Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa

淨土大經解演義

phần 97

Chủ giảng: Lăo pháp sư Tịnh Không

Thời gian: Ngày 5 tháng 04 năm 2010

Địa điểm: Hương Cảng Phật Đà Giáo Dục Hiệp Hội

Chuyển ngữ: Minh Tiến

Giảo chánh & hiệu đính: Đức Phong, Như Ḥa, và Huệ Trang

 

Tập 193

 

Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang thứ hai trăm hai mươi lăm, hàng thứ sáu, xem từ chữ “Tịnh Ảnh Sớ”:

“Tịnh Ảnh Sớ viết: Pháp Tạng tự thuyết kỷ nguyện, linh chư Bồ Tát học chi đồng phát” (Tịnh Ảnh Sớ chép: “Ngài Pháp Tạng tự nói nguyện của ḿnh xong khiến các Bồ Tát học theo Ngài cùng phát nguyện”). Chúng ta hăy đọc tiếp câu kế: “Hựu Hội Sớ vân: Bồ Tát văn chi, tự phát dũng mănh tâm, bỉ kư trượng phu, ngă diệc nhĩ. Bỉ phát diệu nguyện, ngă bất nhĩ hồ? Cố năng duyên chi măn túc đại nguyện dă” (Lại nữa, sách Hội Sớ chép: “Bồ Tát nghe xong tự phát tâm dũng mănh. Ông ta là trượng phu, ta cũng vậy, ông ta đă phát nguyện nhiệm mầu, ta há chẳng bằng ổng sao? V́ vậy, nguyện của Pháp Tạng làm duyên để viên măn đại nguyện”). Trong phần trên đă nói: Sau khi Pháp Tạng Bồ Tát kiến lập thế giới Cực Lạc xong, đến gặp thầy là Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai. Đương nhiên thầy đă biết, chẳng nói thầy cũng biết, quả vị Diệu Giác Phật không ǵ chẳng biết, nên Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai khuyên Ngài hăy nên tuyên bố chuyện ấy với đại chúng, khiến cho đại chúng hoan hỷ, mà cũng khiến cho vô lượng chúng sanh đạt được lợi ích thù thắng. Lợi ích ấy đích xác là chân thật, trong giáo pháp Đại Thừa thường nói: “Một phen thoảng qua tai, vĩnh viễn trở thành hạt giống đạo”, bất luận ai thấy hoặc nghe đều kết duyên với thế giới Cực Lạc. Giáo pháp Đại Thừa thường nói “Phật chẳng độ kẻ vô duyên”, quư vị nghe [nói tới] A Di Đà Phật, nh́n thấy tượng A Di Đà Phật, đều là hữu duyên. Do đó, lời khuyên này của Thế Gian Tự Tại Vương Phật có dụng ư rất sâu, cũng là nhằm giúp A Di Đà Phật phổ độ chúng sanh khổ nạn trong sáu nẻo của các cơi Phật trọn khắp pháp giới hư không giới. Duyên này sâu rộng khôn sánh, nên sau khi đại chúng nghe xong, đặc biệt là các vị Bồ Tát, cũng sẽ học theo đại nguyện và đại hạnh của tỳ-kheo Pháp Tạng.

Đoạn văn này là do cụ Hoàng trích một câu từ Tịnh Ảnh Sớ: Pháp Tạng tự thuyết kỷ nguyện, linh chư Bồ Tát học chi đồng phát” (ngài Pháp Tạng nói nguyện của ḿnh xong, khiến cho các Bồ Tát học theo Ngài cùng phát nguyện). V́ Bồ Tát đă phát Tứ Hoằng Thệ Nguyện, câu thứ nhất trong Tứ Hoằng Thệ Nguyện là “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”, đă phát nguyện xong, phải “độ” bằng cách nào? Nhất định phải hợp tác với A Di Đà Phật th́ mới có thể phổ độ chúng sanh. Không riêng hàng Bồ Tát phát nguyện, mà chư Phật Như Lai cũng không ngoại lệ, từ chỗ nào ta có thể thấy được điều này? Mười phương ba đời hết thảy chư Phật Như Lai phổ độ chúng sanh, chẳng có vị nào không giảng kinh Vô Lượng Thọ, chẳng có vị nào không giảng kinh A Di Đà. Giảng những kinh ấy nhằm giúp A Di Đà Phật tiếp dẫn chúng sanh văng sanh thế giới Cực Lạc. V́ vậy, chư Phật đều tham dự các đại hội giảng kinh ấy, đây là pháp hội hy hữu, thù thắng khôn sánh trong thế gian và xuất thế gian, chúng ta chớ nên không biết điều này. Sách Hội Sớ nói rất rơ, quư vị thấy các vị Bồ Tát đă nghe xong lời tường thuật của tỳ-kheo Pháp Tạng, [ai nấy] đều tự phát tâm dũng mănh. Các vị Bồ Tát ấy nghe xong đều phát tâm dũng mănh. Quư vị thấy tỳ-kheo Pháp Tạng đă thực hiện được, Ngài có thể làm được, tại sao ta chẳng làm được? Cho nên [sách Hội Sớ viết]: “Ông ta là trượng phu, ta cũng vậy. Ông ta đă phát diệu nguyện, ta há chẳng bằng ổng hay sao? Ta có thể không phát sao?”, mang ư nghĩa ấy. “Ngài đă phát nguyện rồi, ta có thể không phát sao?” V́ vậy, nguyện của ngài Pháp Tạng làm duyên viên măn đại nguyện; câu “măn túc vô lượng đại nguyện” trong kinh văn nghĩa là có thể làm tṛn hết thảy các chí nguyện.

Câu kế tiếp: “Hựu Văng Sanh Luận Chú vân: Măn túc văng sanh Tịnh Độ nhất nguyện, tức nhất thiết chí nguyện tất măn túc. Cố vân măn túc vô lượng đại nguyện” (Lại nữa, sách Văng Sanh Luận Chú viết: “Viên măn một nguyện văng sanh Tịnh Độ chính là viên măn hết thảy các chí nguyện, nên gọi là măn túc vô lượng đại nguyện”), câu này vô cùng quan trọng. Sách Văng Sanh Luận Chú do Đàm Loan đại sư soạn. Câu kế tiếp: “Ḥa bàn thác xuất chư Phật tâm tủy” (giăi bày trọn vẹn tâm tủy của chư Phật), nghĩa là chẳng giữ lại mảy may nào, phô bày toàn bộ, ư nghĩa trong ấy, sâu rộng không bờ mé! Chúng sanh trong mười phương thế giới kể cả chúng ta, nếu hiểu rơ ràng sự việc này, trong Đại Thừa gọi là “tham thấu”, há chúng ta có thể chẳng phát nguyện văng sanh hay sao? Phát nguyện văng sanh chính là “cùng tâm, cùng nguyện, cùng đức, cùng hạnh với A Di Đà Phật”. Đấy chính là [ư nghĩa được bao hàm trong] lời của chư tổ sư đại đức đă nói ở đây: Chỉ cần văng sanh Tịnh Độ, hết thảy các nguyện đều viên măn! A Di Đà Phật là người thay mặt chúng ta, Ngài phát ra bốn mươi tám nguyện; văng sanh thế giới Cực Lạc th́ bốn mươi tám nguyện ấy sẽ viên măn. Nguyện của A Di Đà Phật đă viên măn; khi chúng ta sanh về Tịnh Độ, nguyện của chúng ta cũng sẽ viên măn. Do vậy, tôi nói: “Cùng tâm, cùng nguyện với A Di Đà Phật”. Do bốn mươi tám nguyện của Ngài viên măn, nên bốn mươi tám nguyện của chúng ta cũng sẽ viên măn; v́ vậy, gọi là “măn túc vô lượng đại nguyện”. Bốn mươi tám nguyện nhiếp trọn hết thảy hoằng nguyện của Bồ Tát. “Pháp Tạng Bồ Tát ngũ kiếp tinh cần cầu sách chi đại nguyện, chỉ vị chúng sanh năng chân thật phát khởi văng sanh Tịnh Độ chi nhất nguyện” (Pháp Tạng Bồ Tát trong cả năm kiếp siêng gắng t́m cầu, chọn lọc [những ưu điểm trong các cơi Phật thanh tịnh để kết thành bốn mươi tám nguyện], thật ra chỉ là một nguyện nhằm làm cho chúng sanh chân thật phát khởi ư nguyện cầu văng sanh Tịnh Độ). Do đó, chúng ta nhất tâm phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, nguyện tâm ấy chính là tâm nguyện viên măn của chư Phật, Bồ Tát. Câu thứ nhất trong Tứ Hoằng Thệ Nguyện là “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”, chúng ta phát một nguyện này th́ nguyện [độ vô biên chúng sanh] liền viên măn, đúng là chẳng thể nghĩ bàn! Kinh Hoa Nghiêm nói: “Một là hết thảy, hết thảy là một”, hết thảy chư Phật Như Lai, bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ trong pháp giới hư không giới, hễ chúng sanh có cảm, các Ngài liền ứng. Chúng sanh không biết mục đích của sự cảm ứng, c̣n Phật, Bồ Tát đều biết rơ ràng, chỉ có một mục đích duy nhất là khuyên nhủ hết thảy chúng sanh hăy buông bỏ vạn duyên, nhất tâm niệm Phật, cầu sanh Tịnh Độ. Đó là phương hướng chung, mục tiêu chung. Chỉ cần văng sanh về Tịnh Độ, quư vị sẽ đạt được viên măn rốt ráo. Đấy là ư nghĩa của đoạn này.

Tiếp đó, cụ Niệm Tổ nói: “Cố ngă bối mạt thế phàm phu” (Cho nên những phàm phu đời Mạt chúng ta), đây là nói tới các vị đồng học chúng ta trong hiện tại. “Đản năng măn túc thử nhất nguyện” (chỉ có thể làm trọn một nguyện ấy), then chốt ở hai chữ “măn túc” này. “Măn túc” nghĩa là ǵ? Thật sự văng sanh là “măn túc”. Nếu không văng sanh, sẽ chẳng có phần! Dù là văng sanh Hạ Hạ Phẩm trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư, quư vị cũng trọn vẹn vô lượng đại nguyện. Vô lượng đại nguyện của A Di Đà Phật, vô lượng đại nguyện của chư Phật Như Lai, vô lượng đại nguyện của hết thảy Pháp Thân đại sĩ trong các cơi nước chư Phật đều sẽ viên măn khi quư vị văng sanh. Chuyện văng sanh này có khó hay không? Nay chúng ta biết: Chẳng khó tí nào! Tại sao người niệm Phật đông đảo, mà người văng sanh rất ít? Thuở trước, khi tôi theo học kinh giáo với thầy Lư, thầy thường nói như vậy. Đài Trung Liên Xă ở Đài Loan do thầy sáng lập, liên hữu ở đó có cả mấy trăm ngàn người, thầy vô cùng cảm khái nói: “Trong các liên hữu ở Đài Trung Liên Xă, trong một vạn người, chỉ có năm, ba người thật sự văng sanh mà thôi!” Do nguyên nhân nào? V́ không thể buông bỏ t́nh chấp thế gian, chưa thể buông xuống tập khí phiền năo, c̣n có chuyện tham luyến; do đó, không thể văng sanh Tịnh Độ. Đúng như Thiện Đạo đại sư đă nói “vạn người tu, vạn người đến”, người nào thật sự buông xuống sẽ thành công. “Tức dữ Di Đà đại nguyện tương ứng, tiện nhập Nhất Thừa nguyện hải, tiện dữ Di Đà đại nguyện đồng thể. Cố vân, tức thị măn túc vô lượng đại nguyện dă” (tức là tương ứng với Di Đà đại nguyện, liền nhập Nhất Thừa nguyện hải, liền có cùng một Thể với Di Đà đại nguyện, nên mới nói: “Đầy đủ vô lượng đại nguyện”). Văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, chúng ta phải hỏi v́ sao chẳng thể buông xuống được? Nói thật ra là v́ không hiểu rơ, không nhận thức đầy đủ [những sự tốt đẹp trong] Tây Phương Cực Lạc thế giới. Nếu quả thật hiểu rơ ràng, minh bạch, lẽ nào không buông xuống được?

Khi tôi học Phật, lần đầu tiên gặp Chương Gia đại sư, [đấy là] lần đầu tiên gặp gỡ người xuất gia, tôi thỉnh giáo lăo nhân gia, Ngài dạy tôi “nh́n thấu, buông xuống”; bốn chữ này là bí quyết để khế nhập cảnh giới của Phật. Ngày đầu tiên gặp gỡ, Ngài liền dạy tôi [bốn chữ này]. Lúc đó tôi c̣n trẻ, chưa từng tiếp xúc Phật pháp, vừa nghe câu ấy, dường như nửa hiểu nửa không! Hai ba chục năm sau, tôi mới thật sự hiểu thấu câu này, thật sự hiểu rơ ràng, Ngài chẳng lừa gạt tôi. Phàm phu học Phật từ lúc mới phát tâm cho đến quả vị Như Lai chính là “nh́n thấu, buông xuống”, nh́n thấu suốt giúp quư vị buông xuống, buông xuống giúp quư vị nh́n thấu suốt. Hai pháp này giúp đỡ lẫn nhau, làm cho quư vị đạt đến rốt ráo viên măn. Pháp môn này cũng chẳng phải là ngoại lệ, cũng là “nh́n thấu, buông xuống”. “Phát Bồ Đề tâm, một mực chuyên niệm”, quư vị thấy chỉ có tám chữ đơn giản này! Phát Bồ Đề tâm là nh́n thấu suốt, Bồ Đề là Trí Huệ, chẳng lưu luyến thế gian này, không chấp trước nữa. Nhất tâm niệm Phật là buông xuống, buông xuống vạn duyên, nhất tâm chuyên niệm. Niệm bao lâu mới có thể văng sanh? Kinh Di Đà bảo ít nhất là một ngày, một ngày liền thành công; nhiều nhất là bảy ngày. Xin thưa cùng quư vị, chữ “bảy” này không phải là một con số, hiện thời chúng ta đều nghĩ nó là bảy ngày, chúng ta đả Phật Thất bảy ngày; thật ra, nó không phải là một con số. Một, hai, ba, bốn, năm, sáu là con số, “bảy” không phải là con số, “bảy” rất sống động, viên măn. “Bảy” nghĩa là ǵ? Nói tới “bốn phương, trên, dưới, chính giữa”, có nghĩa là viên măn. [Kinh nói “từ một đến bảy ngày”], ư nói thời gian dài ngắn do quư vị quyết định, chẳng do người nào khác; lúc nào thật sự buông xuống, lúc đó sẽ thành công. Niệm Phật mà vẫn c̣n vướng mắc thế gian này, vẫn c̣n có t́nh chấp, quư vị sẽ không thể văng sanh được! Ngày nào quư vị buông xuống được những vướng mắc ấy, ngày đó là ngày thứ bảy. Chữ “bảy” có nghĩa như vậy, triệt để buông xuống th́ gọi là “bảy”.

“Hà đẳng phương tiện, hà đẳng trực tiệp, tùng quả khởi tu, trực xu cứu cánh. Bất khả tư nghị Tịnh Độ pháp môn” (Những ǵ là phương tiện, những ǵ là đường thẳng tắt? Chính là từ quả khởi tu, thẳng đến rốt ráo. Pháp môn Tịnh Độ thật chẳng thể nghĩ bàn), những câu này rất quan trọng. Trong tám vạn bốn ngàn pháp môn, cũng không thể t́m được pháp môn [nào khác] thuận tiện như vậy, quả thật là t́m không ra, chỉ có một pháp môn này. Thẳng tắt: Từ phàm phu một phẩm phiền năo cũng chưa đoạn được, mà có thể thành tựu ngay trong một đời này, pháp môn này gọi là “pháp khó tin”. Tuy khó tin, nhưng dễ tu hành, dễ thành tựu, nguyên nhân là ǵ? Hai câu trong đoạn văn trên đây đă giải thích tại sao: “Tùng Quả khởi tu” (từ Quả khởi tu). A Di Đà Phật là quả vị, chẳng phải là nhân. Dùng quả giác (sự giác ngộ nơi quả) của Phật Di Đà làm nhân tâm (cái tâm tu nhân) của chúng ta, nhân quả chẳng hai, Di Đà là Tự Tánh Di Đà, Tịnh Độ là Duy Tâm Tịnh Độ. Di Đà Tịnh Độ từ đâu ra? Từ tự tánh của chúng ta biến hiện ra. Trong giáo pháp Đại Thừa thường nói: “Tâm ngoại vô pháp, pháp ngoại vô tâm” (Ngoài tâm không có pháp, ngoài pháp không có tâm), câu này có thể chứng minh, chẳng ĺa tự tánh, chư Phật Như Lai cũng chẳng ĺa tự tánh; ngạ quỷ, địa ngục cũng chẳng ĺa tự tánh, tất cả đều do tâm hiện, thức biến. Pháp môn này là từ Quả bắt đầu tu, măi cho đến rốt ráo; “cứu cánh” (rốt ráo, mục tiêu cuối cùng) là quả vị Diệu Giác như kinh Hoa Nghiêm đă nói, quả thật là rốt ráo viên măn! Pháp môn Tịnh Độ chẳng thể nghĩ bàn này chẳng dễ ǵ gặp được, hy hữu khó gặp! Phẩm thứ năm “Chí Tâm Tinh Tấn” chúng ta học đến đây là hết. Tiếp theo đây, chúng ta xem tiếp phần quan trọng nhất trong kinh Vô Lượng Thọ:

 

PHÁT ĐẠI THỆ NGUYỆN ĐỆ LỤC.

發大誓願第六。

(Phẩm thứ sáu: Phát đại thệ nguyện).

 

Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai khuyên tỳ-kheo Pháp Tạng hăy tuyên bố với đại chúng [thệ nguyện của chính ḿnh]. Đây là toàn bộ lời tường thuật do Thích Ca Mâu Ni Phật thuật lại cho chúng ta nghe. Trước khi học toàn bộ kinh văn của phẩm này, [chúng ta hăy coi] lời giới thiệu của cụ Hoàng trong phần đầu nhằm giới thiệu đại ư của phẩm này. Lời giới thiệu rất hay, rất khó có! Những câu sau đây thuộc phần Chú Giải, chúng ta xem nhé: “Bổn phẩm năi Pháp Tạng Bồ Tát tuân Phật minh huấn, ư đại chúng trung, tuyên thuyết sở phát thù thắng đại nguyện” (Phẩm này là do Pháp Tạng Bồ Tát vâng theo lời dạy rơ ràng của đức Phật, tuyên nói với đại chúng những đại nguyện thù thắng của Ngài). Ngài đă phát nguyện ǵ? Tuyên nói bốn mươi tám nguyện trứ danh [do chính Ngài đă lập]. “Thử đại thệ nguyện, diệu đức nan tư” (Diệu đức của các đại thệ nguyện ấy khó suy lường), câu này là lời đánh giá chung: Chẳng thể nghĩ bàn! Tại sao? Chẳng biết đại nguyện này đă giúp bao nhiêu chúng sanh trong lục đạo có thể từ phàm phu thành Phật trong một đời. Cho nên đức A Di Đà Phật được hết thảy chư Phật xưng tụng: “Quang trung cực tôn, Phật trung chi vương” (Ánh sáng tôn quư nhất trong các ánh sáng, vua trong các vị Phật), đạo lư là như vậy. Tất cả kinh giáo do mười phương ba đời hết thảy chư Phật đă nói đều chẳng thể sánh bằng bộ kinh này. Hoa Nghiêm và Pháp Hoa đều chẳng sánh bằng, kinh này là kinh bậc nhất trong nhà Phật. Kinh này không chỉ là kinh bậc nhất trong các kinh do Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói, mà c̣n là kinh bậc nhất trong hết thảy các cơi nước của chư Phật trọn khắp pháp giới hư không giới. Nếu quư vị gặp được pháp môn khác, chưa chắc quư vị đắc độ trong một đời này. Nếu quư vị gặp được pháp môn này, nhất định sẽ đắc độ, nhất định sẽ thành Phật. Vấn đề là quư vị chịu làm hay không, có thể y giáo phụng hành hay không? Nếu quả thật có thể y giáo phụng hành, quư vị sẽ thành công, nhất định chẳng phải giả!

