A Di Đà Phật đă phát ra các nguyện đạt tới viên măn rốt ráo, vô cùng vi tế, chẳng t́m thấy khiếm khuyết nào! Nguyện to tát, bi tâm khẩn thiết, nguyện dùng phương pháp b́nh đẳng phổ độ hết thảy chúng sanh, đối với các thứ căn tánh bất đồng đều có thể dùng một phương pháp xảo diệu để độ, phương pháp ấy là danh hiệu sáu chữ “Nam-mô A Di Đà Phật”, thật sự chẳng thể nghĩ bàn! Đó là chỗ đặc biệt thù thắng của Di Đà Tịnh Độ. Nếu không có nguyện lực của A Di Đà Phật gia tŕ, thần thông của các Bồ Tát tuy cũng to lớn, nhưng chẳng viên măn, chắc chắn chẳng viên măn. “Châu biến” cũng là vô lượng. [Nếu như] trong vô lượng mà cũng có số lượng [th́ đó là vô lượng hữu hạn], trong vô lượng chẳng có số lượng th́ mới là vô lượng thật sự. Trong kinh Đại Thừa, chúng ta thường thấy khu vực giáo hóa của một đức Phật [tối thiểu] là một tam thiên đại thiên thế giới, đó là một đại thiên thế giới. [Có vị Phật, khu vực giáo hóa là] hai, ba đại thiên thế giới, có vị là mười mấy đại thiên thế giới. Quư vị thấy các Ngài làm Phật, duyên giáo hóa chúng sanh khác nhau, đúng là “do gặp duyên khác biệt”. Chỉ riêng A Di Đà Phật kết thiện duyên với tất cả chúng sanh trong khắp pháp giới hư không giới, thật sự làm được. V́ lẽ đó, quốc độ của Phật Di Đà vô lượng vô biên, chẳng có cùng tận, chỗ nào cũng đều là [quốc độ của Ngài]. Cơi nước Cực Lạc ở đâu? Ở ngay nơi đây cũng là [Cực Lạc], chẳng có ngoại lệ! Vấn đề là chúng ta chẳng thấy! Chẳng thấy là do bản thân chúng ta có nghiệp chướng [ngăn trở]. Nếu chúng ta diệt trừ nghiệp chướng, [nơi đây] sẽ lập tức là [Cực Lạc]. Lại c̣n “một chính là hết thảy, hết thảy chính là một”, đây là cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn. V́ thế, nói đạt đến Nhất Thừa, Nhất Thừa là nhất Phật Thừa, chẳng phải là Bồ Tát Thừa. “Thanh tịnh vô lượng thọ thế giới” là nói đến quả, chứng đắc bằng cách nào? Niệm Phật tam-muội.

      Lăo cư sĩ nói “thử thuyết thậm diệu”, [nghĩa là] thuyết này rất hay, “dĩ niệm Phật cố, đắc sanh Cực Lạc, tức khả thừa A Di Đà Như Lai Nhất Thừa nguyện hải trung đệ thập nhất nguyện chi gia bị lực” (do niệm Phật mà được sanh về Cực Lạc, liền có thể nương vào sức gia bị của nguyện thứ mười một trong biển nguyện Nhất Thừa của A Di Đà Như Lai). Nguyện thứ mười một là “cúng khắp chư Phật”, do nguyện này, “nhi xuất hiện như thị bất khả tư nghị thần thông diệu dụng, ư nhất niệm khoảnh, biến du Phật độ” (bèn xuất hiện thần thông diệu dụng chẳng thể nghĩ bàn như thế, trong khoảng một niệm, dạo khắp các cơi Phật). Trong phần trước, chúng tôi đă chỉ ra, một người sống trong thế gian chẳng thể thiếu phước báo. Trong kinh, chúng ta thấy chư Phật Như Lai, có những vị Phật giáo hóa quốc độ rất to lớn, phước báo to lớn. Cũng có vị quốc độ giáo hóa rất nhỏ, [chỉ là] một đại thiên thế giới, phước mỏng! V́ sao phước có dầy, mỏng? Do lúc tu nhân tích lũy công đức khác nhau! Giống như nay chúng ta sanh vào nhân gian, sống cùng một thời gian, được làm thân người trong khu vực này, sống chung với nhau, “dẫn nghiệp” như nhau, đó là do cái nhân lành trong đời quá khứ đă tu Ngũ Giới, Thập Thiện; nhưng “măn nghiệp” khác nhau! Măn nghiệp là ǵ? Trong đời quá khứ, mỗi người tu phước huệ khác nhau, có người phú quư, có kẻ nghèo hèn, khác nhau, chẳng phải là ông trời thiếu công bằng, mà do chúng ta mỗi người tu khác nhau. Do vậy, nói chung, trong khắp pháp giới hư không giới, y báo và chánh báo của tất cả hết thảy chúng sanh, không có ǵ chẳng phải là tự làm, tự chịu! Thật sự lănh hội sẽ hiểu rơ ràng, chẳng c̣n oán trời hờn người! Đời quá khứ [chính ḿnh] đă thiếu sót, chẳng nghiêm túc tu tập, nay đă hiểu rơ, nay nghiêm túc tu th́ có c̣n kịp hay không? Vẫn kịp, vĩnh viễn c̣n kịp! Nay chúng ta mong mỏi của cải, hăy tu, tu nơi cái nhân. Tu Tài Bố Thí, chắc chắn có của cải. Chúng ta mong thông minh và trí huệ, phải tu Pháp Bố Thí. Mong khỏe mạnh, trường thọ, phải tu Vô Úy Bố Thí, chẳng có ǵ không đạt được! Sẽ đạt được rất nhanh, chỉ cần quư vị thật sự làm. Mọi người đều tu, nhưng đạt được kết quả khác nhau, là do nguyên nhân nào? Tín tâm khác nhau, nguyện lực khác nhau. Có người tu mà bán tín bán nghi: “Có đúng hay không? Thử xem!”, nên sẽ đạt được đôi chút. Có người chẳng hoài nghi tí nào, vừa tu bèn được đại phú, đại quư. Dụng tâm khác nhau! Tâm ấy là niệm, ư niệm khác nhau trong mỗi niệm!     

Do đó, quư vị thấy tiến sĩ Giang Bổn Thắng làm thí nghiệm với nước, ông ta nói với tôi: Trong mười năm làm thí nghiệm trăm vạn lần, chẳng thấy có hai kiểu mẫu nước kết tinh hoàn toàn giống nhau! Nói lên điều ǵ? Cho thấy ư niệm của chúng ta trong mỗi niệm chẳng giống nhau! Đây là nói tới “niệm khoảnh”. Mỗi “niệm khoảnh” đều khác nhau, nên quả báo khác nhau. Nói tóm lại, chẳng thể thiếu phước, chẳng thể thiếu huệ. V́ vậy, bất luận trong Đại Thừa, hay Tiểu Thừa, Tông Môn, Giáo Hạ, Hiển Giáo, hay Mật Giáo, đức Phật đều dạy chúng ta phải phước huệ song tu. Đức Phật hết sức thương yêu mỗi người chúng ta, nhưng chẳng có cách nào ban phước huệ cho chúng ta, Ngài chẳng có khả năng ấy! [Những ǵ] Ngài đă tu vĩnh viễn thuộc về Ngài, dẫu Ngài có tốt với chúng ta đến mấy đi nữa, vẫn chẳng có cách nào ban cho, phải hiểu đạo lư này. Đức Phật dạy cho chúng ta phương pháp và lư luận tu hành nơi nhân địa, quư vị tu hành đúng lư, đúng pháp, tự nhiên đạt được quả báo. Thế giới này là y báo, thân thể chúng ta là chánh báo, cũng biến hóa trong từng sát-na, kinh gọi sát-na là một “niệm khoảnh”. Chánh báo là trạng huống thân thể, bất luận là nhục thể hay tinh thần, mỗi ngày đều khác nhau. Y báo là hoàn cảnh, hoàn cảnh hiện thời chẳng tốt đẹp, rất tệ, do nguyên nhân ǵ? Nhất định phải hiểu điều này, hoàn cảnh do nghiệp lực cảm vời, cảnh chuyển theo tâm. Đa số loài người chúng ta tâm chẳng tốt lành, tự tư tự lợi, khởi tâm động niệm đều v́ tiếng tăm, lợi dưỡng, đều là ngũ dục, lục trần, ư niệm chẳng tốt lành. Toàn là ư niệm tự tư tự lợi, tổn người, lợi ḿnh, các ư niệm ấy tạo thành sự hỗn loạn trong xă hội, tai biến nơi y báo, tạo thành t́nh h́nh này. Con người trước kia, chẳng cần nói xa xôi, [chỉ nói tới] người Trung Quốc sáu mươi năm trước; hoàn cảnh cư trụ của chúng ta trong sáu mươi năm trước tốt hơn hiện thời, nhân dân thuần phác, tâm tự tư tự lợi chẳng nghiêm trọng như hiện tại, phổ biến là [ai nấy] c̣n có tâm yêu thương, thấy người khốn khổ đều có thể ch́a tay giúp đỡ bất cứ lúc nào, thật sự giúp đỡ, con người vẫn c̣n có chút t́nh nghĩa. Hiện thời chẳng c̣n nữa, đó là ǵ? Chẳng tu phước. Con người hiện thời có phước hay không? Thật sự có phước, họ đang hưởng phước mỗi ngày, nhưng phá hỏng phước báo, hưởng thụ quá lố! Người xưa kia khác hẳn, họ tu phước, cổ nhân tu phước, nên thời gian hưởng phước lâu dài trải nhiều thế hệ. Con người hiện thời hưởng phước, chẳng tu phước, hưởng hết sạch phước th́ sẽ như thế nào? Hiện thời là lúc phước báo sắp hưởng hết, hưởng hết th́ tai họa bèn hiện tiền. Chẳng có phước nữa, v́ đă hưởng hết phước rồi!

