Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa

淨土大經解演義

phần 9

Chủ giảng: Lăo pháp sư Tịnh Không

Thời gian: Ngày 5 tháng 04 năm 2010

Địa điểm: Hương Cảng Phật Đà Giáo Dục Hiệp Hội

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo chánh: Đức Phong và Huệ Trang

 

Tập 17

 

Xin xem Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang mười sáu, ḍng thứ tư đếm từ dưới lên.

      “Đại thánh thùy từ, đặc lưu thử kinh” (Đức đại thánh rủ ḷng Từ, đặc biệt lưu lại kinh này). “Kinh vân: Đương lai chi thế, kinh đạo diệt tận, ngă dĩ từ bi ai mẫn, đặc lưu thử kinh, chỉ trụ bách tuế, kỳ hữu chúng sanh trị tư kinh giả, tùy ư sở nguyện, giai khả đắc độ” (Kinh dạy: “Trong đời tương lai, kinh đạo diệt hết, ta do ḷng từ bi thương xót, đặc biệt lưu lại kinh này tồn tại một trăm năm, có các chúng sanh gặp được kinh này, tùy theo sở nguyện đều được độ”). Chúng ta xem đoạn này. “Kinh vân”: Phẩm bốn mươi lăm, tức phẩm Độc Lưu Thử Kinh (riêng lưu lại kinh này) trong kinh Vô Lượng Thọ có một đoạn nói như vậy. “Đương lai chi thế” là nói về tương lai, trong thuở Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế, Ngài thuyết pháp đă nói tới tương lai, thời gian tương lai ấy rất xa. Sáng nay, tôi đă nhận lời mời tham dự chuyên mục phỏng vấn của đài truyền h́nh Phượng Hoàng, đề tài cho lần phỏng vấn này là [thảo luận về vấn đề] tai nạn. Có thể thấy là hiện thời, trong ngoài nước vấn đề này đều được phổ biến coi trọng. Trước đây, chúng tôi ở ngoại quốc rất ít bàn tới vấn đề này. Năm nay, tôi tham dự cuộc phỏng vấn năm tôn giáo tại Úc, bàn tới vấn đề này, họ hỏi chúng tôi: “Phật giáo có cách nh́n như thế nào đối với vấn đề này? Dùng phương pháp ǵ để đối phó?” Sáng nay, cuộc phỏng vấn của đài [truyền h́nh] Phượng Hoàng cũng nhằm bàn thảo chủ đề này. Người ngoại quốc nói tới Tận Thế, người Trung Quốc không nói. Quả thật mấy ngàn năm qua, Trung Quốc là đời thái b́nh hưng thịnh, là đất nước b́nh trị trên toàn cầu, được mọi người hết sức tôn trọng, kính phục. Trong Phật pháp càng chẳng có tận thế. Đức Phật nói: “Đương lai chi thế, kinh đạo diệt tận” (Trong đời tương lai, kinh đạo diệt hết), tức là trong pháp vận của Thích Ca Mâu Ni Phật, đến cuối cùng kinh điển nhà Phật cũng bị tiêu mất trên thế gian này. Lúc nào vậy? Kinh dạy chúng ta, Chánh Pháp của Thích Ca Mâu Ni Phật là một ngàn năm, Tượng Pháp một ngàn năm, Mạt Pháp là một vạn năm; v́ thế, pháp vận là một vạn hai ngàn năm. Nói theo cách bây giờ, sự giáo hóa của đức Thế Tôn có sức ảnh hưởng trong một thời gian dài như thế. Về không gian, nhục nhăn của chúng ta có thể thấy toàn bộ địa cầu, nhưng nhục nhăn chúng ta chẳng thấy được [sức giáo hóa của đức Phật trọn khắp] những chiều không gian khác biệt, [những chiều không gian ấy] thường được gọi là “mười pháp giới”. V́ thế, [pháp vận của Thích Ca Mâu Ni Phật] tồn tại trong thời gian dài như thế.

      Trong chín ngàn năm của thời Mạt Pháp, Mạt Pháp đă trôi qua một ngàn năm rồi; trong chín ngàn năm ấy, pháp vận của Phật có lúc hưng, lúc suy. Trên thực tế, hưng hay suy không phải do Phật, mà cũng chẳng phải do Pháp, mà do con người có tin tưởng giáo huấn của Phật Đà hay không? Có chịu thật sự tu tập hay không? Nếu chúng ta tin sâu, chẳng nghi ngờ, sốt sắng y giáo phụng hành, [pháp vận] sẽ là thời Chánh Pháp, quư vị chắc chắn có thành tựu trong một đời này. Trong Tịnh Tông, văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới là chứng quả, là thành tựu, lại c̣n là thành tựu viên măn. Kinh này đă giảng rất rơ ràng, rất minh bạch, đấy chính Chánh Pháp. Kinh giáo diệt tận, nói thật ra, một bộ kinh này đại diện trọn vẹn hết thảy các pháp do Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói trong bốn mươi chín năm, v́ sao? Hết thảy các pháp đến cuối cùng đều quy vào Tịnh Độ, vậy th́ Tịnh Độ há chẳng phải là hết thảy các pháp ư? Đức Phật đặc biệt từ bi, đến cuối cùng, lưu lại kinh này một trăm năm. Trong một trăm năm cuối cùng của thời Mạt Pháp, bản nào [sẽ được lưu lại]? Chắc chắn là bản đang dùng hiện tại này! Chắc chắn là kinh và chú giải, tức là bản chú giải kinh này của cụ Hoàng Niệm Tổ, sẽ được lưu lại đến cuối cùng trong thời Mạt Pháp. Sau một trăm năm ấy, kinh này cũng chẳng c̣n, chẳng tồn tại trên thế gian này nữa, vẫn c̣n có sáu chữ “Nam-mô A Di Đà Phật”, ai có thể nghe danh hiệu này, cũng có thể tin, niệm, phát nguyện cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới th́ vẫn có thể thành tựu. Đức Như Lai quả thật từ bi vô tận, thương xót chúng sanh trong thế giới Sa Bà. Sau khi đức Phật diệt độ, sau khi Phật pháp diệt sạch trên thế gian này, chúng ta biết đại nguyện của hết thảy chư Phật, Bồ Tát đều là giúp chúng sanh phá mê khai ngộ, ĺa khổ, được vui, chẳng bỏ chúng sanh. Hiện thời, đức Phật chẳng tại thế, nhằm lúc đức Phật chẳng tại thế, Địa Tạng Vương Bồ Tát thay mặt đức Phật trong thế gian này, thay Phật hóa độ chúng sanh; đây là giai đoạn không có Phật xuất thế, giai đoạn này thời gian rất dài. Di Lặc Hạ Sanh Kinh nói phải chờ suốt năm mươi sáu ức bảy ngàn vạn năm, vị Phật tiếp theo là Di Lặc Bồ Tát mới đến thị hiện thành Phật trong thế gian này giống như Thích Ca Mâu Ni Phật, dùng tám tướng thành đạo để thị hiện thành Phật, thế gian này lại có Phật thuyết pháp. Do vậy, chúng ta phải biết: Trong thế gian này, thời gian có Phật xuất thế chẳng dài! Tuy là một vạn hai ngàn năm, chúng ta thoạt nh́n [tưởng chừng] rất dài, nhưng trong không gian và thời gian vô tận th́ một vạn hai ngàn năm rất ngắn!

Sau khi liễu giải chân tướng sự thật, mới biết được gặp gỡ Phật pháp chẳng dễ dàng; do vậy, đức Phật thường nói: “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe. Nay chúng ta được làm thân người, lại gặp gỡ Phật pháp, lại được gặp pháp thượng thượng thừa trong Phật pháp, gặp Hoa Nghiêm, gặp Tịnh Độ, hy vọng các đồng học hăy thật sự thức tỉnh, chúng ta quyết định phải thành tựu trong một đời này. Thành tựu khó hay dễ? Nói khó th́ chẳng khó, mà nói là dễ th́ cũng khá khó. Khó hay dễ hoàn toàn phải hỏi chính ḿnh, chẳng thể hỏi Phật, cũng chẳng thể hỏi Pháp, cũng chẳng thể hỏi ai khác! Quư vị thật sự tin, thật sự phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thật sự chịu thật thà niệm Phật th́ sẽ chẳng khó, thật sự chẳng khó! Nếu quư vị hoài nghi, nếu c̣n lưu luyến thế gian này, muốn văng sanh nhưng lại chẳng nỡ rời khỏi thế gian này, sẽ khó lắm! Do vậy, nhất định là nếu hiểu rơ ràng, minh bạch Lư, Sự, nhân quả của Tịnh Độ th́ ḷng tin của chúng ta sẽ thanh tịnh, chẳng cô phụ đức Thế Tôn thuở tại thế đă giảng kinh, giáo học suốt bốn mươi chín năm, nhằm mục đích ǵ? Nhằm mục đích giúp chúng ta đoạn nghi, sanh tín. Chúng ta nghe hiểu rơ ràng, minh bạch duyên khởi của toàn bộ vũ trụ và sanh mạng, chính ḿnh do đâu mà có? Sa Bà là như thế nào? Cực Lạc là như thế nào? Đều hiểu rơ ràng, chúng ta sẽ biết chọn lựa ra sao, biết dụng công như thế nào. Chúng ta giữ lấy thế giới Cực Lạc, đến thế giới Cực Lạc chứng đắc Phật quả viên măn rốt ráo. Đó là như trong phần sau đă nói: “Kỳ hữu chúng sanh trị tư kinh giả, tùy ư sở nguyện, giai khả đắc độ” (nếu có chúng sanh gặp gỡ kinh này, tùy theo sở nguyện, đều được độ). Lúc pháp diệt tận mà gặp bộ kinh này, gặp được hồng danh sáu chữ này, sẽ đều có thể đắc độ, hà huống hiện tại! Hiện thời, hăy c̣n chín ngàn năm nữa kinh đạo mới diệt tận. Do vậy, chúng ta phải có tín tâm, đừng bị những lời đồn đại bên ngoài lay động, hễ tâm chúng ta định th́ định sanh trí huệ, sẽ biết ứng phó với những tai nạn trước mắt như thế nào. Có tín tâm, có quyết tâm, chúng ta sẽ có thể b́nh an vượt qua.

      Lại xem đoạn kinh văn tiếp theo: “Hựu Pháp Diệt Tận Kinh” (Lại nữa, kinh Pháp Diệt Tận), trong bộ kinh này, đức Phật giảng trạng huống diệt tận của Phật pháp trên thế gian này trong tương lai sau khi pháp vận của đức Phật kết thúc, “diệc cụ Vô Lượng Thọ kinh tối hậu nhập diệt chi t́nh cảnh” (cũng nói chi tiết t́nh cảnh kinh Vô Lượng Thọ sẽ diệt cuối cùng), kinh ấy nói Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh bị diệt cuối cùng. Nay chúng ta gặp được bộ kinh này quá đáng quư! Chúng ta phải quư trọng, phải nghiêm túc học tập. “Thử chánh hiển bổn kinh hưng khởi chi thắng duyên, tŕ danh pháp môn chi diệu dụng”: Đây chính là tŕnh bày rơ rệt nhân duyên hưng khởi thù thắng của bộ kinh này và tác dụng mầu nhiệm của tŕ danh niệm Phật văng sanh Tịnh Độ. Tiếp theo là tỷ dụ: “Kư như dinh dưỡng phong phú chi mỹ thực, khả tăng kiện giả chi thể lực” (giống như thức ăn ngon lành dồi dào chất bổ có thể tăng cường thể lực của người khỏe mạnh). Kinh điển này, pháp môn này, giống như thực phẩm ngon lành giàu chất bổ dưỡng nhất, bồi bổ Pháp Thân huệ mạng của chúng ta. “Phục như thù hiệu thần nghiệm chi linh dược” [có nghĩa là] lại giống như toa thuốc có hiệu quả đặc thù, hay toa thuốc thần kỳ. “Năng dũ bất trị chi trầm kha” (có thể trị lành căn bệnh trầm kha chẳng trị được). Vài hôm trước, chúng ta thấy đồng tu Lưu Tố Vân ở Đông Bắc mắc chứng Hồng Ban Tánh Lang Sang (Systemic Lupus Erythematosus), tật bệnh hết sức nghiêm trọng, người mắc bệnh này gần như rất khó sống sót. Bà ta đă chứng minh cho chúng ta thấy: Niệm một câu Nam-mô A Di Đà Phật nghiễm nhiên trị lành căn bệnh này. Lành đến mức độ nào? Ngay cả vết sẹo cũng không có, đây là chuyện chẳng thể nghĩ bàn! Bác sĩ phụ trách điều trị cho bà ta kinh ngạc, dẫu lành bệnh, những vết sẹo ấy vĩnh viễn chẳng mất được, v́ sao ngay cả vết sẹo cũng chẳng có? Bác sĩ hỏi bà ta: “Bà lành bệnh bằng cách nào?” Bà ta bảo bác sĩ: “Tôi niệm A Di Đà Phật nên được lành bệnh”. Bác sĩ tin lời bà ta, v́ sao tin tưởng? Bà ta suốt đời chưa nói dối, đối với bất luận là ai cũng đều là nói thật, chẳng nói dối; v́ thế, bác sĩ tin lời bà ta. Bà ta bảo niệm Phật lành bệnh th́ chắc chắn là do niệm Phật mà lành bệnh, tạo ḷng tin cho mọi người!

Do vậy, thân mắc cả đống bệnh tật, xét về hiệu quả của thuốc men, thuốc tốt nhất chỉ có hiệu quả trị liệu ba phần, bảy phần tùy thuộc vào tâm thái (trạng thái tâm lư). Nếu quư vị tâm thái tốt đẹp, bệnh ấy sẽ rất dễ chữa trị. Nếu tâm thái chẳng tốt lành, thường nghĩ đến bệnh tật, sợ hăi, lo âu, bệnh ấy cũng rất khó lành, chẳng dễ ǵ lành bệnh! Do vậy, Lưu cư sĩ đă cho chúng ta biết: Căn bệnh của bà ta được lành là do bà ta chẳng sợ hăi chút nào! Bác sĩ bảo bà ta: “Bệnh của bà rất nghiêm trọng, có thể chết bất cứ lúc nào, phải chuẩn bị tâm lư”. Bà ta cười bảo bác sĩ: “Chẳng sao hết! Nếu tôi chết, tôi sẽ về thế giới Cực Lạc, A Di Đà Phật đến đón tiếp tôi, Tây Phương Cực Lạc thế giới là quê nhà của tôi. Nếu là Phật vẫn c̣n giao cho tôi nhiệm vụ ǵ đó, muốn tôi ở lại thế gian này th́ cũng được, tôi vâng lời”. Quư vị thấy: Chẳng có mảy may lo nghĩ hay kinh sợ, tâm thái quá tốt đẹp, dường như chẳng có chuyện ấy, bà ta thật sự lành bệnh tật! Tiếp đó, [sách Chú Giải] nói “có thể chữa lành bệnh chẳng trị được”, bà ta đúng là đă trị lành căn bệnh nặng. “Quảng liệu chúng bệnh, phổ thí nhiêu ích” (Rộng trị các bệnh, ban lợi lạc trọn khắp). “Cố vân: Đại tai diệu dụng, bất khả tư nghị” (V́ thế, nói: “Tác dụng mầu nhiệm lớn lao thay, chẳng thể nghĩ bàn”). Hai câu này là lời tán thán nhằm ca ngợi pháp môn này, tán thán hiệu quả của tŕ danh niệm Phật. Quư vị thấy trong hiện tiền, [pháp môn Niệm Phật] có thể trị bệnh, sau khi lâm chung có thể văng sanh, pháp môn như thế có thể đến nơi đâu để t́m được? Nay chúng ta gặp được, đă gặp th́ nhất định phải biết quư trọng, thật sự tu tập.

      “Chí ư mạt thế” (C̣n như trong đời Mạt Pháp), chữ “mạt thế” chỉ thời kỳ Mạt Pháp của Thích Ca Mâu Ni Phật, tức là trong một vạn năm. Thời Mạt Pháp đă trải qua một ngàn năm, chúng ta sống nhằm lúc bắt đầu một ngàn năm thứ hai trong thời Mạt Pháp, sau này c̣n có một ngàn năm thứ ba, một ngàn năm thứ tư, cho đến một ngàn năm thứ mười. V́ vậy, thời gian vẫn c̣n rất lâu. “Chí ư mạt thế, trược ác di thâm, chúng căn dũ liệt, nhân thọ thập tuế, cấu trọng chướng thâm, ư tư, ác lăng thao thiên, độc diệm biến địa chi tế” (C̣n như trong đời Mạt Pháp, nhơ bẩn, ác độc sâu khắp, các căn tánh càng kém hèn, con người thọ mười tuổi, cấu nặng, chướng sâu; vào thuở ấy, sóng ác ngập trời, lửa độc trọn khắp cơi đất). Chúng ta đọc mấy câu này, thấy chúng nói về hiện tượng xă hội trong đời Mạt Pháp; tuy chúng ta chưa sống nhằm cuối đời Mạt Pháp của Thích Ca Mâu Ni, nhưng hiện thời đă có đôi chút hiện tượng này, chúng ta chớ nên không cảnh giác. “Trược” () là ô nhiễm, trên cả thế giới hiện thời, mọi người đều bàn tới chuyện “bảo vệ môi trường”; v́ sao phải bảo vệ môi trường? Địa cầu bị ô nhiễm, ô nhiễm rất nghiêm trọng! Hoàn cảnh bị ô nhiễm, nhưng càng nghiêm trọng hơn là cái tâm thanh tịnh của chúng ta bị ô nhiễm. Do vậy, người trong thế gian này nói đến chuyện bảo vệ môi trường, có thể thu được hiệu quả hay chăng? Có người hỏi tôi, tôi nói thật với họ: “Rất khó thu được hiệu quả”. V́ sao? Trong Phật pháp có một câu nói nói rất hay: “Cảnh chuyển theo tâm”. Bên ngoài là hoàn cảnh, hoàn cảnh bị ô nhiễm có mối liên quan với ḷng người. Trong tâm ô nhiễm nghiêm trọng, nếu chẳng hóa giải chuyện này, chúng ta chỉ chú trọng hoàn cảnh bên ngoài, sẽ chẳng thu được hiệu quả. Do vậy, bảo vệ môi trường th́ điều đầu tiên là phải nói đến bảo vệ tâm lư. Tâm chúng ta vốn tốt đẹp, nếu nói theo Đại Thừa Phật pháp, [tâm ta] vốn thanh tịnh, vốn b́nh đẳng, vốn giác, chứ chẳng mê, nhưng nay chẳng phải vậy! Hiện thời là ô nhiễm, chẳng phải là thanh tịnh, mà là ngạo mạn, kiêu căng, bất b́nh, [tức là] chẳng hề b́nh đẳng, ngu si, mê hoặc, cho nên trí huệ và giác ngộ chẳng thể hiện tiền. Đây là tâm lư bị ô nhiễm hết sức nghiêm trọng.

      Có nhiều người hỏi tôi, đối với những tai nạn trước mắt này, dùng phương pháp ǵ để đối phó? Thật ra, đức Phật và tổ tiên đă dạy chúng ta hăy dùng phương pháp ǵ? Giáo học. Trong thiên Học Kư [của sách Lễ Kư] có câu: “Kiến quốc, quân dân, giáo học vi tiên” (xây dựng đất nước, cai trị dân chúng, dạy học làm đầu). Dạy học là dạy ǵ vậy? Dạy luân lư, khiến cho mọi người hiểu mối quan hệ giữa con người với nhau, hiểu rơ ràng các mối quan hệ, thực hiện trọn vẹn những nghĩa vụ phải nên trọn hết. “Ngũ luân, thập nghĩa, cha con có t́nh thân, cha từ, con hiếu” là trọn hết nghĩa vụ, đó là điều phải làm! Anh nhường, em kính, vua nhân từ, bầy tôi trung thành, mỗi cá nhân làm tṛn nghĩa vụ, hiểu rơ các mối quan hệ, thực hiện nghĩa vụ. Đấy chính là sự hài ḥa trong vũ trụ: Xă hội là hài ḥa, gia đ́nh ḥa thuận, thật sự là hạnh phúc mỹ măn trong đời người, do đâu mà có? Do dạy dỗ mà thành! Quư vị thấy tại Trung Quốc, suốt mấy ngàn năm, có triều đại nào không coi trọng giáo dục. Ở đây, giáo dục chẳng phải là dạy khoa học kỹ thuật, mà là giáo dục cách làm người, cũng là giáo dục nhân tánh. Giáo dục nhân tánh là ǵ? Vốn là lành! “Nhân chi sơ, tánh bổn thiện” (con người thoạt đầu tánh vốn lành). Giáo dục về cái vốn sẵn tốt lành [trong mỗi cá nhân], đă dạy được như vậy th́ chuyện ǵ, vấn đề ǵ cũng đều được giải quyết. Sau khi đă dạy dỗ tốt đẹp, ai nấy cũng là người tốt, người tốt chắc chắn chẳng làm chuyện xấu; do vậy, mọi chuyện đều là chuyện tốt. Sau khi làm được điều này, sẽ là như kinh Phật đă dạy: “Nhật nhật thị hảo nhật, thời thời thị hảo thời” (ngày nào cũng là ngày tốt, giờ nào cũng là giờ tốt). V́ thế, phương pháp để giải quyết và đối phó là giáo dục. Hôm nay, tại đài truyền h́nh Phượng Hoàng, họ cũng nêu ra vấn đề này, tôi nói: “Chỉ cần thực hiện tốt giáo dục, vấn đề sẽ được hóa giải. Giáo dục luân lư, giáo dục đạo đức, giáo dục nhân quả, lại c̣n phải giáo dục tôn giáo th́ xă hội mới được kiện toàn, mới viên măn”.

      Mọi người đều biết trong các tôn giáo, [chỉ nói đến] các tôn giáo cao cấp, có luân lư, đạo đức, nhân quả, khoa học, triết học, chẳng phải là mê tín. Trên thế giới này, nhiều người công nhận sáu tôn giáo lớn; giáo nghĩa của sáu tôn giáo lớn ấy đều có năm khoa mục ấy. Nếu mỗi tôn giáo đều phổ biến, tuyên dương năm khoa mục “luân lư, đạo đức, nhân quả, triết học, khoa học” đă được giảng trong kinh điển để giáo hóa tín đồ, xă hội này sẽ ḥa thuận, tai nạn sẽ được hóa giải. Chỉ cần chúng ta chịu nỗ lực làm việc này, tôi tin tưởng mỗi tín đồ tôn giáo đều vui ḷng, nhất là hiện thời nh́n thấy tai nạn ngay trước mắt, họ sẽ đồng tâm hiệp lực hóa giải tai nạn. Hóa giải từ chỗ nào? Hóa giải ngay trong tâm hạnh của chúng ta. Thật vậy ư? Đúng vậy! Cảnh chuyển theo tâm. Kinh Phật dạy như thế dường như thiếu căn cứ khoa học, chúng ta rất khó tin tưởng. Hết sức khó có là tiến sĩ Giang Bổn Thắng của Nhật Bản đă làm thí nghiệm trên nước suốt mười hai năm nhằm chứng minh vật chất, nước là khoáng vật, chẳng phải là động vật, mà cũng chẳng phải là thực vật, chẳng phải là sinh vật, mà là khoáng vật, thí nghiệm mười mấy năm, [quan sát thấy] khoáng vật có thể nghe, nh́n, hiểu được ư nghĩ của con người, nước có năng lực ấy. Trong kinh điển, đức Phật dạy chúng ta: Tất cả hết thảy khoáng vật đều có năng lực ấy, đều có Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Khoa học phân chia cái vốn là một ấy thành hai phương diện: Tinh thần và vật chất. Trong pháp Đại Thừa, tinh thần và vật chất đồng nhất, chẳng thể phân cách!