“Như Chân Giải viết” (Như sách Chân Giải viết), đây là sách của Nhật. Nói thật ra, người Nhật Bản học kinh Vô Lượng Thọ vượt trội người Trung Quốc, chú giải [kinh Vô Lượng Thọ] của họ có tới hai mươi mấy bộ. Chú giải kinh Vô Lượng Thọ của cổ đại đức Trung Quốc chỉ có hai bộ, phía trước đă tŕnh bày nguyên nhân rất rơ ràng. Rất nhiều phiên bản [kinh này] được truyền tới Trung Quốc, có mười hai bản dịch, ngày nay, trong mười hai bản [dịch gốc], đă bị thất truyền bảy bản, trong Đại Tạng Kinh hiện nay chỉ giữ được năm bản. Nếu muốn đọc hết năm bản ấy, quả thật rất khó khăn, v́ trong quá khứ, kỹ thuật ấn loát chưa phát triển, chẳng thuận tiện, chẳng dễ ǵ kiếm được năm bản dịch của kinh này. Do có sự hạn chế lớn như vậy, nên mới cần hội tập [các bản dịch ấy]. Sau khi bản hội tập này được hoàn thành, chúng tôi tin tưởng kinh Vô Lượng Thọ ở Trung Quốc sẽ được đại chúng nhận biết rộng răi và sốt sắng học tập. Sách Chân Giải viết: “Tứ thập bát nguyện công đức thành tựu, nhi quy nhất Chánh Giác, Chánh Giác chi Thể tức thị Nam Mô A Di Đà Phật dă. Thị danh hoằng thệ bổn thừa hải, diệc danh bi nguyện Nhất Thừa. Thử năi Di Đà Chánh Giác công đức dă. Chánh Giác công đức bất khả tư nghị giả, do thệ nguyện bất khả tư nghị” (Bốn mươi tám nguyện công đức thành tựu chỉ quy vào một Chánh Giác. Thể của Chánh Giác chính là Nam Mô A Di Đà Phật. Đấy gọi là hoằng thệ bổn thừa hải, cũng gọi là bi nguyện Nhất Thừa. Đấy chính là công đức Chánh Giác của Di Đà vậy. Công đức của Chánh Giác chẳng thể nghĩ bàn là v́ thệ nguyện chẳng thể nghĩ bàn). Chúng ta xem đến đây. Công đức của bốn mươi tám nguyện thành tựu quy về một Chánh Giác, một Chánh Giác chính là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, ở đây viết gọn lại thành hai chữ Chánh Giác. Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác là quả vị Diệu Giác, chỉ có Diệu Giác mới được gọi là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Trong kinh Hoa Nghiêm, từ Sơ Trụ đến Đẳng Giác, bốn mươi mốt địa vị đều được gọi là Chánh Đẳng Chánh Giác, nhưng chẳng có chữ Vô Thượng. A La Hán, Bích Chi Phật xưng là Chánh Giác, đây là những địa vị trong Tiểu Thừa, chưa ra khỏi tam giới. Trong tứ thánh pháp giới thuộc mười pháp giới, A La Hán và Bích Chi Phật thuộc về hai tầng dưới, trên đó c̣n có Bồ Tát và Phật, các Ngài được tính vào bậc nào? A La Hán là Tiểu Thừa, Bích Chi Phật là Trung Thừa, Bồ Tát và Phật là Đại Thừa trong mười pháp giới. Từ Sơ Trụ trở lên là Nhất Thừa, chẳng phải là Đại Thừa, đều gọi là Nhất Chánh Giác, chúng ta phải biết điều này.

“Nhất Chánh Giác” cũng có nghĩa là các Ngài đă thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ đều gọi là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nhưng trong đó vẫn c̣n có một chút sai khác: Tập khí vô thỉ vô minh chưa đoạn! Có trở ngại hay không? Không trở ngại! Không trở ngại chút nào. Phải biết vô thỉ vô minh chính là “khởi tâm, động niệm”. Sơ Trụ Bồ Tát chẳng khởi tâm, không động niệm, chẳng phân biệt, chẳng chấp trước; do vậy, bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ đều thuộc cảnh giới b́nh đẳng, chẳng sai khác, hoàn toàn b́nh đẳng! Đọc đến phần nguyện văn ở phía sau, chúng ta sẽ thấy thế giới Cực Lạc chẳng có ǵ không b́nh đẳng, ngay cả tướng mạo cũng b́nh đẳng, tướng chuyển theo tâm mà! Trong thế giới của chúng ta, tại sao tướng mạo không b́nh đẳng? V́ tâm tưởng khác nhau. Nếu hai người có tâm tưởng vô cùng gần gũi th́ tướng mạo của họ sẽ rất giống nhau, tướng từ tâm sanh mà! Tướng mạo của người ở cơi Cực Lạc đều giống nhau, đều giống như A Di Đà Phật, tại sao vậy? Trong tâm của họ luôn nghĩ tới một câu A Di Đà Phật; v́ thế, tướng mạo của họ đều giống nhau. Khi đoạn dứt một phẩm tập khí vô thỉ vô minh, họ liền chứng quả vị Diệu Giác. Quả vị Diệu Giác không trụ trong cơi Thật Báo. Quả vị Diệu Giác sẽ trở về cơi Thường Tịch Quang. V́ lẽ đó, những người tu hành trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm đều là bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ, các Ngài trụ trong Tịnh Độ thật sự, tức Nhất Chân pháp giới. Do đó, quy về một Chánh Giác. Cơi Đồng Cư và cơi Phương Tiện cũng quy về một Chánh Giác, điều này chẳng thể nghĩ bàn; tới phần nguyện văn ở phía sau chúng ta sẽ thấy, thật sự là chẳng thể nghĩ bàn. Thể của Chánh Giác là danh hiệu Phật, tức sáu chữ hồng danh, trong đó, Nam Mô có nghĩa là quy y, [Nam Mô A Di Đà Phật] là quy y A Di Đà Phật. Quy nghĩa là quay đầu, từ mê hoặc, điên đảo, thật sự giác ngộ quay về nương tựa A Di Đà Phật. Sự nương tựa này đă vững chắc rồi, quư vị sẽ hoàn toàn giống như A Di Đà Phật, chính ḿnh không hay không biết cũng biến thành hóa thân của A Di Đà Phật, đó gọi là Hoằng Thệ Bổn Thừa Hải. Chữ Hải sánh ví lời thệ nguyện ấy sâu rộng vô bờ bến. Bổn Thừa chính là Nhất Thừa. Thệ nguyện của A Di Đà Phật không nhằm mục đích mong mỏi quư vị quư vị đến thế giới Cực Lạc làm A La Hán hay làm Bồ Tát; mà là [hy vọng] quư vị đến thế giới Cực Lạc bèn chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, tức quả vị Phật rốt ráo viên măn. Do vậy, cũng gọi là Bi Nguyện Nhất Thừa, Bi là đại bi, thương xót hết thảy chúng sanh. Đó chính là công đức của Di Đà Chánh Giác vậy.

Kế đó, sách viết: “Chánh Giác công đức bất khả tư nghị giả, do thệ nguyện bất khả tư nghị” (Công đức của Chánh Giác chẳng thể nghĩ bàn v́ thệ nguyện chẳng thể nghĩ bàn). “Thị dĩ Hành Quyển dĩ tạp lục cú thán thệ nguyện bất khả tư nghị, dĩ chương” (Do vậy, sách Hành Quyển dùng đến ba mươi sáu câu để khen ngợi thệ nguyện chẳng thể nghĩ bàn, nhằm hiển dương [công đức rộng lớn của Chánh Giác]) Chữ Chương () có nghĩa là hiển dương, chúng ta gọi là “tuyên dương”, làm cho đại chúng đều biết “công đức Chánh Giác chẳng thể nghĩ bàn”. Đoạn này được trích lục rút gọn như sau: “Văn viết: Kính bạch thân nhất thiết văng sanh nhân đẳng” (Lời văn như sau: “Kính cẩn bày tỏ cùng hết thảy những người văng sanh”). Nói với những người văng sanh thế giới Cực Lạc, đương nhiên cũng là nói với những người thật sự muốn phát tâm cầu sanh về thế giới Cực Lạc, nói với họ. Chữ “thân” () nghĩa là ǵ? Nói theo cách bây giờ, “thân” nghĩa là “trịnh trọng bày tỏ”, có nghĩa là giải thích cặn kẽ. Đối với hết thảy những người văng sanh, trịnh trọng bày tỏ, giải thích cặn kẽ. “Hoằng thệ Nhất Thừa hải” là nói hết thảy chúng sanh b́nh đẳng thành Phật, chẳng phải là một, hai người! Phải biết, những người phát nguyện văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới trong mỗi thế giới khắp mười phương thế giới, mỗi ngày có bao nhiêu người văng sanh thế giới Cực Lạc? Chẳng có cách nào tính được v́ con số đó quá ư là nhiều! Sanh về đó làm ǵ? Đều là để thành Phật. Đây là sự trang nghiêm tốt đẹp xiết bao, những sự tốt đẹp trong cơi người và cơi trời cũng không có cách chi sánh bằng, nhưng người ta thường chẳng biết việc này.

Câu kế đó rất hay: “Thành tựu vô ngại vô biên tối thắng thâm diệu bất khả thuyết, bất khả xưng, bất khả tư nghị chí đức” (thành tựu đức cùng tột sâu mầu chẳng thể nói, chẳng thể khen, chẳng thể nghĩ bàn thù thắng nhất). Chúng ta nói đến công đức, “chí đức” là ǵ? Công đức rốt ráo viên măn. Do đó, văng sanh cơi Cực Lạc, quư vị sẽ chứng đắc đại viên măn! Hạ Hạ phẩm văng sanh cũng vậy, quư vị thấy việc này khó dường nào! Bồ Tát tu đến cảnh giới ấy th́ phải tu tới kiếp nào? Tu hành vô lượng kiếp; nhưng trong pháp môn này, trong ṿng một thời gian rất ngắn, quư vị sẽ thành tựu, “nhược nhất nhật, nhược nhị nhật, nhược tam nhật”, chúng tôi đều đă từng chứng kiến. Tôi đă thấy một người có thể văng sanh trong ṿng ba ngày, thật đấy, chẳng giả đâu! Tôi đă gặp ở Mỹ. Một Hoa kiều là ông Châu Quảng Đại mở xưởng bánh ḿ, bị bệnh ung thư, [bác sĩ] trong bệnh viện tuyên bố [bệnh t́nh] đă đến mức chẳng c̣n cách nào chữa trị được nữa, bảo người nhà nên chở ông ta về nhà lo liệu. Ông ta chỉ c̣n sống được một hai tuần nữa, tế bào ung thư đă lan tràn khiến ông ta vô cùng đau đớn. Cả đời ông ta chẳng tin tôn giáo nào hết, lúc ấy đă đến đường cùng, đúng là “bệnh ngặt, vái tứ phương”, người nhà đi khắp nơi để cầu thần, lạy Phật, coi thử kỳ tích có xuất hiện hay không. Khi ấy, ở nơi đó chúng tôi có một hội Phật Giáo, tức Phật Giáo Hoa Phủ Hội (hội Phật giáo Washington), họ t́m đến hội Phật Giáo này. Các vị đồng tu ở đó cũng giỏi lắm, cử vài người đến nhà trợ niệm và khuyên bảo ông ta: “Thế giới này khổ quá! Nay ông đă bệnh tới mức này, cơ hội lành bệnh rất khó”, họ khuyên ông ta hăy cầu sanh thế giới Cực Lạc. Ông ta có thiện căn sâu dầy, sau khi nghe họ khuyên, chẳng phản đối, mà c̣n nghe theo. Ông ta bảo người nhà đừng t́m cách chữa trị nữa, mọi người hăy cùng niệm Phật giúp ông ta văng sanh. Người nhà cũng nghe theo, cả nhà niệm Phật cho ông ta, niệm chưa tới nửa ngày ông ta bèn cảm thấy không đau đớn ǵ nữa, cảm thấy vô cùng kỳ lạ! Căn bệnh ấy vốn rất đau đớn, nhưng tới lúc đó không c̣n đau nữa, cũng chẳng cần phải chích morphine, chẳng cần ǵ cả. Ông ta cũng niệm theo mọi nguời, ba ngày sau được đức Phật đến tiếp dẫn. Kinh Di Đà nói “từ một ngày đến bảy ngày”, ông ta niệm ba ngày bèn ra đi. Trước đó, ông ta chẳng tin tôn giáo nào cả! Sau khi văng sanh, toàn thân mềm mại, tướng lành hiếm có, tạo chứng cớ cho người niệm Phật chúng ta. Đối với t́nh huống ở thế giới Cực Lạc ông ta chẳng hiểu ǵ hết, nhưng đến lúc ấy chẳng c̣n cách nào khác, ngoài con đường [niệm Phật cầu văng sanh] này, không c̣n đường nào khác. Đây là duyên phận đời trước đến lúc đó đă chín muồi, vừa nghe nói đến [pháp môn Niệm Phật] liền tin tưởng, liền tiếp nhận, liền thật sự phát nguyện niệm Phật cùng mọi người, phù hợp với câu “phát Bồ Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm” trong kinh Vô Lượng Thọ. Đến thế giới Cực Lạc, ông ta mới thật sự biết được đức cùng tột sâu mầu vô ngại, vô biên, chẳng thể nói, chẳng thể khen, chẳng thể nghĩ bàn thù thắng nhất. Đến thế giới Cực Lạc, ông ta bèn biết được, thù thắng hy hữu!

      Câu kế tiếp: “Hà dĩ cố? Thệ nguyện bất khả tư nghị cố” (Tại sao vậy? V́ thệ nguyện chẳng thể nghĩ bàn). Học xong phẩm kinh này, quư vị sẽ hoàn toàn hiểu rơ, đúng là chẳng thể nghĩ bàn. “Bi nguyện dụ như đại hư không, chư diệu công đức quảng vô biên cố” (bi nguyện ví như hư không to lớn, các công đức mầu nhiệm rộng lớn vô biên), ḷng từ bi của A Di Đà Phật là thật, chẳng giả, từ bi trọn khắp pháp giới, nên dùng hư không để tỷ dụ. “Chư diệu công đức quảng vô biên cố”, công đức này có thêm chữ “chư diệu”, “chư” () nghĩa là vô lượng vô biên công đức. “Diệu” () là ǵ? Diệu là không khởi tâm, không động niệm, không phân biệt, không chấp trước, [lúc đó], những công đức ấy bèn hiện tiền, không chỉ hiện ra mà c̣n được thọ dụng. Công đức từ đâu mà có? Trong tự tánh vốn sẵn có, vốn đầy đủ, chẳng phải đến từ bên ngoài. Tức là như trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật đă nói: “Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng của Như Lai”, “đức” là công đức, “tướng” là tướng hảo. Vô lượng vô biên tướng hảo đều vốn sẵn có trong tự tánh, chẳng cần phải t́m cầu từ bên ngoài, cầu từ bên ngoài cũng chẳng cầu được. Những ǵ cầu được cũng là tương tự; nói cách khác, chúng là giả, chẳng thật! Công đức chân thật là vốn sẵn có trong tự tánh.

      Nếu chúng ta thật sự khẳng định câu này, chẳng nghi ngờ câu nói này của Phật một tí nào, chúng ta nhất tâm niệm A Di Đà Phật, công đức ǵ cũng buông xuống hết. Tại sao vậy? Câu A Di Đà Phật này là ch́a khóa để mở kho tàng công đức, chúng ta có thể mở trí huệ công đức vốn sẵn trọn đủ trong tự tánh, chẳng phải nhờ tới vật ǵ khác. Pháp môn này khó tin, thật sự khó tin. Cho nên nhiều người niệm Phật c̣n muốn tu tập, tích lũy hết thảy công đức; thật ra, tu tập, tích lũy những công đức ấy, khi đến Tây Phương Cực Lạc thế giới mới biết đều là tốn công vô ích. Những công đức quư vị thấy được, tiếp xúc, hưởng thụ khi đến thế giới Cực Lạc vốn chẳng phải là những công đức do quư vị tu được, những thứ đó đều hoàn toàn chẳng dùng đến! Thật đấy, chẳng giả đâu! Công đức vốn sẵn có trong tự tánh mới gọi là “diệu”! Chúng ta có tu như thế nào đi nữa cũng chẳng tu được, thứ ǵ cũng đều có sẵn, chẳng cần t́m kiếm bên ngoài. [Hiểu như vậy], tâm chúng ta mới định được. Khi tâm định, trong tâm chẳng có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, tâm ấy tự tại, viên măn biết bao, đó là “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác” trong tựa đề kinh này.

      “Đại xa” (cỗ xe lớn) là tỷ dụ. “Năi chí do như đại phong” (cho đến như cơn gió lớn), câu này cũng là tỷ dụ. Xe lớn là ǵ? Có thể rộng độ chúng sanh, xe lớn chở được nhiều người. Gió tỷ dụ “tự tại”, gió chẳng bị chướng ngại, gió thổi trong không trung chẳng chướng ngại. “Phổ hành thế gian vô sở ngại cố” (đi khắp thế gian chẳng bị chướng ngại), gió lớn tỷ sự “không chướng ngại”. “Năng xuất tam hữu hệ phược thành” (vượt khỏi thành Tam Hữu trói buộc), “tam hữu” là tam giới, Dục Giới Hữu, Sắc Giới Hữu, Vô Sắc Giới Hữu, hữu cái ǵ? Có nhân, có duyên, có nhân có duyên rồi sẽ có quả báo; do đó, Tam Hữu là lục đạo. Có thể ra khỏi thành tam hữu trói buộc nghĩa là có thể thoát khỏi lục đạo luân hồi. “Năi chí khai hiển phương tiện tạng” (cho đến khai hiển phương tiện tạng), phi thường quá! “Tạng” là nói theo mặt Sự, ngày nay chúng ta nói tới Đại Tạng Kinh, đấy cũng chính là những pháp do hết thảy chư Phật đă giảng. Tại sao gọi là phương tiện? Chư Phật ứng hóa trong thế gian, tùy thuận căn cơ để ban bố sự giáo hóa, chẳng có pháp tắc nhất định, các Ngài chẳng hiện tướng nhất định. Nên dùng thân ǵ để độ, bèn hiện thân ấy, đó gọi là “phương tiện”. Nên nói pháp môn ǵ cho quư vị, Ngài liền giảng pháp môn ấy, chẳng có pháp nhất định nào để nói, tại sao vậy? V́ căn tánh khác nhau. Chư Phật, Pháp Thân đại sĩ rất lợi hại, vừa gặp quư vị, các Ngài liền biết những chuyện trong nhiều đời quá khứ của quư vị; do đó, các Ngài đều có thể quán sát căn cơ. Trong đời quá khứ, quư vị đă học tập pháp môn ǵ, các Ngài dạy dỗ quư vị nhất định sẽ dạy tương ứng với những ǵ quư vị đă học trong quá khứ, tại sao vậy? V́ quư vị sẽ rất vui thích tiếp nhận, rất thích học tập. Cái gọi là “tám vạn bốn ngàn pháp môn” hay “vô lượng pháp môn” đều gọi là “phương tiện tạng”. Phương tiện khéo léo mới có thể phổ độ chúng sanh. Phương tiện chẳng ĺa chân thật, từ chân thật mở ra các phương tiện, dùng phương pháp khéo léo đễ dẫn dụ quư vị về Nhất Thừa.

