Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa

淨土大經解演義

phần 99

Chủ giảng: Lăo pháp sư Tịnh Không

Thời gian: Ngày 5 tháng 04 năm 2010

Địa điểm: Hương Cảng Phật Đà Giáo Dục Hiệp Hội

Chuyển ngữ: Minh Tiến

Giảo chánh & nhuận văn: Huệ Trang, Đức Phong và Như Ḥa

 

Tập 197

 

Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang thứ hai trăm ba mươi ba, hàng thứ bảy, xem từ chữ “súc sanh”.

Súc sanh, tân dịch vi bàng sanh, chỉ bàng hành chi sanh loại. Tân Tỳ Bà Sa Luận vân: Kỳ h́nh bàng, cố hành diệc bàng, dĩ hành bàng, cố h́nh diệc bàng. Thị cố danh bàng sanh. Bàng giả, hoành dă” (Chữ “súc sanh” tân dịch[1] là “bàng sanh”, ngụ ư: Các loài sanh vật có thân h́nh nằm ngang. Tân Bà Sa Luận nói: “Do thân h́nh chúng nằm ngang nên cũng đi ngang. Hoặc do đi ngang, nên thân h́nh cũng nằm ngang”. V́ vậy, chúng được gọi là “bàng sanh”. “Bàng” có nghĩa là nằm ngang). Nói đơn giản th́ có nghĩa là: Bàng () là bất chánh; tâm không chánh trực th́ kẻ đó hành xử bất chánh, cho nên đọa vào loài súc sanh. Tâm hạnh đoan chánh, sẽ sanh trong cơi trời và cơi người. Tâm hạnh bất chánh, sẽ đọa vào cơi súc sanh. Trong những kẻ tạo tội Ngũ Nghịch Thập Ác, đây là những kẻ tạo tội nhẹ nhất, nhẹ hơn kẻ [tạo tội] đọa ngạ quỷ, nên mới xếp sau ngạ quỷ. Trong kinh văn, [có trích dẫn lời] Tân Tỳ Bà Sa Luận[2] nói rất hay: H́nh trạng của chúng, “h́nh” () là nói đến h́nh trạng, h́nh trạng của chúng (súc sanh) chẳng chánh đáng. Trong kinh giáo và trong giáo huấn của thánh nhân đều nhắc tới oai nghi của chư thiên, súc sanh đạo và ngạ quỷ đạo không có oai nghi. Nói thông tục một chút, oai nghi thuộc về lễ tiết, bọn chúng (súc sanh và ngạ quỷ) không hiểu lễ tiết. Nếu con người thiếu lễ độ, không hiểu lễ tiết, chẳng có tâm yêu thương, không có [ư niệm] “suy từ ḿnh mà nghĩ đến người khác”, th́ gọi là “tâm hạnh không đoan chánh”. Trong “tham, sân, si”, không đoan chánh thuộc về ngu si; do đó, ngu si chiêu cảm cơi súc sanh. Đó là nghiệp nhân của súc sanh. Tâm hạnh lệch lạc, tà vạy, tà tri, tà kiến, chúng ta thường nói là “làm xằng, làm quấy”; đó là nghiệp nhân của súc sanh. Tiếp đó nói tới hành vi, hành vi của chúng cũng không đoan chánh. Do tâm hạnh bất chánh, nên hành vi bất chánh, nên gọi là “bàng sanh”.