      Tu phước th́ tu nơi đâu? Trong kinh giáo đă nói: Chư Phật Như Lai là phước điền bậc nhất. Chúng ta phải gieo phước, đến đâu để gieo phước? Cúng dường Phật, cúng dường Phật phước báo to lớn. Dùng ǵ để cúng dường? Dùng tài cúng dường ư? Chẳng phải vậy, Phật chẳng cần tài vật! Chúng ta nghĩ xem, thuở Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế, Ngài sống rất đơn giản, giữa trưa ăn một bữa, đêm nghỉ dưới cội cây, tất cả tài sản là ba y một bát, nên chẳng cần tài cúng dường! Vậy th́ dùng ǵ để cúng dường? Dùng pháp cúng dường. Pháp cúng dường là như thế nào? Vâng theo lời dạy để tu hành là cúng dường. Nếu quư vị vâng theo giáo huấn của đức Phật, nghiêm túc tu tập, phước báo của quư vị khá lớn, Phật chẳng gạt người! Phước báo ấy có phải do Phật ban cho quư vị hay không? Chẳng phải! Phật chẳng ban cho chúng ta ǵ cả! Chúng ta đạt được phước báo do đâu? Trong tự tánh vốn có đầy đủ! Huệ Năng đại sư kiến tánh bèn nói một câu: “Nào ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ”, câu ấy đă chứng minh lời đức Phật dạy trong kinh: “Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng của Như Lai”. Do Pháp Bố Thí, quư vị đạt được trí huệ từ trong tự tánh, nó vốn sẵn có, nhưng chưa khai phát. Bố Thí là công cụ, là phương pháp để khai phát; quư vị dùng công cụ ấy, phương pháp ấy để khai phát trí huệ và đức năng trong tự tánh. Đức năng là năng lực, nay chúng ta gọi nó là tài nghệ; phước báo khai phát. Trong phần sau có nói đến tướng hảo, tướng hảo là phước báo, nay chúng ta nói đến phú quư, toàn là vốn sẵn trọn đủ trong tự tánh. Chúng ta mê mất tự tánh, khởi tâm động niệm, hết thảy tạo tác đều tùy thuận tập khí phiền năo, hỏng mất rồi! Tập khí phiền năo trái nghịch Tánh Đức. Tánh Đức là thiện, tánh con người vốn thiện, tập khí phiền năo bất thiện! Bởi lẽ đó, giáo dục trở nên hết sức quan trọng, cổ thánh tiên hiền hết sức coi trọng [giáo dục], Phật, Bồ Tát càng coi trọng hơn.

      Trong tâm mục của Phật, Bồ Tát, chỉ có một ư tưởng, một nguyện vọng: Hy vọng hết thảy chúng sanh đều có thể ĺa khổ được vui. Phật, Bồ Tát là như vậy, chẳng tự tư tự lợi. Các Ngài đă đắc đại tự tại, đă ĺa khổ, được vui viên măn, nên các Ngài đến giúp đỡ chúng ta; nhưng khổ hay lạc rốt cuộc là tự làm, tự chịu, quư vị tạo nhân lành sẽ được vui sướng. Đó là chánh xác, Phật, Bồ Tát cổ vũ khích lệ quư vị. Quư vị tạo tác hết thảy những sự bất thiện, sẽ gặp phải tai nạn, bị Khổ Thọ. Phật, Bồ Tát thương xót quư vị, giúp cho quư vị thoát khổ, được vui như thế nào? Chư Phật Như Lai từ bi đến cùng cực, yêu thương hết thảy chúng sanh c̣n hơn cha mẹ, thật đó! Chúng ta phải có tâm cảm ơn, phải nghiêm túc nỗ lực học tập. Hiện thời tai nạn hiện tiền, làm thế nào để có thể hóa giải các tai nạn ấy? Người thế gian nói đến chuyện làm thế nào trốn tránh tai nạn? Phật pháp không nói đến chuyện trốn tránh, mà nói đến chuyện hóa giải. Người thật sự có Định Huệ, có sức hóa giải to tát. Người chẳng đủ Định, Huệ, sẽ được Phật, Bồ Tát gia tŕ, như trong kinh đă nói, chắc chắn là Phật, Bồ Tát gia tŕ. Nhưng đối với sự gia tŕ của Phật, Bồ Tát, chúng ta phải hiểu, trong quá tŕnh học tập nhiều năm như vậy, chúng tôi biết chư Phật, Bồ Tát gia tŕ chúng ta, bất luận là trí huệ hay đức tướng, các Ngài có thể gia tŕ toàn là tương đối. Cũng có nghĩa là chúng ta có một phần tu tŕ, được Ngài gia tŕ thêm một phần, cảm ứng là như vậy đó! Chúng ta có mười phần tu tŕ, sẽ được chư Phật Như Lai gia tŕ mười phần. Chẳng phải là Phật có ư đối xử tốt với kẻ này, đối xử kém hơn đối với kẻ kia, chẳng phải vậy! Quư vị hành nhiều, Phật gia tŕ nhiều; hành ít, Ngài gia tŕ ít. Đối ứng theo tỷ lệ thuận, chuyện là như thế đó! Hành nhiều, chẳng thể gia tŕ ít; hành ít, cũng chẳng thể gia tŕ nhiều. Chúng ta liễu giải chân tướng sự thật, sẽ nghiêm túc nỗ lực tu tập. Tu là làm, tu là sửa đổi, sửa đổi những sai lầm, đó là Tu! Do đó, nhất định phải hiểu rất rơ ràng, hiểu rất rành rẽ hai chữ “tu hành”, nó chẳng phải là mê tín. Tư tưởng của chúng ta sai lầm, bèn tu chỉnh tư tưởng. Ngôn ngữ và tạo tác của chúng ta sai lầm, hăy nương theo tiêu chuẩn do đức Phật đă nói để tu chỉnh, đó mới là tu hành. Tu hành chẳng phải là niệm kinh, chẳng phải là bái sám, mà là thật sự thực hiện, tu ở chỗ nào? Tu nơi khởi tâm động niệm, đó là ǵ? Đó là tu từ căn bản, hiệu quả vô cùng to lớn.

      V́ lẽ đó, tu hành phải t́m được cội rễ. Không tu từ cội rễ, hiệu quả chẳng lớn, dùng bất cứ đường lối nào cũng đều chẳng [có hiệu quả] to lớn. Cội rễ là ǵ? [Cội rễ của] pháp thế gian và xuất thế gian đều là hiếu đạo, hiếu thuận cha mẹ; v́ thế, chúng ta là người tu hành chân chánh th́ phải khởi sự từ chỗ này! Người nếu chẳng hiếu thảo với cha mẹ, cũng giống như là đức hạnh của quư vị thiếu căn bản. Trong hai câu đầu của Tịnh Nghiệp Tam Phước, đức Phật dạy chúng ta: “Hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng”, v́ sao? Chúng ta có được thân mạng từ cha mẹ, do cha mẹ ban cho chúng ta. Huệ mạng của chúng ta do thầy mà có, thầy giúp chúng ta phá mê khai ngộ. Quư vị thấy một đằng là hiếu, hiếu thảo với cha mẹ; một đằng là kính, kính trọng thầy, tôn sư trọng đạo. Người Hoa rất coi trọng thầy, coi thầy chẳng khác ǵ cha mẹ của chính ḿnh. Quư vị có thể đọc điều này từ sách Nghi Lễ[6] và Lễ Kư. Trong xă hội, nếu ai nấy đều là hiếu tử, mỗi người đều là học tṛ ngoan, xă hội sẽ an tường, ḥa b́nh, nơi ấy chẳng có tai nạn. Đúng là mưa ḥa, gió thuận, trúng mùa, nhân dân an lạc, nhà nhà hạnh phúc mỹ măn, thật đấy, chẳng giả đâu nhé! Chỉ cần tu tốt đẹp hai cội rễ ấy! Phật, Bồ Tát, thánh hiền đă nêu ra giềng mối ấy, thực hiện ḷng hiếu thảo đối với cha mẹ như thế nào? Chúng ta có thể thực hiện tốt đẹp Đệ Tử Quy th́ không chỉ là có thể hiếu thân, mà c̣n là tôn sư tốt đẹp. Nếu lại có thể thực hiện Cảm Ứng Thiên, cội rễ càng sâu hơn! Cảm Ứng Thiên giúp cho cội rễ của quư vị sâu hơn. Thập Thiện Nghiệp có thể giúp cho cội rễ ấy trở thành căn bản để thành Phật, căn cội càng sâu hơn. Chúng ta suy nghĩ sẽ thấy [các cội rễ đó] trọng yếu dường ấy! Trung Quốc từ xưa tới nay đă mấy ngàn năm đều vun bồi ba cội rễ ấy........ Nho, Thích, Đạo là tinh thần lập quốc của Trung Hoa. Nếu chúng ta bỏ mất, tai nạn sẽ lập tức hiện tiền. Nếu nói theo chánh báo, tức là thân thể của chúng ta, th́ [tai nạn là] bị bệnh tật. Tai nạn của cá nhân chúng ta là đau khổ, tai nạn nơi xă hội là bất an, tai nạn nơi núi, sông, đại địa là tai biến. Hôm nay, tôi nghe nói núi lửa ở Tô Môn Đáp Lạp (Sumatra) của Ấn Nê (Indonesia) bùng nổ, cũng khá nghiêm trọng. Động đất, sóng thần, hạn hán, lụt lội, ôn dịch toàn bộ đều xuất hiện, chúng ta đă vi phạm giáo huấn của thánh hiền! Giáo huấn thánh hiền toàn là Tánh Đức trong tự tánh. Vi phạm Tánh Đức, th́ tai nạn ǵ cũng đều xuất hiện.