      Như trong hôm qua, chúng ta đă học một đoạn trong kinh Pháp Hoa “hội tam quy nhất”, đức Thế Tôn dạy học khéo léo, quư vị thấy Ngài dạy Tiểu Thừa trước, quư vị học rất dễ. Nếu Ngài dạy Đại Thừa trước, quư vị nghe sẽ không hiểu, sẽ chẳng có hứng thú nghe. V́ vậy, Ngài phải dùng mười hai năm để vun bồi, dành mười hai năm giảng kinh A Hàm. Giảng Phương Đẳng, Phương Đẳng là sơ cấp Đại Thừa, mất hết tám năm. Phương Đẳng cộng với A Hàm thành hai mươi năm. Trong hội giảng kinh của Thích Ca Mâu Ni Phật, [các đệ tử đă] học hết hai mươi năm, đă khá rồi, đức Phật giảng Đại Thừa quư vị mới có thể tiếp nhận. Đại Thừa là ǵ? Bát Nhă, giảng kinh Bát Nhă hết hai mươi hai năm. Một đời đức Thế Tôn dạy bốn mươi chín năm, quư vị nghĩ xem Bát Nhă mất hết hai mươi hai năm, Bát Nhă là khóa tŕnh chính yếu trong cả đời dạy học của đức Thế Tôn. Bát Nhă nhằm giảng cho quư vị lẽ chân thật, lẽ chân thật là ǵ? Hết thảy các pháp, pháp thế gian và xuất thế gian, “vô sở hữu, tất cánh không, bất khả đắc” (chẳng có sở hữu, rốt ráo là không, chẳng thể được), dùng hết hai mươi hai năm để giảng rơ sự việc này. Khi quư vị đă thông suốt rồi mới có thể buông xuống! Hết thảy pháp chẳng có sở hữu, rốt ráo là không, chẳng thể được, vậy th́ quư vị c̣n chấp trước ǵ nữa? Khi quư vị buông xuống được sẽ là Nhất Thừa, “hội tam quy nhất” (gộp tam thừa về nhất thừa). Kinh Pháp Hoa dạy quư vị chứng, tức là đích thân chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

      Kinh Pháp Hoa và kinh Hoa Nghiêm đều thuộc Nhất Thừa. Thời đại Tùy - Đường, các tổ sư đại đức công nhận: Trong hết thảy kinh do đức Phật đă thuyết giảng, kinh Nhất Thừa gồm có ba bộ là Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, và Phạm Vơng. Kinh Phạm Vơng chưa truyền đến Trung Quốc [toàn bộ], chỉ truyền một phẩm, tức là phẩm Phạm Vơng Bồ Tát Giới, chỉ có một phẩm này, trọn bộ kinh chưa truyền tới Trung Quốc. Trong Nhất Thừa lại c̣n Nhất Thừa, đây cũng là điều các tổ sư đại đức thời Tùy - Đường phát hiện, Nhất Thừa [trong Nhất Thừa] ấy là ǵ? Đó là Tŕ Danh Niệm Phật, văng sanh Tịnh Độ. Các Ngài nói như vậy là có căn cứ, chẳng phải là nói tùy tiện. Kinh Hoa Nghiêm tới cuối cùng, mười đại nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát dẫn về Cực Lạc. Lại xem năm mươi ba lần tham học của Thiện Tài đồng tử, chúng ta sẽ hiểu, Thiện Tài là đệ tử “nhập thất” của Văn Thù Bồ Tát, nghĩa là đệ tử truyền pháp, chẳng phải là người thường, những ǵ Ngài học, Ngài tu chắc chắn giống như thầy. Trong kinh Hoa Nghiêm chúng ta thấy, Văn Thù và Phổ Hiền đều phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, vậy th́ Thiện Tài có thể ra ngoài lệ ấy hay sao? Do đó, Ngài đại triệt đại ngộ trong hội của Văn Thù Bồ Tát, minh tâm kiến tánh, cũng có nghĩa là chứng Sơ Trụ và vượt thoát mười pháp giới. Văn Thù Bồ Tát cho Ngài đi tham học, giới thiệu vị thiện tri thức thứ nhất là tỳ-kheo Cát Tường Vân; đây là một vị Sơ Trụ Bồ Tát. Nếu Thiện Tài chưa đạt đến Sơ Trụ, sẽ chẳng gặp được Sơ Trụ Bồ Tát. V́ vậy, mỗi vị thiện tri thức mà Thiện Tài đến gặp, chứng đến quả vị nào, chúng ta liền biết lúc ấy Thiện Tài đồng tử đă chứng đến quả vị đó. Tỳ-kheo Cát Tường Vân tu pháp môn ǵ? Ngài tu Ban Châu Tam Muội, chuyên niệm A Di Đà Phật cầu sanh thế giới Cực Lạc, đây là vị thiện tri thức thứ nhất. “Đệ nhất” được biểu thị giống nhau ở Trung Quốc và cổ Ấn Độ, đúng như câu nói “tiên nhập vi chủ” (những ǵ đầu tiên đều là chủ yếu). Chúng ta xem tiếp vị thiện tri thức thứ năm mươi ba, mười đại nguyện vương của Phổ Hiền Bồ Tát dẫn về Cực Lạc. Quư vị nh́n vào vị thứ nhất và vị cuối cùng sẽ hiểu rơ. Kinh Hoa Nghiêm đến cuối cùng dạy tu pháp môn ǵ? Tu niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, tuyệt diệu quá, điều này đă ban chúng ta một khải thị rất lớn!

      Chúng ta, ngay chính bản thân tôi, chẳng phải là kẻ thượng căn, chúng ta đều là hạng trung, hạ căn, cứ tưởng những điều ḿnh nghĩ đều là chính xác, đều đúng hết, đi ṿng vo thật lâu, đi lầm hết bao nhiêu con đường oan uổng, hai chục, ba chục năm sau mới tin pháp môn Tịnh Độ. Lúc trước chẳng tin, thầy khuyên nhủ, tôi luôn phản đối, vẫn không chịu học. V́ sao [bây giờ] tôi lại tin? Nhờ tôi giảng kinh Hoa Nghiêm nên mới chịu tin, giảng kinh Hoa Nghiêm được phân nửa, có một hôm đột nhiên suy nghĩ Văn Thù, Phổ Hiền tu pháp môn ǵ, Thiện Tài đồng tử tu pháp môn ǵ. Lúc đó, tôi giảng kinh Hoa Nghiêm, giảng Bát Thập và Tứ Thập Hoa Nghiêm cùng lúc, mỗi tuần giảng ba ngày, hai ngày giảng Bát Thập Hoa Nghiêm, một ngày giảng Tứ Thập Hoa Nghiêm. Giảng được mười mấy năm, giảng được phân nửa, đột nhiên nghĩ tới vấn đề này nên mới đi t́m [câu trả lời], t́m tới phần sau, đọc tới đoạn kinh này liền rởn ốc, [tự hỏi] tại sao Văn Thù và Phổ Hiền đều cầu sanh thế giới Cực Lạc? Lại chú tâm xem [phần kinh văn nói về] Thiện Tài đồng tử. Quư vị thấy tôi giảng hết nửa bộ Tứ Thập Hoa Nghiêm mà vẫn chưa phát hiện điều này, chỉ dựa theo chú giải của cổ nhân để giảng, chẳng nh́n thấy chân tướng sự thật. Sau đó, chú tâm t́m kiếm mới hiểu rơ, mới hoát nhiên đại ngộ. Sự biểu thị pháp này là: Mở đầu bằng Tịnh Tông, kết thúc cũng bằng Tịnh Tông. Sau đó mới hoàn toàn hiểu rơ năm mươi mốt địa vị ở giữa, mới hiểu ư nghĩa từ ngữ “luyến đức lễ từ” trong kinh văn. “Luyến đức lễ từ” nghĩa là ǵ? Tôi tham học vị thiện tri thức này, nghe Ngài báo cáo, thuật lại pháp môn tu học của chính Ngài, tôi hoàn toàn hiểu rơ, cảm tạ Ngài, đó là “luyến đức”. Tôi được Ngài giáo dục nên cảm ơn Ngài. “Lễ từ” nghĩa là ǵ? Tôi không học theo pháp môn của Ngài, học xong tôi vẫn theo pháp môn Niệm Phật, một câu A Di Đà Phật niệm đến cùng. Pháp môn của Ngài dạy là một trong tám vạn bốn ngàn pháp môn, tôi đều biết hết, nhưng chẳng học theo, tôi vẫn thật thà tu pháp môn Niệm Phật, “từ” có ư nghĩa như vậy! Hiểu rơ ràng, minh bạch rồi, mới biết hàm ư trong mỗi chữ mỗi câu đều rất sâu. Do đó, mới biết Văn Thù, Phổ Hiền, Thiện Tài đều tu một câu A Di Đà Phật, niệm tới cùng. Những kinh điển Nhất Thừa như Hoa Nghiêm và Pháp Hoa đến cuối cùng đều quy về kinh Vô Lượng Thọ. Kinh Vô Lượng Thọ chính là Nhất Thừa trong Nhất Thừa. Đến đây cũng coi như chúng ta đă nhận biết, hiểu được [giá trị] kinh này. Không nhận biết, sẽ học rất khó khăn; đă nhận thức sẽ rất thuận tiện, mới cam tâm một ḷng học tập.

      V́ sao tôi vẫn giảng các kinh khác? V́ hiện nay Phật pháp suy thoái, tám tông phái Đại Thừa chỉ là hư danh, trong mỗi tông phái không có người thật sự tu hành. Lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ nói với tôi rất nhiều [về chuyện này]. Hiện thời, ở Trung Quốc chỉ có ba tông phái là Thiền Tông, Tịnh Độ Tông, và Mật Tông. Thiên Thai và Hiền Thủ chẳng c̣n có người nữa, các tông phái khác càng chẳng cần bàn tới. Vả lại, thật sự có thể thành tựu th́ chỉ có Tịnh Độ. Cụ Hoàng kể với tôi, cụ học Thiền với lăo ḥa thượng Hư Vân, cụ cũng từng học Mật, nhưng đều chẳng thể thành tựu. Đến cuối cùng, lúc [sắp] văng sanh, cụ bảo tôi, mỗi ngày niệm Phật mười bốn vạn tiếng, [niệm theo lối] truy đảnh niệm Phật, Phật hiệu chẳng dứt, mỗi ngày niệm mười bốn vạn tiếng. Cụ niệm Phật văng sanh. Nếu chúng ta có duyên, cũng nên giúp đỡ các tông phái khác, v́ sao? Đều là phương tiện tiếp dẫn. Nhưng bất luận tu học pháp môn nào, đến cuối cùng, nhất định phải là niệm Phật mới thành tựu, không niệm Phật sẽ chẳng thể thành tựu. Nếu không niệm Phật, tu học hết thảy các pháp môn sẽ đều giống như hiện nay thường gọi là “Phật học”, nói rơ hơn một chút tức là [thâu thập] kiến thức về Phật học, đấy chẳng phải là trí huệ, họ không thể buông xuống! Thật sự buông xuống được th́ mới là trí huệ; buông xuống không được sẽ là tri thức (kiến thức). Tri thức không thể liễu sanh tử, chẳng thể thoát tam giới; có trí huệ th́ mới có thể vượt thoát tam giới, trí huệ mới thật sự là “phương tiện tạng”. “Lương khả phụng tŕ, đặc khả đảnh đới dă” (thật đáng phụng tŕ, thật đáng cúi lạy, nhận lấy vậy), đoạn trên đây đă giới thiệu đơn giản công đức bổn nguyện Di Đà.

      Tiếp đó, lại cần phải nói rơ: “Chí ư nguyện văn đa quả, chư dịch phả hữu sai dị” (Về phần nguyện văn nhiều hay ít, các bản dịch đều khá sai khác). Thông thường, chúng ta nói bốn mươi tám nguyện. Bốn mươi tám nguyện là nói theo bản dịch thời Tào Ngụy của ngài Khang Tăng Khải. Thời Tam Quốc, Tào Tháo [sáng lập nước] Ngụy, lúc đó ngài Khang Tăng Khải trụ ở nước Ngụy dịch kinh này, nên bản dịch ấy gọi là bản Ngụy dịch. Trong năm bản dịch, tức là năm bản dịch kinh này hiện vẫn c̣n, bản Ngụy dịch được lưu thông nhiều nhất. Lúc trước, tôi có học [kinh Vô Lượng Thọ], dùng bản dịch của ngài Khang Tăng Khải, trong ấy có bốn mươi tám nguyện. Do đó, mọi người đều quen biết bốn mươi tám nguyện. Thật ra, trong năm bản dịch, nguyện văn nhiều hay ít khác nhau, có bản ghi hai mươi bốn nguyện, có bản ghi ba mươi sáu nguyện, ở đây chỉ giới thiệu đơn giản như vậy. “Hán Ngô lưỡng dịch đồng vi nhập tứ nguyện, thả kinh trung minh ngôn tiện kết đắc nhị thập tứ nguyện kinh” (Hai bản Hán dịch và Ngô dịch cùng ghi hai mươi bốn nguyện, trong kinh c̣n ghi rơ: “Liền kết được hai mươi bốn nguyện”), trong kinh văn có câu này. Bản Tống dịch ghi ba mươi sáu nguyện. Bản Ngụy dịch và Đường dịch ghi bốn mươi tám nguyện. “Chí ư Hậu Xuất A Di Đà Kệ Kinh” (c̣n như Hậu Xuất A Di Đà Kệ kinh), trong bộ kinh ấy có câu “thệ nguyện nhị thập tứ chương, khả kiến nhị thập tứ nguyện ư chư kinh trung thật cư đa số” (thệ nguyện gồm hai mươi bốn chương, có thể thấy phần đông các kinh đều ghi hai mươi bốn nguyện). Ba bản dịch ghi hai mươi bốn nguyện, hai bản dịch ghi bốn mươi tám nguyện, chỉ có một bản dịch ghi ba mươi sáu nguyện; do đó, hai mươi bốn nguyện chiếm đa số. “Đản thế gian lưu thông giả, chỉ thị Ngụy dịch. Cố thế nhân thục tri tứ thập bát, nhi hăn văn nhị thập tứ nguyện dă” (Nhưng v́ bản Ngụy dịch được lưu thông rất rộng, nên người đời quen thuộc bốn mươi tám nguyện, ít nghe nói tới hai mươi bốn nguyện). Bản hội tập này dùng hai mươi bốn làm cương lănh, bốn mươi tám làm đề mục, cho nên có hai mươi bốn chương, bốn mươi tám nguyện, dung hội cả hai bên; đấy là chỗ khéo léo của bản hội tập này.

      Tiếp theo, sách viết: “Thả Hán Ngô lưỡng dịch tuy đồng vi nhập tứ nguyện, đản nội dung diệc thậm bất đồng” (Tuy hai bản Hán dịch và Ngô dịch cùng chép hai mươi bốn nguyện, nhưng nội dung các nguyện cũng rất khác nhau). Từ những chỗ này, chúng ta có thể nghĩ bộ kinh này chắc chắn được Thích Ca Mâu Ni Phật tuyên giảng nhiều lần nên mới có nhiều bản như vậy. Nếu Ngài chỉ giảng một lần, chỉ có một bản gốc, bất luận là ai phiên dịch, những lời nguyện này không thể nào chép sai được. Từ những chỗ này, chúng ta có thể hiểu cách suy nghĩ của cổ đại đức, [họ nghĩ] bộ kinh này đă được đức Thế Tôn tuyên giảng nhiều lần, huống chi c̣n có bảy bản dịch bị thất truyền, chúng ta chẳng đọc được, trong đó c̣n có chỗ sai khác hay không chúng ta cũng không biết. Ở Trung Quốc, tổng cộng có đến mười hai bản dịch kinh Vô Lượng Thọ, từ triều Hán đến triều Nam Tống kéo dài tám trăm năm, phiên dịch mười hai lần. Chúng ta tin tưởng: Dựa theo những bản dịch này để nói, tin chắc đức Phật chẳng phải chỉ giảng kinh này một lần, mà là nhiều lần. Chuyện này rất ít có! Năm xưa, lúc đức Thế Tôn giảng kinh thường chỉ giảng một lần, chẳng hề lập lại một bộ kinh nào. Chỉ riêng bộ kinh này được giảng nhiều lần, cổ đại đức đoán ít nhất đức Phật cũng giảng ba lần. Quư vị thấy: Hai mươi bốn nguyện, bốn mươi tám nguyện, ba mươi sáu nguyện, ít nhất cũng là ba lần. Nếu không, chẳng thể nào có sự sai khác lớn như vậy! Xem kỹ hơn, quư vị thấy hai bản dịch ghi hai mươi bốn nguyện, hai mươi bốn nguyện ấy cũng khác nhau; hai bản dịch ghi bốn mươi tám nguyện, bốn mươi tám nguyện trong hai bản dịch ấy cũng khác nhau. Điều này chứng tỏ đức Phật đă giảng bộ kinh này nhiều lần, giảng nhiều lần th́ nhất định phải là vô cùng quan trọng, v́ bộ kinh này mới là công đức viên măn của chư Phật Như Lai.

      Ở đây, [cụ Hoàng] nêu ra một thí dụ, thí dụ này rất quan trọng. Nguyện thứ hai trong bản Ngô dịch là: Sử mỗ tác Phật thời, linh ngă quốc trung, vô hữu phụ nhân. Nữ nhân dục lai sanh ngă quốc trung giả, tức tác nam tử” (Khi tôi thành Phật, trong nước tôi không có phụ nữ. Nữ nhân muốn sanh về nước tôi, liền biến thành nam tử). Quư vị thấy Ngài có nguyện này, tức là nguyện “cơi nước chẳng có người nữ”. Tiếp theo đó, bản dịch ấy ghi: “Chư vô ương số thiên nhân dân, quyên phi nhuyễn động chi loại, lai sanh ngă quốc giả, giai ư thất bảo thủy tŕ, liên hoa trung hóa sanh trưởng đại, giai tác Bồ Tát, A La Hán, đô vô ương số. Đắc thị nguyện, năi tác Phật. Bất đắc thị nguyện, chung bất tác Phật” (Vô ương số chư thiên, nhân dân, các loài bay lượn, ngọ nguậy, ḅ trườn, sanh về nước tôi đều hóa sanh, lớn khôn trong hoa sen nơi ao nước bảy báu, đều là Bồ Tát. A La Hán [và Bồ Tát] đều là vô ương số. Thỏa nguyện ấy mới làm Phật. Chẳng thỏa nguyện ấy, trọn chẳng làm Phật). Quư vị thấy trong đó có hai nguyện “hóa sanh trong hoa sen” và “cơi nước không có người nữ”, trong các bản dịch khác không có hai nguyện này. Bản Hán dịch chẳng có, các bản dịch khác cũng chẳng có. Do thử khả kiến, chư dịch sai dị chi thậm” (Do đây, ta có thể sự sai biệt giữa các bản dịch rất lớn), đây là một vấn đề đáng lẽ không nên có; do đó, có thể [khẳng định] chắc chắn [năm bản dịch] chẳng phải dịch từ cùng một bản kinh gốc, và truyền đến Trung Quốc chẳng phải chỉ có một bản kinh gốc. Điều này nói rơ chẳng phải đức Phật Thích Ca Mâu Ni chỉ giảng kinh này một lần mà thôi. Thả Hán Ngô lưỡng dịch, tuy đồng viết nhập tứ nguyện, đản thực tế nội dung, tắc bất chỉ nhập tứ (Hơn nữa, hai bản Hán dịch và Ngô dịch tuy cùng nói hai mươi bốn nguyện, nhưng thật ra nội dung của chúng chẳng phải chỉ hạn cuộc trong hai mươi bốn nguyện). Quư vị đọc bản Ngô dịch, chúng ta vừa mới xem nguyện thứ hai trong phần thí dụ, trong đó có tới bốn nguyện. Trong một nguyện, thật ra bao gồm [các nguyện] “cơi nước không có người nữ”, đây là một nguyện, “hóa sanh trong hoa sen” [là nguyện thứ hai. Nguyện thứ ba là] súc sanh cũng có thể văng sanh, loài tiểu động vật như loài trùng ngọ nguậy hoặc bay lượn là súc sanh đạo. Súc sanh cũng có thể văng sanh, sanh đến thế giới Cực Lạc đều làm Bồ Tát, làm A La Hán.

      Nguyện thứ tư, “Bồ Tát, A La Hán vô lượng đẳng, tinh yếu thắng nguyện” (Bồ Tát, A La Hán v.v... là nguyện thù thắng tinh yếu), nguyện [thứ hai trong bản Ngô dịch] bao gồm bốn nguyện. Chuẩn thị khả tri, sở vị nhập tứ nguyện, thật bất chỉ nhập tứ. Cứ chư Hậu Xuất A Di Đà Kệ Kinh thệ nhị thập tứ chương chi kinh văn. Khả tri Di Đà thệ nguyện thật vi nhập tứ chương, phi cẩn nhập tứ nguyện dă” (Do đó có thể biết, tuy nói là hai mươi bốn nguyện, nhưng thật sự chẳng phải chỉ có hai mươi bốn nguyện. Cứ theo ư câu kinh “thệ nhị thập tứ chương” (thệ nguyện hai mươi bốn chương) trong kinh Hậu Xuất A Di Đà Phật Kệ, có thể biết: Thệ nguyện của A Di Đà Phật thật sự có đến hai mươi bốn chương, chứ chẳng phải chỉ có hai mươi bốn nguyện). Cách nói này rất hợp lư luận, hợp lư, chúng ta có thể tin tưởng. C̣n như hai bản Đường dịch và Ngụy dịch tuy nói là bốn mươi tám, “thực tế tắc bất túc tứ thập bát” (nhưng thật ra chẳng đủ số bốn mươi tám). Quư vị hăy quan sát kỹ, “lệ như Ngụy dịch đệ nhập cửu nguyện” (ví dụ như nguyện thứ hai mươi chín trong bản Ngụy dịch), nguyện thứ hai mươi chín nói như thế này: Thiết ngă đắc Phật, quốc trung Bồ Đề nhược thọ, độc kinh pháp, phúng, tụng, tŕ, thuyết, nhi bất đắc biện tài trí huệ giả, bất thủ Chánh Giác” (Nếu như tôi thành Phật, các Bồ Tát trong nước nếu đă nhận, đọc kinh pháp, phúng, tụng, tŕ, nói, mà chẳng đạt được biện tài trí huệ, tôi chẳng lấy ngôi Chánh Giác). Nguyện thứ ba mươi được kinh văn chép [như sau]:Thiết ngă đắc Phật, quốc trung Bồ Tát trí huệ biện tài, nhược khả hạn lượng giả, bất thủ Chánh Giác. Thật tắc thử lưỡng nguyện chỉ hữu quảng lược chi dị, đệ tam thập nguyện chỉ thị đệ nhập cửu nguyện chi bổ sung dữ dẫn thân nhi dĩ” (“Nếu như tôi thành Phật, trí huệ biện tài của Bồ Tát trong nước tôi c̣n có hạn lượng th́ chẳng lấy ngôi Chánh Giác”. Rơ ràng, hai nguyện này chỉ sai khác ở chỗ nói chi tiết hay đại lược. Nguyện thứ ba mươi chỉ bổ sung và mở rộng nguyện thứ hai mươi chín mà thôi). Nói cách khác, hai nguyện này có thể hợp lại thành một nguyện.