Sách Hội Sớ nói: “Thử đạo biến tại chư xứ, phi mao, đới giác, lân giáp, vũ mao, tứ túc, đa túc, hữu túc, vô túc” (Loài này có mặt khắp nơi, đeo lông, đội sừng, vảy, mai, lông mao, lông vũ, bốn chân, nhiều chân, có chân, không chân), đây là nói h́nh dáng của loài súc sanh, chúng nó sống ở đâu? Khắp nơi đều có thể trông thấy chúng, dưới nước, trên mặt đất, bay trên không trung, đều có thể trông thấy. “Đeo lông, đội sừng” là loài thú. Loài có vảy, có mai là loài sống dưới nước; Trên mặt đất cũng có loài có mai, có vảy (thí dụ như rùa, rắn). Loài có lông mao, lông vũ là loài chim bay trên không trung. Loài có bốn chân, loài có nhiều chân đều là những loài chúng ta thường thấy; c̣n có loài không chân, có loài có chân, [thí dụ như] rắn là loài không chân. Trong loài rắn, có rất nhiều loại khác nhau. Do đó, “thủy, lục, không hành, hỗ tương thôn đạm, thọ khổ vô lượng” (sống dưới nước, trên mặt đất, bay trên không, ăn nuốt lẫn nhau, chịu khổ vô lượng). Sách Phụ Hoằng Kư[3] nói: “Tác trung phẩm Ngũ Nghịch Thập Ác giả cảm chi” (tạo Ngũ Nghịch Thập Ác bậc trung cảm lấy quả này). Trong phần trước, chúng tôi đă có nói: Loài súc sanh đáng lẽ xếp vào [kẻ tạo tội Thập Ác] hạ phẩm, có lẽ sách đă viết sai ở chỗ này. Sách xếp ngạ quỷ vào hạ phẩm, xếp súc sanh vào trung phẩm. Tạo tội Ngũ Nghịch Thập Ác cảm lấy quả báo này, tội của kẻ đọa súc sanh nhẹ hơn kẻ đọa ngạ quỷ. Trong cái nhân, tuy không có tâm hại chúng sanh, nhưng tâm hạnh của họ bất thiện, nên cảm quả báo như vậy.

Đoạn kế tiếp đặc biệt giới thiệu Diêm La Vương Giới, chúng ta thường gọi là vua Diêm La. Đây là điện thứ năm trong Thập Điện Diêm Vương, tức Ngũ Điện Diêm La Vương. Ngài cai quản địa ngục, nên đặc biệt giới thiệu Ngài ở đây. “Diễm Ma La Giới giả, chỉ Diễm Ma La Vương chi thế giới” (Diễm Ma La Giới là chỉ thế giới của vua Diễm Ma La - Yamaraja). Chúng ta nên biết: Bất luận cơi nào trong lục đạo, chúng ta đều đă từng sanh trong đó. Lại c̣n chắc chắn là không phải chỉ một lần, mà là rất nhiều lần; đời này sanh trong cơi người, vừa đầu thai làm người liền quên tuốt những chuyện đời trước. Nếu có thể biết chuyện đời trước, đời này chúng ta sẽ không làm chuyện xấu ác nữa. V́ sao? Đă chịu khổ đau quá nhiều! V́ mê hoặc, v́ mê khi cách ấm, “cách ấm” (隔陰) là sanh tử. Lúc chết đau khổ, mà lúc sanh ra cũng khổ. Sự khổ đau kịch liệt ấy khiến cho chúng ta mất trí nhớ, chẳng thể nhớ chuyện đời trước. Nhưng hiện thời người ngoại quốc lẫn người Trung Quốc cũng có một phương pháp, dùng thuật thôi miên có thể khiến cho người ta nhớ lại đời trước. Đây là dùng sức của con người để giúp đỡ, chẳng phải là Phật, Bồ Tát gia tŕ, cũng chẳng phải là quỷ thần gia tŕ, mà do sức người giúp đỡ, nên quư vị có thể nhớ lại chuyện đời quá khứ, có thể thuật lại những chuyện đời trước. Cảnh giới trong lúc bị thôi miên giống như nằm mộng, nhưng không phải là mộng, kể lại rất rơ ràng, họ dùng máy thâu âm thu lại những chuyện ấy, đợi khi quư vị tỉnh lại, cho quư vị nghe lời chính ḿnh đă nói trong lúc bị thôi miên, nói chuyện một đời trước, hai đời, ba đời, bốn đời trước. Chúng tôi đă nghe báo cáo một bà được thôi miên có thể nhớ lại chuyện mấy chục đời về trước, hơn bốn ngàn năm về trước, muốn nhớ chuyện bảy chục, tám chục đời trước đúng là chẳng dễ! Những chuyện thôi miên sâu như vậy tương đối rất ít gặp, nhưng đôi lúc cũng có, đều là tùy thuộc duyên phận!