      Trong tinh thần có vật chất, trong vật chất có tinh thần. Tất cả vật chất có thể thấy, nghe, hiểu ư nghĩa của con người, nó có tinh thần trong ấy. Trong tinh thần có vật chất, chúng ta chứng minh bằng cách nào? Thật ra, bản thân mỗi cá nhân đều có thể chứng tỏ! Đêm ngủ nằm mộng có phải là hiện tượng tinh thần hay chăng? Nó chẳng phải là hiện tượng vật chất, ban đêm nằm mộng là hiện tượng tinh thần. Trong giấc mộng, có vật chất hay không? Trong mộng quư vị có thân thể hay không? Quư vị mộng thấy rất nhiều người, quư vị nói họ có thân thể hay không? Trong mộng có núi, sông, đại địa, trong mộng có hư không, pháp giới? Có! Có hiện tượng vật chất! Trong tinh thần có hiện tượng vật chất. Mọi người đều có kinh nghiệm này, có kinh nghiệm nằm mộng, sau khi tỉnh giấc, thứ ǵ cũng đều chẳng có. Đó là ǵ? Kinh Phật dạy: “Phàm những ǵ có h́nh tướng đều là hư vọng”, nhưng trong lúc nằm mộng, thật sự có hiện tượng, người ấy không biết ḿnh đang nằm mộng, tưởng là thật; chứng tỏ vật chất và tinh thần vĩnh viễn chẳng tách rời, là một, chẳng hai. Do vậy, khởi tâm động niệm của con người không chỉ gây ảnh hưởng tới thân thể. Chúng ta có thiện niệm th́ sẽ khỏe mạnh, trường thọ, đẹp đẽ, chân thiện mỹ huệ. Tư tưởng và hành vi lành mạnh tương ứng với luân lư và đạo đức. Nếu trái nghịch luân lư và đạo đức, hằng ngày nghĩ tưởng tham, sân, si, mạn, gây tạo giết, trộm, dâm, dối, chắc chắn thân thể chẳng khỏe mạnh, tướng mạo chẳng dễ coi, mà cũng ở trong hoàn cảnh lắm tai nhiều nạn, đấy là ǵ? Vật chất bị ảnh hưởng bởi tinh thần. Chúng ta phải dùng thiện niệm để ảnh hưởng nó, đừng nên dùng ác niệm, các tai nạn ấy đều do tâm hạnh bất thiện cảm ứng. Phật, Bồ Tát, các bậc đại thánh đại hiền xưa nay trong ngoài nước đă dạy bảo chúng ta như vậy, chúng ta nên lư giải, nghiêm túc học tập, sẽ thật sự có thể hóa giải, chẳng giả đâu nhé!

      Mạt Pháp chẳng bằng Tượng Pháp, Tượng Pháp chẳng bằng Chánh Pháp. Một ngàn năm thứ nhất sau khi Thích Ca Mâu Ni Phật nhập diệt là thời Chánh Pháp, nhân tâm thuần hậu, thật thà, vâng lời, thật sự tu tập; do vậy, giới luật thành tựu, chỉ cần nghiêm túc giữ giới luật tốt đẹp, người ấy có thể chứng quả, chứng quả A La Hán rất nhiều. Thời kỳ Tượng Pháp, căn tánh của con người kém hơn thời Chánh Pháp, chỉ tŕ giới sẽ chẳng thể chứng quả, v́ sao? Tŕ giới chẳng thuần! Bên trong có phiền năo, có tập khí, bên ngoài có ngũ dục lục trần dụ dỗ, mê hoặc; chỉ dựa vào một ḿnh tŕ giới sẽ chẳng thể nhiếp tâm. V́ thế, thời kỳ Tượng Pháp, Thiền Định thành tựu, tu Định; tu Định là thích hợp! Thời kỳ Mạt Pháp, tu Định cũng không được, v́ sao? Phiền năo tập khí quá nặng, mà sức dụ dỗ, mê hoặc bên ngoài quá mạnh, trong ứng, ngoài hợp, cho nên tu Thiền chẳng thể đắc định, học giáo chẳng thể khai ngộ, v́ sao? Bộp chộp, hời hợt. Đây là hiện tượng trong hiện tại, trược ác trọn khắp, sâu đậm, ngày càng sâu hơn, căn tánh ngày càng kém cỏi. Con người thọ mười tuổi, trong kinh, đức Phật dạy chúng ta ngày nay sanh nhằm giai đoạn được gọi là Giảm Kiếp. Thọ mạng con người lúc dài nhất là tám vạn bốn ngàn năm, lúc ấy tuổi thọ dài nhất. Giảm Kiếp là từ tám vạn bốn ngàn tuổi, cứ mỗi một trăm năm lại giảm một tuổi, giảm đến mười tuổi. Mười tuổi là thấp nhất, chẳng c̣n giảm nữa. Từ mười tuổi, cứ mỗi một trăm năm lại tăng thêm một tuổi, lại tăng cho đến tám vạn bốn ngàn tuổi. [Thời gian] một tăng một giảm này được gọi là một tiểu kiếp. Chúng ta hiện đang sống trong giai đoạn Giảm Kiếp này. Lúc Thích Ca Mâu Ni Phật xuất thế, tuổi thọ con người là một trăm năm, cứ một trăm năm giảm một tuổi, đến nay đă ba ngàn năm rồi; v́ vậy, tuổi thọ b́nh quân (trung b́nh) của con người trong hiện tại là bảy mươi năm. Chúng ta thấy người Trung Quốc thường nói: “Nhân sinh thất thập cổ lai hy” (người sống đến bảy mươi tuổi xưa nay hiếm), sống trong Giảm Kiếp, bảy mươi tuổi! Cứ một trăm năm giảm một tuổi, giảm đến mười tuổi th́ c̣n có sáu ngàn năm nữa. Tới sáu ngàn năm sau, khi đó là lúc ô nhiễm, nghiệp chướng cực nặng, con người sẽ quay đầu vào lúc ấy, v́ sao? Chịu quả báo quá khổ sở. Kẻ đă bị đau khổ tột bậc sẽ quay đầu, tỉnh ngộ. Tỉnh ngộ sẽ tiếp nhận giáo huấn của Phật, Bồ Tát, tiếp nhận giáo huấn của thánh hiền.

      “Ư tư, ác lăng thao thiên” (trong khi ấy, sóng ác ngập trời), Ác ở đây là Thập Ác, nh́n vào [t́nh h́nh] hiện thời của chúng ta thấy rất tương tự, do vậy, có tai nạn. Ác là nói tới Thập Ác, quư vị nghĩ xem: Ta rất lắng ḷng, quan sát khách quan, sẽ thấy nam, nữ, già, trẻ, các nghề nghiệp trong xă hội này đang suy tưởng ǵ? Họ nghĩ tới sát sanh, trộm cắp! Sát sanh là ǵ? Tổn hại người khác ḥng làm lợi cho bản thân, điều này thuộc về sát sanh. Trộm cắp là trong mỗi niệm đều chiếm tiện nghi của người khác. Nói cách khác, khởi tâm động niệm đều là tổn người lợi ḿnh, có ư niệm này. Chẳng hề thấy con người khởi tâm động niệm “tổn hại chính ḿnh để tạo lợi ích cho người khác”, [nếu có ư niệm] như vậy th́ mới có thể tiến cao hơn. Khởi tâm động niệm toàn là tổn người lợi ḿnh th́ c̣n làm sao được nữa? Ai nấy đều tổn người lợi ḿnh, lẽ nào chẳng phát sanh xung đột? Do vậy, xung đột ngày càng nhiều! Vô lượng vô biên vô tận xung đột, hóa giải bằng cách nào? Trong quá khứ, tôi đă nhiều lần tham dự hội nghị ḥa b́nh của Liên Hiệp Quốc, chủ đề thảo luận là hóa giải xung đột. Từ trong gia đ́nh, vợ chồng xung đột, cha con xung đột, anh em xung đột, xóm giềng xung đột, cho đến trong xă hội các sắc dân xung đột, quốc gia xung đột, thậm chí xung đột văn hóa, xung đột tôn giáo, quá nhiều mối xung đột dẫn đến động loạn, chiến tranh, tai họa tầy trời, sóng ác ngập trời. “Lửa độc”, độc là ǵ? Ngũ độc, tức tham, sân, si, mạn, nghi; tham, sân, si, mạn là độc. Nghi là ǵ? Hoài nghi giáo huấn của thánh hiền. Quư vị thấy Phật, Bồ Tát, cổ thánh tiên hiền cũng xếp điều này (Nghi) vào độc, coi nó là một trong năm thứ độc. Giáo huấn của thánh hiền là những thứ tốt đẹp mà quư vị hoài nghi, chẳng chịu tiếp nhận, không chịu học tập, chẳng thể phụng hành. Nói cách khác, giáo huấn của thánh hiền nhằm cứu vớt, chữa trị quư vị. Quư vị khắp thân bệnh nặng, lại chẳng chịu tiếp nhận trị liệu, chẳng phải là chỉ c̣n con đường chết hay sao? Xă hội ngày nay khiến cho chúng ta cảm giác “sóng ác ngập trời, lửa độc khắp đất”. Vậy th́ thế gian sẽ có đại tai nạn hiện tiền, đó là đạo lư tất nhiên.

      Nhằm hóa giải tai nạn này, quư vị tin tưởng, chúng ta buông tham, sân, si, mạn, nghi xuống. V́ thế, đức Phật dạy chúng ta hai câu, vấn đề sẽ được giải quyết: “Cần tu Giới, Định, Huệ, tức diệt tham, sân, si” (siêng tu Giới, Định, Huệ, dứt diệt tham, sân, si), vấn đề sẽ bị hóa giải. Chúng ta có chịu làm hay không? Giới là ǵ? Giới là quy củ. Đệ Tử Quy là giới [của Nho gia], Cảm Ứng Thiên là giới của Đạo Gia, Thập Thiện Nghiệp Đạo là giới [của nhà Phật]; ba căn cội Nho, Thích, Đạo này thuộc về giới, chúng ta có thể tuân thủ, phụng hành. Những thứ ấy là giáo huấn của thánh hiền, chúng ta đừng hoài nghi, hăy nên tin tưởng, giống như Phu Tử đă nói: “Tín nhi hiếu cổ” (tin tưởng, chuộng cổ). Cổ thánh tiên hiền truyền lại, chúng ta nghiêm túc nỗ lực phụng hành, sửa trừ thói xấu và tập khí, tự ḿnh sẽ đắc độ. Tự ḿnh đắc độ, sẽ ảnh hưởng cả nhà, người nhà quư vị đều vui vẻ, họ sẽ học theo quư vị, người trong nhà quư vị đắc độ. Người nhà đắc độ, xóm giềng, thân thích, bằng hữu trông thấy sẽ học theo quư vị, toàn bộ đều đắc độ, dần dần ảnh hưởng xă hội. Nếu quốc gia giác ngộ, không chỉ cứu đất nước, mà c̣n cứu toàn bộ thế giới! Quốc gia đề cao ba món căn bản của Nho, Thích, Đạo, nam, nữ, già, trẻ, các nghề nghiệp cùng nhau học tập, dùng Internet và phương tiện truyền thông để đề xướng rộng răi. Do vậy, tôi thường nói: Nếu quốc gia thật sự làm theo cách này, trong ṿng một năm quốc gia sẽ an định, thái b́nh. Một quốc gia thu được hiệu quả tốt đẹp ngần ấy, các quốc gia khác sẽ đến học tập, ba năm, tối đa là năm năm, thế giới này an định, ḥa b́nh, tai nạn ǵ cũng đều không có! Trong kinh, đức Phật dạy chúng ta: Niệm lực của chúng ta không chỉ ảnh hưởng thân tâm của chính ḿnh, mà c̣n ảnh hưởng hoàn cảnh xung quanh, lại c̣n có thể ảnh hưởng tới quỹ đạo của các tinh cầu trong vũ trụ. Hễ chánh niệm th́ các tinh cầu [vận chuyển] b́nh thường, sẽ chẳng lệch quỹ đạo. Sức mạnh to dường ấy, bất luận là Thái Dương hệ, bất luận Ngân Hà hệ, nó có sức mạnh to lớn ngần ấy. Chúng ta có thể tin tưởng hay chăng? Tôi tin các đồng học đă học Tu Hoa Nghiêm Áo Chỉ Vọng Tận Hoàn Nguyên sẽ tin tưởng [chuyện này], v́ sao? Nửa phần trước trong bài luận văn ấy của Hiền Thủ quốc sư đă giảng thấu triệt duyên khởi vũ trụ. Vũ trụ h́nh thành ra sao? Vạn pháp xuất hiện như thế nào? Huệ Năng đại sư khi khai ngộ đă nói: “Tự tánh có thể sanh ra vạn pháp”, ta do đâu mà có, đă hiểu rơ ràng, minh bạch toàn bộ, quư vị bèn biết sức mạnh của niệm lực quá to lớn!

      Những điều được giảng trong bài văn ấy là thật, chẳng giả. Bài văn ấy giảng về kinh Hoa Nghiêm, giảng giải tinh hoa kinh Hoa Nghiêm. “Vọng” là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, buông hết những thứ ấy xuống, đoạn sạch chúng, quư vị sẽ trở về nguồn (hoàn nguyên). Hoàn nguyên là ǵ? Nói theo Phật pháp, “hoàn nguyên” là thành Phật. Phật là ǵ? Người Ấn Độ gọi là Phật, người Trung Quốc gọi là “thánh nhân”. Chúng ta tán thán Khổng lăo phu tử là Chí Thánh, [gọi Ngài là] Chí Thánh Tiên Sư. Dùng tiếng Hán để tán thán Thích Ca Mâu Ni Phật th́ phải là Chí Thánh Bổn Sư, chúng ta gọi Thích Ca Mâu Ni Phật là Bổn Sư, Phật là bậc Chí Thánh. Người Ấn Độ gọi là Phật, chúng ta gọi là Chí Thánh, cùng một ư nghĩa. Phật Thích Ca là vị thầy căn bản của chúng ta, nên chúng ta gọi Ngài là Chí Thánh Bổn Sư, dùng cách nói này của người Hoa sẽ dễ hiểu, rất dễ lănh hội! Ngài chẳng phải là thần, mà cũng chẳng phải là tiên. Thuở tại thế, Ngài khai ngộ lúc ba mươi tuổi; sau khi khai ngộ liền tiến hành dạy học suốt một đời, bảy mươi chín tuổi viên tịch, giảng kinh, giáo học bốn mươi chín năm. Nói theo cách bây giờ, chức nghiệp của Ngài là thầy. Lại c̣n hết sức khó có, Ngài đă trọn hết nghĩa vụ của một vị thầy, chẳng lấy học phí. Nhiệt tâm dạy học, dạy dỗ chẳng phân biệt, bất luận người nào, quốc gia khác biệt, dân tộc khác biệt, văn hóa khác biệt, tôn giáo, tín ngưỡng khác biệt, chỉ cần quư vị t́m đến Ngài, Phật đều rất hoan hỷ, hết sức sốt sắng dạy quư vị, một vị thầy tốt đẹp dường ấy! Chúng ta được biết Ngài, học tập theo Ngài, quá sức may mắn dường ấy! Thầy hiện thời chẳng tại thế, chẳng sao hết! Tài liệu giảng dạy của Ngài vẫn c̣n trong thế gian này, tài liệu ấy chính là Đại Tạng Kinh. Những kinh điển trong Đại Tạng Kinh chính là tài liệu dạy học thuở Ngài tại thế, chúng ta có được tài liệu này giống như thân cận lăo nhân gia, chẳng khác ǵ! Nay chúng ta gặp phải hoàn cảnh hiện tượng, hoàn cảnh nhân sự, hoàn cảnh vật chất này, quả thật rất giống hiện tượng lúc pháp diệt, tám chữ “sóng ác ngập trời, lửa độc khắp đất” [miêu tả hiện tượng ấy], nhưng đấy là tương tự, chẳng phải là thật sự.

      Lúc con người thọ mười tuổi là thật, v́ sao? Họ nhiễm tập khí quá nặng, Phật, Bồ Tát tới dạy, nhưng họ không quay đầu. Do vậy, cứ dần dần, mỗi trăm năm tăng lên một tuổi, tăng từ từ, thọ mạng càng dài, phước báo to lớn. Đây gọi là “phước chí tâm linh”, phước báo to, dần dần trí huệ hiện tiền. Tăng kiếp và giảm kiếp khác nhau, trong lúc giảm kiếp, kẻ phước báo lớn sẽ tạo ác to hơn. Lúc tăng kiếp, kẻ có phước báo lớn sẽ tu thiện càng lớn hơn, khác nhau ở chỗ này! Chúng ta phải quan sát kỹ càng, chú tâm thấu hiểu, sẽ có thể đạt được. V́ sao chúng ta nói sự mê hoặc trong hiện tại là nhất thời, rất dễ đánh thức họ? Trong quá khứ, chúng tôi đă làm thí nghiệm tại Thang Tŕ, hoàn toàn dùng Đệ Tử Quy để dạy học, mới ba năm, ḷng người đă thật sự quay đầu, giác ngộ, khiến cho chúng tôi biết nhân dân dễ dạy như thế nào! Khiến cho chúng tôi tin tưởng tổ tiên đă nói chẳng sai: “Nhân chi sơ, tánh bổn thiện”, đáng tiếc là chẳng ai dạy họ. Hễ được dạy, họ sẽ quay đầu, đây là nói họ “có lương tâm”, có thể phân biệt thiện ác; do không có ai giảng giải nên chịu ảnh hưởng bên ngoài rất lớn. Nếu được dạy dỗ trực tiếp, thường xuyên nhắc nhở họ, họ sẽ quay đầu rất nhanh. Trong [giai đoạn cuối của] thời Mạt Pháp, vấn đề ấy nghiêm trọng hơn so với chúng ta trong hiện tại. “Thế Tôn thùy từ” (đức Thế Tôn rủ ḷng Từ), đây là nói Thích Ca Mâu Ni Phật từ bi đến cùng cực, lưu lại kinh Vô Lượng Thọ; “đặc lưu thử pháp”, “thử pháp” là kinh Vô Lượng Thọ. V́ trong lúc ấy, chỉ có bộ kinh này, chỉ có phương pháp tŕ danh này là có thể độ chúng sanh. “Dĩ tác từ hàng, dĩ giáng cam lộ” (làm chiếc bè từ, tuôn cam lộ), “từ hàng” là tỷ dụ chiếc thuyền trong biển cả khiến cho quư vị có thể vượt biển. “Cam lộ” (Amrta) cũng là tỷ dụ, cam lộ là thức uống của chư thiên, chẳng hạn như Đao Lợi Thiên, thức uống tốt nhất trong cơi trời Đao Lợi là cam lộ. Sánh ví bộ kinh như từ hàng, cam lộ. “Phật ân thâm trọng, phấn thân nan báo” (ơn Phật sâu nặng, nát thân khó đền), tri ân th́ quư vị mới biết cảm ơn, mới nghĩ đến báo ân. Nếu chẳng biết ân đức này, làm sao quư vị có ư niệm cảm ơn? Càng không thể nghĩ đến báo ân, những điều này hoàn toàn cậy vào giáo học. Chúng ta học tập phần Giáo Khởi Nhân Duyên tới đây.

      Tiếp đó, đoạn lớn thứ hai là Bổn Kinh Thể Tánh (Thể tánh của kinh này), Đoạn này có ư nghĩa khá sâu! Thể là ǵ? Là sở y (cái để giáo nghĩa nương tựa vào, căn bản để lập ra giáo nghĩa). Những lư luận được giảng, phương pháp được sử dụng, cảnh giới sẽ đắc trong kinh điển này dựa trên đạo lư nào? Nếu chẳng hiểu rơ điều này, tín tâm của chúng ta chẳng thể kiến lập; thật sự có đạo lư, chúng ta sẽ tin tưởng! Đức Phật nương vào ǵ để nói, nương vào ǵ để chỉ dạy chúng ta? Xin xem kinh văn: “Nhất thiết Đại Thừa kinh điển giai dĩ Thật Tướng vi kinh chánh thể” (hết thảy kinh điển Đại Thừa đều lấy Thật Tướng làm Chánh Thể của kinh), câu này trước hết nêu ra kinh thể. Quư vị thấy hết thảy kinh điển Đại Thừa, không riêng ǵ bộ kinh này, đều lấy Thật Tướng [làm Thể]. Thật Tướng là ǵ? Chân tướng sự thật là Chánh Thể. Nói cách khác, hết thảy kinh Đại Thừa đều là giảng Thật Tướng chân thật của vũ trụ và nhân sinh; sự thật là như thế nào, kinh bèn nói như thế đó, nhất định hoàn toàn tương ứng với sự thật. Chúng ta muốn liễu giải Thật Tướng của vũ trụ và nhân sinh, kinh bèn giảng cho chúng ta điều ấy, chẳng giả! Lúc tôi mới học Phật, theo học triết học với tiên sinh Phương Đông Mỹ, thầy Phương giới thiệu kinh Phật với tôi, nói như thế nào? Bảo đấy là triết học. Tôi học triết học với thầy, chẳng học tôn giáo, tôi nói: “Kinh Phật là tôn giáo, trong tôn giáo đâu có triết học? Mê tín!” Tuổi trẻ, thiếu trí huệ, người ta nói sao nghe vậy, lầm tưởng Phật giáo là tôn giáo, là mê tín; do vậy, chưa hề nghĩ muốn tiếp xúc Phật giáo, chưa từng. Lúc thầy giới thiệu, đă hết sức trịnh trọng nói: “Thích Ca Mâu Ni Phật là bậc triết gia vĩ đại nhất thế giới, kinh Phật là đỉnh cao nhất trong triết học toàn thế giới, học Phật là hưởng thụ cao nhất trong đời người”. Tôi theo học môn ấy với cụ mới thay đổi toàn bộ quan niệm sai lầm, thầy đặc biệt cảnh tỉnh tôi: “Triết học của kinh Phật không ở tại chùa chiền”. Chùa chiền chẳng phải là chuyên môn học Phật ư? Thầy nói: “Trước đây, đúng là như vậy. Hiện thời chẳng c̣n nữa. Trước kia, người xuất gia đúng là những vị đại học vấn, có đạo đức, có học vấn. Hiện thời, họ chẳng học, chùa chiền có kinh điển, họ niệm kinh chứ chẳng nghiên cứu, chẳng nương theo giáo huấn trong kinh điển để học tập. Do vậy, anh phải học tập triết học trong kinh Phật, phải khởi sự từ kinh điển”. Thầy bảo tôi điều này, câu nói ấy vô cùng quan trọng. Nếu chẳng được nhắc nhở bởi câu ấy, tôi đến chùa miếu t́m gặp các vị xuất gia, thỉnh giáo họ. Họ chẳng có cách ǵ trả lời, tôi sẽ hoài nghi lời thầy Phương có vấn đề, ḷng tin vào thầy bị dao động. Khéo sao, thầy nói câu ấy, bảo tôi t́m ṭi trong kinh điển, không cần phải đến hỏi bọn họ, hăy trực tiếp t́m từ kinh điển.