Đường dịch trung đệ nhập cửu dữ tam thập nguyện, diệc dữ thử đồng. Cánh hữu tiến giả, Ngụy Đường lưỡng dịch quân khuyết quốc vô nữ nhân cập liên hoa hóa sanh chi nguyện. Khả kiến Ngụy Đường lưỡng dịch chi tứ thập bát nguyện tịnh vị viên cụ chư nguyện” (Nguyện thứ hai mươi chín và ba mươi trong bản Đường dịch cũng giống vậy. Nói cách khác, hai bản Đường dịch và Ngụy dịch cùng thiếu các nguyện “liên hoa hóa sanh” và “nước không có nữ nhân”. Rơ ràng, bốn mươi tám nguyện nói trong bản Ngụy dịch và Đường dịch cũng chưa bao gồm đầy đủ tất cả các nguyện vậy). Đọc kỹ các lời nguyện này, trong ấy có sự sai khác rất lớn. C̣n hai bản Hán dịch và Ngô dịch, “tắc khuyết thập niệm tất sanh chi căn bản đại nguyện” (bị khuyết đại nguyện căn bản là nguyện “mười niệm ắt văng sanh”). Nguyện “mười nguyện ắt văng sanh” quan trọng lắm, giúp người tu Tịnh Độ chúng ta thật sự xây dựng niềm tin, khẳng định trong đời này chúng ta có phần nơi Tịnh Độ, chẳng c̣n hoài nghi nữa, trong đời này chúng ta có thể thành tựu hay không, đây là then chốt! Do đó, các vị đại đức xưa và nay đều coi trọng nguyện này, gọi nó là “đại nguyện căn bản”. Có thể thấy năm bản dịch các đời Hán, Ngô, Ngụy, Đường, Tống “quân phi Vô Lượng Thọ Kinh chi thiện bổn” (đều chưa phải là văn bản hoàn thiện của kinh Vô Lượng Thọ). V́ thế, thuở xưa muốn đọc kinh Vô Lượng Thọ, nếu quư vị không đọc hết năm bản dịch của kinh này, sẽ bị thiếu sót. Đọc hết cả năm bản dịch cũng khá khó khăn, chẳng dễ ǵ kiếm được đủ cả năm bản dịch, ngay như khi cư sĩ Vương Long Thư hội tập kinh Vô Lượng Thọ cũng chỉ đọc được bốn bản dịch, Ngài chẳng kiếm được bản Đường dịch. Người có thân phận như vậy, là một vị trưởng giả giàu to [mà cũng t́m chẳng đủ năm bản dịch]. Lúc hội tập, Ngài cũng biết có năm bản dịch, nhưng chẳng t́m được bản Đường dịch, đó là một sự đáng tiếc, v́ trong bản Đường dịch có những đoạn kinh văn mà bốn bản kia chẳng có.

“Thị dĩ hội tập chư dịch, quảng hiệt chúng trường, lánh thành hội bổn, thật bất dung hoăn dă” (Do vậy, việc hội tập các bản dịch, chọn lấy những ưu điểm của các bản để soạn riêng thành một hội bản quả thật là điều không thể chần chừ được nữa). Do đó cư sĩ Vương Long Thư là người đời Tống, là người đầu tiên hội tập kinh này. Do ông ta chẳng được đọc bản Đường dịch, tức là Vô Lượng Thọ Hội trong kinh Bảo Tích. Sau đó, trong đời Thanh trước kia, cư sĩ Ngụy Mặc Thâm hội tập lần thứ hai, ông ta xem trọn năm bản dịch, nên bản hội tập của ông vượt trội bản của Vương Long Thư. Lời văn trong bản này hay hơn bản của Vương Long Thư, nhưng lưu thông chẳng rộng, người biết đến bản này rất ít. Bản hội tập của Vương Long Thư đă nổi danh, lưu thông rộng răi, mọi người đều thấy được. Bản hội tập của Ngụy Mặc Thâm cũng có vấn đề, Ẩn Quang đại sư đă phê b́nh bản ấy. Vấn đề lớn nhất đầu tiên là “chỗ bỏ đi, chỗ thêm vào chẳng đúng”, đây là một vấn đề lớn. Chỗ đáng chọn lấy th́ ông ta chẳng chọn lấy, chỗ chẳng đáng lấy, ông lại chọn lấy không ít. C̣n có những chỗ, người xưa rất kỵ điều ấy, tức là trong đó có một số chữ bị sửa đổi. Lúc dịch kinh, chính ḿnh có thể theo ư ḿnh [chọn chữ để dùng], nhưng khi hội tập, chẳng thể [sửa chữ]! Tuyệt đối chẳng thể sửa đổi một chữ nào của người dịch. Có như vậy th́ quư vị mới được đại chúng tin tưởng, [sửa chữ] là điều tuyệt đối không được phép khi hội tập. Do đó mới có bản hội tập lần thứ ba của cư sĩ Hạ Liên Cư, lần này những lỗi lầm mắc phải trong hai lần hội tập trước đều chẳng có. Vả lại, cụ dùng một thời gian dài [hơn để hội tập], cụ Hạ bỏ ra mười năm để hội tập bộ kinh này. Ba năm hoàn thành bản thảo đầu tiên, lại trải qua mười lần sửa đổi, tổng cộng mất hết mười năm mới hoàn thành bản hoàn thiện này; do đó, bản này vô cùng quư báu!

Chúng ta xem lời giới thiệu ở đây: “Ư thị, Hạ sư hội tập chư dịch chi đại nguyện” (Cho nên, thầy Hạ với đại nguyện hội tập các bản dịch), lăo cư sĩ Hạ Liên Cư là thầy của cụ Hoàng Niệm Tổ, nên cụ Hoàng gọi cụ Hạ là “thầy Hạ”. Kư trọng cổ dịch đa kiến chi nhập tứ, hựu thải thế gian sở lưu thông chi tứ thập bát, năi dĩ nhập tứ vi chương, tứ thập bát vi mục. Kư phù thệ nhập tứ chương, hựu hợp tứ thập bát nguyện. Kinh trung bị tập chư dịch chi trường, thập niệm tất sanh, quốc vô nữ nhân, liên hoa hóa sinh chư nguyện, giai kiến ư hội bổn” (Vừa chú trọng hai mươi bốn nguyện như trong đa phần các bản cổ dịch đă dùng, lại thuận theo quan niệm phổ biến là có bốn mươi tám nguyện, bèn chia nguyện văn thành hai mươi bốn chương, gồm bốn mươi tám đề mục. Kinh văn có đủ ưu điểm của các bản dịch, các nguyện “mười niệm ắt sanh, cơi nước chẳng có người nữ, hóa sanh vào hoa sen” đều có đủ trong bản hội tập này). Kinh Vô Lượng Thọ đến đây đă viên măn, nghĩa là đến thế hệ chúng ta [bản kinh viên măn này mới được lưu thông rộng răi]. Thế hệ trước, [tuy kinh đă được hội tập] viên măn, nhưng chưa được lưu thông rộng răi, thời loạn lạc chiến tranh chẳng có cách nào lưu thông! Lúc đó, chỉ in được một lần, số lượng đại khái cũng không nhiều. Bản kinh văn này là do pháp sư Luật Hàng từ Sơn Đông có được, đem đến Đài Loan tặng cho thầy Lư. Thầy Lư đọc xong, vô cùng hoan hỷ, h́nh như lúc đó đă in ba ngàn cuốn ở Đài Trung để các đồng học trong liên xă học tập. Lăo nhân gia đă đích thân giảng bản hội tập này một lần, h́nh như đă giảng một lần ở chùa Pháp Hoa tại Đài Trung, có soạn mi chú. Lúc bấy giờ, h́nh như thầy Lư sáu mươi mấy tuổi, lúc tôi gặp thầy th́ thầy đă sáu mươi chín tuổi. [Thầy giảng kinh này] trước đó mấy năm, nên tôi chẳng được nghe. Sau này, lúc thầy giảng bản của Khang Tăng Khải th́ tôi được nghe từ đầu đến cuối. Chẳng dễ dàng, lưu thông đúng là chẳng dễ! Chướng ngại trùng trùng. Măi cho tới ngày nay, nói chung, đă vượt qua được cửa ải này. Hiện nay người phản đối [bản hội tập của cụ Hạ] chẳng nhiều, nhà nước cũng đă thừa nhận, lúc Cục Tôn Giáo in Tịnh Độ Ngũ Kinh đă dùng bản hội tập kinh Vô Lượng Thọ của lăo cư sĩ Hạ Liên Cư.

Chúng ta phải biết những chuyện đă qua th́ mới biết bộ kinh này đúng là hiếm hoi, khó gặp; đời này chúng ta có thể gặp gỡ, rất đáng vui mừng, có bao nhiêu người tu Tịnh Độ chẳng có cơ duyên gặp kinh này. Sau khi lăo cư sĩ Hạ Liên Cư hội tập xong, đă đích thân giảng xong, cụ Hoàng đích thân nghe giảng, lại c̣n có ghi bút kư. Liên Công (cụ Hạ Liên Cư) căn dặn cụ Hoàng soạn một cuốn Chú Giải cho kinh này. Cụ Hoàng vâng lời thầy soạn cuốn Chú Giải này, soạn tác phẩm Chú Giải này cũng rất gian nan, cực khổ, nhưng được Tam Bảo gia tŕ, lúc ấy, thân thể đau đớn, khổ năo v́ lắm bệnh ngần ấy nhưng vẫn hoàn thành cuốn Chú Giải này. Sau khi Chú Giải hoàn thành chẳng bao lâu, chúng tôi mới được gặp. Tôi gặp cụ Hoàng ở Mỹ, lúc gặp nhau, cụ Hoàng đem một bản Chú Giải, bản ấy được in ronéo trên giấy sáp (stencil). Chúng ta biết bản này được hoàn thành đúng là chẳng dễ dàng, v́ stencil chỉ in được tối đa một trăm bản, sau đó không thể dùng lại được nữa. Do đó, chúng tôi biết số lượng in rất ít. Tôi đọc xong vô cùng hoan hỷ, gọi điện thoại cho cụ Hoàng và hỏi cụ có giữ bản quyền hay không, v́ có bản quyền th́ chúng tôi không dám in. Nếu không có bản quyền, tôi sẽ in giúp cụ, lưu thông ở hải ngoại. Cụ nói cụ rất hoan hỷ, không giữ bản quyền, hoan nghênh in ra. V́ vậy, lần đầu tiên chúng tôi in một vạn cuốn đóng b́a cứng, cụ vô cùng hoan hỷ. Hiện nay bản này lưu thông vô cùng rộng răi, chỗ nào cũng có người in.

Chúng ta xem tiếp phần sau: “Phục diệu nhiếp các nguyện tinh yếu, dĩ thiểu văn nhi hiển đa nghĩa” (c̣n khéo chọn lấy những điểm tinh yếu của các nguyện, lời ít nhưng nghĩa nhiều), đây là do Liên Công (cụ Hạ Liên Cư) khéo léo dùng chữ trong lúc hội tập. “Lệ như Ngụy dịch đệ tạp bát nguyện: “Thiết ngă đắc Phật, quốc trung thiên nhân dục đắc y phục, tùy niệm tức chí. Như Phật sở tán ứng pháp diệu phục, tự nhiên tại thân. Hữu cầu tài, phùng, đảo, nhiễm, tẩy, trạc giả, bất thủ Chánh Giác” (Chẳng hạn như nguyện thứ ba mươi tám trong bản Ngụy dịch là: “Ví như tôi thành Phật, trời, người trong nước muốn có y phục, nghĩ đến liền có, tự nhiên trên thân khoác áo tốt đẹp đúng theo pháp như Phật đă khen ngợi. Nếu c̣n phải cắt, may, đập, nhuộm, giặt giũ, chẳng lấy ngôi Chánh Giác”). Nguyên văn bản Ngụy dịch là như vậy. Nguyện thứ hai mươi bốn ghi: “Thiết ngă đắc Phật, quốc trung Bồ Tát tại chư Phật tiền, hiện kỳ đức bổn, chư sở cầu dục cúng dường chi cụ, nhược bất như ư giả, bất thủ Chánh Giác” (Nếu tôi thành Phật, Bồ Tát trong nước tôi khi ở trước chư Phật hiển hiện cội đức của ḿnh, nếu những vật họ muốn có để cúng dường chẳng được như ư th́ tôi chẳng lấy ngôi Chánh Giác). Đây đều là những lời lẽ trong bản Ngụy dịch, quư vị xem nguyện thứ ba mươi tám và nguyện thứ hai mươi bốn. “Ngụy dịch thử lưỡng nguyện hiển y phục dữ cúng cụ chi như ư. Đản khuyết phạn thực như ư” (Cả hai nguyện trên của bản Ngụy dịch nói đến y phục và vật cúng dường như ư, nhưng chẳng nói đến cơm ăn như ư). C̣n trong bản Hán dịch có nói đến, “Hán dịch đệ nhị thập tam nguyện” (nguyện thứ hai mươi ba của bản Hán dịch), tức nguyện thứ hai mươi bốn trong bản Ngô dịch, cũng có đoạn văn như sau:Ngă tác Phật thời, ngă quốc chư Bồ Tát dục phạn thời, tắc thất bảo bát trung, sanh tự nhiên bách vị phạn thực tại tiền. Thực dĩ, bát giai tự nhiên khứ. Bất nhĩ giả, ngă bất tác Phật” (Lúc tôi thành Phật, các Bồ Tát trong nước tôi lúc muốn ăn th́ tự nhiên sanh ra cơm trăm vị trong bát bằng bảy báu hiện ra trước mặt. Ăn xong, bát tự nhiên biến mất. Nếu chẳng được như vậy, tôi chẳng làm Phật). Do đây, ta càng thấy rơ bản Ngụy dịch và bản Đường dịch thật sự chẳng đủ bốn mươi tám nguyện. “Kim thử hội bản” (nay bản hội tập này) gom ba nguyện trên thành một nguyện như sau: Ngă tác Phật thời, sanh ngă quốc giả, sở nhu ẩm thực, y phục, chủng chủng cúng cụ, tùy ư tức chí, vô bất măn nguyện. Khả kiến hội bổn, văn ước nghĩa phong, chư dịch sở cụ chi Di Đà thắng nguyện, bị hiển vô di. Thị dĩ cận thế chư hiền, công nhận thử vi thiện bổn, lương hữu dĩ dă” (“Lúc tôi thành Phật, người sanh trong nước tôi: thức ăn, y phục, các thứ vật cúng cần dùng đều tùy ư hiện đến, không chi chẳng được măn nguyện”. Có thể thấy, bản hội tập văn ngắn gọn, ư nghĩa súc tích, các nguyện thù thắng của Phật Di Đà ghi trong các bản dịch đă được nêu đủ không c̣n sót. V́ vậy, bản hội tập này được các bậc hiền đức cận đại công nhận là bản hoàn thiện nhất th́ cũng là điều rất hợp lư vậy). Mọi người đều công nhận bản hội tập này là bản hoàn thiện nhất của kinh Vô Lượng Thọ.

Mười mấy năm trước, lần đầu tiên tôi về nước (về Đại Lục), bắt đầu từ Hương Cảng, có hai mươi mấy vị đồng tu cùng đi với tôi. Đến Bắc Kinh, người đầu tiên chúng tôi tới thăm là cụ Triệu Phác Sơ, lúc đó, cũng nói đến vấn đề bản hội tập này, cụ hết sức tán thán, vô cùng hoan hỷ. Kinh Vô Lượng Thọ kể như đă có một bản hoàn thiện, đó là chúng sanh có phước, mà cũng là quốc gia có phước. Lúc tôi dạy học ở Tân Gia Ba đă soạn khoa phán tường tận cho kinh này, khoa phán cũng được in ra, tôi tặng cuốn khoa phán cho cụ. Cụ Hoàng đă tặng cho cụ Phác Sơ cuốn Chú Giải [kinh Vô Lượng Thọ], khi tôi tặng cho cụ Phác Sơ cuốn khoa phán này, cụ vô cùng hoan hỷ, nói việc này đă viên măn rồi! Quư vị thấy [chúng ta] có khoa phán, có Chú Giải, lại có bản hội tập hay ngần ấy. [Ai cũng] vô cùng hoan hỷ, vô cùng tán thán! Nhưng điều quan trọng là chúng ta phải thật sự đọc tụng, thật sự học tập, mới chẳng cô phụ đức Thế Tôn đă nhiều phen tuyên giảng [kinh Vô Lượng Thọ], chẳng cô phụ tổ sư đại đức đă dầy công khổ nhọc ba lần hội tập, lại c̣n một lần tiết giảo của cư sĩ Bành Tế Thanh.

Cụ Hoàng chịu đựng thân thể bệnh khổ để hoàn thành bản Chú Giải này, tôi đến thăm cụ tại nhà, cụ dùng một trăm chín mươi ba loại sách tham khảo, tôi đều nh́n thấy. Lúc đó, tôi vô cùng kinh ngạc, tôi hỏi: “Lăo cư sĩ làm sao có được những sách ấy?” Cụ nói: “Có rất nhiều nơi gởi tới, chính tôi cũng chẳng biết”. Cảm ứng chẳng thể nghĩ bàn, cụ cần những sách tham khảo ấy, Phật, Bồ Tát đều mang đến cho cụ. Lúc đó tôi nói với cụ: “Tôi sẽ tặng cho cụ một bộ Đại Tạng Kinh được không?” Cụ nói không được đâu, nhà cụ không có chỗ nào để chứa. Nhà cụ rất nhỏ hẹp, đại khái tổng diện tích chỉ lớn bằng pḥng thâu h́nh của chúng tôi. Căn pḥng cụ ở rất nhỏ, chỉ có một cái giường, một cái bàn, kế bên chất toàn là sách, chất thành cả một đống sách. Trong hoàn cảnh gian khổ, khó khăn như vậy, cụ hoàn thành cuốn Chú Giải này, nếu chẳng nhờ Tam Bảo gia tŕ sẽ chẳng thể làm nổi. Ngày nay, chúng ta in những cuốn sách rất đẹp đẽ như vậy để cúng dường đại chúng, quư vị phải biết chúng ta có phước lớn lắm, những người thuộc đời trước chúng ta có nằm mộng cũng chẳng nghĩ ra! Ngày nay chúng ta đều có đủ, tất cả đều bày trước mặt chúng ta, nếu chúng ta không sốt sắng nỗ lực học tập, không chỉ có lỗi với chính ḿnh, đừng nói là có lỗi với người khác, chỉ nói là có lỗi với chính ḿnh. Duyên phận này đúng như khai kinh kệ đă nói “trăm ngàn muôn kiếp khó gặp gỡ”, Bành Tế Thanh cư sĩ nói: “Đây là một ngày hy hữu khó gặp từ vô lượng kiếp đến nay”, chúng ta đă được gặp. Đă được gặp th́ phải hạ quyết tâm, đời này nhất định văng sanh Tịnh Độ, đó là thật sự báo ân Phật, báo ân tổ sư, báo ân đại đức thí chủ, báo ân quốc gia, trên đền bốn ân nặng, dưới cứu khổ tam đồ, chúng ta mới thật sự làm được! Nội dung kinh điển này thù thắng, [ngay cả] trong kinh Hoa Nghiêm cũng chẳng t́m được; do đó, quả thật là hy hữu, khó gặp.

Nhưng vấn đề là làm thế nào th́ mới thật sự có thể thành tựu trong đời này ? Tiêu chuẩn nói trong Khởi Tín Luận quá cao, tiêu chuẩn do Mă Minh Bồ Tát đă nói là tiêu chuẩn tuyệt đối, chúng ta chẳng dễ ǵ làm được. Ngài dạy chúng ta ĺa tướng văn tự. Chúng ta đọc tụng phải ĺa tướng văn tự, nghe giảng kinh phải ĺa tướng ngôn thuyết, ĺa tướng danh tự, ĺa tướng tâm duyên. Trên thực tế, Tổ Ấn Quang dạy chúng ta giống hệt như Mă Minh Bồ Tát đă dạy, nhưng ngữ khí ḥa hoăn hơn rất nhiều. Tổ Ấn Quang dạy chúng ta: “Một phần thành kính được một phần lợi ích, mười phần thành kính được mười phần lợi ích”. Như thế nào là tuyệt đối thành kính? Vẫn là như lời Mă Minh Bồ Tát đă dạy, đó là tiêu chuẩn của sự thành kính. Nay chúng ta hạ thấp tiêu chuẩn này xuống, nhất định phải dùng tâm cung kính, tâm hời hợt hấp tấp sẽ không học được ǵ! Xen tạp vọng niệm sẽ không học không được ǵ! Thật vậy, chẳng giả đâu nhé! Do đó, chúng ta hăy nhớ kỹ “nhất hướng chuyên niệm”, hăy ghi nhớ câu này, chỉ tuân theo một mục tiêu, một phương hướng, chuyên niệm A Di Đà Phật, chuyên học kinh Vô Lượng Thọ. Một bộ kinh này là đủ rồi, cả đời đừng bày thêm chuyện ǵ nữa, bày vẽ nhiều quá, người ta thường nói “tham nhiều, nhai không nát”. Chúng ta chỉ thâm nhập một môn, huân tu lâu dài, chắc chắn sẽ có thành tựu. Đời này tôi chẳng làm chuyện ǵ khác, chỉ một bộ kinh Vô Lượng Thọ, chỉ một câu A Di Đà Phật, một ḷng một dạ cầu sanh Tịnh Độ, đến thế giới Cực Lạc thân cận A Di Đà Phật, như vậy th́ mới được.