Tiếp đó, sách giới thiệu “Diễm Ma La, hựu tác Viêm Ma” (Diễm Ma La c̣n được phiên âm là Viêm Ma). Mấy danh xưng [được liệt kê] kế tiếp cho đến “Diêm Ma La v.v…”, đều là các cách phiên âm khác nhau, nhưng đều có cùng một nghĩa. Chữ này có nghĩa là “dịch vi Phược, phược tội nhân chi nghĩa” (dịch là Phược, nghĩa là trói buộc tội nhân), giống như dùng dây thừng trói tội nhân lại, có ư nghĩa như vậy. “Diễm Ma La Vương, nghĩa dịch vi B́nh Đẳng Vương” (Diễm Ma La Vương dịch nghĩa là B́nh Đẳng Vương). Đây là Ngũ Điện Diêm Vương, tức B́nh Đẳng Vương, Diêm La có nghĩa là B́nh Đẳng. “Thử vương đăng lục” (Vị vua này ghi chép, [xử đoán]), những tư tưởng, lời nói, hành động thiện hay ác của chúng sanh trên thế gian này đều được ghi chép lại. Sau khi [người đó] đă chết, Ngài sẽ dựa trên tâm hạnh thiện hay bất thiện của kẻ đó để phán xử. Thiện có thiện quả, ác có ác báo, nên nói “trị lư thế gian sanh tử tội phước chi nghiệp” ([vua Diêm La] quản trị cai quản cái nghiệp sanh tử, tội phước của thế gian), Ngài cai quản chuyện này. Ngài rất công bằng, chẳng xử oan quư vị, nhất định dựa trên tâm hạnh trước kia của quư vị để phán xử. Quư vị có thiện hạnh, Ngài sẽ đưa quư vị đến cơi trời. Cơi trời có rất nhiều tầng, [tùy thuộc] thiện hạnh của quư vị to hay nhỏ, sẽ được đưa đến tầng trời thích hợp. Nếu quư vị tạo tội nghiệp, phạm lầm lỗi, tội cũng có các mức độ khác nhau, phải đáng nên đọa trong địa ngục nào? Nói thật ra, đó là để tiêu nghiệp cho quư vị. Cơi trời để tiêu thiện nghiệp, tạo thiện nghiệp sẽ hưởng phước, cho quư vị hưởng phước để tiêu thiện nghiệp. Cơi địa ngục là nơi hứng chịu khổ báo, [thọ khổ] sẽ tiêu ác nghiệp. Do vậy, chúng ta thật sự hiểu rơ sự việc trong lục đạo rốt cuộc là như thế nào. [Chúng ta phải] đừng tạo nghiệp! Chẳng tạo nghiệp sẽ không thọ quả báo, như vậy th́ mới tốt. Không tạo nghiệp th́ đi đâu? Không tạo nghiệp sẽ vượt thoát lục đạo.

Do đó, ở đây, chúng ta có thể hiểu lục đạo là ǵ? Trong lục đạo, đă tạo nghiệp trong cơi người, bèn sanh trong tam thiện đạo và tam ác đạo để tiêu nghiệp. Trong khi tiêu nghiệp, lại tạo thêm nghiệp mới, đặc biệt là ở cơi người, cơi người là cơi thiện, vừa tiêu nghiệp lại tạo nghiệp; cơi trời tiêu nghiệp nhiều, tạo nghiệp ít; cơi súc sanh, ngạ quỷ tiêu ác nghiệp nhiều, tạo nghiệp cũng ít; cơi địa ngục hoàn toàn tiêu nghiệp, chẳng tạo nghiệp. Do đó, sau khi tiêu nghiệp xong, họ sanh trở lại trong nhân gian. Khi đó, nếu gặp thiện tri thức, nếu họ may mắn gặp Tịnh Tông, sẽ có thể vượt thoát lục đạo, vượt thoát mười pháp giới, cơ duyên này vô cùng khó có. Ai có thể gặp được? Nay chúng ta đă gặp được, phải biết đó là chuyện may mắn khôn sánh! Thân người khó được, chúng ta đă được làm thân người; Phật pháp khó được nghe, chúng ta đă được nghe Phật pháp; đặc biệt là pháp môn thù thắng khôn sánh trong Phật pháp, chúng ta đă được gặp. Đă gặp mà c̣n làm những chuyện để bị kẹt lại trong lục đạo hay sao? Ở đây, chỉ nói sơ lược trạng huống trong lục đạo mà thôi, nếu nói cặn kẽ sẽ nói không hết. Chúng tôi có soạn một cuốn sách mang tựa đề là Chư Kinh Phật Thuyết Địa Ngục Tập Yếu. Nếu giảng kỹ cuốn kinh ấy từ đầu tới cuối phải mất mấy năm, sẽ là một khóa học rất dài. Học xong, sẽ có lợi ích to lớn. Lợi ích ấy chính là chẳng dám khởi ác niệm nữa. Ác niệm c̣n không dám khởi, đương nhiên sẽ không dám tạo ác nghiệp, chắc chắn như vậy. Quư vị sẽ mong vượt thoát luân hồi, mong vượt thoát mười pháp giới. Trong mười pháp giới, lục đạo khổ lắm, lục đạo là uế độ. Tối thiểu cũng phải sanh trong tứ thánh pháp giới, đó là Tịnh Độ trong thế gian. Trong đó, có tạo nghiệp hay không? Chỉ tạo nghiệp nhẹ! Chẳng ở trong lục đạo nữa, vĩnh viễn thoát khỏi lục đạo. Con người chẳng thể không giác ngộ!