      Do đó, chẳng thể không tu phước, chẳng thể không tu huệ. Ba nhà Nho, Thích, Đạo đều dạy chúng ta cầu phước, cầu huệ. Cuối cùng, phải cầu sanh Tịnh Độ th́ phước huệ của quư vị mới có thể viên măn. Chẳng cầu sanh Tịnh Độ, phước huệ chẳng viên măn. Được oai thần của Phật gia tŕ, nên mới xuất hiện thần thông diệu dụng chẳng thể nghĩ bàn như thế, đúng là chẳng thể nghĩ bàn, thần thông diệu dụng chân thật. “Ư nhất niệm khoảnh, biến du Phật độ” (trong khoảng một niệm, dạo khắp các cơi Phật), dạo khắp các cơi Phật là tu huệ và tu phước chân thật. V́ quư vị đến gặp Phật, cúng dường Phật, dùng ǵ để cúng dường? Tâm cung kính, tâm chân thành, dùng những tâm ấy để cúng dường. Quư vị được Phật lực gia tŕ, bèn có phước báo; cung kính nghe Phật giảng kinh, thuyết pháp, y giáo phụng hành, trí huệ mở mang, đó là cầu huệ. V́ thế, vô lượng phước huệ, phước huệ lớn nhất tu nơi đâu? Tu trong Phật môn. Rời khỏi Phật môn, làm sao quư vị có thể tu phước báo như thế? Làm sao có thể thành tựu trí huệ to lớn như thế?

Phật giáo ở Ấn Độ, thuở ấy, tổ tiên, tức đế vương của quốc gia là Hán Minh Đế, theo lịch sử ghi chép, đă phái đặc sứ sang Tây Vực t́m kiếm, nghe ngóng khắp nơi, nơi nào có cao tăng, có đại đức, bèn lễ thỉnh họ đến Trung Quốc. Đă tới Trung Quốc, đế vương bèn bái họ làm thầy, đế vương làm đệ tử, nên [tăng sĩ] đến Trung Quốc với thân phận quốc sư, giúp đỡ đế vương giáo hóa chúng sanh, nên người Hoa mới có phước báo to như thế, chớ nên không biết đều này. Đến thế giới Cực Lạc, phước báo ấy viên măn, v́ sao? Người ấy có thể dạo khắp các cơi Phật. Trong thế gian này, gặp một vị Phật rất vất vả; đến thế giới Cực Lạc, mỗi ngày quư vị đều có thể dạo khắp vô lượng vô biên cơi nước của chư Phật; quư vị nói xem mỗi ngày tu phước báo to cỡ nào! Trong thế gian này, chúng ta tu ngàn vạn năm, đều chẳng bằng tu một ngày trong thế giới Cực Lạc. Nếu chúng ta mong tu đại phước, đại huệ chân chánh, chớ nên coi thường, bỏ qua thế giới Cực Lạc. Trước kia không biết th́ c̣n có thể dung thứ, nay đă biết, đây là thật, chẳng giả! Câu cuối cùng là “phi Nhị Thừa sở năng trắc” (chẳng phải là Nhị Thừa có thể suy lường được), Nhị Thừa là A La Hán và Bích Chi Phật, là Tiểu Thừa. Đối với các vị Bồ Tát, tức là các vị đại Bồ Tát dự hội, hàng Nhị Thừa chẳng có cách nào suy lường trí huệ và phước đức của các Ngài, rốt cuộc to cỡ nào họ chẳng biết. Kinh văn đến chỗ này là nói về đức tự lợi của các vị đại sĩ, chúng ta học tới đây.

      Phần kinh văn tiếp theo là lợi tha. Quư vị thấy đă tự lợi rồi mới có thể lợi tha, chính ḿnh chưa đạt được th́ làm sao có thể giúp đỡ người khác? Đối với đoạn kinh văn này, đây là một đoạn lớn, trong một đoạn lớn này có rất nhiều đoạn ngắn, khi chúng tôi đọc đều đọc ra hết. Đây là phần lợi tha, trong các đức lợi tha có tất cả sáu đoạn, đoạn thứ nhất là “diệu hạnh hiển Thật”. Kinh văn như sau:

 

      Đắc Phật biện tài, trụ Phổ Hiền hạnh, thiện năng phân biệt chúng sanh ngữ ngôn, khai hóa hiển thị chân thật chi tế, siêu quá thế gian chư sở hữu pháp.

  得 佛 辯 才。住 普 賢 行。善 能 分 別 眾 生 語 言。開 化 顯 示 真 實 之 際。超 過 世 間 諸 所 有 法。

(Đắc biện tài của Phật, trụ trong hạnh Phổ Hiền, khéo có thể phân biệt ngôn ngữ của chúng sanh, khai hóa phô bày lẽ chân thật, vượt trội tất cả các pháp thế gian).

 

      Đến đây là một đoạn, đoạn này là Diệu Hạnh Hiển Thật. Dưới đây là đoạn thứ hai:

 

      Tâm thường đế trụ độ thế chi đạo, ư nhất thiết vạn vật tùy ư tự tại, vị chư thứ loại tác bất thỉnh chi hữu.

心 常 諦 住 度 世 之 道。於 一 切 萬 物 隨 意 自 在。為 諸 庶 類 作 不 請 之 友。

(Tâm thường trụ chắc nơi đạo trụ thế, đối với hết thảy vạn vật tùy ư tự tại. V́ các loài làm bạn chẳng thỉnh).

 

      Đây là đoạn thứ hai “làm bạn chẳng thỉnh”, đoạn thứ ba tiếp theo là “hộ tŕ chủng tánh của Phật”.

 

       Thọ tŕ Như Lai thậm thâm pháp tạng, hộ Phật chủng tánh thường sử bất tuyệt.

受 持 如 來 甚 深 法 藏。護 佛 種 性 常 使 不 絕。

(Thọ tŕ pháp tạng rất sâu của Như Lai, hộ tŕ chủng tánh của Phật khiến cho thường tồn tại, chẳng dứt).

 

      Dưới đây là đoạn thứ tư “bi diễn tế độ”.

 

      Hưng đại bi, mẫn hữu t́nh, diễn từ biện, thọ pháp nhăn. Đỗ ác thú, khai thiện môn. Ư chư chúng sanh, thị nhược tự kỷ, chửng tế phụ hà, giai độ bỉ ngạn.

      興 大 悲。愍 有 情。演 慈 辯。授 法 眼。杜 惡 趣。開 善 門。於 諸 眾 生。視 若 自 己。拯 濟 負 荷。皆 度 彼 岸。

(Dấy ḷng đại bi, thương xót hữu t́nh, diễn Từ Biện Tài, trao pháp nhăn, lấp đường ác, mở đường lành, coi các chúng sanh giống như chính ḿnh, cứu vớt, gánh vác [khiến các chúng sanh] đều lên bờ kia).

 

      Câu dưới đây là “đức huệ tề Phật” (đức và huệ bằng Phật). Quư vị thấy đức là phước đức, trí huệ gần như bằng với Phật. Tề () có nghĩa là bằng nhau.

 

      Tất hoạch chư Phật vô lượng công đức. Trí huệ thánh minh, bất khả tư nghị.

   悉 獲 諸 佛 無 量 功 德。智 慧 聖 明。不 可 思 議。

      (Ắt đạt được vô lượng công đức của chư Phật, trí huệ thánh minh chẳng thể nghĩ bàn).

 

      Câu sau đây là tổng kết.

 

Như thị đẳng chư đại Bồ Tát, vô lượng vô biên, nhất thời lai tập.

      如 是 等 諸 大 菩 薩。無 量 無 邊。一 時 來 集。

      (Các vị đại Bồ Tát như thế, vô lượng vô biên, cùng lúc nhóm đến).

 

      Ở đây đă nói lời chân thật. Các vị Bồ Tát đến tham gia pháp hội không chỉ là một vạn hai ngàn! Một vạn hai ngàn là [những vị] nhân gian chúng ta trông thấy. Mắt thịt của chúng ta chẳng thấy các vị đại Bồ Tát nhiều vô lượng vô biên, từ mười phương thế giới đến, đều tham dự sự kiện này. Sự kiện lớn lần này chính là Thích Ca Mâu Ni Phật v́ chúng ta diễn nói kinh Vô Lượng Thọ, giới thiệu Tây Phương Cực Lạc thế giới.

Tiếp theo đây là lời chú giải của lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ. Câu đầu tiên trong kinh văn là “đắc Phật biện tài, trụ Phổ Hiền hạnh”: “Biện tài giả, thiện xảo tuyên thuyết pháp nghĩa chi tài năng” (Biện tài là tài năng khéo léo tuyên nói pháp nghĩa), giải thích Biện Tài là ǵ. Nay chúng ta nói Thiện là hết sức tốt đẹp, rất xảo diệu, có thể nói nghĩa lư Phật pháp rất rơ ràng, nói rất minh bạch, khiến cho mọi người đều có thể nghe hiểu, đều có thể sanh khởi tín tâm, đó là Biện Tài, chẳng phải là biện tài tầm thường, mà là biện tài của Phật!