Hiện nay, học cái ǵ cũng khó, khó ở chỗ nào? Xă hội hiện nay chẳng tôn trọng người xưa, coi thường người xưa, coi thường tôn giáo, cho rằng tôn giáo đều là mê tín! Nếu quư vị có quan niệm ấy th́ cái ǵ cũng chẳng đạt được. Do đó, có thể biết cội rễ của pháp thế gian và xuất thế gian ở đâu? Cội rễ thật sự là hiếu thảo cha mẹ, tôn trọng thầy, tức là hai câu đầu tiên trong Tịnh Nghiệp Tam Phước “hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng”. Nếu quư vị không dồn công sức nơi đấy, quư vị cầu học sẽ cầu chẳng được, chắc chắn sẽ không đạt được vật báu của thánh hiền. Quư có thể học một vài kỹ thuật thế gian, c̣n những ǵ thánh hiền để lại quư vị sẽ không thể hưởng! Vật báu của thánh hiền được xây dựng trên cơ sở hiếu đạo và sư đạo. Chẳng thể không hiếu dưỡng cha mẹ, chẳng thể không tôn kính sư trưởng. Hiếu thảo cha mẹ, tôn kính sư trưởng tức là tôn kính Tánh Đức của chính quư vị, [hiếu thảo và tôn kính] là đại biểu của Tánh Đức. Cổ nhân Trung Quốc đời xưa coi trọng điều này nhất, chẳng có ǵ quan trọng hơn, chúng ta chớ nên không biết điều này. Do bài giảng kế tiếp sẽ nói về nguyên văn lời báo cáo của tỳ-kheo Pháp Tạng, nếu tâm trạng và thái độ học tập của chúng ta không đủ, th́ nghe xong cũng như gió thoảng qua tai, chẳng thâu thập được ǵ. Do đó, phải có đầy đủ điều kiện cơ bản của một người học tṛ, phải hiếu thảo cha mẹ, tôn kính thầy, thật sự biết “trọng đạo”, th́ học bộ kinh này cũng như có được vật quư báu nhất. Vật quan trọng nhất của ḿnh trên thế gian này là ǵ? Chính là bộ kinh này! Coi kinh này như mạng căn của ḿnh, một ngày cũng không thể buông bỏ th́ chúng ta sẽ thành công. A! Hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng ta học tới đây thôi.

 

Tập 194

 

Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang thứ hai trăm hai mươi chín, hàng thứ ba:

 

Pháp Tạng bạch ngôn: - Duy nguyện Thế Tôn, đại từ thính sát.

言:唯 尊,大

(Pháp Tạng bạch rằng: - Kính xin đức Thế Tôn đại từ nghe, xét)

 

Trong Chú Giải, cụ Hoàng ghi: “Thính giả, nhĩ văn dă. Sát giả, tâm trung thẩm tư dă” (Thính là tai nghe, sát là trong tâm suy xét), như vậy cũng dễ hiểu. Hội Sớ viết: Như Lai thính kỳ thuyết minh, chiếu sát đơn thành, cố vân thính sát. Cố kinh nghĩa vi: Pháp Tạng Bồ Tát thỉnh cầu Thế Tôn, thùy từ ư ngă, thính ngă sở thuyết, giám ngă thành tâm. Dĩ hạ, Pháp Tạng trần thuyết sở phát đại nguyện” (Sách Hội Sớ giảng: “Như Lai nghe ông ta tŕnh bày, soi xét tấm ḷng son, nên bảo là thính sát (nghe, xét)”. Như vậy, câu kinh trên đây có nghĩa là: Pháp Tạng Bồ Tát thỉnh cầu đức Thế Tôn rủ ḷng Từ thương xót ḿnh, nghe lời ḿnh thưa, soi xét tấm ḷng thành của ḿnh. Tiếp theo đó, Pháp Tạng tŕnh bày những đại nguyện chính ḿnh đă phát). Ba câu này là lời đức Thế Gian Tự Tại Vương Phật yêu cầu Pháp Tạng hăy báo cáo tường tận với đại chúng về thế giới Cực Lạc do Ngài vừa mới kiến lập. Ba câu này nhằm trần thuật lời ngài Pháp Tạng vô cùng cung kính thỉnh Phật và đại chúng nghe Ngài báo cáo. Chúng ta xem đoạn kinh tiếp theo:

 

Ngă nhược chứng đắc Vô Thượng Bồ Đề, thành Chánh Giác dĩ, sở cư Phật sát, cụ túc vô lượng bất khả tư nghị công đức trang nghiêm.

     提,成 已,所 剎,具 嚴。

(Nếu tôi chứng được Vô Thượng Bồ Đề, thành Chánh Giác rồi th́ cơi nước tôi ở sẽ đầy đủ vô lượng công đức trang nghiêm chẳng thể nghĩ bàn).

 

Đoạn này là nói chung, cũng là tổng cương lănh của bài báo cáo của tỳ-kheo Pháp Tạng. Kế tiếp là lời tường thuật chi tiết, nêu ra cụ thể những thứ công đức trang nghiêm chẳng thể nghĩ bàn nào? Phần sau gồm có hai mươi bốn chương, tức là bốn mươi tám nguyện.

 

Vô hữu địa ngục, ngạ quỷ, cầm thú, quyên phi nhuyễn động chi loại.

獄、餓 鬼、禽 獸、蜎 類。

(Không có địa ngục, ngạ quỷ, cầm thú, các loài ngọ nguậy, bay lượn, ḅ trườn).

 

Đây là nói thế giới [Cực Lạc] chẳng có tam ác đạo, tuy có lục đạo, nhưng không có ba đường ấy.

 

Sở hữu nhất thiết chúng sanh, dĩ cập Diễm Ma La giới, tam ác đạo trung, lai sanh ngă sát, thọ ngă pháp hóa, tất thành A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề, bất phục cánh đọa ác thú. Đắc thị nguyện, năi tác Phật. Bất đắc thị nguyện, bất thủ vô thượng Chánh Giác.

生,以 界,三 中,來 剎,受 化,悉 提,不 趣。得 願,乃 佛,不 願,不 覺。

(Tất cả hết thảy chúng sanh cho đến những kẻ từ trong cơi Diễm Ma La, trong ba đường ác sanh sang cơi tôi, nhận pháp hóa của tôi, ắt thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, chẳng đọa vào đường ác nữa. Nguyện được như thế mới làm Phật. Chẳng thỏa nguyện ấy, chẳng giữ lấy vô thượng Chánh Giác).

 

Đoạn này là nguyện thứ hai “chẳng đọa ác thú”. Nguyện thứ nhất là “nước không có ác đạo”, nguyện thứ hai là “chẳng đọa ác thú”. Người từ đâu văng sanh sẽ không đọa? [Chúng sanh từ các đường] ngạ quỷ, địa ngục sanh đến Tây Phương Cực Lạc thế giới sẽ vĩnh viễn không đọa ba đường ác nữa. Chúng ta xem kinh văn, hai nguyện này được đặt ở đầu, chúng ta có thể tưởng tượng được, trong năm kiếp, tỳ-kheo Pháp Tạng đă tham quan, khảo sát, tu học, đi qua trọn khắp mười phương ba đời hết thảy cơi nước chư Phật, nhất định là đă thấy rất nhiều thế giới, cơi nước chư Phật đều có lục đạo luân hồi, đều có tam ác đạo. Lục đạo luân hồi chẳng giả; nếu là giả th́ trong hoằng nguyện của Pháp Tạng Bồ Tát chắc chắn sẽ không có nguyện này. Vả lại, Ngài c̣n để nguyện này trước nhất, nhằm khiến cho chúng ta cảnh giác cao độ. Tôi tin tưởng ai có một chút thông minh, có một chút thiện căn, vừa đọc đến nguyện này, sẽ lập tức biết cơi Cực Lạc vô cùng thù thắng. Thù thắng ở chỗ nào? Chính là thù thắng ở chỗ này. V́ sao có ác đạo? Trong giáo pháp Đại Thừa, đức Phật đă nói rất nhiều, chúng ta cũng đă đọc rất nhiều, bây giờ chúng ta hăy đọc lời chú giải của cụ Hoàng.

“Thủ tứ cú” (bốn câu đầu) nói về tổng cương lănh, chúng ta vừa đọc “tổng bao toàn bộ đại nguyện” (bao gồm toàn bộ đại nguyện). “Nguyện ngă thành Phật thời, sở cư chi Phật sát, cụ túc vô lượng (vô pháp dĩ số lượng biểu thị) thắng diệu công đức, cụ túc vô lượng thanh tịnh trang nghiêm” (Nguyện lúc tôi thành Phật, cơi nước tôi ở có đầy đủ vô lượng (không thể dùng số lượng nào để biểu thị nổi) công đức thắng diệu, đầy đủ vô lượng thanh tịnh trang nghiêm). Đây là nói chung. Hiện nay, nguyện của Ngài đă tṛn, đă được thực hiện hoàn toàn, chẳng phải là nói chơi. Ngài đă thực hiện hoàn toàn, đă làm xong hết, xây dựng thế giới Cực Lạc xong rồi mới báo cáo. Lúc trước, tôi thường nói, đó là thánh nhân, chẳng phải là phàm phu, làm xong rồi mới nói, người ta chẳng thể không tin. Nói được th́ chắc chắn là phải làm được, đó là hiền nhân. Nói được mà làm không được th́ là “phiến nhân” (gạt người). Tỳ-kheo Pháp Tạng đă làm được, Ngài tốn hết bao nhiêu thời gian? Trong phần trước có nói là năm kiếp, thời gian dài như vậy. Thọ mạng của Phật dài vô lượng, chúng ta nghĩ năm kiếp là thời gian rất dài, nhưng đối với các Ngài, năm kiếp chẳng dài lắm, giống như người trong thế gian chúng ta tốn thời gian năm năm để xây dựng. Xây dựng một thế giới như thế nào? Đầy đủ vô lượng công đức thù thắng nhiệm mầu, đầy đủ vô lượng thanh tịnh trang nghiêm, tốt đẹp đến cùng cực, một hoàn cảnh tu học như vậy đă xuất hiện. Trong phần trước có nói tới đạo tràng ấy được thành tựu do tập hợp hoàn toàn tất cả những điều tốt đẹp của mười phương cơi nước chư Phật Như Lai. Những ǵ quư vị nh́n thấy ở cơi Cực Lạc đều là những sự tốt đẹp, công đức thù thắng, thanh tịnh trang nghiêm của hết thảy cơi nước chư Phật, nay đă tập trung vào một chỗ, nên thế giới đó siêu thắng hết thảy cơi nước chư Phật. Thế giới Cực Lạc được xây dựng hoàn thành như vậy.

Phần kế tiếp giải thích “cụ túc” (đầy đủ) nghĩa là ǵ? Nghĩa là “viên măn”, “châu biến hàm nhiếp, vô khiếm, vô dư, cố vân cụ túc” (chứa đựng trọn vẹn, không khuyết, không sót, nên bảo là “cụ túc”), cũng như chúng ta nói là viên măn, mảy may khiếm khuyết cũng không có, A Di Đà Phật đă xây dựng thành công. “Sở cụ công đức dữ trang nghiêm, giai bất khả tư nghị” (Những công đức trang nghiêm đầy đủ ấy đều chẳng thể nghĩ bàn), chẳng thể dùng tâm tư để suy tưởng, quư vị không thể nào nghĩ ra, cũng chẳng thể dùng ngôn ngữ để bàn luận, chẳng thể nghĩ, chẳng thể bàn! “Siêu t́nh ly kiến”, trong Đại Thừa Phật pháp, chữ “t́nh” này dùng để chỉ thức thứ sáu và thức thứ bảy, “kiến” là năm thức trước. Trong Phật pháp, cái tâm do phàm phu, tức chúng sanh trong lục đạo, sử dụng được gọi là “thức thứ tám”. [Các thức nơi] mắt, tai, mũi, lưỡi, và thân là năm thức trước, chúng có tri giác. Ngoài ra, thức thứ sáu có thể tư duy, chúng ta thường gọi [sự tư duy ấy] là phân biệt; thức thứ bảy là Mạt Na Thức, tức “t́nh chấp”, chấp trước thân này là Ta, chấp trước tham, sân, si, mạn. Kế đó là thức thứ tám, tức A Lại Da Thức, thức này giống như một kho chứa dữ liệu vậy. Từ vô thỉ kiếp tới nay, nhiều đời nhiều kiếp khởi tâm động niệm, hành vi tạo tác của quư vị đều được lưu trữ đầy đủ trong A Lại Da Thức. A Lại Da là một kho chứa dữ liệu, những dữ liệu ấy có thể lấy ra để coi, chẳng có cách nào chối căi [chúng chẳng hiện hữu], những dữ liệu ấy được bảo tồn trong ấy. Ai bảo tồn nó? Chính quư vị bảo tồn nó. Ai có thể coi những dữ kiện ấy? Quư vị thấy, trong phần trước đă nói, người có thần thông, có Tha Tâm Thông, Túc Mạng Thông sẽ có thể xem những dữ kiện chất chứa trong cái kho dữ liệu đó. Người có công phu định lực cạn cợt có thể nh́n thấy một phần [ở tầng trên], c̣n một phần ẩn sâu hơn ở tầng dưới họ sẽ không thấy. Người có công phu định lực sâu, những vị Bồ Tát đă minh tâm kiến tánh hầu như có thể thấy hoàn toàn, chẳng phải giả! Nếu quư vị có thể tin, có thể khẳng định, sẽ giống như chư Phật, Bồ Tát, không chỉ chẳng làm chuyện tổn hại chúng sanh, mà ngay cả một tâm niệm ác cũng không dám dấy lên. V́ sao? V́ chúng sẽ được lưu lại, hết thảy hữu t́nh chúng sanh trong trọn khắp pháp giới hư không giới đều biết, quư vị không thể che giấu ai! Quư vị chỉ có thể gạt chính ḿnh, đó gọi là “lừa ḿnh, dối người”, làm chuyện như vậy đó! Ngày nào đó quư vị giác ngộ, sẽ hiểu rơ hoàn toàn.

V́ vậy, khi hiểu rơ những chân tướng sự thật này, thái độ và tâm trạng khi chúng ta xử thế, đối đăi người khác trong hiện tại tự nhiên sẽ sửa đổi. Thứ nhất là tuyệt đối sẽ không thể có ác niệm, không thể có hành vi bất thiện. Thứ nh́ là có thể tha thứ hết thảy chúng sanh đang tạo tội nghiệp. V́ sao có thể tha thứ? Họ tạo tội, ta chẳng khác ǵ họ! Thật vậy, chẳng giả, chỉ là hiện nay họ c̣n đang mê, ta đă bắt đầu giác ngộ; do vậy, cảm thấy rất may mắn. Việc ác có sai quấy đến mấy đi nữa cũng không thể trách họ, tại sao vậy? Nhân quả mỗi người phải tự gánh chịu. Tiếp đó, kinh văn nói về ác đạo, tức ba đường ác, sẽ nói rất rơ ràng về hai nguyện không đọa ác đạo. Cho nên, ta hăy suy nghĩ bản tánh của người tạo tội nghiệp vốn thiện, họ cũng vốn là Phật, Bồ Tát, như kinh Hoa Nghiêm đă nói “hết thảy chúng sanh vốn là Phật”, họ xoay chuyển trong ba đường ác, hứng chịu các loại khổ báo, chúng ta phải dấy ḷng thương xót, đồng t́nh với họ, chứ không thể mang ḷng trách mắng. Có thể giúp được ǵ hay không? Giúp không được. Tại sao? Nhân quả của ai th́ người đó phải chịu, chẳng ai có thể thay thế!

Chúng ta tạo ra những nghiệp nặng ấy, có cách nào cứu chữa hay không? Câu trả lời chắc chắn là có, chỉ cần quư vị quay đầu lại th́ sẽ được cứu, quay đầu là bến bờ. Việc đầu tiên khi bước vào cửa Phật là thọ Tam Quy Y . Tam Quy Y nghĩa là ǵ? Tam Quy Y là quay đầu, thật sự giác ngộ. Quy y Phật, Phật có nghĩa là giác, lúc trước tôi mê hoặc, điên đảo, nay tôi muốn quay đầu trở lại, điều đó nghĩa là quy, tức trở về. “Y” nghĩa là nương tựa, nương tựa tự tánh giác, tức là nương tựa Phật, Bồ Tát. Phật, Bồ Tát là tự tánh giác, các Ngài là những người đă giác ngộ, nay tôi muốn giác nhưng chưa thật sự giác ngộ, hy vọng các Ngài đến dạy tôi, có nghĩa là như vậy. Phật, Bồ Tát dùng những điều ǵ để dạy chúng ta? Trước hết là dùng kinh điển, quư vị nhập môn bằng kinh điển. Sau khi căn bản kinh điển đă được vun bồi, sáu căn của quư vị tiếp xúc cảnh giới sáu trần toàn là tự tánh giác, vậy là quư vị đă công phu đắc lực; nghĩa là quư vị đă hoàn toàn vận dụng những lư luận, đạo lư, trí huệ, phương pháp đă dạy trong kinh vào đời sống, vào công việc, vào sự đăi người tiếp vật, chẳng có việc ǵ quư vị không giác ngộ, quư vị sẽ giống hệt Phật, Bồ Tát, không khác ǵ hết, chẳng c̣n mê hoặc, điên đảo nữa, chẳng c̣n có ác niệm nữa, chẳng c̣n có hành vi bất thiện nữa, quư vị đă thật sự giác ngộ! Đây là điều thứ nhất trong Tam Quy Y.

Thứ nh́ là quy y Pháp. Pháp nghĩa là chánh tri chánh kiến. Hiện thời chúng ta nh́n sai sự việc, suy nghĩ sai lầm khi suy tưởng các vấn đề, nay chúng ta hăy xoay những sai lầm ấy lại, từ cách nh́n sai lầm, cách nghĩ sai lầm, quay lại nương vào cách biết, cách nh́n đúng đắn (chánh tri chánh kiến). Chánh tri chánh kiến chính là kinh điển; do vậy, kinh điển được gọi là Pháp Bảo, chúng ta phải tôn trọng, phải kính lễ, chớ nên khinh mạn kinh điển. V́ sao? Đó là trí huệ chân thật lưu lộ từ tự tánh của chính ḿnh. Nếu quư vị khinh thường kinh điển, tức là khinh thường Tánh Đức, đạo lư là như vậy. V́ thế, các tổ sư đại đức mới đề xướng, mới dạy chúng ta, “một phần cung kính được một phần lợi ích, mười phần cung kính được mười phần lợi ích”. Bất luận tự ḿnh đọc tụng, hay nghe giảng, quư vị được bao nhiêu lợi ích chẳng liên quan ǵ tới kinh điển, cũng chẳng liên quan ǵ tới người giảng kinh, chỉ có liên quan tới tâm chân thành của quư vị. Quư vị có bao nhiêu phần chân thành th́ quư vị được bấy nhiêu phần lợi ích, chỉ liên quan tới tâm chân thành. Do đó có thể biết, chúng ta học Phật đạt đến cảnh giới nào, đạt tới mức độ nào, chẳng liên quan ǵ tới người khác, cũng chẳng liên quan ǵ với Phật, Bồ Tát, tất cả đều dựa trên tâm chân thành của ḿnh, quư vị có mấy phần chân thành? Cũng chẳng do thời gian dài hay ngắn; người này đă học ba năm, năm năm, c̣n tôi mới học vài ngày, chẳng sao cả! Người học vài ngày có thể vượt trội người đă học ba năm, năm năm. Quư vị chỉ có bốn năm ngày chân thành bèn có thể vượt hơn người học ba chục, năm chục năm, nhưng không chân thành. Do đó, thời gian không quan trọng, quan trọng ở chỗ chân thành, quan trọng ở chỗ quư vị có thật sự chịu quay lại hay không. Nếu thật sự quay lại th́ như đức Phật vừa mới nói, quư vị đă thật sự quay đầu, quan trọng ở chỗ này. Đó gọi là quy y Pháp, từ tà tri tà kiến quay trở lại nương tựa chánh tri chánh kiến.