Vua Diêm La cai quản nghiệp sanh tử tội phước của thế gian, “chủ thủ địa ngục, bát hàn, bát nhiệt, cập kỳ quyến thuộc chư tiểu ngục đẳng” (làm chúa địa ngục, tám ngục nóng, tám ngục lạnh và các tiểu địa ngục quyến thuộc v.v…). Trong phần trước, chúng ta đă đọc thấy những nơi ấy đều do Ngài cai quản. Tám đại địa ngục nóng, tám địa ngục lạnh, tiểu địa ngục, kể cả mười sáu du tằng địa ngục, c̣n có cô độc địa ngục, đều do Ngài cai quản. “Quyết đoán thiện ác, dịch sử quỷ tốt, ư ngũ thú trung, truy nhiếp tội nhân, chúy khảo trị phạt, cánh vô hưu tức” (quyết đoán thiện ác, sai sử quỷ tốt truy bắt tội nhân trong năm đường, tra khảo, trừng phạt chẳng lúc nào ngơi), mấy câu này nói về chức trách của vua Diêm La. V́ vậy, quỷ thần, [tức là] những vị thần trong quỷ đạo đều công bằng, chánh trực. Tại sao lại đến làm thần trong quỷ đạo? Họ có duyên với cơi quỷ. Phật chẳng độ chúng sanh thiếu duyên! Cùng một đạo lư, bất cứ một người nào trong lục đạo nếu không có duyên, dẫu ở ngay trước mặt cũng không gặp gỡ. V́ vậy, duyên rất quan trọng. Nhà Phật nói nhân, duyên, và quả, đặc biệt xem trọng duyên; nhà Phật chẳng nói Nhân Sanh, mà nói Duyên Sanh, trong đó có đạo lư sâu xa. Nói tới Nhân th́ trong A Lại Da Thức của mỗi chúng sanh đều có đầy đủ hạt giống (chủng tử) của các pháp thế gian và pháp xuất thế gian. Pháp nào dấy lên hiện hành cũng đều phải nhờ vào duyên. Nếu không có duyên, tuy có hạt giống, vẫn chẳng thể dấy lên hiện hành.

Bồ Tát hiểu đạo lư này; do vậy, phàm những duyên bất thiện, họ sẽ xa ĺa, nên quả báo bất thiện vĩnh viễn chẳng hiện hành. Chúng ta đă hiểu, bèn có thể học theo Bồ Tát. Từ vô thỉ kiếp trong quá khứ, chúng ta đă tạo rất nhiều nhân ác, đời này khi chưa gặp Phật pháp, cũng tạo không ít nhân ác, có thể nào chẳng có quả báo ư? Không thể nào! Có nghiệp nhân bèn nhất định có nghiệp báo. Muốn những nhân ác ấy chẳng khởi quả ác, biện pháp duy nhất là chúng ta không tạo duyên ác, xa ĺa duyên ác. [Được như vậy th́] hạt giống ác sẽ không thể hiện hành. Vậy th́ chúng ta tạo ǵ? Nay tôi nghĩ mỗi vị đồng học đều biết: Chúng ta phải tạo duyên A Di Đà Phật. Trong A Lại Da Thức của chúng ta có nhân của A Di Đà Phật, nay dốc hết tâm lực để tạo duyên A Di Đà Phật, tạo duyên ấy ra sao? Đại Thế Chí Bồ Tát đă dạy: “Nhớ Phật, niệm Phật, hiện tiền, tương lai nhất định thấy Phật”. Thấy Phật là quả, c̣n nhân là hai câu đầu: “Nhớ Phật, niệm Phật”. “Nhớ Phật” là tâm thường nghĩ tới A Di Đà Phật, [“niệm Phật” là] miệng thường niệm A Di Đà Phật. “Nhớ Phật, niệm Phật” là nhân, “nhất định thấy Phật” là quả. Lời này vô cùng khẳng định, khiến cho người nghe chẳng có mảy may nghi ngờ, đó là thật, chẳng giả.