Chúng ta xem lăo cư sĩ trích dẫn kinh luận, “thử tắc Tịnh Ảnh Sớ sở vị: Ngôn năng biện liễu, ngữ năng tài xảo” (đây chính là như Tịnh Ảnh Sớ đă nói: “Ngôn th́ biện luận rành rẽ, ngữ th́ khéo léo”). “Ngôn năng biện” tức là biện định, “liễu” () là hiểu rơ. [Xét theo] ngôn ngữ th́ lời lẽ có năng lực phô bày sự tài hoa, hay khéo của người ấy. Đây là tán thán sự giảng kinh, giáo học của Thích Ca Mâu Ni Phật. Tuy chúng ta chẳng đích thân tham gia pháp hội này, nhưng đọc những kinh điển đă được phiên dịch, có thể hiểu đại lược các ư nghĩa ấy. Thuở ấy, đức Thế Tôn thuyết pháp, giảng kinh, dạy học suốt bốn mươi chín năm, chư vị nhất định phải biết Ngài chẳng có sách giáo khoa, chẳng có kinh bổn, thứ ǵ cũng chẳng có. Hằng ngày đối diện đại chúng, lăo nhân gia liền giảng, giảng suốt bốn mươi chín năm chẳng trùng lặp. Ngài giảng ǵ? Chúng ta dùng một câu để nói rơ, Ngài giảng chân tướng của vũ trụ và nhân sinh! V́ sao Ngài giảng hay như vậy, giảng có thứ lớp như vậy, ghi chép lại thành văn chương hay khéo như vậy? Đó là ǵ? Những điều Ngài đă chứng đắc. Ngài giới thiệu thế giới Cực Lạc với chúng ta. Chẳng biết Ngài đă đến thế giới Cực Lạc bao nhiêu lần, rất quen thuộc, Ngài giảng giải có cần dùng bài giảng soạn sẵn hay không? Chẳng cần! Trong pháp hội này liền đặc biệt giới thiệu thế giới Cực Lạc.

      Nguồn gốc của kinh điển là sau khi Thích Ca Mâu Ni Phật diệt độ, tức là sau khi lăo nhân gia đă khuất bóng, các học tṛ đă dựa theo kư ức viết ra, truyền lại cho hậu thế, trở thành kinh điển. Những thứ đă giảng trong bốn mươi chín năm rất nhiều, trong các phần trước, tôi đă từng giới thiệu, ngài A Nan là nhân vật chủ yếu kết tập kinh điển, v́ Ngài đảm nhiệm việc trùng tuyên, có trí nhớ tốt, những ǵ Ngài đă nghe đều có thể ghi nhớ, chẳng quên mất. Nói theo cách bây giờ, Ngài cũng là một bậc thiên tài, chẳng phải là người b́nh phàm. Phụ trách chủ tŕ chuyện này là tôn giả Đại Ca Diếp, là vị chịu trách nhiệm chánh yếu của hoạt động này. A Nan là chủ giảng, năm trăm vị A La Hán đều là đồng học, đều là học tṛ đức Phật, các Ngài đến chứng minh, đến nghe mỗi ngày. Nghe lời A Nan nói, nếu không có ai phản đối, bèn ghi lại. Nếu có một vị phản đối, liền gạt bỏ câu ấy, nhằm giữ chữ tín với đời sau: Lời A Nan đă nói là thật, chẳng giả. “Như thị ngă văn” (ta nghe như thế này), những điều tôi nói đều do tôi đích thân nghe Thích Ca Mâu Ni Phật nói, chẳng dám thêm hay bớt chút nào lời Thích Ca Mâu Ni Phật, chẳng có! Hoàn toàn nói đúng như thế. Đức Phật nói như thế nào, Ngài liền nói như thế ấy, ghi chép lại, trở thành kinh điển, chúng ta phải hiểu rơ chuyện này. V́ thế, [kinh điển của] đức Phật là giáo dục, chẳng giống các tôn giáo khác, kinh văn từ trên trời giáng xuống, người hiện thời chẳng tin điều ấy, v́ sao? Hiện nay trên trời chẳng rớt kinh văn xuống, rất khó tin tưởng! Phật pháp chẳng hề nói như vậy, lời thầy nói được kết tập thành kinh tạng. Người học đời sau, từ đời thứ ba trở đi, thứ ba sau này đều là chiếu theo kinh điển để học tập, nghe người thuộc thế hệ trước chỉ dạy, đời đời lưu truyền, chánh pháp tồn tại lâu dài trong thế gian. Phật pháp hưng vượng dựa vào điều này; chẳng cậy vào tạc tượng Phật, xây chùa miếu, chẳng phải vậy, chẳng dính dáng đến những điều ấy. Thuở Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế, một đạo tràng cũng không có, ngay cả một túp lều tranh cũng không nghe nói tới, chúng ta nhất định phải hiểu rơ điều này th́ học Phật mới có thể học được này nọ.

      “Hựu Gia Tường Pháp Hoa sớ viết” (lại nữa, bộ Pháp Hoa Sớ của ngài Gia Tường có nói), tức là trong chú giải kinh Pháp Hoa của Gia Tường đại sư, Ngài đă giải thích Biện Tài như sau: “Tốc tật ứng cơ danh Biện, ngôn hàm văn thái viết Tài. Thử tắc dĩ năng tấn tốc ứng cơ, phương danh Biện Tài dă” (“Đáp ứng nhanh chóng từng căn cơ là Biện, lời lẽ bóng bảy là Tài”. Như vậy th́ có thể nhanh chóng thích ứng với từng căn cơ th́ mới được gọi là Biện Tài). Nói theo cách này, nay chúng ta gọi điều này là “năng lực ứng biến”, người khác nêu ra câu hỏi, bèn chẳng cần suy tư, lập tức giải đáp. Nói rơ người ấy có trí huệ, có học thức phong phú, cho nên mới có năng lực như vậy, biện tài mẫn tiệp. “Hội Sớ viết” (sách Hội Sớ nói), sách Chú Giải trích dẫn Hội Sớ rất nhiều, “ngôn âm khai Hoặc vi Biện, tùy cơ xảo diệu vi Tài, vô bất giai xuất ư thánh trí” (ngôn âm dứt Hoặc (phiền năo, mê hoặc) là Biện, tùy cơ hay khéo là Tài, không điều ǵ chẳng phát xuất từ thánh trí), cách giải thích này rất hay. “Tam sớ chi trung, thử thuyết vi thượng” (Trong [các thuyết của] ba bộ sớ, thuyết này hay nhất). Mỗi câu, mỗi chữ do đức Phật nói ra đều nhằm giúp chúng ta khai trí huệ. “Khai Hoặc”: Hoặc () là mê hoặc; “khai Hoặc” là phá mê hoặc, điều này được gọi là Biện (), khéo léo tùy thuận căn cơ là Tài (). Căn tánh của chúng sanh khác nhau, trong kinh Phật thường dùng từ ngữ “thượng, trung, hạ tam căn”. Thượng căn là lợi căn, người này rất thông minh, vừa chỉ điểm liền ngộ, hiểu rơ. Trung hạ căn kém hơn một chút. V́ thế, đức Phật dạy học cũng dùng ba loại phương pháp: Chỉ dạy kẻ thượng căn, họ hiểu ngay; đối với kẻ trung căn, quư vị chỉ dạy họ chẳng hiểu, ắt phải giảng giải rơ ràng, rành mạch, họ mới hiểu. Người hạ căn dẫu giảng nhiều đến mấy, họ chẳng tin tưởng, hạng hạ căn là như vậy. Làm thế nào? Đưa ra chứng cứ. Đó gọi là “tam chuyển pháp luân”, tức thị chuyển, khuyến chuyển, tác chứng chuyển, [khiến cho] họ tin tưởng. Nếu đă nêu chứng cứ mà họ vẫn không tin, chẳng có cách nào hết, như vậy là kẻ ấy chẳng có duyên với Phật, Phật chẳng có cách nào độ kẻ ấy. V́ vậy, đức Phật dùng ba thứ phương pháp ấy để tiếp dẫn ba thứ căn cơ bất đồng, đó là biện tài của Như Lai. Bất luận là thị chuyển, khuyến chuyển, hay tác chứng chuyển đều nương cậy trí huệ; không có trí huệ sẽ chẳng thể làm được! Từ kinh điển, chúng ta thấy Thích Ca Mâu Ni Phật cùng đại chúng đối đáp. Quư vị thấy người ta nêu lên câu hỏi, đức Phật giải đáp như thế. Đặc biệt là trong hội Lăng Nghiêm, gần như từ đầu đến cuối đều là biện luận, người nêu câu hỏi rất hay, đức Phật trả lời càng khéo léo hơn nữa. Do đó, cổ nhân gọi kinh Lăng Nghiêm là “khai trí huệ Lăng Nghiêm” rất có lư. Quư vị nghe các Ngài biện luận bèn khai trí huệ.