Thứ ba là quy y Tăng. Tăng là người truyền pháp; chúng ta gặp Phật pháp nhưng xem không hiểu, phải thỉnh những người tu hành giải thích cho chúng ta nghe, chỉ điểm chúng ta. Họ có kinh nghiệm tu học, họ chia sẻ những kinh nghiệm ấy với chúng ta, khiến cho chúng ta nghe xong liền hiểu, do đó, gọi là Tăng Bảo. Chúng ta thật sự quay lại, từ hết thảy ô nhiễm quay lại nương tựa tâm thanh tịnh, như vậy th́ mới được lợi ích. Tổ sư đại đức từ xưa đă tỷ dụ Phật pháp là đề-hồ. Đề-hồ là thức uống ngon nhất của Cổ Ấn Độ. Chúng ta muốn xin người ta một chén đề-hồ, cầm lấy cái chén, nhưng trong chén ấy có thuốc độc, khi rót đề-hồ vào chén th́ đề-hồ cũng biến thành thuốc độc, [điều này ví như] tâm chúng ta dơ bẩn! Nhận đề-hồ như thế nào? Trước hết phải rửa sạch cái chén ấy, sau đó, mới xin người ta rót đề-hồ vào chén, như vậy th́ quư vị mới thật sự dùng được. Thí dụ này rất có ư nghĩa, cũng rất dễ hiểu. Thuốc độc của chúng ta là ǵ? Tham, sân, si, mạn, nghi là năm thứ thuốc độc! Trong tâm quư vị có năm thứ này, Phật, Bồ Tát tặng cho quư vị Vô Thượng Bồ Đề, cũng giống như trong đề-hồ có lẫn một giọt thuốc độc, cả chén đề-hồ biến thành thuốc độc. Mảy may chất độc ǵ cũng không thể xen lẫn vào đó th́ mới thật sự đạt được diệu pháp vô thượng. Bài kệ khai kinh vừa mở đầu liền nói “vô thượng thậm thâm vi diệu pháp”. Thái độ căn bản để học tập là tâm thanh tịnh. Tâm chúng ta thường không thanh tịnh, lúc học tập, chúng ta hăy buông xuống cái tâm chẳng thanh tịnh ấy, phải dùng tâm thanh tịnh để nghe, tuy thời gian rất ngắn, thời gian sử dụng cái tâm thanh tịnh chỉ là một giờ hay nửa giờ, quư vị sẽ được lợi ích một giờ hay nửa giờ. Tâm không thanh tịnh, chắc chắn chẳng đạt được lợi ích! Nghe giảng kinh như vậy chẳng phải là đă uổng phí hay sao? Chẳng uổng phí. Như vậy nghĩa là sao? Dù thế nào đi nữa, đă gieo một hạt giống trong A Lại Da Thức, thật vậy, chẳng giả! Nhưng người ấy hiện thời chẳng thể lư giải, chẳng hiểu, nên chẳng thể thọ dụng. Đến lúc nào mới được thọ dụng? Đến lúc nào khôi phục tâm thanh tịnh, lúc đó sẽ được thọ dụng. Như vậy mới gọi là Tam Quy Y thật sự. Do đó, Tam Quy Y chẳng phải là dễ dàng!

Nay chúng ta là người mới bắt đầu học, mới thọ Tam Quy Y, xin thưa với quư vị, đó gọi là Danh Tự Quy Y, hữu danh vô thực, tức là chỉ có h́nh thức, chẳng có thực chất. Đồng thời, lúc chúng ta thọ Tam Quy Y, người thầy truyền Tam Quy Y cũng chẳng nói rơ ràng, [phần nhiều] là như vậy. Quy y xong, rốt cuộc là quy y cái ǵ? Không biết, [cứ khoe] tôi đă quy y Tam Bảo rồi. Tam Bảo nghĩa là ǵ? Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng là ǵ? Không biết. Kinh dạy quư vị thật sự tiếp nhận Tam Quy sẽ được ba mươi sáu vị thần hộ pháp ngày đêm bảo vệ, hộ tŕ, sẽ không gặp tai nạn v́ có thần hộ pháp che chở quư vị. Nhưng nếu không phải là quy y thật sự, thần hộ pháp sẽ không đến; quy y thật sự mới được; thật sự tŕ giới mới có thần hộ giới. Chẳng phải là thọ giới xong bèn có thần hộ giới, thọ Tam Quy liền có thần hộ pháp, chẳng có lẽ ấy! Chúng ta phải hiểu rơ ràng, minh bạch những việc này; đó là sự thật, tuyệt đối không phải là mê tín. Do đó mới nói “bất khả tư nghị, siêu t́nh ly kiến”.

“Phi tư lượng phân biệt chi sở năng tri” (Chẳng phải do suy nghĩ phân biệt mà có thể biết được), “tư” () là thức thứ bảy, phân biệt là thức thứ sáu, nghĩa là tuyệt đối không phải do thức thứ sáu và thức thứ bảy mà có thể duyên được [cảnh giới này]. “Phi ngữ ngôn văn tự chi sở năng biểu (chẳng phải do ngôn ngữ văn tự mà có thể diễn tả), văn tự là phù hiệu của ngôn ngữ. Trong Khởi Tín Luận, Mă Minh Bồ Tát dạy chúng ta phương pháp nghe giảng kinh, thứ nhất là không chấp trước tướng ngôn thuyết. Cần nên biết: Khi chúng ta đọc kinh, đừng chấp trước tướng văn tự, tại sao vậy? Ngôn ngữ và văn tự là công cụ, có thể nói toạc chân tướng hay không? Thưa quư vị, chẳng thể nói được, đấy gọi là chẳng thể nghĩ bàn, thật đấy! Nhưng tách ĺa ngôn ngữ văn tự sẽ không có cách ǵ khác, chắc chắn quư vị t́m không ra, cho nên phải dùng ngôn ngữ văn tự để làm phương tiện dẫn dắt quư vị. Ví như đi bộ, quư vị không biết đường, người ta đặt bảng chỉ dẫn ở ven đường để quư vị biết hăy theo phương hướng nào, đi theo con đường nào; nhưng quư vị đừng chấp trước, nh́n thấy bảng chỉ đường ghi hướng này đến Bắc Kinh, vừa nh́n liền biết Bắc Kinh ở phía đó, liền cho rằng quư vị đă đến Bắc Kinh rồi, vậy là sai lầm, sai lầm quá đỗi! Ngôn ngữ, văn tự giống như bảng chỉ đường, quư vị cứ đi theo [lời chỉ dẫn ấy], nhưng phải buông bỏ, đừng chấp trước nó. Nhắm theo phương hướng ghi trên bảng chỉ đường rồi cứ đi theo phương hướng ấy, chắc chắn sẽ đi đến đích, mục đích chính là minh tâm kiến tánh, tức là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Đoạn này nhằm giải thích câu “bất khả tư nghị” [trong lời chú giải].

Câu kế tiếp là: “Hoa Nghiêm Kinh độc minh Sự Sự vô ngại chi bất khả tư nghị cảnh giới” (chỉ ḿnh kinh Hoa Nghiêm nói đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn: Sự Sự vô ngại). Hoa Nghiêm là một bộ kinh vô cùng trọng yếu trong Phật giáo Đại Thừa. Con người thời đại chúng ta rất đáng thương, rất khổ! Sống trong thời đại động loạn hiện nay, lịch sử toàn thế giới chưa từng hỗn loạn như ngày nay. Chúng sanh thiếu phước, tôi cũng thiếu phước báo, mấy chục năm qua cứ nghĩ sẽ có một nơi có thể ổn định để có thể cùng với những đồng học hữu duyên học tập những kinh điển Đại Thừa này, có thể giảng một phen cho hoàn chỉnh. Thuở trước, lúc Thích Ca Mâu Ni tại thế, giảng kinh mỗi ngày; tôi hiểu Ngài không chỉ giảng tám giờ mà thôi. Đời Đường, Thanh Lương quốc sư lăo nhân gia trụ ở Ngũ Đài Sơn, giảng kinh Hoa Nghiêm mỗi ngày, tôi đoán ít nhất mỗi ngày cũng giảng tám giờ. Lăo nhân gia giảng suốt năm mươi năm, giảng tới năm chục lần, có được bao nhiêu người khai ngộ. Ngày nay, chúng ta không có phước báo như vậy, tới đâu cũng có chướng duyên. Cá nhân tôi kể ra cũng khá may mắn, tôi không bị trở ngại, mỗi ngày tôi đọc kinh không gián đoạn, nhưng chẳng có cơ hội chia sẻ cùng đại chúng, nói tới chướng ngại th́ chỉ có một điều này mà thôi. Đây là cơ duyên của chúng sanh hữu duyên nghe pháp bị chướng ngại, nghe pháp bị chướng ngại, chẳng chướng ngại tôi, tôi chẳng đọa lạc, chẳng đi vào tà đạo. Do đó có thể biết: Một người thật sự phát tâm tinh tấn không giải đăi, có người nào có thể chướng ngại người đó hay không? Không có, không thể nào! Có thể chướng ngại điều ǵ? Nếu quư vị có tiếng tăm, lợi dưỡng, nó sẽ chướng ngại quư vị, [tức là] chướng ngại tiếng tăm, lợi dưỡng của quư vị. Người tu hành [chân chánh] không cần những thứ ấy, người tu lấy nó để làm ǵ? Cho nên nó không thể nào chướng ngại quư vị. Những thứ phá hoại, chướng ngại quư vị, làm cho người ta mất ḷng tin, chẳng chịu học theo quư vị, những thứ ấy có liên can ǵ với chúng ta hay không? Không liên can, chẳng chướng ngại chúng ta ǵ cả. Những thứ ấy gây chướng ngại chúng sanh, đoạn dứt duyên “nghe pháp, nghe kinh” của chúng sanh; trong tương lai dựa theo giới luật để luận tội, để kết tội họ, chẳng kết tội ta, chẳng liên can ǵ tới ta. Sau khi quư vị hiểu rơ chân tướng sự thật, sẽ hoảng nhiên đại ngộ, sẽ hiểu rơ, quư vị khởi tâm động niệm, hành động, đă tạo tác những ǵ? Trong tương lai sẽ tiếp nhận quả báo ǵ? Quư vị bèn hiểu rơ ràng rành mạch.

Trong đời này, tôi đă giảng kinh Hoa Nghiêm hai lần, đều chưa giảng xong. Lần thứ nhất là khoảng ba mươi mấy năm về trước, nhưng giảng không được liên tục v́ thường phải ra nước ngoài; mỗi năm chỉ giảng được ba, bốn tháng, gần như là như vậy, mỗi năm chỉ giảng được ba, bốn tháng, kéo dài mười mấy năm mới giảng được phân nửa. Lúc đó, chúng tôi chẳng có những thiết bị khoa học kỹ thuật này, ngay cả máy thâu âm cũng không có. Lần thứ nh́, năm 1999 hay 1998? H́nh như là 1999, chúng tôi di dân sang Tân Gia Ba, cư sĩ Lư Mộc Nguyên thỉnh tôi giảng lại kinh ấy, giảng măi cho đến bây giờ. Đă giảng hết hơn bốn ngàn giờ, chưa tới năm ngàn giờ, giảng tới phẩm Thập Trụ, chỉ được một phần năm bộ kinh mà đă bốn ngàn giờ rồi! Nếu giảng hết bộ kinh, cứ tính là bốn ngàn giờ, bốn nhân bốn là mười sáu ngàn giờ, tôi tính sơ sơ phải dùng hai chục ngàn giờ để giảng viên măn bộ kinh ấy. Do đó, thiếu hoàn cảnh sẽ không được, phải có hoàn cảnh trụ ở một nơi, không đi đâu nữa, hiện nay, với tinh thần và thể lực của tôi mỗi ngày giảng bốn giờ đồng hồ không thành vấn đề, không cảm thấy mệt mỏi. Quư vị nghĩ coi, mỗi ngày bốn giờ, mười ngày bốn chục giờ, một trăm ngày bốn trăm giờ, một năm tính ba trăm sáu mươi ngày, tôi tin khoảng mười năm sẽ có thể giảng trọn bộ kinh Hoa Nghiêm. Tôi giảng rất kỹ, giảng kỹ như kinh [Vô Lượng Thọ] này. Nếu thật sự có duyên phận như vậy, trụ tại địa phương này hai mươi năm, ba mươi năm đừng đi đâu hết, sẽ thành công viên măn. Cho nên việc này tùy thuộc chúng ta có phước báo hay không? Nếu thiếu phước báo, sẽ chẳng có cách nào hết! Đây là phước báo rất lớn, chẳng phải là phước báo nhỏ nhoi, có thể nói là phước báo hy hữu từ xưa tới nay. Chỉ riêng kinh Hoa Nghiêm nói rơ, các kinh điển khác không có, chỉ có kinh Hoa Nghiêm nói tới cảnh giới Sự Sự vô ngại chẳng thể nghĩ bàn.

“Tường chi tắc vi thập huyền diệu môn, tiền ư Phán Giáo nhất tiết trung tằng thiển thuật chi” (Nói đầy đủ là mười huyền diệu môn như trong phần Phán Giáo ở phần trước đă tŕnh bày sơ lược). Đối với đoạn này, trong phần Khái Yếu ở phía trước, cũng đă báo cáo tường tận “mười huyền môn”. “Kim kinh” (trong kinh này), nay chúng ta xem kinh này, “A Di Đà Phật tức thị Tỳ Lô Giá Na Như Lai” (A Di Đà Phật chính là Tỳ Lô Giá Na Như Lai), A Di Đà Phật là Báo Thân Phật, Tỳ Lô Giá Na là Pháp Thân Phật, Pháp Thân là Thể, Báo Thân là Tướng, Ứng Hóa Thân là tác dụng (Dụng). Kinh Hoa Nghiêm nói về Thể, Tướng, Dụng, dùng ba chữ “Đại Phương Quảng” để biểu thị. Đại là Pháp Thân, Phương là Báo Thân, Quảng là Ứng Hóa Thân; Quảng là tác dụng, tức tác dụng rộng lớn. Một tức là ba, ba tức là một, ba thân Phật này là ai? Xin thưa với quư vị, đó là ba thân Phật trong tự tánh của chính ḿnh. A Di Đà Phật là ai? Là Báo Thân của chính ḿnh, Tỳ Lô Giá Na là Pháp Thân của chính ḿnh. Do đó, hết thảy chư Phật, Bồ Tát là Ứng Hóa Thân của chính ḿnh, Tự và Tha là một, chẳng phải hai, đó gọi là Sự Sự vô ngại. Học Phật thường nói đến “chứng quả”, chứng quả ǵ? Mục tiêu chung cực là “chứng được ba thân chính là một thân của chính ḿnh”, đó gọi là “chứng đắc”. Pháp Thân Tỳ Lô Giá Na (Vairocana), danh hiệu này là tiếng Ấn Độ, dịch nghĩa là Biến Nhất Thiết Xứ (trọn khắp mọi nơi); nói cách khác, Pháp Thân chẳng có giờ phút nào không tồn tại, chẳng có nơi nào không tồn tại, Pháp Thân chẳng có h́nh tướng. Dùng cách nói hiện thời, Pháp Thân chẳng phải là vật chất, mà cũng chẳng phải là tinh thần, Pháp Thân là bản thể của vật chất và tinh thần, gọi theo danh từ Triết Học là Bản Thể. Vật chất từ đâu tới? Tinh thần từ đâu tới? Là từ Pháp Thân biến hiện ra, nhưng bản thân của nó chẳng phải là vật chất, chẳng phải là tinh thần. Trong Phật pháp, Pháp Thân có rất nhiều danh xưng. Trong kinh Phật, nó có tối thiểu hơn năm mươi danh xưng. Tại sao đức Phật dùng nhiều danh xưng như vậy để diễn tả cùng một chuyện? Nhằm dạy chúng ta đừng chấp trước danh tướng, danh tướng là giả, quư vị chỉ hiểu ư nghĩa của nó là được rồi, hễ chấp trước bèn trật, chấp tướng mà! Đây là Phật, Bồ Tát khéo léo dạy chúng ta đừng chấp trước danh tướng, phải hiểu rơ thực chất th́ quư vị mới có thể ngộ nhập.

[Nói tới] A Di Đà Phật là đă có tướng rồi, Ngài thật sự có thân thể, giống như chúng ta hiện nay vậy, thân thể ấy do đâu mà có? Do Pháp Thân mà có. Thân thể này của chúng ta do đâu mà có? Xin thưa với quư vị, cũng từ Pháp Thân mà có. Vậy th́ tại sao tướng chúng ta lại khác thân tướng của A Di Đà Phật? V́ tâm của A Di Đà Phật thanh tịnh, c̣n tâm của chúng ta ô nhiễm. Trong tâm của A Di Đà Phật không chỉ chẳng có tham, sân, si, mạn, mà phân biệt, chấp trước cũng chẳng có. Không chỉ chẳng có phân biệt, chấp trước, mà khi sáu căn gặp cảnh giới sáu trần, Ngài cũng chẳng khởi tâm động niệm, đó gọi là Báo Thân. Nếu khởi tâm động niệm, sẽ chẳng gọi là Báo Thân, mà gọi là Ứng Hóa Thân. Thân của chúng ta là Ứng Hóa Thân, Ứng Hóa Thân ǵ vậy? Ứng Hóa Thân của nghiệp báo thiện ác, cấp bậc rất thấp! Nói đơn giản, thân của chúng ta là thân nghiệp báo thiện ác; đời trước tạo nghiệp thiện, đời này hưởng phước ở cơi người, đó là có phước báo. Đời trước tạo rất nhiều nghiệp ác, đời này chịu khổ trong cơi người. Chịu khổ chịu nạn là nghiệp báo, [hết thảy quả báo] đều có nhân. Nhà Phật thường nói: “Vạn pháp đều không, nhân quả chẳng không”, “thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo, bất thị bất báo, thời thần một đáo (thiện có thiện báo, ác có ác báo, chẳng phải là không báo, mà là thời giờ chưa tới). “Thời thần” là ǵ? Nay quư vị hưởng phước là do thiện nhân, thiện nghiệp của quư vị đă tạo đời trước, đợi tới lúc quả báo của thiện nghiệp ấy đă hết, lúc đó gọi là “thời giờ đă đến”. Thiện nghiệp báo đă hết, sau khi báo hết th́ sao? Trong A Lại Da Thức của quư vị vẫn c̣n có ác nghiệp, ác nghiệp ấy sẽ hiện tiền; nó hiện tiền, quư vị sẽ chịu ác báo. Khi hứng chịu trọn hết ác báo, quư vị sẽ sanh trong cơi người, cho nên cơi người giống như một trung tâm trao đổi, quư vị sẽ đầu thai trong nhân gian. Do đó có thể biết, ba cơi thiện nhằm tiêu thiện nghiệp của quư vị, đó gọi là tiêu nghiệp! Ba cơi ác là nơi tiêu ác nghiệp, hết thảy đều tiêu hết rồi mới tới cơi người để tu hành. Khi đến cơi người, quư vị lại tạo nghiệp. Nếu tạo ác nghiệp th́ lại sanh vào ba cơi ác; nếu tạo thiện nghiệp, sẽ sanh lên cơi trời hay trong cơi người để hưởng phước.

Do đó, điều quư nhất, quư vị hăy xem trên thế giới này có bao nhiêu người? Có bao nhiêu người gặp gỡ Phật pháp? Được nghe Phật pháp? Dựa theo cách nói của các nhà tôn giáo trên thế giới, đại khái là một phần mười, chưa tới phân nửa, chỉ có một phần mười [được gặp Phật pháp]. Hiện nay chúng ta biết đại lược, trong những người có tín ngưỡng tôn giáo trên thế giới hiện thời, số người tin Cơ Đốc Giáo và Thiên Chúa Giáo nhiều nhất, [tín đồ] hai tôn giáo này cộng lại đại khái hơn hai tỷ người, chiếm một phần ba dân số thế giới. Kế đó là tín đồ Islam (Hồi Giáo). Các bạn Hồi Giáo nói với tôi đại khái người theo Hồi Giáo trên toàn thế giới là một tỷ rưỡi người, đông như vậy. Người theo Phật Giáo trên thế giới đại khái có khoảng bảy trăm triệu, khoảng một phần mười dân số toàn thế giới, [tức là] trong mười người chỉ có một người theo Phật Giáo. Đấy là ba tôn giáo lớn nhất trên thế giới. Chúng ta thử hỏi, người tin Phật Giáo, coi như bảy trăm triệu người, có bao nhiều người thật sự gặp được chánh pháp? Chúng tôi dùng con số là một phần mười, thật đó, có lẽ chỉ có một phần mười, sợ c̣n chưa tới mức đó, [phần nhiều] là không gặp được chánh pháp. Những người gặp được chánh pháp có thật sự tin tưởng [Phật pháp] hay không? Những người thật sự tin tưởng có thật sự hiểu rơ hay không? Người hiểu rơ có thật sự tu hành hay không? Cứ loại bỏ từng tầng như vậy, loại bỏ tới cuối cùng, đúng là có lẽ vẫn chưa tới một vạn người, càng loại bỏ, càng ít! Người gặp được Tịnh Độ Tông, thật sự niệm Phật văng sanh có được khoảng một vạn người hay không? Tôi nghĩ có thể như vậy, những đồng tu Tịnh Tông thật sự văng sanh tôi tin tưởng là có số người chừng ngần ấy. Được như vậy là rất khá rồi, bộ kinh Vô Lượng Thọ này đă giúp chúng ta quá nhiều.