      Không lâu đó, tôi được biết Chương Gia đại sư. Giống như thầy Phương, Chương Gia đại sư vô cùng yêu thương tôi, rất quan tâm dạy dỗ. Lăo nhân gia dạy tôi học Thích Ca Mâu Ni Phật, bảo tôi đọc Thích Ca Phổ và Thích Ca Phương Chí. Đó là truyện kư về Thích Ca Mâu Ni Phật trong Đại Tạng Kinh do người đời Đường viết. Chúng tôi liễu giải cuộc đời Thích Ca Mâu Ni Phật, đă hiểu rơ đức Phật. Nếu quư vị học Phật mà chẳng biết ǵ về Thích Ca Mâu Ni Phật, sự học tập của quư vị có vấn đề, rất dễ ngả theo thiên kiến, đi vào lối rẽ, [nói theo kiểu] người hiện thời là đi đường ṿng. Quư vị nhận biết Thích Ca Phật rơ ràng, sẽ chẳng đi ḷng ṿng, lời chỉ đạo này hết sức hay! Chương Gia đại sư khuyên tôi xuất gia, tôi rất vâng lời, v́ tôi không có gia quyến tại Đài Loan. Cha tôi đă mất sớm, mẹ c̣n có một em trai ở Đại Lục [chăm sóc]. Khi ấy, tin tức chẳng thông, suốt cả ba mươi sáu năm chẳng có tin tức ǵ, đôi bên chẳng biết t́nh h́nh của nhau. Do vậy, tôi là một người chẳng lo âu ǵ ở Đài Loan, thầy bảo đi xuất gia, được! Chuyên dồn công sức nơi Phật pháp. Tôi xuất gia là giảng học, tức là dạy học. Tôi học Phật bảy năm rồi xuất gia, xuất gia xong bèn dạy tại Phật Học Viện, ngoài dạy học ra, nhận lời mời giảng kinh. Giảng suốt năm mươi chín năm chẳng ngừng, mỗi ngày đều giảng. Tôi ở Úc, trong các trường đại học, hiệu trưởng đại học Cách Lư Phỉ Tư (Griffith) mời tôi dùng cơm, hỏi tôi một câu: “Thưa pháp sư, thầy giảng kinh (lúc ấy đă giảng kinh bốn mươi ba năm), trong bốn mươi ba năm, có khi nào gặp phải trường hợp người khác hỏi mà thầy chẳng thể trả lời?” Tôi suy nghĩ một chốc, rồi bảo ông ta: “H́nh như không có!” Ông ta nói: “Thầy thật sự là một vị hiệu trưởng giỏi”. V́ thế, nhà trường tặng tôi học vị Tiến Sĩ, họ chủ động trao tặng học vị Tiến Sĩ cho tôi. Khi đó, tôi đă ngoài bảy mươi. Họ c̣n phong cho tôi danh vị giáo sư danh dự. Giáo sư danh dự (Honorary Professor) là ǵ? Đại khái là người ấy dạy học ở trường của họ khá lâu năm, dạy đă bao nhiêu năm, có cống hiến đối với sự nghiệp giáo dục trong nhà trường. Một vị thầy như vậy về hưu sẽ có một danh vị danh dự, Giáo Sư Danh Dự, tức là Giáo Sư Danh Dự của nhà trường. Mỗi khi nhà trường có lễ lạc lớn, chẳng hạn như lễ khai trường, lễ tốt nghiệp, đều mời những vị này tham dự. Như vậy là nhà trường đă tặng tôi danh vị như vậy, tham gia hoạt động của trường, sau này, thật sự là đại biểu của trường tham dự hội nghị Liên Hiệp Quốc.

Thưa quư vị, nếu người ta hỏi quư vị: Thích Ca Mâu Ni Phật suốt đời giảng kinh, rốt cuộc giảng những ǵ? Giải đáp bằng một câu: “Giảng về Thật Tướng của vũ trụ và nhân sinh”. Quư vị nói xem có phải là mê tín hay chăng? Chẳng mê tín. Câu này rất trọng yếu; nếu không, quư vị học Phật như thế nào? Tôi nhớ có một năm, lúc tôi ăn Tết ở Đài Loan, có một đồng học tới gặp tôi, ông ta là giáo sư đại học, khi gặp tôi cho biết: Ở đại học Phụ Nhân, trong chương tŕnh ngoại khóa, ông ta đă giảng cho sinh viên một bộ Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm. Ông ta kể với tôi [như vậy], tôi bảo: “Tốt lắm! Rất khó có!” Lúc ấy, tại Đài Loan, phong khí học Phật của sinh viên đại học rất thịnh, mỗi trường đều thành lập Phật Học Xă. Tại đại học Phụ Nhân là Đại Thiên Phật Học Xă do các đồng học tổ chức nhằm học tập Phật pháp. Tôi bèn hỏi ông ta một câu: “Tôi hỏi ông một câu, ông hăy cho tôi biết những kinh do Thích Ca Mâu Ni Phật đă giảng trong bốn mươi chín năm rốt cuộc là giảng những ǵ? Ông hăy trả lời tôi bằng một câu thôi!” Ông ta suy nghĩ khoảng năm phút, chẳng có cách nào, bảo tôi: “Tôi nghĩ không ra câu trả lời, nghĩ không ra!” Ông ta hỏi ngược lại tôi, tôi bảo: “Trong kinh Phật có một câu, tức là kinh Bát Nhă giảng chư pháp Thật Tướng, dùng câu này để trả lời có được hay không?” Ông ta suy nghĩ, gật đầu, được! “Chư pháp Thật Tướng” là Thật Tướng của hết thảy các pháp. Chúng ta phải biết điều này, đơn giản, dễ hiểu; [cách nói này đă] tŕnh bày đơn giản, dễ hiểu cho người khác biết những điều mà Thích Ca Mâu Ni Phật đă suốt đời tu tập, học hỏi, dạy dỗ, lưu truyền, kẻ ấy sẽ chẳng nói [Phật giáo] là mê tín.

      Chúng ta xem tiếp, cụ Hoàng đă trích dẫn khá nhiều kinh điển và lời nhận định của các tổ sư đại đức. “Cổ đức vân” (cổ đức nói), đây là những vị đại đức từ xưa, các Ngài nói: “Chư Đại Thừa kinh giai dĩ nhất Thật Tướng vi ấn” (các kinh Đại Thừa đều lấy một Thật Tướng làm ấn). Người Hoa hết sức coi trọng cái ấn, gọi là “ấn tín”. Nói đến “đóng ấn” th́ cái ấn ấy là quyết định! Ấn ấy là ǵ? Thật Tướng. Nếu những điều được giảng trong kinh điển là chân tướng của vũ trụ và nhân sinh th́ kinh ấy do đức Phật nói. Chẳng [thật sự] do đức Phật nói th́ sao? Chẳng do chính đức Phật nói th́ cũng giống như do đức Phật nói, v́ nói giống hệt như Phật. Do vậy, phải học sự khoan dung rộng lượng ấy của Phật giáo! Phật giáo thừa nhận: Nếu tất cả những ǵ do người ta đă nói là chân tướng sự thật th́ đều gọi là kinh Phật. Quư vị thấy thái độ học vấn ấy, chẳng chia đây kia, Phật thừa nhận, Bồ Tát cũng thừa nhận: Quư vị nói đúng chân tướng sự thật. Tiếp theo đó là giải thích: “Thật Tướng giả, chân thật chi tướng dă” (Thật Tướng là tướng chân thật), là chân tướng của vạn vật trong vũ trụ. “Hựu b́nh đẳng nhất tướng dă” (mà cũng là một tướng b́nh đẳng), câu này sâu lắm. Chúng tôi nói chân tướng của vũ trụ và nhân sinh th́ quư vị dễ hiểu, c̣n nếu nói là “b́nh đẳng nhất tướng” sẽ khó hiểu, v́ sao? Đây đúng là triết học cao cấp, thầy Phương bảo là “tột đỉnh của triết học”. Nói với quư vị: Hết thảy các pháp b́nh đẳng, hết thảy các pháp có cùng một thể tánh. Trong Phật pháp, thể tánh ấy được gọi bằng danh từ Pháp Tánh, c̣n gọi là Chân Tánh, hay c̣n gọi là Tự Tánh. Có đến mười mấy danh từ! V́ sao đối với một chuyện mà đức Phật nói nhiều danh từ thuật ngữ như thế? Nhằm bảo quư vị đừng chấp tướng. Quư vị chớ nên chấp trước, chỉ cần nói tới chuyện này, c̣n dùng phương pháp ǵ để nói, dùng danh từ ǵ để nói đều được, chớ nên chấp tướng. Ngài dạy chúng ta buông chấp trước xuống, mà chúng ta chấp tướng là trật rồi! “Phàm những ǵ có h́nh tướng đều là hư vọng”.

      Do vậy, Mă Minh Bồ Tát dạy chúng ta thái độ tu học: Khi lên lớp nghe giảng, chúng ta đừng chấp trước tướng ngôn thuyết, người giảng nói sâu, hay nói cạn, nói dài, hay nói ngắn, chẳng sao cả, chỉ cần nói đến chân tướng là được rồi. Chúng ta xem kinh điển đừng chấp trước tướng văn tự, đừng chấp trước tướng danh tự. “Danh tự” là danh từ thuật ngữ. Danh từ thuật ngữ là công cụ để trao đổi ư kiến, không quan trọng, chúng ta có thể thấu ư nghĩa, đó mới là quan trọng. V́ thế, các danh từ thuật ngữ không quan trọng, đừng chấp trước chúng. Hễ chấp trước là trật rồi! Chẳng hạn như [các từ ngữ] “Phật, Bồ Tát, chúng sanh” trong kinh Phật đều là tướng danh tự, quư vị liễu giải ư nghĩa của chúng, chớ nên chấp trước những danh tướng ấy. Điều thứ ba rất trọng yếu, phải ĺa tướng tâm duyên, quư vị chớ nên tự ḿnh nghĩ nó có ư nghĩa ǵ. Hễ quư vị suy tưởng là trật rồi! Quư vị chẳng cần suy nghĩ mà trực tiếp hiểu rơ, đấy gọi là Ngộ. Nếu quư vị suy nghĩ sẽ là sai, suy tưởng nó là ǵ bèn rơi vào ư thức. Ư thức là phân biệt, chấp trước, quư vị rơi vào đó! Đức Phật dạy hàng Bồ Tát, đó là những học tṛ đă đăng đường nhập thất[1], chẳng phải là học tṛ thông thường, mà là những học tṛ có thành tựu rất khá, mà họ cũng chẳng được phép khởi tâm động niệm. V́ vậy, lục căn tiếp xúc cảnh giới lục trần, mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm, thân chạm, ư biết, lục căn đối đăi cảnh giới lục trần chớ nên khởi tâm, chớ nên động niệm, [nhưng vẫn hiểu biết] rơ ràng, rành mạch, đó là ǵ? Trí huệ Bát Nhă sẵn có trong tự tánh hiện tiền, đó là chân trí huệ. Khởi tâm động niệm sẽ mê, v́ sao khởi tâm động niệm lại mê?

      Tại Trung Quốc, quư vị đều biết, Huệ Năng đại sư khai ngộ, minh tâm kiến tánh, tánh là Thật Tướng. Tánh là như thế nào? Nó chẳng phải là vật chất, mà cũng chẳng phải là tinh thần, không thể diễn tả được! Không chỉ chẳng diễn tả được, ngay cả suy tưởng cũng chẳng thể suy tưởng, quư vị vừa nghĩ liền rớt vào trong ư thức. Ngài khai ngộ, Ngũ Tổ cũng khai ngộ, người khai ngộ nói chuyện với người khai ngộ, tiện lắm! Lục Tổ đă diễn tả tự tánh bằng năm câu nói, câu đầu tiên là “hà kỳ tự tánh, bổn tự thanh tịnh” (nào ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh), “hà kỳ” là không ngờ tới. Không ngờ tự tánh vốn thanh tịnh, chưa bao giờ ô nhiễm. Thành Phật là thanh tịnh, nay ở trong nhân gian tánh vẫn thanh tịnh. Dẫu tạo tác tội nghiệp đọa vào A Tỳ địa ngục, tánh vẫn thanh tịnh, thật vậy, chẳng giả! Trong kinh Phật thường nói đến các thứ ô nhiễm, quư vị thấy như chúng ta vừa mới đọc: “Trược ác di thâm, ác lăng thao thiên, độc diệm biến địa” (Trược ác sâu xa, trọn khắp, sóng ác ngập trời, lửa độc trọn đất), đó là ô nhiễm, ô nhiễm chẳng liên quan ǵ đến tự tánh, cái ǵ bị ô nhiễm? A Lại Da ô nhiễm, tự tánh chẳng thể bị ô nhiễm. A Lại Da có sanh diệt, tự tánh chẳng thể có sanh diệt. A Lại Da là ǵ? A Lại Da là vọng tâm, là giả, chẳng phải là chân tâm. Chân tâm quyết định chẳng có sanh diệt, quyết định chẳng bị lay động, quyết định chẳng có ô nhiễm. Đấy là chân tâm, quư vị thấy nó là con người thật sự của quư vị. Chúng ta dùng chân tâm th́ là Phật, dùng vọng tâm th́ là phàm phu. Vọng tâm là A Lại Da, A Lại Da là ǵ? Là tâm ư thức. Quư vị phải nhớ: Tâm là vọng tưởng, ư là chấp trước, thức là phân biệt. Chúng ta dùng những thứ ấy; nên khởi tâm động niệm đều là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, giả trất, chẳng thật! Do dùng những thứ ấy, nên mới có lục đạo luân hồi. Nếu quư vị chẳng dùng những thứ ấy, lục đạo luân hồi sẽ chẳng có. Không chỉ lục đạo luân hồi chẳng có, ngay cả mười pháp giới cũng không có. Không có những thứ ấy th́ là cảnh giới ǵ? Đó là Nhất Chân pháp giới. Do vậy, mười pháp giới và lục đạo luân hồi đều là mộng, giống như nằm mộng, trong mộng có [những h́nh tướng] th́ là lúc quư vị mê mới có. Khi giác ngộ, tỉnh ngộ, sẽ chẳng c̣n nữa! Nói cách khác, quư vị dùng vọng tưởng, phân biệt, chấp trước th́ có; nếu buông vọng tưởng, phân biệt, chấp trước xuống, không dùng chúng th́ lục đạo và mười pháp giới chẳng c̣n nữa, [chúng là] giả tướng. Quư vị đă tỉnh giấc mộng rồi!

      Quư vị có thấu hiểu “b́nh đẳng nhất tướng” hay chăng? Tôi vừa mới nói điều này, nếu quư vị chưa thể hiểu th́ tôi nhắc nhở quư vị một chút, trong mộng bất luận là hưởng lạc hay chịu khổ, sau khi tỉnh giấc có phải là giống nhau hay chăng? Lạc chẳng có, mà khổ cũng không có, chẳng phải là b́nh đẳng nhất tướng ư? Chúng chẳng phải là thật! Thiên đường, địa ngục toàn là giả, nhưng quư vị phải hiểu: Quư vị chưa tỉnh sẽ thật sự hứng chịu! Quư vị đang nằm mộng th́ thiên đường thật sự vui, trong địa ngục thật sự khổ, dường như chẳng giả chút nào! Sau khi tỉnh mới biết chúng là giả. “Phàm những ǵ có h́nh tướng đều là hư vọng”; “hết thảy pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng”, quư vị biết những điều ấy là b́nh đẳng nhất tướng. Nếu quư vị học Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán, sẽ rất dễ liễu giải b́nh đẳng nhất tướng. Vọng Tận Hoàn Nguyên là nhất tướng. Nay chúng ta liễu giải, chưa đoạn vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, vẫn tiếp tục sử dụng chúng, nhưng chúng ta tin tưởng lời Thích Ca Mâu Ni Phật là chân thật, chẳng giả. Bài luận văn này do Hiền Thủ quốc sư dựa theo kinh Hoa Nghiêm soạn ra, cũng là chân thật, chẳng giả. Nay chúng ta thấy sắc, nghe tiếng, chúng ta dùng cái tâm b́nh đẳng để đối đăi, chắc chắn không có sai biệt, nghĩ đức Phật thường dạy trong kinh Đại Thừa: “Hết thảy chúng sanh vốn là Phật”, chúng ta dùng tâm thái này để xử sự, đăi người, tiếp vật, để sống, đó chính là cảnh giới Phật. Quư vị có phân biệt, tôi không phân biệt; quư vị có chấp trước, tôi không chấp trước; quư vị có khởi tâm động niệm, tôi chẳng khởi tâm động niệm. Tôi có thể tùy thuận sự phân biệt, chấp trước của quư vị, nhưng chính ḿnh chẳng phân biệt, chấp trước, giống như diễn tuồng! Trên sân khấu, quư vị phải biểu diễn theo kịch bản. Kịch bản bắt cười th́ quư vị phải cười, bắt khóc, quư vị phải khóc, có phải là quư vị thật sự cười hay khóc chăng? Chẳng hề! Cứ dựa theo kịch bản để biểu diễn. Phật, Bồ Tát ở trong nhân gian, quư vị vui vẻ, các Ngài cũng vui vẻ. Quư vị khổ sở, dường như các Ngài cũng có tâm đồng cảm, đó là ǵ? Đó là diễn tuồng, quư vị là thật sự, các Ngài là giả, khác hẳn. Quư vị thật sự có khổ, có sướng, các Ngài chẳng khổ mà cũng chẳng sướng. Đây là người giác ngộ ở cùng chỗ với người chưa giác ngộ, nhưng khác nhau. Người có cùng cảnh giới giác ngộ như vị ấy sẽ thấy được, thấy rất rơ ràng. Nếu chưa đạt tới cảnh giới ấy, sẽ chẳng thấy được! Phật, Bồ Tát và chúng sanh ḥa quang đồng trần, nhưng chúng sanh nh́n không ra, đó gọi là diệu! V́ thế, pháp này gọi là diệu pháp, đạo lư ở chỗ này! Đấy là b́nh đẳng nhất tướng.

      “Thật Tướng vô tướng, diệc vô bất tướng, tướng nhi vô tướng, danh vi Thật Tướng” (Thật Tướng vô tướng, mà cũng chẳng phải là không có tướng, tướng mà không có tướng nên gọi là Thật Tướng); đọc mấy câu này khiến chúng ta hồ đồ! Người mới học đọc đến sẽ hồ đồ, nhưng nếu quư vị là người thật sự hiểu rơ, sẽ biết mấy câu này nói quá hay! Thật Tướng vô tướng, nó chẳng phải là vật chất, mà cũng chẳng phải là tinh thần, nhưng nó có thể biến hiện vật chất và tinh thần, có thể sanh ra hiện tượng vật chất, có thể sanh ra hiện tượng tinh thần, có thể hiện ra hiện tượng vật chất, có thể hiện ra hiện tượng tinh thần, nên nó là có thể sanh, có thể hiện (năng sanh, năng hiện). Hiện tượng vật chất và hiện tượng tinh thần là toàn thể vũ trụ, trong Phật pháp chúng được gọi là pháp giới. Hết thảy hiện tượng trong trọn pháp giới khắp hư không giới, mười pháp giới lục đạo là “sở sanh, sở hiện” (cái được sanh, cái được hiện). Cái có thể sanh, có thể hiện là chân thật, vĩnh hằng bất biến; sở sanh sở hiện là giả, giống như nằm mộng, là cảnh giới trong mộng. Chúng chẳng phải là thật, mà là giả; nhưng giả và thật lại chẳng tách rời, giả do đâu mà có? Giả nương vào thật để khởi; chẳng có Thật, lấy đâu ra Giả? Nương vào Thật mà khởi. Tuy nương vào Thật mà khởi, nhưng nó chẳng thật, nó là h́nh bóng của Thật mà thôi. Phải hiểu rơ chân tướng sự thật này. Sau khi hiểu rơ, tuy quư vị c̣n chưa giác ngộ hoàn toàn, chưa hoàn toàn trở về tự tánh, nhưng đối với hết thảy các pháp trong thế gian này, quư vị có thể buông xuống, chẳng c̣n chấp trước nữa; đó là quư vị thật sự giác ngộ. Quư vị coi trọng điều ǵ? Quư vị coi trọng chuyện nâng cao linh tánh, chẳng coi trọng tiếng tăm, lợi dưỡng trong thế gian này, coi thường những thứ ấy, rất coi trọng việc nâng cao đức hạnh, trí huệ, linh tánh của chính ḿnh. Trong ấy có niềm vui chân thật, có lạc thú không cách nào tưởng tượng được! Do vậy, các tổ sư đại đức từ xưa thường dùng một câu nói để h́nh dung: “Thế vị na hữu pháp vị nùng!” (Pháp thế gian chẳng nồng đậm bằng pháp vị). Con người hiện thời tham cầu hưởng thụ ngũ dục lục trần trong thế gian. Quư vị thật sự hưởng thụ linh tánh th́ ngũ dục, lục trần, tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ trong thế gian này làm sao có thể sánh bằng pháp? Thua kém quá xa! Quư vị đă nếm pháp vị, sẽ tự nhiên buông ngũ dục lục trần của thế gian xuống, mới thật sự biết chúng là ô nhiễm, trong ấy có ǵ để hưởng thụ? Ô nhiễm ǵ? Ô nhiễm linh tánh! Thật ra, chẳng thể ô nhiễm linh tánh. Nếu linh tánh thật sự bị ô nhiễm th́ sẽ chẳng linh, tự tánh bị ô nhiễm sẽ không gọi là tự tánh, thật sự chẳng bị [ô nhiễm]. Những phiền năo ấy ô nhiễm thứ ǵ vậy? Nhiễm bẩn A Lại Da, đó là vọng tâm của quư vị, khiến cho vọng tâm thêm hư vọng. Nói “hư vọng” th́ chúng ta khó hiểu, chúng tôi nói là “vọng tưởng, phân biệt, chấp trước nặng hơn”, những thứ này càng sâu thêm hơn mà thôi! Chúng ô nhiễm cái tâm của quư vị, khiến cho chính ḿnh ngày càng thêm xa cách tâm thanh tịnh và tự tánh, nó gây chướng ngại trong ấy, chuyện là như vậy đó!