Trong thời gian gần đây, chúng ta thường nghe nói tai nạn rất nhiều. Lúc trước, nói thật ra, một năm trước, chẳng lâu lắm, trong nhiều trường hợp, chúng tôi chẳng nghe có ai nói đến về tai nạn, nhưng nội trong năm nay, h́nh như đây là một chủ đề thường được đưa ra để bàn luận. Chúng ta hăy suy nghĩ cặn kẽ, ngày càng cảm thấy mức độ nghiêm trọng của vấn đề này. Tai nạn do đâu mà có? Đức Phật biết, đệ tử Phật chúng ta biết. Đức Phật biết là do Ngài có công phu định lực, có trí huệ. Chúng ta biết là nhờ Phật dạy. Trong kinh, đức Phật thường nói, chúng ta nghe đức Phật dạy mới biết. Đức Phật dạy: “Hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng”. Kinh Hoa Nghiêm nói hết thảy các pháp đều do “duy tâm hiện, duy thức biến”. Chữ Tâm và Thức trong câu ấy đều có nghĩa là “tâm”. Tâm là chân tâm, Thức là vọng tâm. Vọng tâm chẳng ĺa chân tâm. Nói tóm lại, hết thảy các pháp chẳng ĺa Tâm. V́ sao tâm biến thành hết thảy các pháp? Tâm động liền biến thành hết thảy các pháp, tâm không động th́ hết thảy các pháp đều chẳng c̣n. Chữ “động” này là “ba động” (波動, dao động). Các khoa học gia hiện thời cũng đă chứng minh vạn sự vạn vật trong vũ trụ thật ra đều là các hiện tượng dao động. Do đó, khoa học đề ra một lư luận “dây đàn”, giống như các nhạc khí thuộc bộ dây, họ nêu ra lư luận về hiện tượng dao động.  

Hiện thời, tai nạn đang xảy đến. Tai nạn biến hiện như thế nào? Nhất định là do dao động bất thường, chẳng b́nh thường, cũng có thể nói là một thứ dao động trái nghịch lẽ thường. Dao động b́nh thường sẽ tương ứng với Tánh Đức. Dao động bất thường bèn trái nghịch với Tánh Đức. Do vậy, ngay cả các nhà khoa học cũng bảo những tiên đoán về năm 2012 chẳng đáng sợ…. Họ nói [tai nạn ấy] đáng lư là một lời cảnh giác cao độ đối với toàn thể nhân loại trên địa cầu, là một cơ hội tốt để [con người] sửa đổi chính ḿnh. Sửa bằng cách nào? Phải đoạn ác tu thiện, phải cải tà quy chánh, phải đoan chánh thân tâm, [được như vậy th́] nhân loại sẽ đưa địa cầu này tiến tới một cảnh giới tốt đẹp hơn. Đó là chuyện tốt đẹp, nói rất có lư, giống như cách nói của Phật pháp. Nếu không sửa đổi, phiền phức sẽ xảy đến, tai nạn ngày càng nghiêm trọng. Ư niệm nào là ư niệm tốt nhất? Hiện thời, các vị đồng học đều biết: Đọc tụng kinh Vô Lượng Thọ là ư niệm tốt nhất, “nhớ Phật, niệm Phật” là ư niệm tốt nhất, mọi người chúng ta cùng chia sẻ, báo cáo tâm đắc khi học kinh Vô Lượng Thọ là ư niệm tốt nhất. Mật độ tai nạn đúng là ngày càng nhiều, ngày càng nghiêm trọng, chúng tôi nỗ lực báo cáo tâm đắc khi học tập bộ kinh này với mọi người, chia sẻ cùng mọi người. Tôi hy vọng tới tháng Sáu hoặc tháng Bảy năm sau sẽ giảng hoàn tất kinh này. V́ thế, mỗi ngày phải giảng thêm hai tiếng đồng hồ, mỗi ngày giảng bốn tiếng đồng hồ chắc sẽ giảng hết, đây là việc cần thiết phải làm. Đối với tuổi tác của tôi hiện thời, giảng bốn giờ chẳng thành vấn đề, phải giảm bớt việc thù tạc, hy vọng quư vị nghe kinh nhiều hơn, tụng kinh nhiều hơn, bớt đến thăm tôi. Đến thăm tôi th́ sao? Tôi mệt, mà quư vị cũng mệt, hai bên đều mệt. Có thêm một chút giờ giấc để nghỉ ngơi, dưỡng thần; nghe kinh nhiều hơn, niệm Phật nhiều hơn th́ mới nên, như vậy th́ chúng ta mới là thật sự chăm sóc, thật sự quan tâm, hỗ trợ hợp tác lẫn nhau.