Hiện nay, đối với những người học Phật trên thế giới, trong số người thật sự học Phật, Tịnh Độ Tông vẫn chiếm đa số. Trong Tịnh Độ Tông, điều quan trọng nhất là phải đoạn dứt nghi ngờ, sanh khởi ḷng tin, dùng phương pháp ǵ để đoạn dứt nghi ngờ? Dùng kinh điển, khi thật sự hiểu rơ ràng, rành rẽ kinh điển, sẽ không mê hoặc, mới có thể xây dựng ḷng tin. Đời này chúng ta đă xác định mục tiêu và phương hướng rồi, một phương hướng là Tây Phương Cực Lạc thế giới; một mục tiêu là thân cận A Di Đà Phật, nhất định không thay đổi [phương hướng và mục tiêu này]! Những sự việc khác đều là phụ, có thể làm hay không làm [cũng chẳng sao]. Nghiệp phụ không thể gây chướng ngại cho nghiệp chánh của chúng ta, nghiệp chánh là niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, không thể gây chướng ngại. Nếu đời này có thể văng sanh thế giới Cực Lạc, chúng ta đă thành công rồi. A Di Đà Phật rất khổ nhọc, chúng ta rất cảm ơn Ngài, Ngài đă dùng năm kiếp để xây dựng cơi Cực Lạc. Chúng ta th́ sao? Chỉ cần chúng ta dùng một chút công phu, từ ba năm tới năm năm chúng ta sẽ thành công, chúng ta văng sanh thế giới Cực Lạc sẽ b́nh đẳng với Ngài. Nói cách khác, Ngài dùng năm kiếp, chúng ta dùng năm năm liền b́nh đẳng, chẳng giả chút nào! Thật sự muốn văng sanh, chúng ta phải biết một điều kiện quan trọng nhất là phải bỏ sạch những sự việc thuộc thế gian này, chớ nên có mảy may lưu luyến nào th́ quư vị mới có thể văng sanh. Chẳng có mảy may lưu luyến nào th́ quư vị mới hiểu được kinh này, mới có thể nghe hiểu. Tại sao nghe không hiểu? V́ quư vị có chướng ngại, c̣n có vướng bận đối với thế gian này, chưa buông xuống được, nên quư vị nghe không hiểu. Quư vị buông xuống càng nhiều sẽ hiểu càng nhiều; buông xuống hết sạch sẽ hiểu rơ hoàn toàn; chẳng giảng quư vị cũng hiểu, thật đấy! Nếu không chịu buông xuống, dù A Di Đà Phật tới giảng cho quư vị, quư vị cũng chẳng hiểu. Chúng ta phải hiểu rơ ràng những đạo lư này.

Câu kế tiếp “Cực Lạc Tịnh Độ hà dị Hoa Tạng thế giới” (Cực Lạc Tịnh Độ nào khác thế giới Hoa Tạng), giống hệt nhau. Thế giới Cực Lạc là Pháp Tánh Độ, thế giới Hoa Tạng cũng là Pháp Tánh Độ. Giảng kinh Hoa Nghiêm lần này, tôi khai giảng ở Tân Gia Ba, sau khi rời Tân Gia Ba, chúng tôi giảng kinh chẳng gián đoạn. Khi ở Tân Gia Ba, tôi đă nêu một tỷ dụ, v́ nhiều người không hiểu rơ Hoa Tạng và Cực Lạc, tôi đă dùng Tân Gia Ba để tỷ dụ. Tôi nói thế giới Hoa Tạng ví như thành phố Tân Gia Ba này, đó là một quốc gia đô thị (city-state), thế giới Cực Lạc là đường Ô Tiết (Orchard Road), tức là một phố phồn hoa nhất ở Tân Gia Ba. Tôi nói đường Ô Tiết là thế giới Cực Lạc, Tân Gia Ba là thế giới Hoa Tạng. Thế giới Cực Lạc là một con đường đẹp đẽ, tuyệt diệu nhất trong thế giới Hoa Tạng. Nói như vậy mọi người sẽ hiểu, Cực Lạc và Hoa Tạng là một, chẳng hai. Sanh về thế giới Hoa Tạng cũng là sanh về thế giới Cực Lạc; sanh về thế giới Cực Lạc nghĩa là đă ở trong thế giới Hoa Tạng. Vậy th́ quư vị hăy nghĩ xem, nếu quư vị không tu pháp môn Tịnh Độ mà muốn tới thế giới Hoa Tạng, khó khăn biết bao! Phải qua nhiều tầng thử thách. Tầng thứ nhất là lục đạo luân hồi, nếu quư vị có thể vượt thoát sẽ đến tứ thánh pháp giới, đấy là [vượt qua] bốn tầng Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật, quư vị mới có thể đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, đúng là chẳng dễ! Tu hành trong thế giới chúng ta, dù quư vị tu đến Sơ Thiền, Nhị Thiền đều chẳng dễ dàng ǵ, huống chi tu đến Tứ Không Thiên vẫn chưa vượt thoát lục đạo luân hồi. Gặp được pháp môn “chấp tŕ danh hiệu, vượt ngang ra khỏi tam giới” này, chính là chẳng tốn sức lực ǵ mà quư vị có thể vượt thoát mười pháp giới. Sanh đến thế giới Cực Lạc, quư vị sẽ là A Duy Việt Trí Bồ Tát, t́m ở đâu ra sự lợi ích chân thật này? Trong hết thảy các kinh điển, trừ kinh Vô Lượng Thọ ra, quư vị t́m chẳng được! Quư vị t́m trong kinh Hoa Nghiêm, kinh Hoa Nghiêm tới cuối cùng vẫn phải dùng đến kinh Vô Lượng Thọ, nếu không sẽ chẳng viên măn. Do vậy, chúng ta mới biết hết thảy các kinh quy về kinh Hoa Nghiêm, kinh Hoa Nghiêm đến cuối cùng quy về Vô Lượng Thọ. Do có kinh Vô Lượng Thọ, mọi người đều có thể thành tựu ngay trong đời này, như thường nói là “vạn người tu, vạn người đến”. Nếu quư vị không đến được là v́ quư vị tu chẳng đúng pháp, do tu không đúng lư, không đúng pháp, nên chẳng thể văng sanh. Nếu quư vị tu học đúng lư, đúng, chẳng ai không thành công! Đoạn này dẫn kinh Hoa Nghiêm, quan trọng nhất là cảnh giới Sự Sự vô ngại này.

“Cực Lạc Y Chánh”, [nói về] y báo và chánh báo. Y báo là hoàn cảnh cư trú, chánh báo là những người cư trú trong cơi Cực Lạc. Phật, Bồ Tát “cử thể thị Sự Sự vô ngại bất khả tư nghị cảnh giới, nhất nhất viên cụ vô tận huyền môn” (toàn thể là cảnh giới sự sự vô ngại chẳng thể nghĩ bàn, thứ nào cũng đầy đủ trọn vẹn vô tận huyền môn), vô tận huyền môn chính là mười huyền môn như chúng ta đă học trong phần trước. Vô tận huyền môn quy nạp thành mười loại gọi là mười huyền môn, Sự Sự vô ngại huyền môn là một trong mười huyền môn, “cố viết: “Cụ túc vô lượng bất khả tư nghị công đức trang nghiêm” (nên nói: “Đầy đủ vô lượng công đức trang nghiêm chẳng thể nghĩ bàn”). Nói không hết, chẳng có cách nào tưởng tượng, Phật, Bồ Tát, tổ sư sau cùng nói một câu “duy chứng phương tri” (chỉ có tự chứng mới biết được). Làm sao chứng được? Quư vị văng sanh tới Thế giới Cực Lạc sẽ chứng, sẽ biết. Đến thế giới Cực Lạc, quư vị mới thật sự biết được. Qua kinh sách, qua sự chia sẻ của chúng tôi, nói thật ra, so với những công đức trang nghiêm thật sự trong thế giới Cực Lạc, thưa thật với quư vị, chúng ta cũng chưa hiểu được một phần vạn. Khi quư vị đến thế giới Cực Lạc, quư vị mới nh́n thấy đại viên măn, tại sao lại không đi?

Do công đức trang nghiêm không thể nghĩ bàn, “cố năng linh chúng sanh, văn danh đắc phước, văn danh phát tâm, thập niệm tất sanh, kính đăng Bất Thoái” (nên có thể khiến cho chúng sanh nghe tên được phước, nghe danh hiệu phát tâm, mười niệm ắt được văng sanh, mau chứng ngôi Bất Thoái). Quư vị thấy dễ dàng biết bao! Nghe danh hiệu được phước, nghe danh hiệu phát tâm, đều là thật. Nhưng trên thực tế, chúng ta nghe danh chưa được phước, chúng ta nghe danh chưa phát tâm được, như vậy là phải nghiên cứu kỹ lại chữ “nghe” này! Chữ “nghe” ở đây chẳng phải là chữ “nghe” thông thường, mà là Văn Huệ của Bồ Tát. Người mới học Phật nhập môn từ nơi nào? Từ Tam Học Giới, Định, Huệ để nhập môn. Đến giai đoạn Bồ Tát, những thứ các Ngài tu hành không gọi là Tam Học nữa, mà gọi là Tam Huệ. Tam Huệ là ǵ? Văn, Tư, Tu, tŕnh độ đă được nâng cao rồi.

Văn Tư Tu là ǵ, đa số rất khó hiểu rơ. Thuở trước, khoảng bốn mươi, năm mươi năm trước, tôi giảng kinh đến nay đă được năm mươi hai năm, đại khái là trong khoảng mười năm đầu kể từ lúc tôi bắt đầu giảng kinh. Lúc đó lăo pháp sư Đạo An ở Đài Loan chủ tŕ khóa thuyết giảng Đại Chuyên Phật Học của Trung Quốc Phật Giáo Hội, mỗi Chủ Nhật giảng một ngày, lợi dụng thời gian sinh viên nghỉ hè, sinh viên nào có hứng thú đối với Phật pháp có thể đến nghe giảng. Tôi nhớ [khóa giảng này] rất thù thắng, người ghi danh học lên đến hơn tám trăm sinh viên, [họ đến từ] mười mấy trường ở những khu vực phía Bắc Đài Loan. Một ngày nọ có một sinh viên, một nữ sinh viên sinh đến nói với tôi: “Thưa pháp sư! Hôm nay con nghe hết buổi giảng này, lần sau con sẽ không đến nữa”.

Tôi hỏi: - Tại sao vậy?

Cô nói: - Bây giờ con đă hiểu đạo lư Văn, Tư, Tu. Con đă nghe kinh hơn hai năm rồi, đă có Văn rồi.

Nghe xong tôi nói: - Con không đến nữa, con về nhà để Tư phải không?

Cô ta thưa: - Dạ phải.

Tôi nói: - Con Tư hai ba năm rồi mới Tu, phải không?

- Dạ phải.

- Ồ, vậy th́ hôm nay nghe hết bài giảng này rồi hăy tính nữa.

Tôi bèn giải thích cặn kẽ về Văn Tư Tu [trong bài giảng hôm đó], nếu hiểu Văn Tư Tu như vậy th́ là hoàn toàn sai lầm. Quư vị nghe hai năm, nghe ǵ? “Đạo thính, đồ thuyết” (nghe những lời nói thiếu căn cứ), chẳng phải là Văn. Tư ǵ? Suy nghĩ loạn xạ. Tu ǵ? Tu mù luyện đui! Nếu quư vị Văn Tư Tu như vậy, chẳng phải là trật lất hay sao? Tôi nói quư vị là những người mới bắt đầu học, phải tu Tam Học Giới Định Huệ. Trong Tam Học ấy, đă đạt được Huệ rồi th́ mới gọi là Tam Huệ. Tam Huệ ǵ? Văn Huệ, Tư Huệ, Tu Huệ, Văn Tư Tu được hoàn thành cùng lúc, chẳng phải chia thành ba thứ riêng biệt. Văn nghĩa là ǵ? Tiếp xúc hoặc nghe đến, hoặc là nh́n thấy. Vừa nghe, [Nhĩ Căn] tiếp xúc gọi là Văn Huệ, nghĩa là vừa nghe liền hiểu rơ. Hiểu rơ là Tư Huệ. Lúc vừa hiểu rơ liền phá mê, khai ngộ, đó là Tu Huệ. Do vậy, Văn Tư Tu được hoàn thành cùng lúc, chẳng chia thành ba giai đoạn. C̣n Giới Định Huệ đúng là phải chia ra ba giai đoạn, trước hết giữ Giới rồi mới đắc Định, do Giới đắc Định, nhờ Định khai Huệ, gồm ba giai đoạn! C̣n Văn Tư Tu th́ chẳng phải vậy, Văn Tư Tu được hoàn thành ngay trong một niệm. Tôi giảng xong buổi giảng hôm ấy, hỏi cô sinh viên ấy: “Ngày mai con có đến nghe giảng nữa hay không?” Cô ta thưa: “Dạ, con sẽ đến”. Tôi nói: “Vậy th́ cũng c̣n cứu văn được”. Chớ nên hiểu lầm điều này! Do đó mới biết sự tu hành của Bồ Tát đích thực cao minh hơn chúng ta quá nhiều, chúng ta làm sao có trí huệ như vậy được! Do vậy, Tư nghĩa là hiểu rơ, Tu nghĩa là sửa chữa sai lầm, chúng ta thường nói là “phá mê, khai ngộ”, mê chẳng c̣n nữa. Sau khi hiểu rơ, chẳng c̣n mê nữa. Do đoạn dứt mê nên gọi là Tu, do giác ngộ nên gọi là Tư Huệ, lúc tiếp xúc gọi là Văn Huệ, dùng chữ [Văn] này làm đại biểu [tất cả những sự tiếp xúc giữa lục căn với ngoại cảnh], trí huệ hiện tiền. V́ vậy, dùng Tam Huệ của Bồ Tát th́ mới “nghe danh hiệu được phước”, v́ sao? Quư vị vừa nghe danh hiệu A Di Đà Phật, liền hiểu rơ, liền buông bỏ bất cứ pháp môn nào đă tu trước đó, chuyên tâm niệm Phật, không phải là quư vị được phước hay sao? Trước kia, tu những pháp môn khác nhất định phải đoạn phiền năo, nếu chẳng đoạn phiền năo sẽ không thể nâng cao cảnh giới. Nay biết pháp môn niệm A Di Đà Phật này, phước báo bậc nhất, trí huệ bậc nhất, vô lượng công đức trang nghiêm đều thuộc trong một câu Phật hiệu này, như vậy không phải là phước báo hay sao? Đó là phước báo to lớn! Quư vị hiểu rơ rồi. Cho nên Văn ở đây là Tam Huệ.

Kế tiếp là “văn danh phát tâm” (nghe danh phát tâm), trí huệ hiện tiền, lẽ nào chẳng phát tâm? Phát tâm ǵ? Phát tâm đến thân cận A Di Đà Phật. Xin thưa với quư vị, phát tâm thân cận A Di Đà Phật chính là Vô Thượng Bồ Đề tâm. Quư vị nghĩ Bồ Đề tâm nghĩa là ǵ? Không phải là thành Phật đạo, độ chúng sanh hay sao? Không phải là ư nghĩa này hay sao? Đến thế giới Cực Lạc, thấy A Di Đà Phật, đạt được mục tiêu “thành Phật đạo, độ chúng sanh”. Trong Di Đà Kinh Yếu Giải, Ngẫu Ích đại sư đă nói: “Phát nguyện văng sanh chính là phát Vô Thượng Bồ Đề tâm”. V́ rất nhiều người nghi ngờ rằng: Rất nhiều ông cụ, bà cụ nhà quê niệm Phật văng sanh, họ không biết chữ, chưa từng đi học, chỉ biết niệm câu A Di Đà Phật này, ngoài câu Phật hiệu ra, cái ǵ cũng không biết, cớ sao lúc họ văng sanh có nhiều tướng lành như vậy? Họ chẳng sanh bệnh, biết trước lúc mất, đứng văng sanh, ngồi văng sanh. Trong kinh đă nói rất rơ ràng, “phát Bồ Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm”, họ không phát Bồ Đề tâm, cớ sao văng sanh? Qua câu này, Ngẫu Ích đại sư đă chỉ rơ: Họ nhất tâm cầu sanh Tịnh Độ, suốt một đời nhất tâm muốn thấy A Di Đà Phật, đó chính là Vô Thượng Bồ Đề tâm. Họ đă phát tâm ấy, nhưng chính họ cũng không biết. Nếu quư vị hỏi họ có phát Bồ Đề tâm hay không? Họ nói họ không biết, họ không hiểu. Bồ Đề tâm là ǵ, họ không biết. Thật ra, họ đă phát rồi, nên họ đến thế giới Cực Lạc rồi, đúng là “chỉ khi nào chứng rồi mới biết”! Họ đến đó bèn khai ngộ, chẳng c̣n mê hoặc nữa.

“Thập niệm tất sanh” (mười niệm ắt văng sanh), mười niệm ắt văng sanh là tâm tủy của bốn mươi tám nguyện của A Di Đà Phật. Đây là nói rơ: Quư vị thật sự muốn đến Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng khó tí nào, mười niệm cũng đi được. Mười niệm này là niệm lúc nào? Lúc lâm chung, một niệm cuối cùng là A Di Đà Phật, người ấy sẽ văng sanh. Do đó mười niệm hay một niệm đều nhất định văng sanh, sanh đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, chứng trọn vẹn ba thứ Bất Thoái, hạng người nào vậy? Chứng trọn vẹn ba thứ Bất Thoái. A La Hán chỉ chứng được một trong ba thứ Bất Thoái ấy, đó là Vị Bất Thoái. A La Hán là người Tiểu Thừa, các Ngài nhất định sẽ không thoái chuyển làm phàm phu trong lục đạo. Trong lục đạo, phía trên gồm hai mươi tám tầng trời, phía dưới tính đến A Tỳ địa ngục đều gọi là phàm phu. A La Hán nhất định sẽ không thoái chuyển, trở lại làm phàm phu. Đó là điều bất thoái thứ nhất, Vị Bất Thoái, tức là địa vị không lui sụt. Thứ hai, Bồ Tát chứng được Hạnh Bất Thoái; nói cách khác, A La Hán và Bích Chi Phật trên mặt Hành c̣n có thể thoái chuyển. Hành là ǵ? Độ chúng sanh, chúng sanh khó độ quá! Thôi đi, đừng độ họ, ngă ḷng rồi. A La Hán và Bích Chi Phật c̣n ngă ḷng, đến lúc gặp khó khăn sẽ ngă ḷng. Bồ Tát chẳng ngă ḷng, dù khó khăn cách mấy Bồ Tát vẫn giúp đỡ chúng sanh. Do đó, Bồ Tát có Hạnh Bất Thoái. Tuy hạnh đă bất thoái, nhưng niệm c̣n có thể thoái chuyển, c̣n chưa ổn định. Bồ Tát đă minh tâm kiến tánh, đă thành Phật sẽ chứng Niệm Bất Thoái. Niệm niệm đều hướng về Vô Thượng Bồ Đề, tức là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đi theo con đường ấy măi cho đến khi chứng được quả vị Phật, các Ngài tinh tấn chẳng lùi. Đó là ba thứ Bất Thoái.

Bổn nguyện của Phật Di Đà đă cho biết: Văng sanh thế giới Cực Lạc, quư vị đều chứng được ba thứ Bất Thoái ấy. Nói cách khác, nay chúng ta là phàm phu, một phẩm phiền năo cũng chưa đoạn, trong thế gian này, ngay cả một vị Tu Đà Hoàn chúng ta cũng không bằng. Tu Đà Hoàn là Tiểu Thừa Sơ Quả, A La Hán là Tứ Quả. Giống như đi học trong trường vậy, Tứ Quả Tứ Hướng là lớp Tám, từ lớp Một, lớp Hai, đến lớp Tám mới thành A La Hán. Tu Đà Hoàn là lớp mấy? Lớp hai. Chúng ta không bằng Tu Đà Hoàn. Thậm chí lớp Một chúng ta cũng không bằng, người lớp Một là ai? Người tu hành thật sự, họ mới có thể lên lớp Hai. Nay chúng ta là lớp Một, không chịu tu hành thật sự, năm nào cũng ở lại lớp, không lên lớp nổi, chúng ta là như vậy đó! Lên lớp không nổi, năm nào cũng ở lại lớp! Trong t́nh h́nh ấy, gặp được pháp môn Tịnh Độ, đúng là một bước vọt lên trời, chẳng bao lâu liền chứng trọn vẹn ba thứ Bất Thoái, quư vị nói xem có phi phàm hay không? Do vậy, pháp môn này gọi là pháp môn khó tin. Người như thế nào khó tin? Bồ Tát không tin, nói “làm ǵ có chuyện thuận tiện như vậy?” Quư vị quá thuận tiện, người ta tu hành khó nhọc lắm, tu vô lượng kiếp mới tu tới địa vị này. Chỉ tu đến A La Hán cũng đă chẳng đơn giản rồi! Quư vị thấy lớp Hai, tức là chứng Sơ Quả, từ Sơ Quả đến A La Hán, bảy lần sanh trong cơi trời và nhân gian, nhân gian thọ mạng không dài, cơi trời thọ mạng dài, sau bảy lần lên xuống sẽ chứng A La Hán. Từ A La Hán cho tới Bồ Tát, tới khi thành Phật, thời gian đúng là quá dài lâu, đâu có chuyện mười niệm hay một niệm liền văng sanh như trong Tịnh Tông? Văng sanh thế giới Cực Lạc liền có địa vị vượt trội hơn họ, vượt hơn họ quá nhiều, quư vị nghĩ coi họ có thể tin tưởng hay không? Lời này làm sao giải thích? Chỉ có thể nói là họ thiếu phước báo, thiếu thiện căn. Thiếu phước báo là không gặp [pháp môn Tịnh Độ], thiếu thiện căn là gặp rồi mà không tin, hoài nghi, bỏ lỡ cơ hội. Lũ chúng ta có phước báo, người hồ đồ có phước hồ đồ, không phải là có ư nghĩa như vậy hay sao? Chúng ta tin tưởng, chẳng nghi ngờ, người Trung Quốc có câu “kẻ khờ có phước của kẻ khờ”, người đó thật sự được văng sanh, thật sự vượt hơn A La Hán, vượt hơn Bồ Tát.