      “Thật Tướng vô tướng”, như tôi vừa mới nói, đó là Thể. Thật Tướng là Thể, là tự tánh. Tự tánh có thể sanh, có thể hiện, “diệc vô bất tướng”, đó là sở sanh, sở hiện. Thật Tướng có thể hiện tướng, điều này rất khó hiểu. Thường là mỗi khi chúng tôi giảng đến chỗ này, tôi đều dùng máy truyền h́nh làm tỷ dụ. Thật Tướng là ǵ? Thật Tướng là màn h́nh, màn h́nh TV là thật, nó tồn tại. “Vô bất tướng” là ǵ? Vô bất tướng là những h́nh ảnh hiện ra nơi màn h́nh. Quư vị thấy chúng ta nhấn nút mở TV, h́nh ảnh bèn hiện ra, hiện trong màn h́nh. Nếu chúng ta hỏi: Màn h́nh là Thật Tướng, h́nh ảnh hiện ra là vọng tướng (tướng hư vọng), tách rời chân tướng và vọng tướng bằng cách nào? Quư vị có cách nào tách rời chúng hay chăng? Những h́nh ảnh ấy rời khỏi màn h́nh sẽ chẳng thể hiện tướng, tuy chúng hiện trên màn h́nh, nhưng tuyệt đối chẳng phải là màn h́nh, chẳng có mảy may ǵ liên quan đến màn h́nh cả! Chân là chân, vọng là vọng. Làm thế nào để tiêu diệt vọng tướng? Nhấn nút tắt TV, lập tức chẳng c̣n nữa. Do vậy, trong chân tướng có thể hiện vô lượng vô biên sắc tướng. Có nhiều băng tần, quư vị tùy tiện nhấn một nút nào đó. Nếu quư vị chẳng nhấn nút, màn h́nh sẽ khôi phục h́nh trạng như cũ, đó gọi là “vô tướng, vô bất tướng”. Màn h́nh là vô tướng, [các h́nh ảnh] trong băng tần là vô bất tướng, đó là thứ chúng ta đối diện mỗi ngày. Do vậy, xem TV mà có thể khai ngộ, nếu quư vị có thể coi theo cách như vậy th́ sẽ có thể khai ngộ, liễu giải điều ǵ? Chân và vọng chẳng hai, chân chẳng phải là vọng, vọng chẳng phải là chân, nhưng chân và vọng chẳng hai! Chân ở đâu? Chân ở trong vọng; vọng ở đâu? Vọng ở trong chân, tham ngộ điều này sẽ khai ngộ. Do vậy, đối với TV, nếu quư vị biết cách xem TV th́ chẳng khác ǵ niệm kinh Hoa Nghiêm! Chẳng khác ǵ nhau! Quư vị chẳng biết xem, khi xem, sẽ hoàn toàn bị những động tác trong ấy mê hoặc, bèn hồ đồ. Nếu quư vị có thể nh́n ra chân và vọng chẳng hai trong TV, nh́n thấy “phàm những ǵ có tướng đều là hư vọng”, chẳng phải là quư vị đă đại triệt đại ngộ rồi ư? Đó là ǵ? TV và kinh Hoa Nghiêm chẳng khác nhau, mà cũng chẳng khác kinh Vô Lượng Thọ. Xem TV là học Phật, người biết coi sẽ là thành Phật, thành Bồ Tát. Kẻ chẳng biết coi sẽ là tạo nghiệp, trong tâm bị TV xoay chuyển, nó cười quư vị cũng cười, nó khóc quư vị cũng khóc. Học những thứ giết, trộm, dâm, dối trong ấy, sao không đọa địa ngục cho được? V́ vậy, kinh Phật ở nơi đâu? Không có ǵ chẳng phải là kinh Phật! Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm ở đâu? Vô Lượng Thọ ở đâu? Không có ǵ chẳng phải là Vô Lượng Thọ, không có ǵ chẳng phải là Đại Phương Quảng, chẳng phải là Phật Hoa Nghiêm. Vấn đề là quư vị có biết hay là không? Do vậy, kinh do đâu mà có? Kinh từ Thật Tướng xuất hiện, đức Phật giảng về Thật Tướng.

      Tiếp đó là nói về vô tướng. “Vô tướng giả, ly nhất thiết hư vọng chi tướng. Vô tướng tức ly tướng” (vô tướng là ĺa hết thảy các tướng hư vọng, vô tướng chính là ly tướng). Có tướng hay không? Có tướng. V́ sao gọi là vô tướng? Trong tâm không có tướng. Mắt chúng ta nh́n vào TV, TV có tướng hay không? Có tướng; nhưng trong tâm chúng ta hiểu rất rơ ràng, tướng ấy là huyễn tướng, chẳng thật, là giả. Đối với sắc tướng hiện trên màn h́nh, quư vị chẳng phân biệt, chẳng chấp trước. Quư vị chẳng chấp trước th́ là tu A La Hán; chẳng phân biệt là tu Bồ Tát hạnh; không khởi tâm, không động niệm là tu Nhất Thừa Phật pháp. Quư vị thật sự học hiểu, th́ mỗi ngày xem TV sẽ tu hành ngay nơi đó, quư vị tu A La Hán, hay tu Bồ Tát, hay tu Phật. Chẳng biết tu th́ sao? Chẳng biết tu sẽ tu nhân thiên, tu A Tu La, tu súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục, đều là trong một niệm; thật đấy, chẳng giả đâu! Quư vị học tập những thứ giết, trộm, dâm, dối từ TV, đó là tam ác đạo, quư vị đang học tam ác đạo. Quư vị coi TV, đây là tốt, là thiện, tự nhủ: Ta phải học theo. Chẳng tốt th́ ta phải sửa đổi, hối lỗi, ta có [những điều xấu ấy] hay chăng? Nếu có lúc ta phạm những lỗi ấy, ta chớ nên giống như họ, đó chính là [tu nghiệp] nhân thiên; thứ ǵ cũng chẳng chấp trước là A La Hán, thứ ǵ cũng chẳng phân biệt là Bồ Tát. Quư vị thấy đó, cùng xem TV như nhau, nhưng mỗi cá nhân thành tựu khác nhau. Có người coi TV bèn thành Phật, thành Bồ Tát, có người coi TV bèn đi vào địa ngục. Do vậy, tổ sư đại đức trong Tông Môn thường hỏi học tṛ một câu: “Ngươi có hiểu không?” Câu này có ư nghĩa vô lượng sâu rộng, quư vị có hiểu ư nghĩa hay chăng? Quư vị hiểu th́ sẽ thành Phật, thành Bồ Tát; không hiểu th́ sao? Không hiểu sẽ vào tam đồ! Do vậy, “ĺa hết thảy các tướng hư vọng” là bảo quư vị ĺa trong tâm, chẳng phải là bảo quư vị ĺa nơi sự. Sự chẳng có chướng ngại, Sự Sự vô ngại, trong tâm không có [chướng ngại]. Vĩnh viễn giữ ǵn cái tâm thanh tịnh, tâm b́nh đẳng, tâm giác, đấy là đạo thành Phật. V́ sao không có Sự? Sự là giả, là hư vọng, quư vị chẳng cần ĺa nó; coi nó là có thật, quư vị đă bị lừa, sai mất rồi! Quư vị biết nó là hư vọng, chỉ cần quư vị chẳng chấp trước, chẳng phân biệt, không khởi tâm, không động niệm, chuyện ǵ cũng đều không có, đó là Như Lai ứng thế. Chư Phật Như Lai đến thế gian là đến như vậy, các Ngài ở cùng chúng ta, nhưng quả thật chẳng khởi tâm động niệm. Trên h́nh thức, các Ngài chẳng khác ǵ chúng ta, ḥa quang đồng trần với chúng ta. Trên thực tế, các Ngài chẳng khởi tâm động niệm. Bồ Tát ở cùng chỗ với chúng ta, tuy có khởi tâm động niệm, nhưng chẳng phân biệt, chấp trước. Từ chỗ này, chúng ta hiểu cảnh giới của các Ngài cạn hay sâu khác nhau.

      Câu kế đó là: “Hựu Thật Tướng vô bất tướng, phi ngoan không dữ đoạn diệt, phi như quy mao thố giác, nhất thiết hư vô” (lại nữa, Thật Tướng chẳng phải là không có tướng, chẳng phải như hư không trơ trơ và đoạn diệt, chẳng giống như lông rùa, sừng thỏ, hết thảy hư vô). Những điều này đều nhằm chúng ta giải thích vô tướng, vô tướng là ǵ? Vô tướng là ĺa hết thảy các tướng hư vọng. Vô tướng là ly tướng, phải nhớ điều này; chứ chẳng phải là ĺa khỏi tướng, chẳng có ư nghĩa ấy! Ngay nơi tướng mà ĺa tướng, tướng ở ngay trước mặt, biết nó là hư vọng, quư vị sẽ chẳng chấp trước, đó gọi là “ly tướng”, trọn chẳng phải là tiêu diệt tướng, [nếu hiểu “ly tướng” là tiêu diệt tướng] th́ trật mất rồi! Do vậy, tiếp đó, cụ Hoàng giảng: Thật Tướng chẳng phải là không có tướng, chẳng phải là hư không trơ trơ, chẳng phải là đoạn diệt. Phật pháp nói “vô bất tướng”, nếu quư vị hiểu lầm [“vô tướng”] là Không, Không là ǵ? Thứ ǵ cũng đều chẳng có, [hiểu “vô tướng” là như vậy th́] sai mất rồi! Không có thứ ǵ, giống như chúng tôi vừa mới nêu tỷ dụ, màn h́nh TV trống không, thứ ǵ cũng đều chẳng có, nhưng sắc tướng trong mỗi băng tần là có. Chúng ta coi TV lập tức phải thấu hiểu Không và Có chẳng hai. Chân Không là ǵ? Chân Không: Biết tất cả sắc tướng là giả, tướng hiển hiện trên màn h́nh là giả, nhưng màn h́nh có ô nhiễm hay không? Chẳng có ô nhiễm, chẳng ô nhiễm mảy may! V́ sao biết là không ô nhiễm? Tắt TV chẳng phải là không thấy nữa ư? Chẳng lưu lại dấu vết ǵ! Sau đấy mở lên, cũng hiểu rơ nó chẳng lưu lại dấu vết ǵ! Chẳng ô nhiễm mảy may! Chân tánh chẳng bị ô nhiễm. Dùng màn h́nh để tượng trưng cho chân tánh của chúng ta, tự tánh của chúng ta chẳng ô nhiễm! Cái ǵ bị ô nhiễm? A Lại Da bị ô nhiễm, A Lại Da là hư vọng, ô nhiễm là ǵ vậy? Trong phim ảnh biểu diễn có thiện, có ác, có nhân, có quả, đó là ǵ? Đó là hư vọng. Có tịnh, có uế, trong sự biểu diễn có các thứ đối lập, toàn là giả, toàn là chẳng thật. Những rắc rối của chúng ta trong hiện thời là do ngỡ những thứ hư giả được biểu diễn ấy toàn là thật, nên bị khổ chịu nạn ở trong ấy. Trong cảnh giới ấy, dấy lên thất t́nh, ngũ dục, mừng, giận, buồn, vui, yêu, ghét, ham muốn, toàn là giả, chẳng có ǵ là thật. Do vậy, nhà Phật nói Không, th́ chẳng phải là thứ ǵ cũng đều chẳng có! Không ở nơi đâu? Không ở trong Có, Có tức là Không, Không tức là Có, giống như t́nh h́nh nơi TV mà chúng ta vừa nhắc đến, Có và Không chẳng hai.

      Nói “vạn pháp đều là không” là nói tới những h́nh ảnh trong băng tần. Nói “tự tánh chẳng Không, Thật Tướng chẳng không” là nói về màn h́nh TV. Do vậy, vừa nh́n xem kinh giảng điều ǵ, chúng ta đều có thể lư giải, nói gộp lại sẽ là “Không, Hữu bất nhị”. Tâm Kinh nói rất hay: “Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc, Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc”, lấy Không đại diện cho tự tánh. Chúng ta dùng TV làm tỷ dụ, Không được tượng trưng bằng màn h́nh, Có được tượng trưng bằng các sắc tướng hiển lộ trong các băng tần. “Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc, Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc. “Bất dị” là giống nhau. Sắc là Không, Không là Sắc. Chớ nên chấp trước Sắc, mà cũng đừng nên chấp trước Không. Hễ chấp trước là trật rồi, cũng chớ nên chấp trước nhị biên th́ quư vị mới thật sự khế nhập cảnh giới, đó là chân tướng, tức là chân tướng của vũ trụ và nhân sinh, quư vị thật sự khế nhập cảnh giới. Chẳng chấp trước bèn khế nhập. “Nhập” như vậy c̣n cạn, chẳng sâu, v́ sao? Quư vị chẳng chấp trước, nhưng chắc là c̣n phân biệt! Nếu chẳng phân biệt, sẽ nhập càng sâu, đến mức chẳng khởi tâm, chẳng động niệm bèn khế nhập viên măn. Viên măn th́ chính là Phật, thâm nhập là Bồ Tát, thiển nhập (nhập nông cạn) là A La Hán. Nói theo cách bây giờ, A La Hán, Bồ Tát, Phật là các danh xưng học vị trong Phật giáo, quư vị khế nhập Thật Tướng sâu hay cạn khác nhau, nhưng đều nhập cảnh giới. Phật giống như học vị Tiến Sĩ, đây học vị tối cao, Bồ Tát là học vị Thạc Sĩ, A La Hán là học vị Học Sĩ (Cử Nhân). Thật sự khế nhập th́ gọi là học Phật; chưa khế nhập tức là ở ngoài Phật môn, dụng công cách nào, quư vị chẳng lấy được học vị. Giành được học vị mới được coi là đệ tử Phật thật sự, là học tṛ của Thích Ca Mâu Ni Phật. Đạt được học vị bằng cách nào? Buông xuống là được! Quư vị chịu buông xuống! Không buông xuống sẽ chẳng được! V́ sao buông xuống? Do là giả, chẳng thật. Nếu là thật sẽ chẳng cần phải buông xuống, giả mà!

      Có phải buông thân thể xuống hay không? Phải buông xuống, giả đấy, v́ sao? Thân có sanh, lăo, bệnh, tử, chẳng thể tồn tại vĩnh hằng. Trong Phật pháp nói “chân, giả” th́ định nghĩa và tiêu chuẩn là: Chân là vĩnh hằng bất biến, đó là Chân! Chỉ cần nó có thể biến th́ cũng không phải là Chân. V́ vậy, động vật có sanh, lăo, bệnh, tử, nên là giả, thực vật có sanh, trụ, dị, diệt, nên cũng là giả, khoáng vật, thậm chí tinh cầu, có thành, trụ, hoại, không, nên cũng là giả. V́ thế, phàm những ǵ có h́nh tướng đều chẳng thật! Buổi tối, chúng ta nh́n lên bầu trời, thấy vô lượng tinh cầu, vô lượng tinh hệ, đều là thành, trụ, hoại, không, đều chẳng thật, không có ǵ là thật. Chúng giống như những tướng được hiển hiện trên màn h́nh, quư vị đừng nghĩ chúng là thật, toàn là giả. Những thứ ấy do đâu mà có? Trong giáo pháp Đại Thừa, đạo lư này được giảng rất sâu, chúng do ư niệm của chúng ta sanh ra. Tạo Hóa là ǵ? Tạo Hóa là ư niệm. Quư vị không khởi tâm, không động niệm th́ trong vũ trụ không có vật chất, mà cũng không có tinh thần. Ư niệm vừa động, hiện tượng vật chất và tinh thần đều hiện ra. Thật vậy! Giống như màn h́nh TV, chúng ta chưa vặn lên, hay tắt máy đi, thứ ǵ cũng đều chẳng có; đó Thường Tịch Quang Tịnh Độ trong nhà Phật. Ư niệm vừa mới động, h́nh tướng bèn xuất hiện, đó là cơi Thật Báo. Nếu lại phân biệt th́ là tứ thánh pháp giới; lại c̣n chấp trước, sẽ là lục đạo luân hồi. Nếu chúng ta hiểu rất rơ ràng, rất minh bạch những khái niệm ấy, sẽ sống rất khoái lạc trong thế gian này, trong Phật pháp nói là “pháp hỷ sung măn, thường sanh hoan hỷ tâm”. Pháp hỷ ấy chẳng do bên ngoài kích thích, chẳng phải do quư vị gặp chuyện ǵ vui vẻ, phát tài, chẳng phải vậy, chẳng dính dáng đến những thứ ấy! Chẳng liên quan mảy may, mà từ tự tánh lưu lộ ra. Câu đầu tiên trong Luận Ngữ là: “Học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ” (học rồi tập luyện, chẳng vui lắm ư), sự hỷ duyệt ấy là pháp hỷ. Nói theo Phật pháp, quư vị học tập Phật pháp, đạt được thụ dụng, thật sự hoan hỷ, sự hỷ duyệt từ nội tâm lan tỏa ra ngoài, thật sự hoan hỷ, đó gọi là pháp hỷ. Pháp hỷ sung măn, thường sanh tâm hoan hỷ. Sự hoan hỷ ấy, chúng ta gọi là sự dưỡng sinh của con người, là nhân tố quan trọng nhất trong phép dưỡng sinh. Do vậy, cổ nhân đă nói: “Nhân phùng hỷ sự, tinh thần sảng” (con người gặp chuyện vui, tinh thần sảng khoái), suốt ngày từ sáng đến tối vui vẻ, làm sao thiếu tinh thần cho được! Làm sao người ấy chẳng khỏe mạnh? Quư vị khế nhập cảnh giới này sẽ quên mất tuổi tác, quên mất tuổi tác th́ tuổi thanh xuân tồn tại măi, tuy tuổi tác đă cao, nhưng chẳng già. Thật đấy, chẳng giả đâu!

      Con người già đi như thế nào? Đến năm mươi, sáu mươi tuổi bèn già nua, [là v́] người ấy mỗi ngày nghĩ đến tuổi già. Vừa nghĩ, sẽ lập tức già đi. Đặc biệt rơ rệt nhất là ǵ? Về hưu. Trong quá khứ, nhiều đồng học, bạn bè của tôi, lúc đang làm việc, giữ chức vị, họ chẳng nghĩ họ già, làm việc vô cùng hăng hái, vừa về hưu, già rồi mới về hưu, về hưu bèn ngay lập tức nghĩ đến tuổi già. Hai năm chẳng gặp mặt, h́nh như họ đă già đi cả chục tuổi, cớ sao trở thành nông nỗi ấy? Già rồi sẽ như thế nào? Họ nghĩ đến bệnh, chỗ này đau đớn, chỗ kia nhức nhối, thường vào bệnh viện. Bệnh một thời gian đă nghĩ tới cái chết, kết quả là chết thật, họ đều khuất bóng rồi! Rất nhiều đồng học, bằng hữu đều đă mất, cớ sao mất nhanh như vậy? Tư tưởng chẳng đúng, hiểu sai rồi! Những người bạn già này gặp tôi, [họ bảo] h́nh như tôi không già, v́ sao không già? Chưa từng nghĩ đến già, mỗi ngày nghĩ tới kinh bổn, ta phải giải thích cho mọi người như thế nào? Giảng giải rơ ràng, minh bạch những thứ trong kinh bổn, chưa hề nghĩ đến già, tuổi tác mỗi năm một tăng, nhưng thật sự chẳng già! Bất luận tinh thần hay thể lực dường như đều giữ nguyên t́nh trạng cũ, năm hai mươi sáu tuổi học Phật, mỗi năm đều giữ nguyên t́nh trạng như thuở hai mươi sáu tuổi, mỗi cá nhân đều có thể làm được như vậy. Đây là Phật pháp ban cho chúng ta lợi ích chân thật. Ngày hôm nay thời gian đă hết rồi, chúng ta học tới chỗ này.

 

Tập 18

 

Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời ngồi xuống. Xin xem kinh bổn Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang mười bảy, hàng thứ sáu, xem từ hai chữ cuối cùng.

      “Vô tướng giả, ly nhất thiết hư vọng chi tướng. Vô tướng tức ly tướng” (Vô tướng là ĺa hết thảy các tướng hư vọng, vô tướng chính là ĺa tướng). Mấy câu này, nói thật ra, cụ Hoàng đă giảng rất rơ ràng, chúng ta phải chú tâm đọc. Kinh dạy: “Thật Tướng vô tướng”, vô tướng là ǵ? Vô tướng là ĺa hết thảy các tướng hư vọng. Do vậy, vô tướng và ly tướng có cùng một ư nghĩa, ly tướng là vô tướng. Hết thảy các tướng hư vọng là ǵ? Kinh Phật đă vô số lần dạy chúng ta: “Phàm những ǵ có tướng đều là hư vọng”. V́ sao? Do hết thảy các hiện tượng đều là pháp sanh bởi nhân duyên, Trung Luận nói rất hay: “Nhân duyên sở sanh pháp, ngă thuyết tức thị không” (Pháp sanh bởi nhân duyên, ta nói nó là Không), “ngă” ở đây là đức Phật nói, trích dẫn lời Phật dạy. “Ly” là ĺa như thế nào? Ĺa chấp trước, chẳng chấp trước sẽ ĺa. Chấp trước là chẳng ĺa! Chớ nên chấp trước chúng (hết thảy các tướng), đừng nên phân biệt chúng. Đối với tất cả hết thảy các hiện tượng, chớ nên khởi tâm động niệm, quư vị sẽ ĺa toàn bộ. V́ thế, không khởi tâm, không động niệm, chẳng phân biệt, chẳng chấp trước, người ấy thành Phật, v́ sao? Đă ĺa sạch sành sanh! Tướng có tồn tại hay chăng? Tướng tồn tại, tướng là huyễn tướng, tướng là pháp sanh diệt. Thật Tướng là chẳng sanh, chẳng diệt, Thật Tướng là nói theo Thể, c̣n tướng hư huyễn là nói theo hiện tướng (tướng được biến hiện), lớn th́ như hư không, pháp giới; trọn khắp pháp giới hư không giới đều là một huyễn tướng.