      Cụ Hoàng Niệm Tổ nói đối với ba thứ trên đây, tức là đối với ba cách nói trong ba bộ chú giải, cách nói của Hội Sớ hay nhất. Nói cách khác, trọng yếu nhất trong Phật pháp, chúng ta phải ghi nhớ, là phá mê khai ngộ. Hội Sớ nói đến chỗ này, phá mê khai ngộ! Không thể giúp chúng ta phá mê khai ngộ, sẽ chẳng phải là biện tài giỏi, nhất định phải giúp chúng ta phá mê khai ngộ. Mỗi ngày đều có một chút tiểu ngộ, ngày hôm ấy chẳng luống uổng. Cổ nhân nói “tích tiểu ngộ thành đại ngộ”, lại tích lũy đại ngộ thành đại triệt đại ngộ. Giáo Hạ gọi [đại triệt đại ngộ] là đại khai viên giải. Đại khai viên giải và “đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh” của Thiền Tông có cùng một cấp bậc. Một đằng là từ tham Thiền mà kiến tánh, một đằng là do nghe Giáo mà kiến tánh. Minh tâm kiến tánh do nghe Giáo được gọi là “đại khai viên giải”. Niệm Phật hoặc niệm chú cũng có thể đạt đến đại triệt đại ngộ, nên trong Tịnh Độ Tông gọi chuyện này là Lư nhất tâm bất loạn, Lư nhất tâm bất loạn là đại triệt đại ngộ. Do đó, quư vị thấy Tông, Giáo, Tịnh Độ danh xưng khác nhau, nhưng cảnh giới là cùng một chuyện, đều là minh tâm kiến tánh. Chúng ta hiểu rơ đạo lư này, liễu giải chân tướng sự thật; trước hết, phải suy xét căn tánh của chính ḿnh là ǵ. Tham Thiền đ̣i hỏi căn tánh thượng thượng thừa, căn tánh thượng thượng thừa là ǵ? Đối với hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian đều thấy rất đạm bạc, cũng có nghĩa là người ấy chẳng có phân biệt, chấp trước ǵ, người như vậy mới có thể tham Thiền. Người phân biệt, chấp trước, so đo rất nhiều, chắc chắn là tham Thiền chẳng thể khế nhập. Học Giáo là phổ biến nhất, tuyệt đại đa số mọi người, đó là hạng căn tánh bậc trung; do đó, Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh, giáo học bốn mươi chín năm. Phương pháp giáo học của nhà Thiền chỉ truyền cho ngài Đại Ca Diếp, rất ít người đạt được. Đại đa số là học Giáo, căn tánh của chúng ta trong xă hội hiện tại cũng là như thế. C̣n có những người đối với họ, Giáo quá rắc rối, quá nhiều, nên cổ nhân có tỷ dụ “vào biển đếm cát”, quá phiền phức, có thể đơn giản hơn hay không? Đơn giản hơn một chút là Tịnh Độ, Mật và Tịnh Độ tương đối đơn giản đôi chút. Mật và Tịnh Độ đều tu nhất tâm bất loạn. Chúng ta nói tới Giác, Chánh, Tịnh, th́ chỉ có Thiền Tông là giảng về Giác, tức giác ngộ, Giáo Hạ giảng về Chánh, tức chánh tri chánh kiến, Tịnh Độ và Mật giảng Tịnh, tu tâm thanh tịnh.

      Nhưng Tịnh Độ Tông c̣n thù thắng, c̣n thuận tiện hơn Mật Tông. Nghi quỹ của Mật Tông quá nhiều, học cũng rất phiền phức. Chẳng giống như Tịnh Độ Tông là một câu Nam-mô A Di Đà Phật, quư vị thấy thuận tiện lắm, lúc nào cũng đều có thể niệm, niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng, hoặc niệm thầm trong tâm đều được, đó là một phương pháp thuận tiện nhất, học dễ dàng nhất, thành tựu cao nhất. Niệm th́ chư vị phải ghi nhớ, phải dùng một câu A Di Đà Phật này để thay thế tất cả hết thảy vọng niệm của chúng ta. Mục tiêu thật sự của niệm Phật ở chỗ này. Không niệm Phật liền suy nghĩ loạn xạ. Ta thay thế những ư niệm tạp loạn bằng một câu Phật hiệu, đó là niệm Phật. Niệm niệm đều là A Di Đà Phật, ngoài A Di Đà Phật ra, chẳng có vọng niệm khác. Vọng niệm khác mới dấy lên, bất luận là thiện niệm hay ác niệm, chẳng sao cả, đều chẳng cần quan tâm đến nó, ngay lập tức đổi thành A Di Đà Phật, khéo là khéo ở chỗ này! Thích Ca Mâu Ni Phật thành Phật như thế nào? Niệm Phật thành Phật, chính Ngài nói như thế, hoàn toàn tương ứng với đạo lư như trong Giáo Hạ đă nói. “Hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng”. Tâm ta muốn thấy Phật, bèn thành Phật. Trong tâm muốn thành Bồ Tát bèn thành Bồ Tát. Trong tâm mỗi ngày mong phát tài, không tốt! V́ sao? Quả báo của [tâm niệm mong] phát tài là ngạ quỷ đạo. Tham tài là tâm tham, tâm tham đọa ngạ quỷ, sân khuể đọa địa ngục, ngu si đọa súc sanh. Quư vị thấy đó là chánh báo của chúng ta, đó là Tam Độc phiền năo. Nếu chúng ta niệm niệm ứng với Tam Độc, tương ứng với tham, sân, si, tiền đồ của quư vị là một bầu hắc ám, đi vào trong tam ác đạo. V́ thế, đức Phật dạy chúng ta phương pháp này mầu nhiệm lắm, bất luận là tham niệm, sân niệm, hay si niệm, hễ niệm vừa dấy lên bèn A Di Đà Phật. Niệm đến mức chẳng dấy niệm vẫn là A Di Đà Phật. Trong tâm trừ A Di Đà Phật ra, điều ǵ cũng đều chẳng có, quư vị bèn thành công, đắc Niệm Phật tam-muội. Đắc Niệm Phật tam-muội, há lẽ đâu chẳng văng sanh!

      Người b́nh thường chẳng niệm Phật, hoặc công phu niệm Phật rất kém, kém là sao? Xen tạp quá nhiều! Trong Phật hiệu, xen tạp rất nhiều vọng tưởng tạp niệm, cuối cùng gặp thiện duyên thù thắng, vẫn có thể văng sanh. Có những người thấy vậy, [cảm thấy] dường như rất thiếu công bằng! Tôi dụng công hơn kẻ ấy, niệm Phật hằng ngày, suốt đời chẳng thiếu công khóa sáng tối, v́ sao tôi chẳng văng sanh? V́ sao kẻ ấy có thể văng sanh? Phải hiểu đạo lư này. Phàm phu chúng ta chỉ biết một đời này, chẳng biết đời quá khứ; người văng sanh ấy có thể là đời này chẳng siêng năng như vậy, nhưng đời đời kiếp kiếp trong quá khứ đă tích lũy thiện căn sâu dầy, nên lúc lâm chung mới gặp thiện duyên, một niệm cuối cùng thanh tịnh. Thật sự có thể văng sanh hay không là do một niệm cuối cùng. Trong khoảng một niệm, niệm cuối cùng khi quư vị tắt hơi là A Di Đà Phật, chắc chắn văng sanh! Kinh đă giảng chuyện này rơ ràng, nguyện thứ mười tám, “lúc lâm chung, một niệm hay mười niệm quyết định được văng sanh”, đó là bổn nguyện của A Di Đà Phật. V́ thế, ai may mắn dường ấy? Lúc lâm chung, gặp gỡ thiện duyên ấy? Rất khó! Quá khó khăn, c̣n khó hơn mua vé số trúng giải đặc biệt! Do vậy, trong lúc thường ngày, chúng ta vẫn phải cố gắng, chăm chút vun bồi, để đến lúc lâm chung, thật sự nắm chắc. Mấu chốt đều là lúc thường ngày có thể buông xuống, điều này rất quan trọng! Nếu b́nh thường chẳng thể buông xuống được, đó là chướng ngại lớn nhất của chúng ta. B́nh thường điều ǵ cũng đều phải xem nhẹ, thật sự có thể làm giống như cổ nhân đă nói: “Chẳng tranh với người, không cầu nơi đời”, đó là tốt đẹp. Suốt đời tùy duyên sống qua ngày, chẳng có ǵ không tốt đẹp, dưỡng thành [thái độ] không có ǵ chẳng hoan hỷ, chúng ta mới nắm chắc văng sanh! Đối với hết thảy người, sự, vật trong thế gian này, chúng ta tôn trọng, lễ kính, quyết định chẳng tham luyến, quyết định chẳng oán hận. Tu ǵ? Tâm thanh tịnh, tâm b́nh đẳng, chứ giác rất khó! Chỉ cần tu hai thứ này, quyết định được văng sanh! Vĩnh viễn giữ ǵn sự thanh tịnh và b́nh đẳng của chính ḿnh, đó là ǵ? Đó là công đức. Phật môn thường nói “tŕ giới có công”, tŕ giới tốt đẹp, “tam-muội là đức”, quư vị đắc tam-muội, tam-muội là Định. V́ vậy, do Giới đắc Định. Giới đă có công, Định phải đạt được. Tu Định rất khá, tu Định là công, trí huệ đă khai, khai huệ là đức, đó là công đức. Công đức khác phước đức; phước đức chẳng thể liễu sanh tử, không thể thoát khỏi lục đạo luân hồi, nhưng công đức có thể. V́ thế, văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới đ̣i hỏi công đức, kinh đă giảng rất rơ ràng, chẳng phải là phước đức! Kinh Di Đà đă dạy: “Chẳng thể do chút thiện căn, phước đức, nhân duyên, mà được sanh về cơi ấy”, thiện căn cộng với phước đức liền biến thành công đức chân thật. Nếu chỉ có phước đức, chẳng có thiện căn, sẽ chẳng thể văng sanh, chẳng thoát ly lục đạo, chúng ta chớ nên không hiểu rơ điều này!