Phục dĩ cụ túc vô lượng bất khả tư nghị trang nghiêm, cố vạn vật nghiêm tịnh, cùng vi cực diệu, quang oánh như kính triệt chiếu thập phương, xúc quang an lạc, cấu diệt thiện sanh” (cũng do đầy đủ vô lượng công đức chẳng thể nghĩ bàn nên vạn vật nghiêm tịnh, vi diệu đến cùng cực, sáng láng như gương, chiếu tột cùng mười phương. Được quang minh chiếu đến liền an lạc, cấu diệt, thiện sanh); đây là nói tới sự tốt đẹp trong thế giới Cực Lạc. Sự tốt đẹp này do đâu mà có? “Tốt đẹp” là vô lượng trang nghiêm chẳng thể nghĩ bàn. Những sự trang nghiêm này ở thế giới Cực Lạc hoàn toàn là biểu thị pháp, nhằm để dạy học, chẳng phải để ngắm nh́n mà thôi. Khi sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần [trong cơi Cực Lạc, những cảnh giới ấy] đều có thể giúp chúng ta đoạn phiền năo, khai trí huệ, đó là biểu thị pháp! Ở thế gian này của chúng ta, nếu quư vị hiểu rơ th́ thế giới này và cơi Cực Lạc chẳng khác nhau, tất cả đều là biểu thị pháp. Nói thật ra, chúng ta đă mê quá sâu, tập khí quá nặng, nh́n không thấy, lúc tiếp xúc bèn sanh phiền năo, chẳng sanh trí huệ. Đến thế giới Cực Lạc, quư vị được bổn nguyện và oai thần của A Di Đà Phật gia tŕ, khi sáu căn tiếp xúc cảnh giới bên ngoài, sẽ sanh trí huệ, chẳng sanh phiền năo, thật là phi phàm. Do vậy, tâm quư vị trụ trong thế giới Cực Lạc, đến đó tâm quư vị sẽ thanh tịnh, nơi đó là Tịnh Độ. Tâm không thanh tịnh sẽ không thể trụ ở đó, do chẳng tương ứng với chỗ đó. Lúc chưa đến đó, tâm chúng ta không thanh tịnh, niệm cuối cùng là A Di Đà Phật th́ tâm ấy thanh tịnh, trong tâm chỉ có A Di Đà Phật, không có các tạp niệm khác, một niệm thanh tịnh liền cảm ứng Tịnh Độ. Sau khi đến đó, tâm thanh tịnh ấy sẽ được giữ ǵn măi măi, không mất đi. Quư vị có thể giữ được tâm thanh tịnh là nhờ bổn nguyện và oai thần của Phật gia tŕ, đây là ân đức không chi sánh bằng của A Di Đà Phật đối với hết thảy chúng sanh.

Ở nơi đây (thế giới Sa Bà), tại sao A Di Đà Phật không gia tŕ chúng ta? Ở đây Ngài không gia tŕ được! V́ sao? Hoàn cảnh nơi đây không tốt, Ngài gia tŕ quư vị xong, khi quư vị tiếp xúc hoàn cảnh bên ngoài, tham, sân, si, mạn lại khởi lên. Trong thế giới Cực Lạc, Ngài gia tŕ, quư vị sẽ tuyệt đối chẳng khởi ư niệm tham, sân, si, mạn, v́ hoàn cảnh ở đó tốt đẹp. Do vậy, tôi thường nói với người khác, thế giới Cực Lạc là đạo tràng do chư Phật Như Lai trong mười phương thế giới xây dựng để độ hóa chúng sanh. Đó là một nơi thực nghiệm hoàn thiện nhất. Do vậy, hết thảy chư Phật Như Lai đều giới thiệu những chúng sanh khó độ nhất đến thế giới Cực Lạc, thật sự từ bi tới cùng cực. Chẳng có vị Phật nào không tán trợ A Di Đà Phật, giới thiệu đệ tử cho Ngài, kiếm học sinh cho Ngài, gởi học tṛ tới thế giới Cực Lạc, đây là việc làm của mười phương chư Phật. Chư Phật Như Lai đều tôn xưng A Di Đà Phật là “quang trung cực tôn, Phật trung chi vương” (ánh sáng tôn quư nhất, vua trong các vị Phật). Giống như bảy mươi dặm của Thương Thang (vua Thành Thang nhà Thương) là một nơi nhằm thí nghiệm. Mấy trăm nước chư hầu trong thiên hạ đều tôn vua Thành Thang là thiên tử. Châu Văn Vương dùng một nơi rộng một trăm dặm để làm một chỗ thí nghiệm, thực hiện tốt đẹp rồi, tám trăm nước chư hầu đều tôn ông ta làm thiên tử. A Di Đà Phật cũng kiến lập một chỗ để làm thí nghiệm, tức là thế giới Cực Lạc; mười phương hết thảy chư Phật Như Lai đều tôn xưng Ngài là “Phật trung chi vương”, điều này đă ban cho chúng ta một khải thị rất hay. Lúc giảng kinh ở Tân Gia Ba, tôi đă nhiều lần nói Tân Gia Ba là một nước nhỏ, một quốc gia đô thị, [tức là] cả nước chỉ là một thành phố. Đừng thấy Tân Gia Ba nhỏ mà khinh thường, nếu họ thật sự học theo A Di Đà Phật, xây dựng Tân Gia Ba thành một thành phố gương mẫu nhất trên thế giới th́ người Tân Gia Ba sẽ trở thành A Di Đà Phật trên địa cầu này. Ở nơi nhỏ bé ấy có thể thực hiện giáo dục luân lư, đạo đức, nhân quả, tôn giáo, th́ nơi đó sẽ trở thành một thành phố hạng nhất trên thế giới. Nhân dân nước ấy ḥa hài, an định, phồn vinh, hưng vượng, hạnh phúc mỹ măn, do vậy, nơi ấy sẽ là hạng nhất. Tôi cư trú ở đó ba năm rưỡi, do phước báo không đủ nên tôi phải ra đi. Trong ba năm rưỡi làm việc ở đó, đoàn kết chín tôn giáo ở Tân Gia Ba thành người một nhà, giống như anh chị em trong nhà vậy, Tổng Thống lúc đó là ông Vương Đỉnh Xương vô cùng hoan hỷ. Ông bà tổng thống đều là người tốt, cả hai đều đă qua đời.

Chúng ta thật sự học Phật, hăy nên ghi nhớ lời giáo huấn này, phải làm đến hạng nhất, mỗi cá nhân phải hành sao cho thành người hạng nhất, tức người tốt hạng nhất. Người tốt hạng nhất là như thế nào? Phát tâm Bồ Đề, nhất hướng chuyên niệm A Di Đà Phật, cả đời niệm một bộ kinh Vô Lượng Thọ, một câu Phật hiệu, quư vị sẽ là người tốt hạng nhất trên thế giới này, trời đất quỷ thần đều tôn trọng quư vị. Nếu quư vị có thể buông xuống tự tư tự lợi, buông xuống danh văn lợi dưỡng, buông xuống ngũ dục lục trần, buông xuống tham, sân, si, mạn, quư vị sẽ là gương mẫu của hết thảy mọi người. Sau đó, quư vị sẽ ảnh hưởng tới cả gia đ́nh, gia đ́nh quư vị sẽ là gia đ́nh hạng nhất trên thế giới. A Di Đà Phật dạy chúng ta như vậy, đó là hoằng pháp lợi sanh, là chánh pháp trụ thế lâu dài. Chánh pháp trụ thế lâu dài phải nhờ ai? Nhờ ḿnh, nhờ gia đ́nh ḿnh. Gia đ́nh tôi là một gia đ́nh được Phật hóa, mọi người trong nhà đều có thể thực hiện theo lời giáo huấn của đức Phật trong kinh điển, chiếu theo nguyên lư nguyên tắc được dạy trong kinh điển, người lớn kẻ nhỏ trong nhà, nam, nữ, già, trẻ cùng nhau tuân thủ, thương yêu ḥa hợp, trở thành một nhà gương mẫu. Quư vị sẽ ảnh hưởng thân thích, bạn bè, hàng xóm, sau đó mở rộng ra, làm cho công ty, cửa tiệm của quư vị trở thành hạng nhất trong những người cùng ngành nghề. Quư vị thực hiện những lời dạy trong kinh điển, thực hiện trong công ty hay cửa tiệm của quư vị, thực hiện với tất cả nhân viên. Sự nghiệp của quư vị sẽ là sự nghiệp của Tam Bảo, trong sự nghiệp ấy sẽ có đầy đủ vô lượng trang nghiêm chẳng thể nghĩ bàn. Cá nhân như vậy, gia đ́nh như vậy, mà sự nghiệp cũng như vậy, làm suốt mười năm, hai mươi năm, quư vị sẽ ảnh hưởng cả khu vực, cả thành phố, đến lúc đó, tôi tin tưởng những thứ nói đến trong kinh đều sẽ xuất hiện, những thứ ǵ vậy? Vạn vật nghiêm tịnh, trang nghiêm thanh tịnh.

Năm 2000, chúng tôi từ Tân Gia Ba di dân sang Úc Đại Lợi, năm tới là ngày kỷ niệm học viện chúng tôi được thành lập mười năm, chúng tôi sẽ có một buổi hoạt động [kỷ niệm ngày thành lập], chúng tôi thật sự đang hướng tới mục tiêu này. Trong mười năm nay, chúng tôi đă ḥa hợp với cư dân ở đây, giống như anh chị em trong một nhà vậy. Cách làm của chúng tôi cũng tùy duyên, chẳng có mảy may miễn cưỡng nào! Mười năm trước, nhân ngày học viện được thành lập, chúng tôi mở tiệc, đăi đằng hàng xóm ở ba con đường xung quanh học viện, chúng tôi gởi thiệp mời họ đến dự; chúng tôi là người mới đến, mời họ đến dùng cơm tối, thông báo với họ là chúng tôi mới đến đây cư trú. Chúng tôi là một đoàn thể Phật Giáo, họ cảm thấy rất mới mẻ, v́ ở đó lâu nay chưa từng có Phật Giáo, thành phố nhỏ này chỉ có Cơ Đốc Giáo, chẳng có Phật Giáo. Chúng tôi tới đó làm hàng xóm của họ, báo với họ, mọi người đến dùng cơm rất vui vẻ. Sau đó, nhiều người tới nói với tôi, họ nói: “Thưa pháp sư, những sinh hoạt tiệc tùng như vậy có thể làm thêm vài lần nữa hay không?” Họ rất hoan hỷ, yêu cầu chúng tôi làm thêm vài lần. Tôi nói tốt lắm, ngay hôm đó chúng tôi quyết định mỗi thứ Bảy, chúng tôi đặt tên là “buổi tiệc ấm cúng” [tối thứ Bảy], chiêu đăi miễn phí mọi người ở thành phố Toowoomba, bất cứ ai ở thành phố này đều có thể đến dùng cơm miễn phí. Buổi tiệc tối mỗi thứ Bảy này đă kéo dài mười năm, hiện nay tất cả mọi người các tôn giáo khác trong thành phố này đều đến tham dự, có lúc c̣n đến biểu diễn. Đó là vạn vật trang nghiêm thanh tịnh.

Những người hàng xóm này rất quư mến chúng tôi, có nhiều người muốn mua nhà của họ, họ không bán, họ nói khu vực đó quá tốt, họ thích ở chỗ đó không nỡ rời khỏi. Chúng tôi trồng rau ở đó, tới nay cũng đă mười năm, lúc vừa đến đó chúng tôi liền học trồng rau. Sau mười năm, vườn rau của chúng tôi càng ngày càng lớn, hiện nay chúng tôi trồng mười mấy loại rau. Thông thường người đến dùng cơm ở học viện khoảng sáu bảy chục người. Khi nào có lễ lạc đặc biệt, có cả ngàn người đến dự, vườn rau chúng tôi có thể cung cấp cho cả ngàn người ăn. Vườn rau này không dùng thuốc trừ sâu, không dùng phân bón hóa học, trang nghiêm thanh tịnh. Chúng tôi t́m cách “nói chuyện” với những con sâu, những côn trùng, tôn trọng chúng nó, gọi chúng là Bồ Tát, chắp tay cung kính nói với chúng nó, xưng nó là Bồ Tát Sâu, Bồ Tát Chim, Bồ Tát Kiến. Chúng tôi dành ra một khoảng đất trong vườn cho sâu ăn rau, mỗi ngày đều chăm sóc đàng hoàng, dành riêng cho côn trùng, chúng tôi nói với chúng nó: “Quư vị đến ăn rau, chúng tôi sẽ cúng dường. Quư vị hăy ăn những thứ rau trong khoảng đất dành riêng ấy”. Chim chóc cũng vậy, chim chóc ăn trái cây, chúng tôi trồng nhiều cây ăn trái, có khoảng hai ba chục loại khác nhau, chúng tôi chỉ định riêng vài cây dành cho chim ăn, những cây khác chúng nó tuyệt đối không xâm phạm. Mười năm chẳng phải là thời gian ngắn, vô cùng thù thắng. Giao thiệp qua lại với sâu nhỏ, côn trùng nhỏ c̣n dễ hơn con người! Chúng nó rất nghe lời, giữ sự tín nhiệm, giữ chữ tín. Con người chẳng dễ đối xử, chim chóc, côn trùng dễ hơn. Từ năm nay trở đi, chúng tôi sẽ mở rộng quy mô, trồng lúa, trồng lúa mạch, trồng những thứ lương thực chính yếu. Chúng tôi thường nghe các khoa học báo cáo trong tương lai sẽ có nguy cơ thiếu hụt lương thực, rất nhiều nơi v́ khí hậu thay đổi nên thâu hoạch kém. Do vậy, mỗi ngày chúng tôi hồi hướng công đức tu học cho mười phương, cầu cho địa phương này mưa thuận gió ḥa, khu vực này ít tai ít nạn. Chúng tôi tự gieo trồng lương thực. Ngày nay, đất đai có những vấn đề nghiêm trọng v́ phân bón hóa học, thuốc trừ sâu làm hư hết đất đai, nên những thứ trồng trọt đều nhiễm nấm bệnh, chẳng tốt lành, đây cũng là nhân loại tự làm tự chịu. Người học Phật như chúng ta, học Phật chẳng có ǵ khác ngoài việc học cung kính, thành tín đối với người, sự, vật.

“Cố vạn vật nghiêm tịnh, cùng vi cực diệu; quang oánh như kính, triệt chiếu thập phương, xúc quang an lạc, cấu diệt thiện sanh” (nên vạn vật nghiêm tịnh, vi diệu đến cùng cực, sáng láng như gương, chiếu tột cùng mười phương. Được quang minh chiếu đến liền an lạc, cấu diệt, thiện sanh). “Cấu” () nghĩa là bất thiện, những ư niệm bất thiện đều bị diệt, hành vi bất thiện dĩ nhiên chẳng c̣n. Quư vị khởi lên toàn là thiện niệm; tâm thiện, ư niệm thiện, lời nói thiện, hành vi thiện đều bắt đầu từ một tí nhỏ nhoi nơi chúng ta, dần dần mở rộng ảnh hưởng. V́ cơ sở đă được xây dựng trong ṿng mười năm nay, mục tiêu của chúng tôi là những hoạt động trong năm tới, hy vọng các tôn giáo trong thành phố nhỏ này đều tới tham dự. Thị Trưởng ủng hộ ư định ấy; Tổng Lư (Thủ Tướng) cũng khuyến khích chúng tôi hăy nỗ lực đóng góp cho thành phố nhỏ này. Cư dân trong thành phố này chỉ có mười vạn người, hy vọng sẽ làm cho thành phố này trở thành thành phố gương mẫu trên thế giới. Cư dân trong thành phố đều là người cùng một nhà, tương thân, tương ái, chăm sóc, quan tâm, hợp tác với nhau. Khi quư vị tới thành phố nhỏ này, sẽ cảm thấy rất thân mật, khác hẳn những nơi khác. Chúng tôi hy vọng sẽ hoàn thành mục tiêu này trong ba năm hoặc năm năm; trên cơ sở hiện tại, chúng tôi tin tưởng sẽ thành công. Ba năm, hay năm năm sau, nơi đây sẽ trở thành một thành phố ḥa hài, hạnh phúc, mỹ măn, gương mẫu hạng nhất trên thế giới. Đầu năm nay, tôi trở về đó, Thị Trưởng đă thay đổi, ông Thị Trưởng mới cũng có ư muốn làm cho thành phố này trở thành một thành phố gương mẫu, chúng tôi vừa nói chuyện lần đầu liền chí đồng đạo hợp. Tôi nói lư tưởng đó có thể thực hiện, chúng tôi sẽ dốc toàn tâm toàn lực để phối hợp, ông thị trưởng trẻ tuổi ấy rất giỏi.

Kế đó là mở rộng ra, dạy chúng ta học tập như thế nào để trở thành một điểm gương mẫu. “Kỳ hương phổ huân, thập phương thế giới, chúng sanh văn giả, giai tu Phật hạnh” (Mùi hương xông khắp, chúng sanh trong mười phương thế giới ngửi thấy đều tu Phật hạnh). Đây là nói thế giới Cực Lạc ảnh hưởng mười phương thế giới từ một “điểm” này. Trong thành phố nhỏ này, chúng tôi có một học viện, một “điểm” nhỏ này ảnh hưởng cả thành phố. Khi thành phố này thành công, nó sẽ trở thành một thành phố có luân lư, có đạo đức, có nhân quả, có giáo dục tôn giáo, dần dần sẽ ảnh hưởng tới cả tiểu bang Queensland, mở rộng hơn nữa, sẽ ảnh hưởng cả nước Úc. Mọi người chúng tôi nỗ lực chẳng giải đăi, thực hiện hoàn hảo. Khi đă ảnh hưởng một thành phố, trên thực tế, nó sẽ ảnh hưởng cả thế giới. Chúng tôi sẽ dùng hệ thống truyền h́nh vệ tinh thâu h́nh những hoạt động hằng ngày của dân chúng trong thành phố phát h́nh khắp thế giới. Quư vị có biết nhằm dụng ư ǵ hay không? Quư vị có biết hay không? Để quảng cáo! Người trên toàn thế giới sẽ đến đây tham quan, khảo sát, thành phố nhỏ này sẽ không cần phải làm những ngành nghề khác, chỉ làm nghề phục vụ du khách tham quan là được rồi; họ sẽ xây thêm vài khách sạn nhỏ, mở vài tiệm ăn, hoàn toàn là thức ăn hữu cơ, chúng ta sẽ làm sự nghiệp phục vụ, chứ chẳng làm nghề khác. Du khách sẽ tới hoài không ngừng; sau khi trở về, chắc chắn sẽ tự động tuyên truyền [cho mọi người biết] trên thế giới có một chỗ tốt đẹp như vậy. Bởi lẽ, hiện nay thông tin vô cùng phát triển, rất thuận tiện, sau một thời gian ngắn, cả thế giới đều biết, mọi người sẽ đến “điểm” nhỏ này để khảo sát, tham quan, thăm viếng, học tập, thành phố này sẽ nổi tiếng. Người vui mừng nhất là ông thị trưởng, chánh sách của ông ta sẽ thành công. Trong tương lai, nếu tranh cử Tổng Thống chắc chắn sẽ được nhiều phiếu nhất. Khi ông ta làm Tổng Thống, không phải là cũng sẽ mở rộng ra cả nước hay sao? Sau đó cũng sẽ ảnh hưởng cả thế giới. Do vậy, thế giới sẽ thật sự an định ḥa b́nh, hóa giải tất cả xung đột, mâu thuẫn, tất cả đều bắt đầu từ “điểm” này. Kinh Vô Lượng Thọ cống hiến, dạy chúng ta [những bài học quư giá ấy], chúng ta học xong, phải thật sự thực hiện. Làm những chuyện tốt này, đấy là công đức chân thật, dùng công đức này hồi hướng cầu sanh Tịnh Độ, A Di Đà Phật ở thế giới Cực Lạc sẽ vỗ tay hoan nghênh quư vị tới đó, quư vị quả thật đúng như người hiện nay thường nói “học tập sống động, áp dụng sống động”, thật sự đem lại lợi ích cho chúng sanh, thật sự làm cho Phật pháp từ nơi này được phát triển rộng ra.

Hôm nay đă hết giờ, chúng tôi chỉ có thể nói tới đây, tốt lắm, xin cám ơn quư vị.

Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa

Phần 97 hết