Tiếp đó, lăo cư sĩ trích một câu trong kinh Tam Khải, “Cố Tam Khải Kinh vân: - Tương phó Diễm Ma vương, tùy nghiệp nhi thọ báo. Thắng nhân sanh thiện đạo, ác nghiệp đọa Nê Lê” (V́ vậy, kinh Tam Khải[4] nói: “Giao cho vua Diễm Ma, theo nghiệp mà thọ báo. Nhân thù thắng th́ sanh vào đường lành, ác nghiệp đọa Nê Lê”). Chúng ta phải ghi nhớ bài kệ này. “Tương phó Diễm Ma vương” tức là dắt người tạo tội đi, dắt tới đâu? Dắt tới chỗ vua Diêm La, cho vua Diêm La trị tội và phán xét kẻ đó. Nếu họ có thiện tâm, thiện hạnh, vua Diêm La sẽ đưa họ đến cơi lành, trong Phật pháp gọi [các cơi lành ấy] là ba thiện đạo. Nếu tâm hạnh của họ đều chẳng thiện, sẽ đưa họ đến địa ngục. Bốn câu kệ này chẳng phải nhằm dọa dẫm người khác, mà là sự thật, chúng ta chớ nên xem thường nó. Bốn câu kệ ấy nói rơ sự nghiệp của vua Diêm La, đây là sự nghiệp của Ngài. Kế tiếp là giới thiệu kèm thêm: “Hựu dịch Song Vương” ([Diêm Ma Vương] c̣n được dịch là Song Vương), “dịch” () là phiên dịch, vua Diêm La c̣n được dịch thành Song Vương, v́ sao? “Huynh cập muội giai tác địa ngục vương, huynh trị nam sự, muội lư nữ sự, cố viết Song Vương” (v́ anh và em gái cùng làm vua địa ngục. Anh xem đàn ông, em xem đàn bà, nên gọi là Song Vương), kinh Phật có nói như vậy. Nam hay nữ đều là vua Diễm Ma, đều là b́nh đẳng, đâu có nói nam nữ không b́nh đẳng! Đây là nam nữ b́nh đẳng, thật sự b́nh đẳng. Vua Diêm La nam th́ xem đàn ông, nữ th́ xem đàn bà, nên gọi là Song Vương.

Diễm Ma La giới giả, tức thử vương chi quản giới” (Diễm Ma La Giới là cơi vua Diêm La cai quản). Chữ “giới” () có nghĩa là phạm vi, là phạm vi cai quản của họ. Luận Câu Xá chép: “Diễm Ma vương quốc, ư thử Thiệm Bộ châu hạ, quá ngũ bách du-thiện-na” (Cơi nước vua Diễm Ma: Ở phía dưới Thiệm Bộ châu chừng năm trăm du-thiện-na), du-thiện-na (yojana) tức là do-tuần, hơn năm trăm do-tuần “hựu Diễm Ma vương quốc, tung quảng lượng diệc nhĩ, tùng thử triển chuyển, tán cư dư xứ” (có vương quốc Diễm Ma. Cơi nước có kích thước cũng cỡ đó, lần lượt thay phiên nhau mà trụ. Hễ cơi này tan hoại th́ dời qua cơi khác). Chỗ làm việc chủ yếu của họ là ở dưới ḷng đất đại địa. Chúng ta đều biết phía dưới đại địa là lơi địa cầu. Lơi địa cầu là một biển lửa; do vậy, địa ngục được gọi là “tám địa ngục nóng”, đó là chỗ ở và cũng là chỗ Ngài làm việc. “Tung quảng lượng diệc nhĩ” nghĩa là [kích thước ngang dọc] cũng giống như vậy. “Tùng thử triển chuyển, tán cư dư xứ”, “dư xứ” (những chỗ khác) giống như trong phẩm Địa Ngục của kinh Trường A Hàm có nói: “Diêm Phù Đề Nam, Đại Kim Cang sơn nội, hữu Diêm La vương cung, vương sở trị xứ, tung quảng lục thiên do-tuần” (Phía Nam châu Diêm Phù Đề, trong núi Đại Kim Cang có cung vua Diêm La là chỗ vua Diêm La cai trị, ngang dọc sáu ngàn do-tuần). Dường như bao gồm toàn thể địa cầu, toàn bộ trái đất đều thuộc phạm vi cai quản của Ngài. Do đó, trong phần trước có nói: Địa ngục ở trong biển cả, trong núi cao, trong rừng cây, trong hang động, và cũng ở trên hư không, chỗ nào cũng có. Nói theo thuật ngữ khoa học hiện thời, sẽ là “kích thước không gian khác nhau”, chúng ta có thể tin tưởng hiện tượng này.