      Chúng ta xem câu tiếp theo: “Hựu Tịnh Ảnh Sớ vị Như Lai đắc Tứ Vô Ngại Trí” (Tịnh Ảnh Sớ lại nói Như Lai đắc bốn món vô ngại trí). Bốn món vô ngại trí ấy c̣n gọi là Tứ Vô Ngại Biện Tài. “Như Lai do vô ngại chi trí, hưng vô ngại chi tứ biện” (Như Lai do trí vô ngại mà hưng khởi bốn món Vô Ngại Biện Tài). Phật mới có bốn thứ biện tài vô chướng ngại, nên bốn thứ biện tài đều xuất phát từ trí. Nếu chúng ta muốn đắc bốn thứ Vô Ngại Biện Tài, phải học từ đâu? Từ trí. Trí do đâu mà có? Trí từ Định [mà có]. Định do đâu mà có? Định từ Giới. Quư vị liền biết tŕ giới là căn bản. Do Phật giáo hiện thời suy vi, đúng là suy đến tận đáy; nếu chúng ta thật sự phát tâm mong làm đệ tử Phật, chúng ta có nghĩa vụ, có sứ mạng, có trách nhiệm hưng khởi Phật giáo. Như thế nào th́ mới có thể hưng vượng? Nhất định phải y giáo phụng hành, Thích Ca Mâu Ni Phật dạy chúng ta làm như thế nào, chúng ta thật thà làm theo, thật thà nghe lời, đúng là thật thà, nghe lời, thật sự làm theo th́ được, sẽ có thể hưng khởi Phật giáo! Khi Thích Ca Mâu Ni Phật diệt độ, tôn giả A Nan hỏi bốn chuyện, trong ấy có một chuyện là: “Thuở Phật tại thế, mọi người chúng con đều nương vào Phật làm thầy, nay Phật đă khuất bóng, chúng con nên nương vào ai làm thầy?” Điều này có quan hệ rất lớn với chúng ta. Đức Phật chẳng chỉ định người nào, chỉ nói hai câu: “Lấy giới làm thầy, lấy khổ làm thầy”. Có thể tŕ giới, có thể chịu khổ, liền giống như ở bên cạnh Thích Ca Mâu Ni Phật chẳng khác ǵ! Trước kia theo Phật, đúng là phải chẳng sợ khổ, phải tŕ giới. V́ thế, từ kinh điển, chúng ta thấy Tăng đoàn của đức Phật gồm một ngàn hai trăm năm mươi lăm người, là một đoàn thể khá lớn, có thể sống ḥa thuận, đối đăi b́nh đẳng, chiếu cố lẫn nhau, quan tâm lẫn nhau, hỗ trợ hợp tác, cậy vào ǵ? Giới luật! Mỗi cá nhân đều nghiêm túc tuân thủ lời răn dạy của đức Phật, chẳng vi phạm, đoàn thể ấy là đoàn thể Lục Ḥa Kính. “Kiến ḥa đồng giải” là mỗi ngày nghe kinh, kiến lập trên điều này, “giới ḥa đồng tu”. Hai điều này là cơ sở của Lục Ḥa Kính; chẳng có hai điều này, sẽ chẳng có cách nào đối xử ḥa thuận. Mỗi ngày nghe kinh có thể nghe đến tám tiếng đồng hồ hoặc mười tiếng đồng hồ, chúng ta có lư do để tin tưởng Tăng đoàn thuở ấy mỗi ngày nghe kinh mười tiếng đồng hồ. Đức Thế Tôn suốt bốn mươi chín năm đều như một ngày, chẳng bỏ sót ngày nào! Chính Thích Ca Mâu Ni Phật dẫn đầu “giữa trưa ăn một bữa, nghỉ dưới cội cây một đêm”, học tṛ đều giống như thầy, đúng là buông xuống vạn duyên, tâm địa thanh tịnh, b́nh đẳng, giác. Chúng ta hăy nên thường nghĩ đến, mỗi ngày chúng ta cúng dường Phật, nh́n thấy tượng Phật, nghĩ tới hành trạng thuở Ngài tại thế đă nêu gương cho chúng ta nh́n vào.

      Nay chúng ta đang nhằm thời kỳ Mạt Pháp, chẳng có giới luật; người hiện thời chẳng thể chịu khổ, có điều ǵ chẳng nhấn mạnh hưởng thụ? Hơi có một chút chẳng vừa ư, trong tâm liền bực bội, quư vị thấy tham, sân, si, mạn đều dấy lên. Có thể thấy là một chút công phu học Phật cũng chẳng có, cũng có nghĩa là chẳng có công đức, chẳng có một mảy công đức! Những ǵ đă tu là tu một chút phước đức, hiện thời đức c̣n chẳng có, tu một chút phước báo. Trong nhà Phật có một danh từ là “si phước”, do ngu si [nên là] si phước. Đức là trong phước c̣n có một chút trí huệ. Trong phước báo hiện thời chẳng có trí huệ, toàn là tham, sân, si, mạn, nghi, nên nói là “si phước”. Chúng ta muốn thật sự làm, chỉ có cách học từ Đệ Tử Quy, chẳng thể không học, không học không được! [Bắt đầu] từ Đệ Tử Quy, trong Đệ Tử Quy có một trăm mười ba chuyện. [Sách] nêu ra một trăm mười ba chuyện ấy, nhưng người học phải có năng lực “nêu một góc, suy ra ba góc kia”, cổ nhân gọi năng lực ấy là “nghe một, biết mười”, cũng là như người hiện thời nói là “học sống động, vận dụng sống động”. Quư vị thực hiện những điều đă học trong cuộc sống, thực hiện trong công việc, thực hiện trong đăi người, tiếp vật, thật sự đạt được thọ dụng, đó là ǵ? Đó là cơ sở của giới luật. Lại học Cảm Ứng Thiên, vun bồi căn cội vững vàng, ổn thỏa. Cảm Ứng Thiên là nhân quả giáo dục, sách này cũng chẳng dài, trong đó nói “thiện nhân, thiện quả; ác nhân, ác báo”, nêu tổng cộng một trăm chín mươi lăm trường hợp. Chúng ta cũng phải giống như Đệ Tử Quy, vận dụng [Cảm Ứng Thiên] trong cuộc sống hằng ngày, học sống động, vận dụng sống động. Lại học Thập Thiện Nghiệp Đạo của Phật môn sẽ chẳng khó khăn. Vun bồi vững vàng ba căn cội, giới sẽ có cội rễ. Đức Phật dạy chúng ta lấy giới làm thầy, chúng ta có thể làm được, Tam Quy, Ngũ Giới, Thập Giới, tại gia Bồ Tát Giới, xuất gia Tỳ-kheo Giới đều có thể làm được, chẳng phải là giả dối. Do Giới đắc định, tŕ giới th́ học kinh sẽ khai trí huệ. Nay chúng ta nghiên cứu kinh giáo, v́ sao chẳng khai trí huệ? Không có giới làm cơ sở! Có nền tảng là giới, tâm sẽ thanh tịnh. Tâm thanh tịnh sanh trí huệ, điều này quan trọng lắm! Trí huệ đă khai sẽ hữu dụng, chúng ta liền ĺa khổ được vui. Khổ do đâu mà có? Khổ do mê hoặc, điên đảo mà có. Lạc do đâu mà có? Lạc do giác ngộ mà có, nên trí huệ vừa khai, liền ĺa khổ được vui. Đó gọi là tâm khai ư giải, hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian, tánh, tướng, Lư, Sự, nhân, quả, quư vị đều thông đạt, hiểu rơ, lẽ đâu quư vị chẳng vui sướng? Y báo và chánh báo trang nghiêm biến hóa vô cùng, quư vị biết v́ sao chúng có thể biến, chúng biến hóa theo cách nào, quư vị đều biết toàn bộ. Quư vị biết, hiểu rơ, nên mới có thể nắm giữ, có thể giúp đỡ người khác. Họ mê, giúp đỡ họ khai ngộ, giúp họ quay lại. Đầu tiên là dùng thân giáo, nêu gương cho họ thấy, khiến cho họ đưa ra câu hỏi, quư vị bèn giải đáp, hiệu quả liền hiện tiền. Do Phật có trí huệ, chúng ta biết trí huệ do đâu mà có, căn cội của trí huệ chúng ta đều vốn có, nó ở trong tự tánh, vốn sẵn trọn đủ. Đức Phật dạy chúng ta khai phát trí huệ trong tự tánh như thế nào, những phương pháp ấy chính là Giới, Định, Huệ.