      Chúng ta đă học Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán, quư vị cũng rất dễ hiểu [những điều này]. Chân là ǵ? Chân là Thể, nhất thể. Thể là một, tự tánh thanh tịnh viên minh thể, đó là Chân. V́ sao là Chân? Huệ Năng đại sư lúc khai ngộ đă nói rất hay: Thể ấy “vốn tự thanh tịnh”, chưa hề bị ô nhiễm; nay có bị ô nhiễm hay không? Chẳng bị ô nhiễm, vĩnh viễn chẳng ô nhiễm, chẳng sanh, chẳng diệt. “Vốn tự trọn đủ”, câu này rất trọng yếu, trong Tịnh Tông gọi tự tánh thanh tịnh viên minh thể là Thường Tịch Quang Tịnh Độ, trong ấy, không có hiện tượng vật chất, mà cũng không có hiện tượng tinh thần, nhưng chẳng thể nói nó là không, v́ sao? Vốn tự đầy đủ, thứ ǵ nó cũng chẳng thiếu, nhưng nó chẳng hiện tiền. Câu nói thứ tư của Huệ Năng đại sư là: “Vốn chẳng lay động”; nói cách khác, nó là định. Sáng hôm qua, đài truyền h́nh đến phỏng vấn tôi, họ có nói một câu: “Con người hiện thời thường nói ‘nhân định thắng thiên’, phải khai thác, phát triển thiên nhiên”. Nhân định thắng thiên, nói không sai, nhưng hiểu sai ư nghĩa rồi! Nhân định thắng thiên nên giảng như thế nào? Chính là câu thứ tư của Huệ Năng đại sư: “Nào ngờ tự tánh, vốn chẳng lay động”, đó là tự tánh vốn định. Nếu quư vị chứng đắc điều ấy, sẽ “thắng thiên”, thật đấy, chẳng giả tí nào! Chứ chẳng phải là nói con người chúng ta thông minh, trí huệ th́ khoa học, kỹ thuật nhất định sẽ có thể chiến thắng thiên nhiên. Đừng nói thiên nhiên, ngay cả địa cầu c̣n chưa chiến thắng được! Địa cầu vừa chấn động đă chịu không nổi, làm sao quư vị có thể thắng nó? Một đại đô thị có mấy ngàn vạn người sống trong ấy, một trận động đất lớn là xong, mọi người đều biết chuyện này! Chưa thắng được trời! Nhưng tự tánh vốn định, nếu quư vị chứng đắc th́ sẽ có thể thắng.

      Câu cuối cùng: “Nào ngờ tự tánh, có thể sanh ra vạn pháp”. Câu “có thể sanh ra vạn pháp” và câu “vốn tự trọn đủ” trong phần trước là hai mặt thuận và nghịch. “Vốn tự trọn đủ” là ẩn, Phật pháp gọi đó là ẩn; “có thể sanh ra vạn pháp” là hiển, tức hiện hành. Tự tánh thanh tịnh viên minh thể giống như cái TV nay đang ở trước mặt chúng ta. Thể là ǵ? Thể là màn h́nh TV, cái ǵ cũng đều không có. Nó cái ǵ cũng đều không có, nhưng quư vị chẳng thể nói nó là không, v́ sao? Nhấn nút một cái, h́nh ảnh sẽ xuất hiện. H́nh ảnh xuất hiện, chẳng thể nói là nó có. Quư vị biết chân và vọng, màn h́nh là chân, h́nh ảnh là vọng, chân và vọng là nhất thể, vọng há có thể rời khỏi chân ư? Chẳng có cách ǵ rời khỏi, rời khỏi màn h́nh, các h́nh ảnh sẽ chẳng thể hiện ra được! Có chân nào chẳng ở trong vọng? Trong màn h́nh này, mỗi tấc vuông đều có h́nh ảnh, nhưng chân là chân, vọng là vọng, chân chẳng phải là vọng, vọng chẳng phải là chân, đúng hay không? Nói cách khác, chân là vọng, vọng là chân, chân và vọng là một, chẳng hai, đúng hay không? Cũng đúng! Quư vị hiểu rơ điều này! Do vậy, đức Phật đă nói: “Thật Tướng ly tướng”. Thật Tướng ly tướng tức là Thật Tướng vô tướng, Thật Tướng vô bất tướng, chúng là cùng một chuyện. Do vậy, xem TV mà biết xem th́ sẽ là cảnh giới Hoa Nghiêm! Khi biết xem, có thể ngộ nhập tự tánh thanh tịnh viên minh thể, đấy là thành Phật; nhưng vấn đề là quư vị có hiểu hay không! V́ sao chúng ta không hiểu? Do lúc quư vị đang xem, bèn khởi tâm động niệm, có phân biệt, có chấp trước, cho nên quư vị chấp tướng. Do quư vị chấp tướng, nên chẳng phải là ly tướng, mà là chấp tướng. Chấp tướng là lục đạo phàm phu, trong Phật pháp nói “ly tướng là A La Hán”, chẳng phải là phàm phu! Người đạt được ly tướng sẽ chẳng c̣n chấp trước hết thảy các hiện tượng; tâm b́nh đẳng, sẽ vượt thoát lục đạo luân hồi, chứng quả A La Hán. Chẳng phân biệt, quư vị là Bồ Tát. Không khởi tâm, không động niệm, quư vị sẽ thành Phật. Ở đây, điều trọng yếu nhất là dạy chúng ta: Sau khi liễu giải chân tướng sự thật, đừng chấp trước nữa, phải thực hiện từ chỗ này!

      Lục đạo xuất hiện như thế nào? Có thể sanh vạn pháp, lục đạo từ đâu mà có? Lục đạo từ chấp trước mà có. Tứ thánh pháp giới do đâu mà có? Phía trên của mười pháp giới là tứ thánh pháp giới, tức Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật, do đâu mà có? Từ phân biệt mà có. Thật sự chẳng khởi tâm, chẳng động niệm th́ mười pháp giới cũng không có, mười pháp giới bèn ẩn, chẳng hiển lộ nữa! Nhưng tập khí vô minh từ vô thỉ chưa đoạn, chẳng có cách nào buông tập khí xuống; do c̣n chưa buông xuống, cho nên c̣n có một cơi Thật Báo Trang Nghiêm. Cơi Thật Báo Trang Nghiêm do đâu mà có? Bốn mươi mốt phẩm tập khí vô minh, tập khí trong ấy có dày hay mỏng khác nhau; v́ thế, đức Phật chia thành bốn mươi mốt đẳng cấp. Tuy có bốn mươi mốt đẳng cấp, nhưng chẳng trở ngại quư vị mảy may! V́ sao? Quư vị đă không khởi tâm, không động niệm, chẳng cần phải quan tâm tới cái vô minh ấy, lâu ngày, nó sẽ tự nhiên chẳng c̣n nữa! Phải mất thời gian bao lâu? Kinh nói là ba A-tăng-kỳ kiếp, [tập khí phiền năo] sẽ tự nhiên chẳng c̣n nữa. Sau khi không c̣n, đó là cơi Thật Báo Trang Nghiêm viên măn hiện tiền, trở về tự tánh, chứng đắc Phật quả rốt ráo, chuyện là như vậy đó! Nói chung, phải hiểu rơ, minh bạch. Sau khi minh bạch, quư vị mới chịu buông xuống. Nguyên nhân khiến không chịu buông xuống là do chưa hiểu rơ chân tướng sự thật, nên mới có phân biệt, chấp trước. Đây là một chướng ngại rất lớn.

      Nếu chẳng thật sự buông xuống, cả đời này, quư vị sẽ làm ǵ? Phật học, chẳng phải là học Phật. Người Phật học rất nhiều, người thật sự học Phật chẳng mấy! Học Phật là ǵ? Học Phật là buông xuống. Lúc tôi mới học, Chương Gia đại sư dạy tôi: “Thấy thấu suốt, buông xuống”, bắt đầu làm từ đâu? Thực hiện từ buông xuống. Quư vị có buông xuống được th́ mới thật sự có thể thấy thấu suốt. Thấy thấu suốt lại giúp quư vị buông xuống một tầng nữa. Từ Sơ Phát Tâm đến địa vị Như Lai là “thấy thấu suốt bèn buông xuống, buông xuống bèn thấy thấu suốt”; hai phương pháp này giúp đỡ lẫn nhau thành tựu từ Sơ Phát Tâm cho đến địa vị Như Lai. Đến cuối cùng, buông luôn tập khí vô minh xuống, quư vị bèn thành Phật. Đó gọi là học Phật. Nếu chẳng phải dùng phương pháp thấy thấu suốt và buông xuống này, quư vị là Phật học. Phật học và học Phật là hai chuyện [khác hẳn nhau]! Phật học chẳng thể liễu sanh tử, không thể thoát khỏi tam giới; ngay cả niệm Phật văng sanh vẫn phải buông xuống. Hễ có mảy may lưu luyến thế giới này, sẽ không bỏ xuống được, chẳng thể văng sanh! Chẳng có thứ ǵ trên thế gian này có thể mang qua thế giới Cực Lạc được! Do vậy, thật sự cầu văng sanh th́ hết thảy mọi thứ ở nơi đây, thường nói là “thân, tâm, thế giới hết thảy đều buông xuống” th́ mới có thể ra đi được!

      Khó buông xuống nhất là thân t́nh, thứ này khó lắm! Phải thật sự thực hiện, thật sự mong liễu sanh tử, thoát tam giới trong một đời này th́ phải bắt đầu từ đâu? Trước hết, phải nhạt bớt thân t́nh, “nhạt bớt” chẳng phải là bất hiếu với cha mẹ! [Nếu bất hiếu] th́ quư vị đă phạm lỗi mất rồi! Quư vị phải thật sự thực hiện Đệ Tử Quy, Cảm Ứng Thiên, Thập Thiện Nghiệp, tuy thi hành nhưng lại chẳng chấp trước, tâm địa thanh tịnh, chẳng nhiễm mảy trần. Bên ngoài thực hiện vô cùng chu đáo, đó là ǵ? Bên ngoài thực hiện vô cùng chu đáo nhằm phổ độ chúng sanh, nêu gương tốt nhất cho người thế gian. Bên trong thanh tịnh, chẳng nhiễm mảy trần, đấy là nâng cao linh tánh của chính quư vị, mỗi ngày đều tương ứng với thế giới Cực Lạc, tương ứng với A Di Đà Phật. Quư vị thấy pháp xuất thế gian và pháp thế gian có cùng một Thể, ta xử sự đăi người tiếp vật, sinh sống, làm lụng chẳng khác ǵ kẻ khác, nhưng đối với người thế gian mà nói th́ khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo tác, hoàn toàn tùy thuận Pháp Tánh, điều này trọng yếu! Luân lư, đạo đức đều do Tánh Đức tự nhiên lưu lộ. Nếu quư vị chấp tướng, chấp tướng sẽ phải tu thiện. Đoạn ác, tu thiện! Chẳng chấp tướng sẽ thành Phật, thành Bồ Tát. Tuy chẳng chấp tướng, nhưng trọn chẳng ĺa tướng. Mọi người mỗi ngày đều xem TV, hăy nghĩ tới tỷ dụ của tôi, đối với màn huỳnh quang và sắc tướng hiện trong ấy, quư vị thường nghĩ đến điều ấy, chúng có ĺa hay không? Chẳng ĺa, chẳng tức. Màn h́nh là thật, vĩnh viễn chẳng đổi; nhưng tướng cảnh giới trong ấy, tức là tướng được hiện ra sẽ biến đổi trong từng sát-na, chẳng ngưng dứt. Tốc độ biến đổi nhanh như thế nào? Mọi người đều có kiến thức thông thường này, chúng ta h́nh dung nó [biến đổi trong] từng sát-na, chẳng phải là từng giây một! Nó biến hóa trong từng một phần trăm giây, một phần ngàn giây, một phần vạn giây.

      Nhưng vũ trụ là tướng được hiện giống như h́nh ảnh hiện ra trên màn h́nh, tốc độ nhanh như thế nào? Di Lặc Bồ Tát cho chúng ta biết trong một giây biến hóa bao nhiêu lần? Một ngàn hai trăm tám mươi triệu lần. Nguyên văn trong kinh điển là: Trong một cái khảy ngón tay, có ba mươi hai ức trăm ngàn niệm. Trong một cái khảy ngón tay có bao nhiêu? Ba mươi hai ức trăm ngàn niệm. Trăm ngàn là mười vạn, ba mươi hai ức nhân với mười vạn là ba trăm hai mươi triệu, trong một khảy ngón tay có ba trăm hai mươi triệu. Chúng ta khảy ngón tay [th́ trong một giây] có thể khảy bốn lần, tôi tin có người c̣n khảy ngón tay nhanh hơn tôi. Khảy tới năm lần, sẽ là một ngàn sáu trăm triệu, trong một giây, chứ không phải là một phần vạn hay một phần mười vạn giây, chẳng phải! Biến hóa ở trong ấy, cứ một niệm là một tướng được hiện; niệm trước vừa diệt, niệm sau lại sanh. Do vậy, chúng ta thấy những hiện tượng này, sự thật là ǵ? Là “tương tự tương tục tướng” (tướng gần như liên tục), chúng chẳng phải là thật sự liên tục, mà là tương tự liên tục. Chúng biến hóa, nghe theo ai chỉ huy? Trong kinh, đức Phật đă dạy: “Hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng”, tâm tưởng chỉ huy chúng (các hiện tượng ấy). Tâm tưởng thiện th́ các tướng được hiện sẽ là lành. Tâm tưởng ác, tướng được hiện là ác. Hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng! Chúng ta mong bản thân tướng mạo đẹp đẽ, thân thể khỏe mạnh, quư vị nghĩ đến điều lành cho nhiều bèn đạt được! Bởi lẽ, tâm thái quyết định tướng mạo và sức khỏe của chúng ta. Tâm thái, chứ chẳng phải thứ ǵ khác!

      Hoàn cảnh sống của chúng ta tốt hay xấu cũng tùy thuộc vào tâm thái. Nếu mỗi cá nhân trong các cư dân trên địa cầu đều nghĩ tới Thập Thiện Nghiệp Đạo, địa cầu này sẽ chẳng khác ǵ thế giới Cực Lạc. V́ sao? Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói v́ sao Tây Phương Cực Lạc thế giới tốt đẹp như vậy? Toàn là những người thượng thiện nhóm họp một chỗ, cư dân bên đó nghĩ tưởng những điều thượng thiện, nói những lời thượng thiện, làm những chuyện thượng thiện, nguyên nhân là như vậy đó! Hiện thời, địa cầu của chúng ta rắc rối quá, hiện nay chẳng nói đến tai nạn cũng không được, tai nạn nhiều quá! Hôm qua, đài Phượng Hoàng phỏng tôi với chủ đề là “tai nạn”, trước nay chưa hề thảo luận vấn đề này. Tôi cũng bảo họ, năm nay trong cuộc phỏng vấn năm tôn giáo tại Úc, trong quá khứ, khi gặp gỡ giữa các tôn giáo, chúng tôi cũng chưa hề bàn đến tai nạn. Khi tham dự phỏng vấn lần này, mọi người lấy tai nạn làm chủ đề hội thảo, có thể thấy rất nhiều người đă khá coi trọng vấn đề này. Tai nạn do đâu xảy ra? Đức Phật đă dạy: Trước hết là do cái tâm của quư vị. Tâm quư vị xấu xa, trong tâm có tham, sân, si, mạn, nghi, chúng được gọi là Ngũ Độc. Quư vị thấy trong tâm của chính ḿnh có Ngũ Độc. Cảnh giới vừa hiện tiền, nhất định sẽ khiến quư vị phản ứng, từ Ngũ Độc nẩy sanh phản ứng ǵ? Oán hận, áo năo, giận dữ, phiền muộn, thôi rồi, thân thể quư vị sẽ đổ bệnh, ngă bệnh, quư vị bệnh là do vậy. Chúng ta thường gọi chất độc bên trong là “tam độc phiền năo”, tức là tham, sân, si, c̣n thêm vào hai thứ nữa, thành tham, sân, si, mạn, nghi Ngũ Độc. Năm thứ này kết hợp với năm duyên “oán, hận, năo, nộ, phiền”, tế bào của chúng ta lập tức biến thành tế bào bị bệnh, nó biến hóa, thay đổi, đó là nguyên nhân khiến quư vị nhiễm bệnh. Phải như thế nào mới không bị bệnh? Đức Phật đă dạy chúng ta một câu, quư vị thật sự ghi nhớ, thật sự thực hiện th́ bách bệnh chẳng sanh. Đức Phật dạy quư vị điều ǵ vậy? “Siêng tu Giới, Định, Huệ, dứt diệt tham, sân, si”, hóa giải virus gây bệnh từ trong tâm ḿnh, sẽ vĩnh viễn chẳng sanh bệnh. Bởi lẽ, tâm thái quyết định hết thảy, đạo lư này tương thông với y học Trung Quốc. Y học Trung Quốc bảo: Chữa bệnh th́ tác dụng trị liệu của thuốc men tối đa chỉ chiếm ba phần, bảy phần là tâm thái. Hễ tâm thái chuyển biến, có lúc căn bản là không cần tới thuốc thang, tự nhiên lành bệnh, điều này chẳng có ǵ hiếm lạ, mà có căn cứ lư luận, ai nấy đều làm được. V́ thế, tâm con người phải tốt đẹp!

      Tổ tiên Trung Quốc dạy con người, tôi nghĩ tổ tiên Trung Quốc đều là chư Phật, Bồ Tát tái lai, chẳng phải là phàm nhân. Thuở tôi c̣n trẻ, học Phật, thỉnh ư thầy Lư: “Cổ thánh tiên hiền của Trung Quốc như Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, Văn Vương, Vơ Vương, Châu Công, Khổng Tử, Mạnh Tử có phải là Phật, Bồ Tát tái lai, hóa thân tại Trung Quốc hay chăng? Họ nên dùng tư cách thánh hiền để độ người, bèn hiện thân thánh hiền để nói pháp”. Tôi thỉnh ư thầy, thầy đáp: “Nói theo Lư th́ hợp lẽ, nhưng trên mặt Sự chẳng có chứng cứ”. Cụ nói hay quá! Các Ngài lại chẳng bộc lộ thân phận, chẳng nói ḿnh là Bồ Tát nào tái lai, chẳng hề nói! Nói theo Lư th́ thông suốt, v́ trong giáo pháp Đại Thừa thường nói “nên dùng thân ǵ để độ được, bèn hiện thân ấy”, chúng ta phải hiểu điều này! Thật sự hiểu rơ, minh bạch, quư vị sẽ thật sự làm, đoạn hết thảy ác, buông hết thảy ác xuống, tu hết thảy thiện. Tu hết thảy thiện, đừng chấp tướng; chẳng chấp tướng th́ sẽ khai ngộ, sẽ kiến tánh, sẽ đắc định, đắc tam-muội, sẽ khai ngộ, sẽ chứng quả. Chấp tướng th́ sao? Chấp tướng th́ là thiện pháp nhân thiên, quả báo ở trong nhân thiên, chẳng thoát khỏi lục đạo luân hồi. Đoạn ác nhưng chẳng chấp vào tướng đoạn ác, tu thiện nhưng chẳng chấp tướng tu thiện, ly tướng, ĺa hết thảy các tướng hư vọng, làm như vậy là đúng, đó là thật sự học Phật.    Chúng ta lại xem câu kế tiếp: “Hựu Thật Tướng vô bất tướng, phi ngoan không dữ đoạn diệt” (Lại nữa, Thật Tướng chẳng phải là không có tướng, chẳng phải là hư không trơ trơ và đoạn diệt). Chúng ta vẫn lấy màn h́nh TV làm tỷ dụ, Thật Tướng là ǵ? Thật Tướng giống như màn h́nh TV, đó là Thật Tướng. Thật Tướng vô bất tướng, “vô bất tướng” là có tướng, đúng vậy! Ta vừa mở máy liền có tướng, chẳng phải là vô tướng, mà là có tướng; tuy có tướng, nó vẫn là Thật Tướng. Tôi vừa mới nói rất rơ ràng, Thật Tướng và vọng tướng dung hợp lại, tuy là hai chuyện, nhưng chẳng thể phân biệt! Quư vị chẳng thể phân biệt cái nào là vọng tướng, cái nào là Thật Tướng, không thể phân biệt! Vọng tướng là Thật Tướng, Thật Tướng là vọng tướng; nhưng Thật Tướng và vọng tướng đúng là khác nhau. Chúng ở cùng một chỗ, vĩnh viễn chẳng tách rời, cũng có thể nói là tất cả hiện tượng vật chất và hiện tượng tinh thần trong khắp pháp giới hư không giới đều do Thật Tướng biến hiện, toàn là tự tánh. Chân Như tự tánh ở đâu? Không có một pháp nào chẳng phải [là Chân Như tự tánh]. Ta lấy cái này, nó có phải là Chân Như tự tánh hay không? Phải! Lẽ nào chẳng phải? Thứ nào cũng đều phải, bản thể của chúng là Chân Như tự tánh. Tùy tiện lấy một pháp nào, cũng đều là Chân Như tự tánh. Người kiến tánh và kẻ chưa kiến tánh có ǵ khác nhau? Khác nhau ở chỗ kẻ chưa kiến tánh chấp trước, phân biệt; người kiến tánh chẳng chấp trước, chẳng phân biệt. Kẻ chưa kiến tánh tâm lượng rất nhỏ, thứ ǵ cũng đều so đo. Người kiến tánh tâm lượng to như hư không pháp giới, tâm bao thái hư, lượng trọn khắp các cơi nước nhiều như cát, người ấy chẳng so đo, chẳng chấp trước. Khác hẳn! Người kiến tánh pháp hỷ sung măn, sung sướng; kẻ chưa kiến tánh phiền năo trùng trùng, cuộc sống rất khổ, làm sao giống nhau cho được? Người kiến tánh thấy thấu suốt, người chưa kiến tánh chẳng thấy thấu suốt. Do vậy, Thật Tướng chẳng phải là ngoan không, ngoan không là ǵ? Là nói tới hư không, cái ǵ cũng đều không có. Màn h́nh này chẳng phải là cái ǵ cũng đều không có, nó có, mở máy lên sẽ có thể hiện tướng. Cũng không phải là đoạn diệt, đoạn diệt là ǵ? Là trừ bỏ tướng này, đó là đoạn diệt! Có thể đoạn diệt hay không? Chẳng đoạn diệt được! Chẳng trừ khử được!