Địa ngục là như vậy, thật ra, cơi nào cũng chẳng phải là ngoại lệ, chỉ là kích thước không gian khác nhau mà thôi! Nếu một ngày nào đó, chắc chắn là có ngày ấy, chúng ta có khả năng đột phá các chiều không gian, trong Phật pháp có nói điều này, khi tâm địa thanh tịnh th́ các chiều không gian [khác biệt] chẳng c̣n tồn tại nữa. Các chiều không gian do đâu mà có? Các khoa học gia biết đích thực là có chuyện này, nhưng chẳng biết nó từ đâu mà có. Đức Phật biết, Ngài biết nguyên do rành rẽ: Đó là do phân biệt và chấp trước biến hiện. Chúng ta có tâm phân biệt, có tâm chấp trước, bèn có các chiều không gian. Nếu buông phân biệt, chấp trước xuống, các chiều không gian khác biệt sẽ chẳng c̣n nữa. Lúc đó, quư vị sẽ thấy hoàn toàn. V́ lẽ đó, mỗi pháp giới trong mười pháp giới đều chứa đựng hết thảy vũ trụ. Kinh Phật giảng rất thấu triệt: Một sợi lông hoặc một vi trần là vật nhỏ nhất, trong đó chứa đựng trọn khắp pháp giới hư không giới, tất cả hết thảy thông tin đều được chứa trong đó. Mỗi vi trần, mỗi sợi lông đều là như vậy. Quư vị thấy: Đó chẳng phải là “một tức là hết thảy, hết thảy tức là một” hay sao? Kinh Hoa Nghiêm đă nói chuyện này, thật sự đă nói thấu triệt, rơ ràng như vậy. Kinh luận Đại Thừa đă nói, đúng là đă nói chân thật: “Tức tại đương hạ” (chính ngay trong lúc này), tức là hiện tiền, chẳng có quá khứ, chẳng có vị lai, cũng chẳng có thế giới này hay thế giới phương khác! Sống ngay trong giây phút hiện tại, giây phút hiện tại chính là nhất niệm!

Tiếp đó, giải thích tam ác đạo là ǵ? “Tam ác đạo hựu danh tam ác thú” (Ba đường ác c̣n gọi là tam ác thú), “thú” là thú hướng (趣向: hướng về, hướng đến). Thú và Đạo có ư nghĩa giống nhau. “Hựu danh tam đồ, vị nhất thiết chúng sanh tạo ác sở sanh chi xứ; cố danh ác đạo” (c̣n gọi là tam đồ, là chỗ sanh về của hết thảy chúng sanh tạo nghiệp, nên gọi là “ác đạo”), tại sao gọi là ác đạo? Hết thảy chúng sanh tạo ác sẽ sanh về chỗ ấy. Do các sự ác chiêu cảm, nên gọi là “ác thú”. Do các điều thiện chiêu cảm, nên gọi là “thiện thú”, đó là cơi trời. Cơi người là nơi thiện ác hỗn tạp, nửa ác, nửa thiện. Nếu tâm hạnh của chúng ta thiện nhiều, ác ít, sẽ sanh lên cơi trời. “Địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh tam đạo, danh tam ác đạo” (ba đường địa ngục, ngạ quỷ, và súc sanh gọi là tam ác đạo). Phẩm Phương Tiện của kinh Pháp Hoa có câu: “Dĩ chư dục nhân duyên, đọa tam ác đạo (Do nhân duyên các dục, đọa lạc tam ác đạo), “cái vị chúng sanh, như nội hữu tham cầu dục lạc chi niệm thị vi nhân, ngoại phan duyên dục cảnh” (nghĩa là: Nếu chúng sanh trong tâm có ư niệm tham cầu dục lạc làm nhân, ngoài vin nắm dục cảnh), tức là cảnh giới ngũ dục lục trần, dục cảnh là ǵ? Đức Phật dạy: Đó là tiền tài, sắc đẹp, tiếng tăm, ăn uống, ngủ nghỉ, thị vi duyên, dĩ thử nhân duyên khởi niệm tạo ác, chung đọa ác đạo” (để làm duyên, th́ do nhân duyên ấy sẽ khởi niệm tạo ác; cuối cùng sẽ đọa ác đạo). Cuối cùng, quư vị nhất định đọa trong ác đạo v́ quư vị có nhân, có duyên. Tổ tiên người Trung Quốc thật ra cũng rất phi thường, tôi cảm thấy họ chẳng phải là phàm nhân, chẳng phải phàm phu. Vào thời thượng cổ, Phật giáo chưa truyền đến Trung Quốc, quư vị phải biết: Khi Phật giáo chánh thức truyền tới Trung Quốc dưới thời Hán Minh Đế, vào năm Vĩnh B́nh thứ mười, tức năm 67 Công Nguyên, do quốc gia phái đặc sứ chánh thức lễ thỉnh [các cao tăng] đến Trung Quốc. Trước năm 67, [ở Trung Quốc] có [Phật pháp] hay không? Chắc chắn là có, nhưng chưa phải là chánh thức. “[Phật pháp] chưa chánh thức” có thể đă bắt đầu hiện diện [tại Trung Hoa] vào khoảng giữa đời Châu; những người từ Ấn Độ đến Trung Quốc du lịch hoặc buôn bán, chắc chắn cũng đem [Phật pháp] đến Trung Quốc. Lúc đó, [Phật giáo đồ] số lượng ít, ảnh hưởng không lớn.