      Từ trí huệ liền hưng khởi bốn thứ Vô Ngại Biện Tài, thứ nhất là “Nghĩa Vô Ngại Biện, vị liễu tri nhất thiết chư pháp nghĩa lư, thông đạt vô trệ cố” (Nghĩa Vô Ngại Biện là biết rơ nghĩa lư của hết thảy các pháp, thông đạt chẳng úng trệ). “Liễu” là hiểu rơ, “Tri” là giác ngộ. Lư của hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian được gọi là nghĩa lư, nay người thế gian thường gọi lư này là chân lư. Nghĩa lư như cổ nhân đă nói đều là chân lư như trong hiện tại thường nói, chân thật, chẳng dối! Hết thảy các pháp do đâu mà có? Hết thảy các pháp do tự tánh mà có. Từ chỗ nào của tự tánh mà phát sanh? Từ một niệm bất giác mà phát sanh. Một niệm bất giác là một niệm mê, bất tri bất giác nổi lên một niệm. Niệm ấy tuy mê, nhưng nó vẫn chưa có phân biệt, chấp trước, dấy động một niệm ấy mà thôi. Giáo pháp Đại Thừa gọi niệm ấy là Vô Thỉ Vô Minh, tức là căn bản phiền năo, tất cả vô lượng vô biên phiền năo đều sanh từ nó, tức là sanh từ một niệm bất giác. Nếu quư vị một niệm giác, Vô Thỉ Vô Minh Căn Bản Phiền Năo đoạn trừ, hết thảy đều giác ngộ, chuyện là như thế đó. Thích Ca Mâu Ni Phật biểu diễn cho chúng ta thấy, quư vị thấy chẳng phải là Ngài thông đạt hết thảy các pháp ư? Hết thảy các pháp Ngài chưa từng học, không ai dạy Ngài. Ngài tu học mười hai năm, lúc mười chín tuổi ra ngoài tham học đến ba mươi tuổi, sở học trong mười hai năm đó chẳng phải là những ǵ Ngài sẽ giảng sau khi thành Phật. Nếu nói theo thuật ngữ hiện thời, sở học trong mười hai năm của Ngài là tri thức. Lăo nhân gia giảng kinh, thuyết pháp là trí huệ, chẳng phải là tri thức, tri thức vô dụng! Làm thế nào để có thể có Vô Ngại Biện Tài? Nó vốn sẵn có trong tự tánh. Một niệm giác, trí huệ vốn có trong tự tánh đều lưu lộ toàn bộ. Một niệm mê, trí huệ vẫn tồn tại, nhưng nó chẳng khởi tác dụng; hoặc có thể nói nó khởi tác dụng, nhưng là khởi tác dụng phản diện, tác dụng phản diện là ǵ? Là vô lượng vô biên phiền năo, là tập khí phiền năo. V́ thế, nói đến chuyện “chuyển phiền năo thành Bồ Đề”, không thể chuyển từ phiền năo, mà phải chuyển từ đâu? Chuyển từ ư niệm. Một niệm giác liền chuyển, một niệm bất giác th́ làm thế nào cũng chẳng thể chuyển được! Mấu chốt là một niệm giác, chớ nên không biết điều này. Làm thế nào để trở lại một niệm giác? Đây là một vấn đề lớn!

      Để dạy chúng ta, đức Phật mở ra nhiều pháp môn như thế, bốn mươi chín năm nhọc nhằn khổ sở nói kinh giáo nhiều như thế, chỉ có một mục đích: Không ǵ chẳng nhằm dạy chúng ta t́m ra một phương pháp khiến cho quư vị mau chóng trở lại một niệm giác. Chúng sanh căn tánh khác nhau, yêu thích, ham muốn khác nhau, nên đức Phật mở ra rất nhiều pháp môn. Quư vị thích pháp môn nào cũng đều được, môn nào cũng đều thành Vô Thượng Đạo. V́ lẽ đó, đức Phật đă nói rất tuyệt diệu: “Pháp môn b́nh đẳng, chẳng có cao thấp”, do chính quư vị chọn lựa. Chọn lựa như thế nào sẽ thành công? Thâm nhập một môn, huân tu lâu dài, bèn thành công. Nếu quư vị đồng thời học rất nhiều pháp môn, hỏng rồi, xen tạp, rối beng! Chuyện tối kỵ, đáng sợ nhất trong tu hành là tạp loạn, hễ tạp loạn th́ toàn bộ đều coi như hỏng hết rồi! Dẫu tâm tốt đẹp cách mấy, dẫu nỗ lực đến thế nào đi nữa, vẫn là tu một chút phước báo nhân thiên, chẳng có mảy may tác dụng nào đối với liễu sanh tử, đoạn phiền năo! Quư vị thấy đó, đáng tiếc quá! Nay trong hết thảy kinh giáo do đức Thế Tôn đă nói trong suốt bốn mươi chín năm, chúng ta rốt cuộc t́m được một pháp môn, nay đă hiểu rơ ràng, hiểu rành rẽ, pháp môn ấy là ǵ? Nam-mô A Di Đà Phật. Đối với những kẻ trẻ tuổi, những ai là kẻ trẻ tuổi? Những người trẻ tuổi là từ năm mươi tuổi trở xuống, hăy chăm học Giới, Định, Huệ, thật thà niệm Phật. Người ngoài năm mươi ở Trung Quốc gọi là “lăo nhân”, chẳng c̣n kịp, hăy chuyên niệm A Di Đà Phật. Đệ Tử Quy và Cảm Ứng Thiên đều chẳng cần niệm, có được hay không? Được chứ! Có thể dùng một câu A Di Đà Phật, để thay thế tất cả vọng tưởng, tập khí, quư vị sẽ thành công, đó là ǵ? Đó là Đạo Cộng Giới. Trong một câu Phật hiệu, đầy đủ Tam Học Giới, Định, Huệ. Quư vị chẳng cần t́m phiền phức, cứ một câu Phật hiệu sẽ thành tựu viên măn Giới, Định, Huệ của quư vị, tuyệt diệu tột bậc! Phật pháp là ǵ? Nam-mô A Di Đà Phật là Phật pháp. Thật sự có thể niệm mười năm, mười năm bèn khai ngộ. Từ năm mươi tuổi đến sáu mươi tuổi bèn khai ngộ. Đă khai ngộ, hễ quư vị hăy c̣n thọ mạng bèn giáo hóa chúng sanh, lại phát tâm giảng kinh, thuyết pháp chẳng khó, kinh ǵ quư vị cũng giảng được. Đến khi ấy, trí huệ của quư vị đă mở mang, quư vị bèn đại từ đại bi giảng cho hết thảy chúng sanh kinh ǵ? Khẳng định là quư vị giảng kinh Vô Lượng Thọ. V́ sao? Thời kỳ Mạt Pháp của Thích Ca Mâu Ni Phật là chín ngàn năm, chỉ có bộ kinh này có thể độ chúng sanh. Các kinh khác đều là dễ nghe, nhưng chẳng làm được. Bộ kinh này có thể làm được. Trong chín ngàn năm thời Mạt Pháp, kinh Vô Lượng Thọ là kinh bậc nhất, kinh A Di Đà là kinh bậc nhất!

      Đối với người đă ngoài năm mươi tuổi, tôi khuyên mọi người học kinh hăy nên học một bộ kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác này. Quư vị học bộ kinh này, một bộ kinh, một câu Phật hiệu, khiến cho tâm định, quyết định chẳng dao động, quyết định chẳng biến đổi, khi nào có thể thành công? Mười năm. Thật sự định th́ thứ ǵ cũng đều chẳng nghĩ tới, thật sự có thể làm như vậy, chúng ta đối chiếu với các hiệu quả thông thường, nh́n vào hiệu quả tu học th́ phải biết là bốn hay năm năm quư vị sẽ đắc tam-muội. Tam-muội là như thế nào? Tâm thanh tịnh. Quư vị đạt được sự thanh tịnh như kinh Vô Lượng Thọ thường nói, chẳng c̣n Kiến Tư phiền năo. Lại chừng hai ba năm, quư vị đắc định, nhất định khai trí huệ. Trí huệ ấy chẳng phải là đại triệt đại ngộ, nhưng là đại ngộ, chẳng phải là tiểu ngộ. Là đại ngộ th́ quư vị có thể thông hiểu một phần trong hết thảy các pháp, chẳng phải là thông suốt toàn bộ, quư vị có thể hiểu thấu suốt một phần. Chẳng hạn như nói đến Tịnh Độ Tông th́ những kinh luận có liên quan đến Tịnh Độ Tông, quư vị đều thông suốt toàn bộ. Trong thế gian này, lại tiếp tục nỗ lực, sẽ triệt ngộ. Đại triệt đại ngộ th́ sẽ thông suốt toàn bộ. Quư vị văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, sanh trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm, kinh nói thân phận và địa vị của quư vị là đại sĩ, Pháp Thân đại sĩ, có thể chứng đắc trong một đời hay không? Có thể chứ! Có gương nào hay không. Có một tấm gương như Thiện Tài đồng tử trong kinh Hoa Nghiêm là một thí dụ, hăy học theo, Ngài nêu gương tốt nhất cho chúng ta. Thiện Tài rèn luyện chính ḿnh như thế nào? Quư vị thấy Ngài ở nơi thầy, thầy Ngài là Văn Thù Bồ Tát, đă đại triệt đại ngộ trong hội của thầy, tức là đă tốt nghiệp, thầy chẳng giữ lại, bảo Ngài đi tham học. Trong hội của thầy, đại triệt đại ngộ là Căn Bản Trí, minh tâm kiến tánh, thầy bảo Ngài hăy tham học Hậu Đắc Trí. Năm mươi ba lần tham học, pháp môn khác biệt, hoàn cảnh khác biệt, văn hóa khác biệt, nhóm người khác biệt, nghề nghiệp khác biệt, nam, nữ, già, trẻ, các nghề nghiệp, Ngài đều đến xem xét, phỏng vấn, nhằm thành tựu Hậu Đắc Trí, không ǵ chẳng biết, hễ tiếp xúc bèn hiểu rơ.