      Do vậy, “phi như quy mao, thố giác” (chẳng giống như lông rùa, sừng thỏ), rùa không có lông, thỏ chẳng có sừng, đó là ǵ? Đây là một tỷ dụ về ngoan không, đoạn diệt, [Thật Tướng có] ư nghĩa khác hẳn những thứ này. “Nhất thiết hư vô” (hết thảy hư vô), nó chẳng phải là hết thảy đều hư vô, mà là thật sự có, nhưng “thật sự có” là có tướng, nhưng tướng ấy chắc chắn là giả tướng, chẳng thật! Đây là từ một Thể phát khởi hai tác dụng, hai tác dụng bèn hiện tướng, đó là giả tướng. Hai tác dụng th́ thứ nhất là y báo, tức là vũ trụ, trọn khắp pháp giới hư không giới. Chúng ta đọc phẩm Hoa Tạng Thế Giới và Thế Giới Thành Tựu của kinh Hoa Nghiêm, quư vị thấy những điều được giảng trong hai phẩm ấy chính là vũ trụ quan của Đại Thừa Phật pháp, giảng cặn kẽ hơn triết học hiện tại. [Vũ trụ quan theo cách diễn giải của] các khoa học gia và triết gia hiện thời đều thua kém thế giới Hoa Tạng quá xa! [Vũ trụ quan theo] kinh Hoa Nghiêm là trùng trùng vô tận, khoa học lẫn triết học vẫn chưa nói tới điều này. Những điều kinh Phật giảng là sự thật ư? Thật đấy, chẳng sai chạy chút nào! Trong vi trần có thế giới, thế giới ấy giống hệt như vũ trụ của chúng ta, chẳng sai khác! Trong vi trần có thế giới, trong thế giới đó lại có vi trần, trong vi trần lại có thế giới, trùng trùng vô tận! Do vậy, nói: “Kỳ đại vô ngoại, kỳ tiểu vô nội” (cái lớn không ra ngoài, cái nhỏ không ở trong), thật đấy! V́ tự tánh là viên măn, không có lớn nhỏ, chẳng có trước sau. Không có trước sau là không có thời gian; không có lớn nhỏ là chẳng có không gian. Thời gian và không gian cũng chẳng tồn tại, đấy là thuộc về Thường Tịch Quang. Thường Tịch Quang ở đâu? Trọn khắp hết thảy các nơi, không lúc nào, không chỗ nào nó chẳng tồn tại, v́ nó có thể biến, [tức là] có thể sanh, có thể biến (năng sanh, năng biến); vũ trụ vạn vật là sở sanh sở biến (cái được sanh ra, cái được biến ra). Năng và Sở là một, chẳng hai!

      V́ thế, xưa kia tiên sinh Âu Dương Cánh Vô đă nói: “Phật pháp chẳng phải là triết học”. Ông ta nói cũng rất có lư, v́ sao? Trong triết học có Năng và Sở (chủ thể và khách thể), tuy Phật pháp nói đến Năng và Sở, nhưng Năng và Sở là một, chẳng hai, Năng Sở bất nhị. Trong triết học chẳng có cách nói này! Do vậy, ông ta nói: “Phật pháp chẳng phải là triết học, cũng chẳng phải là tôn giáo, mà là thứ cần thiết cho đời hiện tại”. Thế giới hiện thời chẳng thể thiếu Phật giáo, quả thật Phật giáo có thể giúp chúng ta giải quyết vấn đề xă hội, dùng Đại Thừa Phật pháp để giải quyết vấn đề xă hội hiện thời. Do hiện thời xă hội loạn lạc, trên địa cầu tai nạn rất nhiều, thật sự dùng Đại Thừa Phật pháp, dùng kinh Vô Lượng Thọ, dùng kinh Hoa Nghiêm để giải quyết vấn đề hiện tại, cần bao lâu? Chưa đầy một năm, xă hội an định, tai nạn chẳng c̣n nữa! Thật đấy, chẳng giả đâu! Quư vị không tin th́ chẳng có cách nào hết, chẳng tin tưởng mà! Cổ nhân Trung Quốc có nói một câu: “Bất thính lăo nhân ngôn, ngật khuy tại nhăn tiền” (Chẳng nghe lời người già, bị thua thiệt ngay trước mắt). Quư vị phải hứng chịu những sự hỗn loạn trước mắt, tất cả những tai biến trên địa cầu quư vị cũng phải hứng chịu v́ quư vị không nghe lời người già. Người già là ai vậy? Thích Ca Mâu Ni Phật là người già, Khổng Tử, Mạnh Tử là người già, Gia Tô (Jesus), Mục Hăn Mặc Đức (Mohamed) đều là người già, quư vị chẳng nghe lời các vị ấy, sẽ chịu thiệt tḥi to lớn.

      Tiếp đó, Hoàng lăo cư sĩ dẫn một câu trong kinh Kim Cang để nói: “Kim Cang kinh vân: - Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng. Nhược kiến chư tướng phi tướng, tức kiến Như Lai” (kinh Kim Cang nói: “Phàm những ǵ có h́nh tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng chẳng phải là tướng th́ chính là thấy Như Lai”). Như Lai là tự tánh viên minh thể, quư vị có thể thấy “chư tướng phi tướng” sẽ kiến tánh, “tức kiến Như Lai” là “minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật”. Quư vị có thể thấy “chư tướng phi tướng” th́ hết thảy các hiện tượng là ǵ? Tôi vừa mới nói, chúng sanh diệt trong từng sát-na, là tương tự tương tục tướng, không có ǵ là thật, kể cả thân thể của chúng ta, [vậy th́] quư vị có c̣n chấp trước nữa chăng? Quư vị có c̣n dấy lên ư niệm muốn khống chế, muốn chiếm hữu hay chăng? V́ sao sẽ không khởi lên những ư niệm này? V́ chúng là Không. “Đương thể tức không, liễu bất khả đắc” (bản thể là không, trọn chẳng thể được). Thuở trẻ, tôi có xem bộ kinh Đại Bát Nhă sáu trăm quyển một lần, tôi tổng kết được mười hai chữ, những điều do Thích Ca Mâu Ni Phật đă giảng trong hai mươi hai năm là ǵ? Ngài dạy chúng ta: “Nhất thiết pháp, vô sở hữu, tất cánh không, bất khả đắc” (hết thảy các pháp vô sở hữu, rốt ráo không, chẳng thể được). Quư vị thật sự hiểu [mười hai chữ ấy] sẽ không chỉ chẳng khởi lên ư niệm khống chế, chiếm hữu hết thảy cảnh giới bên ngoài, mà đối với thân tâm của chính ḿnh cũng chẳng có ư niệm ấy. Thân, tâm, thế giới đều là huyễn tướng, đều là phi tướng. Vạn pháp đều là Không, thưa quư vị, nói đến cuối cùng, thật sự minh tâm kiến tánh th́ nhân quả cũng là không.

      Nhưng trong Phật pháp nói: “Vạn pháp giai không, nhân quả bất không” (vạn pháp đều là không, nhân quả chẳng không) là nói với ai? Nói với kẻ chưa kiến tánh. Chỉ cần quư vị chưa kiến tánh, sẽ có nhân, có quả; kiến tánh rồi bèn không có. Kiến tánh là ǵ? [Kiến tánh là] quư vị đă thấy Như Lai; “thấy Như Lai” là ǵ? Quư vị thành Như Lai! Cũng là như trong Hoa Nghiêm thường giảng, những ǵ có nhân quả? Mười pháp giới chẳng ĺa nhân quả; Phật trong mười pháp giới vẫn chẳng ĺa nhân quả, v́ sao? Ngài chưa thể chuyển thức thành trí. Khi nào Ngài tiến cao hơn, chuyển tám thức thành bốn trí, sẽ chẳng c̣n nhân quả. Thật ra, chúng ta nói tới nhân quả báo ứng th́ chỉ thuộc trong mười pháp giới; Phật pháp giới trong mười pháp giới hễ tiến cao hơn sẽ chẳng c̣n [nhân quả] nữa! Tiến cao hơn chính là cơi Thật Báo Trang Nghiêm của chư Phật Như Lai. Nếu chúng ta hỏi: Trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm c̣n có nhân quả hay không? Có! V́ sao mà có? Do tập khí vô minh từ vô thỉ chưa đoạn cho nên người trong cơi ấy (Thật Báo Trang Nghiêm) có [nhân quả]. Họ c̣n có bốn mươi mốt phẩm vô minh, “vô minh” ấy chính là tập khí vô minh! Nói rành rẽ sẽ là bốn mươi mốt phẩm tập khí vô minh. Vô minh đă đoạn rồi, v́ nếu chưa đoạn vô minh, sẽ không thoát khỏi mười pháp giới; do vô minh đă đoạn, mười pháp giới chẳng c̣n nữa, nhưng tập khí vô minh vẫn c̣n. Do vậy, c̣n có cơi Thật Báo Trang Nghiêm. Sau khi đoạn được tập khí, cơi Thật Báo chẳng c̣n, hoàn toàn trở về tự tánh. Trở về tự tánh th́ nhân quả chẳng c̣n nữa, thật sự chẳng có!

Do vậy, chúng ta hiểu vạn vật: Đối với cái có thể sanh ra vạn vật th́ cái nhân có thể sanh [vạn vật] chính là “một niệm bất giác”, đó là nhân. Ư niệm ấy dấy lên, dao động vô cùng vi tế, chúng ta chẳng có cách ǵ nhận biết được! Không riêng ḿnh chúng ta chẳng có cách nào nhận biết, mà kinh c̣n nói: Thất Địa Bồ Tát cũng chẳng cảm nhận được, từ Bát Địa trở lên mới có thể cảm nhận. Bậc Bát Địa trong Viên Giáo nhận biết. Bát Địa, Cửu Địa, Thập Địa, Đẳng Giác, Diệu Giác, năm địa vị này đều biết. Do vậy, [một niệm bất giác ấy] gọi là vô thỉ vô minh. Hai chữ “vô thỉ” hay lắm, vô thỉ nghĩa là ǵ? Vô minh cũng chẳng thật; do vậy, quư vị chớ nên nghĩ cơi Thật Báo Trang Nghiêm là thật, chẳng có chuyện này! Cơi Thật Báo Trang Nghiêm cũng chẳng thật! “Phàm những ǵ có h́nh tướng đều là hư vọng”. Đức Phật chẳng nói cơi Thật Báo Trang Nghiêm là ngoại lệ, chẳng nói như vậy! V́ thế, ngay cả cơi Thật Báo Trang Nghiêm của chư Phật Như Lai cũng là hư vọng; bất quá, trong ấy chẳng có phân biệt, chẳng có chấp trước, mà cũng chẳng có khởi tâm động niệm, đúng là lợi hại! Các Ngài có năng lực cảm ứng đạo giao cùng hết thảy chúng sanh trong mười pháp giới. Đừng tưởng chúng ta khởi tâm, động niệm chẳng ai biết! [Nếu nghĩ như vậy], quư vị đă lầm lẫn quá đỗi! Quư vị nh́n vào duyên khởi của vũ trụ và tác dụng của nó: Một niệm dấy lên, trong tự tánh liền biến hiện A Lại Da. A Lại Da là vọng tâm, vọng từ chân khởi, nó chẳng phải là chân, nhưng nó nương vào chân để khởi lên. Giống như những h́nh ảnh trong cái màn h́nh, màn h́nh không có h́nh ảnh, nhưng h́nh ảnh nương vào màn h́nh để hiển hiện. Không có màn h́nh, chúng chẳng hiện ra được. Nó là tướng được biến hiện do nương vào tự tánh, đấy là y báo. Chánh báo là chính ḿnh. Chính ḿnh và cảnh giới khởi lên cùng lúc, đó gọi là ba tế tướng của A Lại Da, ba tế tướng hoàn thành trong một niệm.

       Nói như các nhà khoa học hiện thời, Nghiệp Tướng là năng lượng. Năng lượng có thể biến thành tinh thần, mà cũng có thể biến thành vật chất. Biến thành tinh thần là thức thứ bảy, biến thành vật chất th́ là Tướng Phần. Chúng ta nói Kiến Phần và Tướng Phần cho dễ hiểu, th́ Kiến Phần là tinh thần, Tướng Phần là vật chất; nó cũng là Cảnh Giới Tướng. Tinh thần là Chuyển Tướng và Kiến Tướng, nó thật sự chuyển biến. Cái vốn có trong tự tánh là kiến văn giác tri (thấy, nghe, hay, biết), những điều này vốn sẵn có. “Nào ngờ tự tánh vốn tự trọn đủ”, nó có kiến văn giác tri. Trong A Lại Da, kiến văn giác tri biến thành Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Do đâu mà có Thọ, Tưởng, Hành, Thức? Từ kiến văn giác tri biến hiện ra. Nếu quư vị đă chuyển thức thành trí, Thọ, Tưởng, Hành, Thức chẳng c̣n nữa, chúng lại hồi phục thành kiến văn giác tri. Thường Tịch Quang có khởi tác dụng hay chăng? Khởi tác dụng. V́ sao? Nó có kiến văn giác tri. Do vậy, Thường Tịch Quang cảm ứng đạo giao cùng hết thảy chúng sanh. Chúng sanh cầu Phật, Thường Tịch Quang sẽ thật sự khởi cảm ứng. Kinh dạy có bốn loại cảm ứng, trong khi giảng kinh Hoa Nghiêm, chúng tôi đă giảng rất rơ ràng: Hiển cảm hiển ứng (cảm lẫn ứng đều rơ rệt), hiển cảm minh ứng (cảm rơ rệt, ứng ngấm ngầm), minh cảm hiển ứng (cảm ngấm ngầm, ứng rơ rệt), và minh cảm minh ứng (cảm lẫn ứng đều ngấm ngầm), bốn loại! Thật sự có cảm ứng, nhưng chúng ta vô tâm sơ ư, chẳng cảm nhận được. Niệm niệm đều có cảm ứng, do vậy, Phật chẳng hề rời khỏi chúng ta, mười phương ba đời chư Phật chẳng hề rời khỏi. Phật là ǵ? Phật là tự tánh, [nói đến sự cảm ứng đạo giao tức là nói đến] đức năng trong tự tánh.

      Hiền Thủ quốc sư đă dựa theo kinh Hoa Nghiêm để soạn luận; bài luận văn Hoàn Nguyên Quán là một tác phẩm dựa theo giáo nghĩa của kinh Hoa Nghiêm để viết. Quư vị thấy khi nó (tự tánh) khởi tác dụng, bất luận là tinh thần hay vật chất, đều có tác dụng trọn khắp pháp giới, tốc độ ấy vô cùng nhanh. Ư niệm vừa dấy lên đă trọn khắp pháp giới vô cùng nhanh, nhanh hơn ánh sáng, nhanh hơn ḍng điện. Ánh sáng và điện chẳng thể trọn khắp pháp giới, thua kém quá xa! Lẽ nào nó chẳng có cảm ứng? Điều thứ hai [trong sách Hoàn Nguyên Quán] là nói: “Xuất sanh vô tận”. Xuất sanh là biến hóa, biến hóa vô cùng. Điều thứ ba là “hàm dung Không và Có”. Nếu chúng ta hiểu được chân tướng sự thật này, mới biết: Ư niệm không chỉ là chủ tể của thân thể, tướng mạo, và sức khỏe của chúng ta, không chỉ chủ tể những thứ ấy, mà c̣n là chủ tể của địa cầu, núi, sông, đại địa, chủ tể trọn khắp pháp giới hư không giới, chủ tể các tinh hệ trong hư không khiến chúng vận hành theo đúng quỹ đạo và quy luật. Vũ trụ do ai sáng tạo? Do ư niệm sáng tạo, ư niệm lợi hại lắm. Nếu ư niệm hơi bất chánh, quư vị sẽ gặp nhiều tai ương, lắm bệnh hoạn, lắm nỗi ưu sầu, nhiều nỗi lo toan, cuộc sống rất nhọc nhằn! Nếu ư niệm trở về chánh đạo, sẽ là cuộc sống đúng mực trong cơi trời người, đúng là hạnh phúc viên măn trong đường trời người; nhưng chớ nên lưu luyến nhân thiên đạo. Lưu luyến nhân thiên đạo sẽ chẳng tránh khỏi tạo tội nghiệp. Tạo tội nghiệp th́ hễ biến hóa sẽ lại biến thành ngạ quỷ, địa ngục, thảy đều do ư niệm của quư vị biến ra, chẳng có ǵ do bên ngoài đưa tới. Ngoài tâm chẳng có pháp, ngoài pháp chẳng có tâm!

      Cụ Hoàng nói bốn câu ấy trong kinh Kim Cang: “Ư vị tức tướng ly tướng, ly tận hư vọng chi tướng” (Có nghĩa là: Từ ngay nơi tướng mà ĺa tướng, ĺa hết sạch các tướng hư vọng). Câu này nên giảng như thế nào? Ĺa hết sạch các tướng hư vọng, cội rễ của tướng hư vọng là tam tế lục thô trong A Lại Da. Trừ bỏ tam tế lục thô, quư vị sẽ buông xuống các tướng hư vọng. Thảy đều buông xuống, chẳng c̣n phân biệt, chẳng c̣n chấp trước, thậm chí chẳng c̣n khởi tâm động niệm nữa. “Tức kiến Thật Tướng” (liền thấy Thật Tướng), [tức là] quư vị sẽ thấy tự tánh thanh tịnh viên minh thể. Quư vị hăy nhớ: Chúng ta mắt thấy, tai nghe, sáu căn tiếp xúc cảnh giới bên ngoài, chẳng khởi tâm, không động niệm, chẳng phân biệt, chẳng chấp trước, quư vị sẽ thấy tự tánh thanh tịnh viên minh thể. “Cố vân tức kiến Như Lai” (nên nói: Liền thấy Như Lai). Chúc mừng quư vị, quư vị đă viên măn thành tựu rốt ráo, thành tựu Pháp Thân Như Lai. “Thử chỉ Pháp Thân Như Lai dă. Pháp Thân Như Lai ly nhất thiết tướng, cố vân Thật Tướng vô tướng” (đây là nói về Pháp Thân Như Lai. Pháp Thân Như Lai ĺa hết thảy tướng, nên nói Thật Tướng vô tướng). Vô tướng là thể tánh, giống như tỷ dụ màn h́nh mà chúng tôi đă nêu: Màn h́nh là Thật Tướng, quả thật chẳng có hết thảy các tướng. Hết thảy các huyễn tướng hiển hiện trong ấy, nhưng nó (màn h́nh) chẳng tiêm nhiễm mảy may, chẳng bị trở ngại mảy may! Nói cách khác, về căn bản là [những huyễn tướng ấy] chẳng liên quan ǵ với nó! Phải hiểu ư nghĩa này: Chúng ta đă thành Phật, ta đă thành Phật, nhưng c̣n có rất nhiều người c̣n chưa thành Phật, mặt gương của ta (Đại Viên Kính Trí) thanh sạch, những kẻ chưa thành Phật ấy hiển hiện tướng trong tâm ta, có nhiễm bẩn cái màn h́nh ấy hay chăng? Chẳng nhiễm! Tuy ta thành Phật, nhưng những kẻ chưa thành Phật ấy chẳng hề nhiễm bẩn chúng ta mảy may nào! Cùng sống một chỗ như nhau, [mà Phật, Bồ Tát] sung sướng; c̣n họ (kẻ chưa thành Phật) đang tạo nghiệp. Phật, Bồ Tát th́ sao? Phật, Bồ Tát giúp họ giác ngộ, giúp họ quay đầu để họ giống như chính ḿnh. V́ thế, học Phật mà chẳng phát Bồ Đề tâm, chẳng phát tâm độ chúng sanh, sẽ chẳng thể thành! V́ sao quư vị chẳng phát tâm? Chẳng phát là v́ quư vị chưa buông xuống. Chưa buông chính ḿnh xuống th́ c̣n làm sao được nữa? Quư vị c̣n có cái Ta, c̣n chấp trước, c̣n có thành kiến, quư vị là phàm phu chính cống. V́ thế, chướng ngại do đâu mà có? Do chính ḿnh mà có! Trừ chính ḿnh ra, chướng ngại ǵ cũng không có. Hễ quư vị một niệm giác ngộ, chướng ngại chẳng c̣n nữa. Khi mê, chướng ngại trùng trùng.

      “Đản phi vô Pháp Thân, cố vân Thật Tướng vô bất tướng” (nhưng chẳng phải là không có Pháp Thân, nên nói Thật Tướng chẳng phải là không có tướng). Vô bất tướng là tác dụng của Thật Tướng. Nếu Ngài đến nhân gian độ các chúng sanh, có phải hiện tướng hay không? Phải hiện! Phải hiện th́ là vô bất tướng (chẳng phải là không có tướng). Thích Ca Mâu Ni Phật hiện tướng; nếu Ngài chẳng hiện tướng sẽ chẳng thể giảng kinh, thuyết pháp, chẳng thể giúp đỡ chúng ta. Tuy Ngài hiện tướng, nhưng tướng được hiện là tướng giác ngộ, chẳng phải là tướng mê hoặc. Tướng mê hoặc tạo nghiệp, khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo tác thảy đều tạo nghiệp, tạo nghiệp ǵ vậy? Tâm luân hồi tạo nghiệp luân hồi. Tạo thiện nghiệp sanh trong tam thiện đạo, tạo ác nghiệp sanh trong tam ác đạo, quyết định không thoát khỏi lục đạo luân hồi. Lúc thị hiện, Ngài chẳng tạo thiện mà cũng không tạo ác, chúng ta gán cho điều này cái tên là “tịnh nghiệp”, do thanh tịnh nên gọi là tịnh nghiệp. Do Ngài thị hiện tướng này, hằng ngày khởi tác dụng, nhưng chẳng dính dáng tới lục đạo. Không chỉ chẳng dính dáng tới lục đạo, mà mười pháp giới cũng chẳng liên can. Nếu Ngài chưa đoạn hết vô thỉ vô minh th́ vẫn trụ trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm. Đoạn hết vô thỉ vô minh tập khí, sẽ trụ trong cơi Thường Tịch Quang. Không sao cả! Vạn pháp là nhất thể, phải biết điều này. V́ sao có thể cảm ứng đạo giao cùng hết thảy chúng sanh? Phật độ kẻ hữu duyên, nói theo nghĩa rộng, hết thảy chúng sanh và Phật là nhất thể, có chúng sanh nào chẳng có duyên với Phật? Thảy đều có duyên, nhất thể mà! Làm sao có thể chẳng có duyên cho được? Hết thảy y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới đều do tự tánh biến hiện, lẽ nào chúng chẳng có duyên với tự tánh? Đâu có đạo lư ấy!

      Phật độ kẻ hữu duyên, đó là ǵ? Duyên chín muồi, chính là nói về điều này. Duyên chưa chín, Phật tới độ kẻ ấy, hắn sẽ chẳng nghe, chẳng bằng ḷng tiếp nhận, đó gọi là “vô duyên”, chứ chẳng phải là thật sự vô duyên! Do vậy, khi chúng ta nghe câu này phải biết nghe, đừng nhụt chí! Nghe xong, kẻ ấy có thể tin, hiểu, thật sự hành, đó là duyên đă chín muồi! Người như vậy chắc chắn đắc độ trong một đời này; Phật, Bồ Tát giúp đỡ, dạy bảo, hướng dẫn kẻ ấy, kẻ ấy nhất định xuất ly tam giới, thoát ly lục đạo luân hồi, đấy là ǵ? Chúng sanh căn cơ chín muồi. Gặp pháp môn Tịnh Độ, kẻ ấy đời này thật sự niệm Phật văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, cũng là viên măn đắc độ. Loại kém hơn là những kẻ nghe xong cũng rất hiểu, nhưng ngũ dục lục trần trong thế gian này không bỏ xuống được, vẫn c̣n tham luyến, kẻ ấy đoạn ác tu thiện, đời sau hưởng phước báo nhân thiên. Kẻ ấy cũng tin tưởng Phật pháp, nhưng duyên chưa chín muồi. Đối với những kẻ này, Phật, Bồ Tát giúp họ tiến lên; v́ thế, gặp Phật, Bồ Tát họ cũng được lợi lạc, chắc chắn không bị tổn thất ǵ. [Đối với kẻ] phiền năo tập khí nặng nề, chướng duyên sâu đậm, Phật, Bồ Tát gieo chủng tử trong A Lại Da thức của kẻ ấy, [khiến cho kẻ ấy] thấy sắc, nghe tiếng, [tức là] thấy h́nh tượng Phật, nghe âm thanh thuyết pháp của đức Phật, một phen thoảng qua tai, vĩnh viễn trở thành hạt giống đạo, [tạo thành] chủng tử trong A Lại Da. Cơ hội này cũng chẳng nhiều, trên cả thế giới bao nhiêu người suốt đời chẳng có duyên này, chẳng thấy tượng Phật, chẳng nghe âm thanh của Phật, rất nhiều! Phật chẳng ĺa bỏ chúng sanh, nhưng chúng sanh chẳng muốn, mê man trong ngũ dục lục trần, mê quá sâu, không quay đầu được, tuy gặp gỡ những nhân duyên này, họ vẫn tránh né. Chúng ta biết họ vẫn phải chịu khổ trong lục đạo, c̣n có rất nhiều nỗi khổ họ phải gánh chịu. Chịu xong các nỗi khổ, khổ tận cam lai, chịu hết khổ rồi họ mới quay đầu, mới có ư niệm mong được siêu độ.

      Câu kế tiếp nói rất hay: “Sanh diệt chi pháp, toàn thuộc hư vọng, đản sanh diệt chi trung, hữu cá bất sanh bất diệt đích” (Pháp sanh diệt hoàn toàn thuộc về hư vọng, nhưng trong sanh diệt có cái chẳng sanh, chẳng diệt). Phải biết: Trong sanh diệt có cái chẳng sanh diệt, cái “chẳng sanh diệt” là ǵ vậy? Là tự tánh. Tự tánh là như thế nào, nó có h́nh dạng ư? Có! Kiến văn giác tri (thấy, nghe, hay, biết). Trong hội Lăng Nghiêm, Thích Ca Mâu Ni Phật đă bảo vua Ba Tư Nặc: “Nhục thân này của bệ hạ là sanh diệt; nhưng trong nhục thân ấy có cái chẳng sanh diệt. Cái chẳng sanh chẳng diệt chính là cái Ngă thật sự”. Vua hỏi: Nó ở đâu? Đức Phật dạy: “Tánh Thấy”. Chư vị phải biết: Nhăn Thức có sanh diệt, tánh Thấy chẳng sanh diệt. Đức Phật hỏi nhà vua: “Bệ hạ thấy nước sông Hằng lần đầu vào lúc mấy tuổi?” Vua suy nghĩ: Lúc ba tuổi, mẹ dẫn vua đến bên sông Hằng, biết con sông ấy tên là Hằng Hà, vua thấy nước sông Hằng. Sau đấy, đức Phật lại hỏi vua: “Lúc bệ hạ mười tuổi, có cảm thấy thân thể già suy hơn lúc ba tuổi hay chăng?” “Đúng vậy!” Lúc hai mươi tuổi th́ sao? Hai mươi tuổi lại già suy hơn mười tuổi. Bị già suy th́ là sanh diệt. Năm nay bệ hạ bao nhiêu tuổi? Sáu mươi hai tuổi! Vua Ba Tư Nặc và Thích Ca Mâu Ni Phật cùng tuổi, sáu mươi hai tuổi. Đức Phật nói: “Khi nhà vua sáu mươi hai tuổi nh́n sông Hằng th́ cái thấy ấy có biến đổi hay không?” Vua thưa: Thấy chẳng thay đổi! [Đức Phật dạy]: Chẳng biến th́ là thật. Thân thể biến đổi, mỗi năm phải già đi, đó là giả, là sanh diệt. Do vậy, trong cái thân sanh diệt có tánh chẳng sanh diệt. Tánh Thấy chẳng sanh, chẳng diệt, tánh Nghe chẳng sanh, chẳng diệt. Tuổi già mắt hoa, đó là ǵ? Đó là công cụ có vấn đề, chẳng phải là tánh Thấy có vấn đề. Quư vị mang kiếng vào sẽ lại [nh́n] b́nh thường; do vậy, Nhăn Thức là sanh diệt, [điều này] chứng tỏ tánh Thấy chẳng sanh diệt, tánh Nghe chẳng sanh diệt. Nhăn Thức là ǵ? Sau khi quư vị thấy, bèn phân biệt, chấp trước, đó là do thức thứ sáu, tức Ư Thức, và thức thứ bảy thao túng ở phía sau. Ư Thức, tức thức thứ sáu, phân biệt, thức thứ bảy chấp trước, chúng thao túng quư vị. Nhưng nói tới kiến văn giác tri th́ chúng chẳng hề liên quan ǵ đến thức thứ sáu và thứ bảy. Do vậy, trong sanh diệt có cái chẳng sanh diệt. Chẳng sanh chẳng diệt gọi là Pháp Thân, hay Pháp Tánh. Do vậy, phải quư trọng, nhờ cái thân giả này để tu những thứ chân thật, [đó gọi là] “tá giả tu chân”. Giả là thân, tức căn thân có lục căn, chân là ǵ? Chân là chân tánh.

      Giao Quang đại sư giảng kinh Lăng Nghiêm, Ngài có bản chú giải mang tên Chánh Mạch, viết rất hay! Do trước thời Ngài, Giao Quang đại sư là người đời Minh, cùng thời đại với Liên Tŕ đại sư. Trước thời Ngài, hễ giải thích kinh Lăng Nghiêm, quá nửa đều dùng thuyết Tam Chỉ Tam Quán của tông Thiên Thai nhằm giải thích Xa Ma Tha, Tam Ma và Thiền Na trong kinh Lăng Nghiêm. Giao Quang đại sư đưa ra cách nh́n mới mẻ. Ngài nói trong kinh Lăng Nghiêm “bỏ thức dùng căn”, khác hẳn tông Thiên Thai, v́ sao? Thiên Thai chẳng ĺa tâm ư thức, c̣n kinh Lăng Nghiêm là “bỏ thức dùng căn”; cho nên, cách giảng và tư tưởng chẳng giống với tông Thiên Thai. V́ thế, Ngài soạn một bản chú giải khác gọi là Chánh Mạch. Quư vị đọc lời tựa [của bộ chú giải ấy], thấy có một đoạn nhân duyên: Ngài đă hết tuổi thọ, A Di Đà Phật đến tiếp dẫn Ngài, Ngài xin phép A Di Đà Phật: “Kinh Lăng Nghiêm chú giải chưa viên măn, con phải soạn một bản chú giải mới”. Ngài xin A Di Đà Phật hăy chờ, chờ Sư chú giải hoàn tất sẽ lại đến thế giới Cực Lạc. A Di Đà Phật đồng ư, ra đi. Ngài chẳng nói lời giả dối, trong lời tựa có một câu chuyện như thế. Do vậy, Lăng Nghiêm là bỏ thức dùng căn, dạy chúng ta tu hành như thế nào? Quư vị nh́n th́ chớ nên dùng Nhăn Thức để nh́n, hăy dùng tánh Thấy để thấy; nghe th́ chớ nên dùng Nhĩ Thức để nghe, hăy dùng tánh Nghe để nghe, giống như Quán Thế Âm Bồ Tát, xoay cái nghe để nghe tự tánh, tánh thành vô thượng đạo. Nói khá lắm, nhưng chẳng dễ dàng! Bỏ thức dùng căn chẳng dễ dàng!

      Bỏ thức dùng căn có nghĩa là ǵ? Buông khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước xuống, quư vị dùng toàn là kiến văn giác tri, [kiến văn giác tri là] căn tánh của sáu căn, chẳng phải là sáu thức. Những đạo lư này chúng ta đều hiểu rơ th́ gọi là “giải ngộ”. Chúng ta chưa làm được, chưa làm được là chưa buông xuống. Buông xuống sẽ là thật sự [làm được], bèn gọi là “chứng ngộ”. Hiểu rơ nhưng chưa làm được là giải ngộ. Giải ngộ cũng là do huân tập kinh giáo nhiều lần, trường thời huân tập sẽ dần dần hiểu rơ. Hiểu rơ gọi là “thấy thấu suốt”, biết chân tướng sự thật là như vậy. Do vậy, trong cuộc sống hằng ngày, trong hội Lăng Nghiêm, đức Phật dạy chúng ta, phải gắng hết sức dùng căn tánh của sáu căn, đừng nên dùng sáu thức. Tôi nhắc lại lần nữa, thức là ǵ? Thức là chấp trước, Mạt Na là chấp trước, ư thức là phân biệt, thức thứ sáu, tức ư thức, là phân biệt, A Lại Da là giữ lại ấn tượng. Năm thức trước chịu ảnh hưởng từ ba tế tướng của A Lại Da, đi theo chúng. V́ vậy, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân bèn tạo nghiệp, năm thức trước bèn tạo nghiệp. Nếu vâng theo tự tánh, vâng theo kiến văn giác tri, năm thức trước sẽ gọi là Thành Sở Tác Trí, thành tựu sự hóa độ hết thảy chúng sanh của Như Lai, biến thành công cụ để độ chúng sanh, vô lượng công đức. Nói thật ra, bỏ thức là thức thứ sáu, tức ư thức, chớ nên phân biệt; bỏ thức thứ bảy, chẳng chấp trước; bỏ A Lại Da thức, không lưu dấu vết, đó là cảnh giới ǵ? Thanh tịnh b́nh đẳng giác trong kinh Vô Lượng Thọ! Chẳng chấp trước, tâm bèn thanh tịnh; chẳng phân biệt, tâm bèn b́nh đẳng; chẳng mê hoặc sẽ khai ngộ. Giao Quang đại sư chú giải rất hay. V́ vậy, những bản chú giải kinh Lăng Nghiêm trước thời ngài Giao Quang đều gọi là “cựu chú”; sau ngài Giao Quang, rất nhiều người học theo Ngài, gọi bản chú giải ấy là “tân chú”. Cựu chú cũng rất khó có, v́ sao? Người b́nh thường học tập khá dễ. “Tân chú” th́ chú giải hay lắm, nhưng kẻ mới học chẳng dễ ǵ đạt tới. Đây là nhắc nhở chúng ta: Trong sắc thân sanh diệt này, thật sự tồn tại cái không sanh diệt. Cái tánh chẳng sanh chẳng diệt ấy, trừ kiến văn giác tri ra, chẳng có cách nào nêu bày được! Nói tới kiến văn giác tri th́ cũng phải có đôi chút cơ sở nơi pháp Đại Thừa; không có cơ sở sẽ khó giảng rơ ràng, rất khó hiểu được!

      “Chư sanh diệt pháp thị sai biệt tướng, đản sai biệt chi trung, hữu cá vô sai biệt đích. Bất sanh bất diệt, vô hữu sai biệt, tức thị b́nh đẳng tướng” (Các pháp sanh diệt là tướng sai biệt, nhưng trong sai biệt có cái chẳng sai biệt. Chẳng sanh chẳng diệt, chẳng có sai biệt, tức là tướng b́nh đẳng). Câu này cũng chẳng dễ hiểu. Sai biệt là ǵ? Sai biệt là tướng, chúng ta nói một cách thông thường sẽ là tướng tương tự liên tục, sanh diệt trong từng sát-na, đó là sai biệt. Vô sai biệt: Vô sai biệt là tánh. Chúng ta dùng màn h́nh TV [để diễn tả] sẽ dễ hiểu. Âm thanh và sắc tướng trong màn h́nh sanh diệt trong từng sát-na, có sai biệt; nhưng màn h́nh không có sai biệt, màn h́nh là tướng b́nh đẳng, sai biệt và vô sai biệt chẳng hai. “Cố vân Thật Tướng năi b́nh đẳng nhất tướng dă” (v́ thế nói Thật Tướng là một tướng b́nh đẳng). Một niệm ấy có h́nh, có thức, đều chẳng thể được, đó gọi là “b́nh đẳng nhất tướng”. Hiện tượng tinh thần và hiện tượng vật chất đều do một niệm khởi. Quư vị phải biết: Một niệm ấy chính là “nhất niệm” như Di Lặc Bồ Tát đă giảng; trong một giây có bao nhiêu “nhất niệm”? Nếu chúng ta nói khảy ngón tay năm lần [trong một giây], khảy nhanh sẽ được năm lần, [trong một giây] sẽ có một ngàn sáu trăm triệu niệm, lẽ nào chúng chẳng b́nh đẳng? Đương nhiên là b́nh đẳng, đấy là huyễn tướng, chẳng thật!

      Chúng ta lại lật sang trang mười tám, vẫn là nói về vấn đề này. “Thật Tướng nghĩa thâm”, [tức là] ư nghĩa [Thật Tướng] này quá sâu! “Nhược minh Thật Tướng, tức vi ngộ Đại Thừa lư” (nếu hiểu Thật Tướng, tức là ngộ lư Đại Thừa). Lư là ǵ? Lư là Thể của kinh, mà cũng là cái để nương vào mà nói kinh này. Kinh có đạo lư, đạo lư ấy là lư Đại Thừa. Kế đó, lăo cư sĩ dùng tỷ dụ để giảng rơ. “Tư dĩ dụ minh: Thí như dĩ kim chế tác tháp, tượng, b́nh, oản, xuyến, hoàn” (ở đây, dùng tỷ dụ để giảng rơ: Ví như lấy vàng chế thành tháp, tượng, b́nh, chén, xuyến, ṿng), những điều này chúng ta đều hiểu, chúng là đồ vật được chế bằng vàng. “Các hiển sai biệt chi tướng” (mỗi thứ đều tỏ lộ tướng sai biệt). Nó có h́nh cái tháp, tướng ấy có thể là tượng Phật, mà có thể là tượng người, có thể mang h́nh dáng của những món đồ chơi, đó là ǵ? Vật dụng! Dùng vàng và đồ vật làm tỷ dụ, mỗi món đều có h́nh tướng khác biệt. “Thảng tương chúng khí, trùng nhập dă lô, phục hóa vi kim, nguyên hữu chư tướng tận giai tiêu diệt, đản các khí bổn thể chi kim nhưng cựu như thị” (Nếu đem các món đồ lại bỏ vào ḷ nung, chúng lại hóa thành vàng, các tướng vốn có đều bị tiêu diệt sạch, nhưng chất vàng là bản thể của mỗi món vẫn y như cũ). Đều đem nung chảy ra, chúng chính là vàng. “Khả kiến các khí sai biệt chi tướng, hữu sanh, hữu diệt, giai thuộc hư vọng; đản các khí bổn thể chi kim, b́nh đẳng nhất tướng, bất sanh, bất diệt, bất tăng, bất giảm” (Có thể thấy tướng sai biệt của các món đồ có sanh, có diệt, đều là hư vọng; nhưng chất vàng là bản thể của các món đồ là một tướng b́nh đẳng, chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng tăng, chẳng giảm). Tỷ dụ này dễ hiểu. Cổ đại đức dùng một câu để nói: “Dĩ kim tác khí, khí khí giai kim” (dùng vàng chế đồ vật, món nào cũng là vàng). Lấy vàng sánh với tự tánh thanh tịnh viên minh thể, đó là tự tánh; sánh ví hiện tượng tinh thần và hiện tượng vật chất trong khắp pháp giới hư không giới như các món đồ, chúng đều do cái Thể ấy biến hiện. Thể có thể sanh, có thể hiện, A Lại Da Thức có thể biến. V́ sao trong Nhất Chân pháp giới, mọi thứ chẳng thay đổi, vĩnh hằng bất biến? Chúng ta bèn hiểu rơ: A Lại Da có thể biến, y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới là cái được biến (sở biến). Trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm không có A Lại Da, A Lại Da đă chuyển thành Đại Viên Kính Trí. V́ vậy, nó chỉ có thể sanh, có thể hiện, chẳng có sở biến lẫn năng biến. Do đó, trong thế giới ấy, vĩnh hằng bất biến. Người trong thế giới ấy hóa sanh, dung mạo vĩnh viễn bất biến, thân vĩnh hằng bất biến, đúng như chúng ta thường nói: “Bồ Tát Bồ Tát, niên niên thập bát” (Bồ Tát năm nào cũng là mười tám tuổi), Ngài chẳng già! Ngài vĩnh viễn chẳng già, v́ sao? Ngài không có A Lại Da thức. Chúng ta bị biến đổi v́ A Lại Da thức. A Lại Da thức có thể biến, do vậy, chúng ta sanh, lăo, bệnh, tử là v́ bị nó biến. Chính nó lại có sanh diệt, cho nên những thứ do nó biến ra thảy đều có sanh diệt. Do vậy, trong Nhất Chân pháp giới, chúng ta gọi là cơi Thật Báo Trang Nghiêm, trong ấy không có sanh diệt, v́ các Ngài chẳng dùng A Lại Da. Do vậy có thể biết: Tứ thánh pháp giới có biến đổi hay chăng? Quư vị hăy suy nghĩ: A La Hán, Bích Chi Phật, Bồ Tát, Phật, tức là Phật trong mười pháp giới đều có biến, họ dùng A Lại Da, bất quá tốc độ biến đổi chậm một chút, không nhanh như chúng ta, [chúng ta] biến đổi rất nhanh, họ biến đổi chậm hơn một chút. V́ thế, đạo lư là ở chỗ này!

      Hoa trong thế giới Cực Lạc vĩnh viễn chẳng tàn, vĩnh viễn chẳng khô; khí hậu chẳng quá lạnh hay quá nóng, không có những hiện tượng này. V́ sao? Người trong thế giới ấy chẳng dùng A Lại Da; người đới nghiệp văng sanh cũng chẳng dùng, điều này rất lạ lùng! V́ sao người đới nghiệp văng sanh chẳng dùng? Được bổn nguyện của A Di Đà Phật gia tŕ, quư vị thấy bốn mươi tám nguyện đă nói rất rơ ràng, sanh vào Tây Phương Cực Lạc thế giới đều là A Duy Việt Trí Bồ Tát, [chuyện này được] nói trong nguyện nào? Trong nguyện thứ mười chín, tức là nguyện phát Bồ Đề tâm, đều là A Duy Việt Trí Bồ Tát. A Duy Việt Trí là ǵ? Từ Thất Địa trở lên! Tuy là đới nghiệp văng sanh, phiền năo tập khí đúng là một phẩm cũng chưa đoạn, nhưng sự hưởng thụ, đăi ngộ trong thế giới Cực Lạc là sự đăi ngộ Thất Địa Bồ Tát. Quư vị chẳng phải là Thất Địa Bồ Tát, nhưng tới đó, hưởng thụ sự đăi ngộ dành cho Thất Địa Bồ Tát, do ai ban cho quư vị? A Di Đà Phật ban cho quư vị, hưởng ké từ A Di Đà Phật, cậy vào phước báo của A Di Đà Phật, chẳng phải là của chính ḿnh. Trong thập phương chư Phật thế giới, không có sự thù thắng này, chỉ có thế giới Cực Lạc là có sự đăi ngộ đặc thù này! Đức Phật chẳng nói “đều là A Duy Việt Trí Bồ Tát, trừ cơi Phàm Thánh Đồng Cư ra”, Ngài chẳng nói lời ấy! Nếu chẳng nói lời ấy, hạ hạ phẩm văng sanh trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư cũng có sự đăi ngộ này. Quư vị thật sự hiểu rơ, minh bạch chuyện này, há c̣n có thể chẳng cầu sanh Tịnh Độ ư? C̣n làm chuyện khác nữa ư? Làm chuyện khác, mệt chết luôn, nhưng chưa chắc đă thành tựu trong một đời. Quư vị khăng khăng một mực niệm một câu A Di Đà Phật này, đôi ba năm sẽ thành công, sẽ đạt được, c̣n làm [điều ǵ khác] nữa? Quư vị thật sự buông xuống vạn duyên; v́ sao người khác chưa buông xuống được? Chưa hiểu rơ. Do vậy, sau khi hiểu rơ, ta thường khuyên người khác; nhưng cũng chẳng phải là khuyên bất cứ ai v́ kẻ ấy chưa chắc đă tiếp nhận. Ta khuyên mọi người, chúng ta hăy suy nghĩ cho nhiều, học theo Liên Tŕ đại sư. Liên Tŕ đại sư đă giác ngộ, đă hiểu rơ, bèn nói: “Tam Tạng mười hai bộ, nhường cho người khác ngộ”, quư vị ưa thích th́ hăy dụng công nơi đó, tôi chẳng làm! “Tám vạn bốn ngàn hạnh, dành cho người khác hành”, tôi cứ một bộ kinh Di Đà, một câu A Di Đà Phật, định rồi! Liên Tŕ đại sư chẳng làm nữa, nêu gương tốt cho người đời sau. Tịnh Độ ngũ kinh đều được, thọ tŕ toàn bộ ngũ kinh cũng được, mà thọ tŕ một kinh trong ngũ kinh cũng được, quư vị thấy pháp môn này thuận tiện lắm, chẳng thể nghĩ bàn lắm!

Đối với pháp môn này, giảng giải Tánh, Tướng, Lư, Sự, nhân quả thấu triệt nhất, minh bạch nhất là kinh Vô Lượng Thọ. Quả thật, khó thể đọc trọn cả năm bản dịch gốc của kinh Vô Lượng Thọ. V́ vậy, đời Tống, cư sĩ Vương Long Thư hội tập đầu tiên, có thể nói là cổ nhân đă sớm nghĩ hội tập là chuyện bắt buộc phải làm, đến phần sau sẽ có một đoạn chuyên nói rơ [chuyện này]. Sau đấy, chúng ta mới thật sự nhận biết bản hội tập này của Hạ lăo cư sĩ chẳng thể nghĩ bàn, hội tập thật viên măn, chẳng dùng ư tưởng của chính ḿnh, ngay cả tựa đề kinh cũng là hội tập. Bản dịch gốc đời Tống dịch là Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Kinh, quư vị thấy cụ bỏ chữ Kinh, dùng Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm; bản dịch đời Hán là Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác Kinh, nay hai tựa đề kinh được gộp thành một, trở thành Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác Kinh, đúng là áo trời không vết may, chẳng thêm vào một chữ nào! Bản hội tập của Vương Long Thư có tựa đề là Đại A Di Đà Kinh, nhưng trong kinh chẳng có những chữ này! C̣n tựa đề kinh của cụ Hạ là nguyên văn, chúng ta chẳng thể không bội phục Ngài. Đề mục này tuyệt quá, phô rơ nhân quả của thế giới Cực Lạc. Đại Thừa là trí huệ, Vô Lượng Thọ là đức, Trang Nghiêm là tướng hảo. Quư vị thấy quả báo là như đức Thế Tôn trong kinh Hoa Nghiêm đă nói: “Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng của Như Lai”, quư vị thấy chẳng phải là đề mục này hay sao? Đại Thừa là trí huệ, Vô Lượng Thọ là đức, trang nghiêm là tướng, quả đấy! Quả đức. Cách tu quả ấy ra sao? Thanh tịnh, b́nh đẳng, giác! Bởi lẽ, quư vị tu “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác”, sẽ chứng Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm. Quư vị thấy tựa đề này viên măn lắm!