      Tuy tham học, nhưng trong suốt quá tŕnh tham học, bất luận là thuận cảnh hay nghịch cảnh, thiện duyên hay ác duyên, Ngài đều có thể không khởi tâm, không động niệm, luyện công phu ấy. Công phu ấy là ǵ? Công phu ấy là Định Huệ chân thật, như như bất động là Định, hiểu rành mạch, rơ ràng là Huệ, không ǵ chẳng biết. Định lẫn Huệ học cân bằng th́ mới thật sự thành Phật, chẳng giả! Ứng dụng trong cuộc sống hằng ngày, sở học chẳng phải là vô dụng, thật sự hữu dụng! Chúng ta hiểu rơ đạo lư này, đó là Phật pháp chân thật, vận dụng nơi thân của chính ḿnh sẽ là thân tâm khỏe mạnh, vui sướng khôn sánh, trong Phật pháp nói là “pháp hỷ sung măn, thường sanh tâm hoan hỷ”, chính ḿnh đạt được điều này. Giúp đỡ người khác, chúng ta nói là “ảnh hưởng”, ảnh hưởng là ǵ? Quư vị ở nơi đây bèn có thể chuyển cảnh giới nơi này. Người nơi này tạo tội nghiệp, cảnh giới chẳng tốt đẹp, giống như hiện thời trên địa cầu có nhiều tai nạn ngần ấy, quư vị ở nơi đây chẳng có tai nạn, [các tai nạn] đều bị hóa giải, đó là chúng sanh được phước. V́ sao hóa giải? V́ phước báo của quư vị. Quư vị c̣n dạy họ. Nếu quư vị chẳng dạy họ, trong tương lai, quư vị đến nơi khác, tai nạn sẽ hiện tiền, nên quư vị phải dạy họ kỹ càng. Giáo dục là căn bản, trị tận gốc, ta đă giác ngộ, mọi người thảy đều giác ngộ; ta đă hiểu, mọi người đều hiểu rơ, thế giới này liền biến thành thế giới Cực Lạc. Thật sự hữu dụng, chẳng mê tín tí nào. Do vậy, vô lượng vô biên trí huệ, vô lượng vô biên phước báo, học từ đâu? Học trong Phật môn, học trong Tịnh Tông. Những thứ tốt đẹp như vậy, chúng ta có thể chẳng cần đến ư? Hôm nay đă hết thời gian rồi, ngày mai chúng ta sẽ bắt đầu học từ phần Tứ Vô Ngại Biện Tài.

Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa

Phần 64 hết

 



[1] Hiện thời, theo mục lục của Đại Tạng Kinh, kinh Nhân Vương Bát Nhă, danh xưng đầy đủ là Nhân Vương Hộ Quốc Bát Nhă Ba La Mật Kinh, gồm có bốn bản dịch:

- Nhân Vương Bát Nhă Kinh, một quyển, do ngài Trúc Pháp Hộ dịch vào năm 267 (tức năm Thái Thỉ thứ ba đời Tấn Vũ Đế).

- Nhân Vương Hộ Quốc Bát Nhă Ba La Mật Kinh, hai quyển, do ngài Cưu Ma La Thập dịch vào năm 401 (tức năm Hoằng Thỉ thứ ba nhà Hậu Tần).

- Nhân Vương Bát Nhă Kinh, một quyển, do ngài Chân Đế dịch vào năm 554 (tức năm Thừa Thánh thứ ba đời Lương Nguyên Đế).

- Nhân Vương Hộ Quốc Bát Nhă Ba La Mật Đa Kinh, hai quyển, do ngài Bất Không dịch vào năm 756 (tức năm Vĩnh Thái nguyên niên đời Đường Đại Tông).

Hiện thời chỉ c̣n lại hai bản dịch của ngài Cưu Ma La Thập và Bất Không. Phật môn Trung Hoa thường dùng ba kinh Nhân Vương Hộ Quốc, Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh và Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức Kinh làm “tam kinh hộ quốc” mỗi khi cầu quốc thái dân an.

[2] Kinh này có tên gọi khác là Bồ Tát Tùng Đâu Thuật Thiên Giáng Thần Mẫu Thai Thuyết Quảng Phổ Kinh, hoặc chỉ gọi tắt là Xử Thai Kinh, gồm ba mươi tám phẩm, chia thành bảy quyển, do ngài Trúc Phật Niệm dịch vào đời Hậu Tần. Trong kinh này, đức Phật v́ ngài A Nan thuật lại quá tŕnh Bồ Tát giáng thần từ thiên cung Đâu Suất vào thai mẹ, Bồ Tát ở trong thai mẹ như cung điện, mười phương Bồ Tát đều vân tập trong thai mẹ để nghe pháp không cảm thấy chật chội, mà mẹ cũng chẳng cảm thấy bị trở ngại ǵ. Điểm đặc biệt trong kinh này là cuối kinh (từ phẩm ba mươi lăm trở đi), đức Phật phó chúc Di Lặc Bồ Tát hộ tŕ kinh này, cũng như dự ngôn tám đại quốc vương sẽ phân chia xá-lợi, dựng tháp sau khi Phật nhập diệt, cũng như dự ngôn tôn giả Ca Diếp sẽ thống lănh đại chúng kết tập Kinh Tạng.

[3] Tiểu Khang là quan niệm của Nho gia về một thời đại thịnh trị, nhân dân an lạc, giàu có, chánh trị ổn định. Tuy có những biến động hoặc loạn lạc nhỏ, nhưng nh́n chung cuộc sống ổn định, ḥa b́nh, vua biết thương dân, sử dụng vương đạo để cai trị, quan lại đa số thanh liêm, phong tục thuần phác, lễ nghĩa, trừ một số ít, đại đa số dân chúng đều nhường nhịn, tuân thủ pháp luật. Nho gia thường đánh giá các đời vua Thành Thang, Châu Văn Vương, Châu Vũ Vương là Tiểu Khang. Ở đây, ḥa thượng dùng chữ “tiểu khang” với ư nghĩa tương đối b́nh trị, nhân tâm thế đạo không đến nỗi quá mức tệ hại.

[4] Đây là một thiên sách (một tiểu đoạn) trong chương Lễ Vận của sách Lễ Kư. Lễ Kư gồm 49 chương, Lễ Vận là chương thứ chín. Phần đầu của chương Lễ Vận nói về thế giới Đại Đồng, nên gọi là Lễ Vận Đại Đồng Thiên. Không rơ ai là tác giả của bộ Lễ Kư. Theo truyền thống, sách này được coi là do các môn đệ ghi chép những lời dạy về Lễ của Khổng Tử. Sách bị hủy diệt dưới thời Tần Thủy Hoàng, đầu đời Hán, học giả Lưu Hướng thu thập những thiên sách cũ c̣n sót lại, hợp thành sách Lễ Kư gồm 130 chương. Sau đó, Đới Đức giản hóa thành 85 chương, bộ này được gọi là Đại Đới Lễ Kư. Về sau, cháu Đới Đức là Đới Thánh lại giản hóa bộ Đại Đới Lễ Kư lần nữa thành 46 chương, thêm các chương Nguyệt Lệnh, Minh Đường Vị và Nhạc Kư, thành 49 chương, gọi là Tiểu Đới Lễ Kư. Đây chính là bộ Lễ Kư lưu hành hiện thời. Sách Đại Học trong Tứ Thư là một chương trong Lễ Kư.

[5] Đây là nói tới bổn nguyện của mỗi vị Phật, chư Phật và chư Bồ Tát có đại nguyện chung, chính là Tứ Hoằng Thệ Nguyện (đó là tổng cương lănh, tổng nguyên tắc). Nhằm thực hiện Tứ Hoằng Thệ Nguyện, các Ngài phát ra những nguyện riêng biệt, những nguyện ấy được gọi là Bổn Nguyện.

[6] Nghi Lễ là sách ghi chép các thứ nghi lễ tại Trung Hoa thời Tiên Tần (trước khi Tần Thủy Hoàng gồm thâu lục quốc, thống nhất Trung Hoa), chủ yếu chép về nghi lễ của hàng sĩ đại phu. Không rơ nguyên thủy sách gồm bao nhiêu chương. Bản lưu hành hiện thời do Cao Đường Sanh t́m được và biên tập vào đời Hán gồm mười bảy thiên, bao gồm phần Quan Hôn, Triều Sính (giạm hỏi), Tang Tế v.v… Tương truyền sách này do Tử Hạ (môn nhân của Khổng Tử) biên soạn. Vào thời Hán, kinh Lễ trong Ngũ Kinh chính là sách Nghi Lễ, nhưng từ đời Đường trở đi, hễ nói tới kinh Lễ th́ phải hiểu là sách Lễ Kư do Tiểu Đới (Đới Thánh) biên tập. Sách Nghi Lễ cùng với Lễ Kư và Châu Lễ hợp thành Tam Lễ trong Thập Tam Kinh của Nho Gia. Sách này được các đời chú giải khá nhiều, nhưng chỉ có các bộ Nghi Lễ Chú Sớ (do Trịnh Huyền viết vào thời Đông Hán), Nghi Lễ Sớ (do Giả Công Ngạn viết vào đời Đường) và Nghi Lễ Chiết Nghi (do Phương Bao soạn vào đời Thanh) là được sử dụng rộng răi.