      Đối với tỷ dụ này của cụ Hoàng, chúng ta niệm niệm đều [thấu hiểu] là được rồi. Có thể thấy tướng sai biệt của các món đồ, có sanh, có diệt, đều là hư vọng, nhưng chất vàng bản thể của các món đồ là b́nh đẳng nhất tướng, chẳng sanh, chẳng diệt. “Dĩ thượng, dĩ kim dụ chân thật b́nh đẳng chi Thật Tướng, dĩ kim khí dụ chủng chủng sai biệt tướng” (trên đây, dùng vàng để sánh ví Thật Tướng b́nh đẳng chân thật, dùng các vật dụng bằng vàng để sánh ví các tướng sai biệt), y báo và chánh báo trong mười pháp giới sai biệt. “Do thượng dụ khả minh, nhược khán phá chư kim khí (tháp, tượng, b́nh, oản, xuyến, hoàn đẳng) hư vọng sai biệt chi tướng, tức kiến chư khí trung b́nh đẳng chân thật chi kim” (nếu thí dụ trên đây có thể nói rơ: Nếu thấy thấu suốt tướng sai biệt hư vọng của các món đồ bằng vàng (tháp, tượng, b́nh, chén, xuyến, ṿng v.v...), sẽ liền thấy chất vàng b́nh đẳng chân thật). Quư vị hăy thấy vàng, đừng chấp trước tướng. Quư vị lấy vàng, bèn tùy tiện lấy món nào cũng đều là vàng. Bảo quư vị lấy vàng ra, quư vị thấy cái này là tháp, cái kia là tượng, cái đó là b́nh, quư vị nói “không có vàng, chẳng có hoàng kim” quư vị chấp tướng rồi! Cổ nhân dùng [tỷ dụ] “dĩ kim tác khí, khí khí giai kim”, dùng tỷ dụ này. “Dĩ dụ ly nhất thiết pháp hư vọng chi tướng” (để tỷ dụ ĺa tướng hư vọng của hết thảy các pháp), quư vị sẽ thấy Thật Tướng, sẽ thấy chân tánh. Tánh và tướng vĩnh viễn chẳng thể tách rời, nhưng đối với tướng th́ sáu căn tiếp xúc được, nh́n thấy nó, sờ được nó, c̣n tánh th́ sáu căn chẳng thể tiếp xúc, nh́n không thấy, nó chẳng phải là vật chất, mà cũng chẳng phải là tinh thần. Chẳng phải là vật chất, nên mắt, tai, mũi, lưỡi, thân chẳng tiếp xúc được; chẳng phải là tinh thần, quư vị tưởng tượng chẳng ra, v́ Thọ, Tưởng, Hành, Thức của quư vị đều không thấu đạt. Nếu buông Thọ, Tưởng, Hành, Thức xuống, sau khi buông xuống, Thể của Thọ, Tưởng, Hành, Thức là kiến văn giác tri sẽ thấy được! Kiến văn giác tri là chân tánh.

       Trong [chú giải] kinh Lăng Nghiêm, Giao Quang đại sư bảo “bỏ thức dùng căn”, [tức là] dùng căn tánh của sáu căn. Căn tánh là kiến văn giác tri, chẳng phải là Thọ, Tưởng, Hành, Thức; cũng có nghĩa là: Thọ, Tưởng, Hành, Thức là vọng tâm, kiến văn giác tri là chân tánh. Lúc mê, kiến văn giác tri biến thành Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Khi giác ngộ, có thể buông Thọ, Tưởng, Hành, Thức xuống, khiến cho kiến văn giác tri hiện tiền, đó gọi là “chuyển thức thành trí”. Nói cách khác, thấy sắc, nghe tiếng, chớ nên chấp trước, quư vị chẳng dùng Mạt Na; chớ nên phân biệt, chẳng dùng ư thức; chớ nên khởi tâm động niệm, chẳng dùng A Lại Da thức. Trong Thiền Tông, tham Thiền th́ “tham” là ǵ? Ĺa tâm ư thức là “tham” (). Tâm ư thức là biết! A Lại Da là khởi tâm động niệm, Mạt Na là chấp trước, ư thức là phân biệt. Chẳng phân biệt, chẳng chấp trước, không khởi tâm, không động niệm, đó là ĺa tâm ư thức, ĺa tâm ư thức th́ gọi là “tham”. Do vậy, nghiên cứu giáo, chẳng dùng tâm ư thức th́ gọi là “tham cứu”. Nếu dùng tâm ư thức, bèn gọi là “nghiên cứu”. Nghiên cứu và tham cứu khác nhau, tham cứu sẽ kiến tánh, c̣n nghiên cứu chẳng thể kiến tánh. Dùng nghiên cứu, Phật pháp biến thành triết học, biến thành Phật học; ĺa tâm ư thức sẽ là học Phật, thật sự có thể thành Phật. Dùng tâm ư thức chẳng thể thành Phật, nhất định phải biết điều này! Dùng tâm ư thức, nói thật ra, chẳng thể vượt thoát lục đạo luân hồi, v́ lục đạo luân hồi do tâm ư thức biến hiện.

      Tiếp đó nói: “Ly hư vọng sai biệt chi tướng, cố vân vô tướng” (do ĺa tướng sai biệt hư vọng nên gọi là vô tướng). Đây là ư nghĩa tôi vừa mới nói. Sáu căn của chúng ta đối với cảnh giới sáu trần bên ngoài thảy đều là hư vọng. Sáu căn của chính ḿnh đều là hư vọng, lục thức là hư vọng, cảnh giới bên ngoài cũng là hư vọng. Chỉ cần không khởi tâm, không động niệm, chẳng phân biệt, chẳng chấp trước, sẽ lập tức là [vô tướng]! Nó là vô tướng, ngay nơi đó là vô tướng, trọn chẳng trừ khử tướng, mà ngay lập tức là vô tướng. Do vậy, phải hiểu rơ, minh bạch ư nghĩa “tướng” và “vô tướng” này. “Ư hư vọng sai biệt chư tướng chi trung, hữu chân thật b́nh đẳng chi bản thể, cố vân vô bất tướng. Đương tướng ly tướng, tướng nhi vô tướng, năi hiển Thật Tướng” (Trong các tướng sai biệt hư vọng, có cái bản thể chân thật b́nh đẳng, nên nói chẳng phải là không có tướng. Từ ngay nơi tướng mà ĺa tướng, có tướng mà vô tướng, nên mới hiển lộ Thật Tướng). Mấy câu này nói hay quá, mười hai chữ này (“Đương tướng ly tướng, tướng nhi vô tướng, năi hiển Thật Tướng”) vô cùng hay, ngay lập tức là nó, một và nhiều chẳng hai. Ngay trong cuộc sống hằng ngày, trong công tác, trong xử sự, đăi người tiếp vật, chúng ta phải sốt sắng, thực hiện viên măn, tận tâm tận lực làm, đấy là “đương tướng” (từ ngay nơi tướng). Làm tốt đẹp, trong tâm thanh tịnh, chẳng nhiễm mảy trần, đó là “ly tướng”. Do vậy, “đương tướng”“ly tướng” là đồng thời, chẳng cắt rời thành hai thứ th́ mới thật sự hữu dụng! Trong cuộc sống hằng ngày, quư vị sẽ sống thật sự hạnh phúc mỹ măn, tự tại vô cùng! Trong công việc cũng như thế, đăi người tiếp vật cũng như thế, quư vị sẽ khiến cho hết thảy mọi người vui vẻ. Do vậy, trong giáo pháp Đại Thừa có nói: “Bồ Tát sở tại chi xứ, linh nhất thiết chúng sanh sanh hoan hỷ tâm” (Bồ Tát ở chỗ nào cũng có thể khiến cho hết thảy chúng sanh đều sanh tâm hoan hỷ), v́ sao Ngài có thể làm cho hết thảy chúng sanh sanh tâm hoan hỷ? Ngài từ ngay nơi tướng mà ĺa tướng, ly tướng và đương tướng cùng lúc, ai chẳng vui vẻ! Trước hết là chính quư vị vui vẻ, quư vị đă vui vẻ th́ người khác thấy quư vị cũng vui vẻ.

      Chúng ta lại xem đoạn kế tiếp: “Đản Thật Tướng ly ngôn thuyết, chánh như Nam Nhạc Hoài Nhượng vân: Thuyết tự nhất vật, tức bất trúng” (Nhưng Thật Tướng ĺa ngôn thuyết, đúng như ngài Nam Nhạc Hoài Nhượng đă nói: “Nói dường như có một vật th́ chẳng trúng”). Câu này ở trong Đàn Kinh. Pháp sư Hoài Nhượng khai ngộ, minh tâm kiến tánh trong hội của Lục Tổ Huệ Năng đại sư. Khi Ngài kiến tánh, Lục Tổ giống như đưa ra một đề mục nhằm khảo nghiệm Sư: “Ông kiến tánh, vậy tánh là như thế nào?” Sư trả lời bằng câu này: “Nói dường như có một vật th́ chẳng trúng”, nói không được! Lục Tổ gật đầu, ấn khả, Tổ nói: “Ông như thế, mà ta cũng như thế”, ấn chứng Sư thật sự khai ngộ, chẳng phải là giả khai ngộ. “Cố thật phi nhậm hà thế gian thí dụ sở năng thâm minh” (cho nên đúng là bất cứ thí dụ nào của thế gian cũng chẳng thể giảng rơ rệt sâu xa được). Tỷ dụ chỉ có thể sánh ví mường tượng, tuyệt đối chẳng có cách nào tỷ dụ sát sự thật, một tí biện pháp cũng chẳng có. Do vậy, hiện thời khoa học kỹ thuật phát triển, chúng ta dùng h́nh ảnh nơi màn h́nh TV để tỷ dụ, so ra gần sát, dễ hiểu hơn những tỷ dụ trước kia. Xưa kia, đúng là khó! Do vậy, khi chưa có những thứ khoa học, mà cổ đại đức, đừng nói là chứng ngộ, chỉ có thể giải ngộ thôi, chúng ta đều bội phục năm vóc sát đất. Hiện thời, chúng ta nhờ rất nhiều những thứ thuộc về khoa học mà thấy, nghe, hay, biết, nên mới có thể thấu hiểu những điều này, mới có thể nói rơ ràng, giảng rơ ràng. Tuy nói rơ ràng, giảng rơ ràng, chỉ là gần sát, vẫn c̣n cách một tầng. Tầng ấy chính quư vị phải ngộ, bất luận là ai cũng chẳng giúp đỡ được! Phật đến giảng cho quư vị cũng chẳng có cách nào! Phật đến giảng cho quư vị th́ cũng chỉ có thể nói đến mức này!

      Nói đến mức độ này th́ có thể, nhưng nếu quư vị muốn thật sự khế nhập cảnh giới, chứng ngộ, chẳng phải là bảo quư vị buông xuống hay chăng? Quả thật là trong cuộc sống, mỗi ngày quư vị ăn cơm, chớ nên so đo món ăn này, món ăn nọ, đừng nên so đo mùi vị nữa. Mặc quần áo, thứ ǵ cũng được! Ấm áp là được rồi, đừng nên kén chọn! Đó là ǵ vậy? Tập khí, tức tập khí phiền năo của quư vị. Đấy là ǵ? Chấp trước, nhất định phải như thế nào đó. Hễ nhất định phải như thế nào đó sẽ phiền phức liền! Phải học theo Đại Thừa Bồ Tát tự tại tùy duyên, bất luận câu thúc ǵ đều chẳng có, cái ǵ cũng đều tốt, chẳng có ǵ không tốt. Người ta làm chuyện tốt, tốt! Người ta làm chuyện xấu, cũng tốt luôn. Người ta hưởng phước, tốt! Người ta đang chịu tội trong địa ngục, cũng tốt. Chịu tội trong địa ngục là ǵ? Tiêu nghiệp chướng! Kẻ ấy có lắm nghiệp chướng dường ấy, nhất định phải tới đó để tiêu, tiêu hết th́ chẳng phải là tốt đẹp hay sao? Cớ sao chẳng phải là chuyện tốt? Sau đấy mới hiểu: Mười pháp giới vốn là b́nh đẳng. Quư vị làm chuyện tốt nhiều ngần ấy, đến thiên đường để hưởng phước, đó là ǵ? Tiêu phước báo ấy! Quư vị làm chuyện tốt nhiều ngần ấy th́ phải tiêu, làm những chuyện ác th́ phải đến tiêu [nghiệp chướng] trong địa ngục. Quư vị thấy đó: Tiêu phước báo, tiêu nghiệp chướng; thảy đều tiêu sạch, chẳng phải là kiến tánh hay sao? Cái đáng quư là buông xuống, chẳng có ǵ khác! Do vậy, tôi suốt đời tôn trọng thầy, lúc gặp mặt thầy trong ngày đầu tiên, thầy đă dạy tôi “thấy thấu suốt, buông xuống”. Tôi mới biết người tu hành từ Sơ Phát Tâm cho đến địa vị Như Lai tu ǵ? Thấy thấu suốt, buông xuống! Buông xuống giúp cho thấy thấu suốt, thấy thấu suốt lại giúp buông xuống, hai phương pháp này giúp đỡ thành tựu lẫn nhau từ Sơ Phát Tâm cho đến địa vị Như Lai. Đẳng Giác Bồ Tát nếu buông một phẩm tập khí sanh tướng vô minh cuối cùng xuống, sẽ viên măn, vẫn là buông xuống! Chỉ có buông xuống mới có thể tiến lên cao; chỉ có hiểu rơ mới thật sự chịu buông xuống. Do quư vị chẳng hiểu rơ, nên không buông xuống được; hễ hiểu rơ sẽ buông xuống.

      Hiện thời, điều đáng quư là hiểu rơ, rành rẽ thế giới Cực Lạc, hiểu rành rẽ thế giới này, so sánh giữa hai thế giới, bèn buông thế giới Sa Bà xuống, ta về thế giới Cực Lạc, điều này là trọng yếu. Quư vị thật sự muốn buông vọng tưởng, phân biệt, chấp trước xuống, điều này nói dễ, làm chẳng dễ, thật sự là khó! Do nguyên nhân ǵ? Nghiệp chướng phiền năo tập khí quá nặng, từ vô lượng kiếp đến nay đă tích lũy những thứ này, đâu có dễ dàng nói buông xuống liền buông xuống như vậy được! Nay chúng ta buông thân, tâm, thế giới xuống, đó là phần chút ít, rất nhỏ của tập khí phiền năo, chỉ cần chịu buông thứ ấy xuống sẽ có thể văng sanh. Do vậy, đến thế giới Cực Lạc, nhất định phải tin sâu chẳng nghi: Đức Phật chẳng nói một lời hư giả nào! Nay chúng ta chẳng thể nghe lời con người trong thế gian này, lời giả quá nhiều, nói lời gạt người nhiều quá! Phật, Bồ Tát chẳng nói câu nào lừa người, phải tin sâu chớ ngờ điều này! Nhất định phải tin: Đến thế giới Cực Lạc đều là A Duy Việt Trí Bồ Tát, lời này chính là “pháp khó tín”. Do vậy, kinh này được gọi là “khó tin”, [pháp môn được giảng trong] kinh này được gọi là “pháp khó tin”. [Trong các thế giới phương khác], đâu có chuyện một phẩm Kiến Tư phiền năo chưa đoạn, đến thế giới Cực Lạc bèn có thể hưởng thụ sự đăi ngộ như Thất Địa Bồ Tát, A Duy Việt Trí là Thất Địa. Sự đăi ngộ như Thất Địa Bồ Tát do A Di Đà Phật ban cho, chẳng phải do chính ḿnh có, mà do A Di Đà Phật ban cho.

      Sau đoạn này có một câu tiểu kết: “Cố vân: Phàm hữu ngôn thuyết, giai vô thật nghĩa” (V́ thế, nói: Hễ có ngôn thuyết đều chẳng phải là thật nghĩa). V́ ngôn thuyết cũng là tướng. “Phàm những ǵ có h́nh tướng đều là hư vọng”, ngôn thuyết cũng là hư vọng, các thứ diễn đạt, biểu thị vẫn là hư vọng, phải biết điều này! Ngôn thuyết có cần hay chăng? Cần chứ! Đối với kẻ chưa khai ngộ th́ cần, đối với người đă khai ngộ th́ chẳng cần, không cần dùng ngôn thuyết nữa. Do vậy, đối với lục đạo chúng sanh th́ phải dùng ngôn ngữ, phải dùng biểu pháp (các hành động, phương cách nhằm biểu thị, diễn đạt pháp); cho đến tứ thánh pháp giới, tuy ít dùng ngôn ngữ, nhưng vẫn cần, dùng biểu pháp khá nhiều; đến cơi Thật Báo Trang Nghiêm th́ [ngôn thuyết lẫn biểu pháp] đều không cần dùng tới nữa. Không cần dùng tới v́ chính ḿnh chưa viên chứng tự tánh, quư vị thấy kinh đă nói, chắc chắn chẳng giả, người trong thế giới Cực Lạc mỗi ngày nghe [A Di Đà] Phật thuyết pháp, đồng thời họ có thể phân thân, có thể phân thành vô lượng vô biên thân, đến các cơi nước Phật trong mười phương cúng dường Phật. Cúng dường Phật là tu phước, nghe Phật thuyết pháp là trí huệ, phước huệ song tu, vĩnh viễn không ngừng nghỉ! Cái thân ấy của họ hoàn toàn là hóa thân, đến đi tự do. Trong cảnh giới đó, chúng ta biết: Không có không gian tức là chẳng có khoảng cách, ư niệm vừa dấy lên, cảnh giới bèn hiện tiền, ở ngay trước mắt, ngay lập tức, thật sự chẳng có đến hay đi!

      Kinh nói “mười vạn ức cơi Phật”, đó là nói phương tiện, nói tùy thuận Tục Đế. Trong sự tưởng tượng của chúng ta, điều ấy khó khăn, thật sự khó, nhưng trong cảnh giới của họ (người trong thế giới Cực Lạc), điều ấy quá dễ dàng! Họ có thân thể, nhưng thân thể họ chẳng giống sắc tướng của chúng ta trong hiện tại. Họ có thân thể, cũng có sắc thân, nhưng trong kinh, đức Phật có nói tới một loại [sắc tướng] là Vô Biểu Sắc. Vô Biểu Sắc là ǵ? Thí dụ như chúng ta tưởng tượng, chúng ta nghĩ tới Chương Gia đại sư, tôi vừa nghĩ, h́nh dáng Chương Gia đại sư thuở ấy bèn hiện diện [trong tâm tôi], tôi thấy rất rơ ràng, nhưng quư vị chẳng thấy, sắc ấy là Vô Biểu Sắc. Chúng ta nằm mộng, cảnh giới trong mộng cũng rất rơ rệt, sắc tướng ấy tươi sáng, nhưng ta đang nằm mộng, người bên cạnh nói họ chẳng thấy ǵ, thật sự có sắc tướng, mà họ nh́n không thấy. Nhưng người có Thiên Nhăn có thể thấy, chứng tỏ sắc ấy chẳng phải giả, người có Thiên Nhăn, hay có công năng định lực sẽ thấy được. Tâm chúng ta chẳng thanh tịnh, nhiều vọng niệm, cho nên chẳng nh́n thấy. Ư niệm dấy lên, nó bèn có tướng, tướng do tâm sanh, hễ khởi niệm bèn có tướng. Tưởng một quả núi, sẽ có tướng núi. Tưởng một cái cây, sẽ có tướng cây. Tưởng hoa, sẽ có tướng hoa. Tưởng ǵ, tướng ấy đều hiện tiền, lẽ nào chẳng có tướng? Tướng sanh từ tâm tưởng, thật là thiên biến vạn hóa. Sách Hoàn Nguyên Quán nói: “Xuất sanh vô tận”, thiên biến vạn hóa. Khi ấy, tôi đọc câu này chẳng hiểu lắm, v́ sao có hiện tượng này? Tôi nghĩ thuở nhỏ chơi kính vạn hoa, chẳng phải là kính vạn hoa rất đơn giản ư? Đúng là thiên biến vạn hóa, sanh ra vô tận. Ba mảnh gương, ở giữa đó cắt một ít giấy vụn màu sắc khác nhau, quư vị vĩnh viễn xoay chuyển, xoay cả tuần, cũng chẳng thể có hai mô thức giống nhau. Theo kinh Phật, tự tánh của chúng ta là bất động, A Lại Da là động. Do vậy, A Lại Da giống như kính vạn hoa, xuất sanh vô tận, biến hóa vô cùng, nhưng toàn là giả, chẳng có ǵ là thật.

      Do vậy, quả thật đều là “chẳng có thật nghĩa”. Đây là nói rơ tất cả hết thảy hiện tượng trong khắp pháp giới hư không giới, hiện tượng vật chất cũng thế, mà hiện tượng tinh thần cũng thế, quư vị đừng nghĩ chúng là thật, đừng mê trong ấy. Nói cách khác, quư vị cũng chớ nên dấy lên ư niệm mong khống chế, chiếm hữu chúng, sai rồi! Chỉ cần khởi lên ư niệm này, quư vị bèn đọa trong luân hồi, chẳng thoát ra được! Do vậy, đối với kẻ giác ngộ, tất cả hết thảy những thứ họ có, nếu quư vị hỏi họ, được! Lấy đi! Họ thật sự chẳng có ư niệm, chẳng phân biệt, chấp trước, ta dùng hay quư vị dùng đều như nhau! Tiền mất đi là để cho người khác lấy dùng, chẳng phải là giống như ta dùng hay sao, đâu có ǵ khác nhau? Quư vị nói có phải là sống vui sướng lắm chăng? Vui sướng do đây mà có! V́ sao quư vị khổ? Thứ ǵ cũng đều muốn chiếm hữu, thứ ǵ cũng đều muốn khống chế, vậy là quư vị khổ chẳng thể nói nổi, quư vị sai rồi, mê mất rồi! Do vậy nói “đều không có thật nghĩa”, ư nghĩa này hay lắm! Hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng ta học tập tới đây!

 

Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa

phần 9 hết

 



[1] Đăng đường nhập thất: Thời cổ, đối với kiến trúc trong các dinh thự, phủ đường lớn, các công tŕnh phía trước gọi là đường, phía sau gọi là thất. “Đăng đường nhập thất” có nghĩa là tiến vào sảnh đường, vào tận những gian pḥng ở sâu phía trong, tức là người thân thuộc với chủ nhân, hoặc người nhà. Do vậy, dùng h́nh ảnh này để mô tả những người đă thâm nhập, là học tṛ đă đạt mức độ thấu hiểu sâu xa đối với một môn học.