Quư vị thấy người Trung Quốc giảng về triết lư tánh mạng qua ba cương lănh được nói trong phần đầu của sách Đại Học. “Đại Học chi đạo”, “đại” là đại nhân, đại nhân là ǵ? Là thánh nhân. “Đại Học chi đạo” chính là đạo học của thánh nhân “tại minh minh đức, tại thân dân, tại chỉ ư chí thiện” (ở chỗ làm sáng tỏ Minh Đức, ở chỗ thân ái hết thảy người dân, đạt đến mức tốt lành tột cùng). Chúng ta dùng giáo nghĩa của kinh Hoa Nghiêm để giải thích ba cương lănh ấy. Kinh Hoa Nghiêm nói về Thể, Tướng, Dụng, đó là ba cương lănh của pháp Đại Thừa, dùng ba chữ “Đại Phương Quảng” (大方廣) làm đại biểu. Đại () là Thể, Minh Đức là Thể, Thân Dân là Tướng, Thân Dân là ǵ? Thân () là thân ái, yêu mến hết thảy chúng sanh, có ư nghĩa như vậy. Quảng () là nói về Dụng, Dụng là ǵ? “Chỉ ư chí thiện” (止於至善). Ba câu này rất phù hợp với Đại Phương Quảng, là tổng cương lănh, là nguyên tắc chung để giáo hóa chúng sanh của thánh nhân, của Phật, Bồ Tát. Minh Đức là Tánh Thể, [tức là] Lư Thể của Tự Tánh. Thân Dân là tướng mạo, là h́nh dáng của Tự Tánh. “Chỉ ư chí thiện” là Đức Dụng của Tự Tánh. Nhập môn từ chỗ nào? Làm thế nào để viên măn? Làm thế nào để viên măn “chỉ ư chí thiện”? Đấy là tác dụng. Tám cương mục tiếp đó sẽ nói rơ, bắt đầu từ Cách Vật (格物). Vật được nói ở đây là dục vọng, tức Vật Dục (ham muốn vật chất), [Cách Vật là] phải buông bỏ Vật Dục. Vật Dục chẳng tốt, là ô nhiễm, là bất thiện. Buông xuống những ǵ? Trong mấy chục năm dạy học, chúng tôi thường nói “buông xuống tự tư, tự lợi, buông xuống tiếng tăm, lợi dưỡng, buông xuống tham, sân, si, mạn”, đó là Cách Vật. Chúng tôi dùng Phật pháp để giải thích th́ mọi người sẽ dễ hiểu.

Khi đă Cách Vật, trí huệ sẽ hiện tiền, [tức là] đă Trí Tri! Trí Tri (致知) là ǵ? Trong kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, điều thứ ba trong Tam Phước có nói “phát Bồ Đề tâm”, Bồ Đề là ǵ? Là giác ngộ, chẳng c̣n mê hoặc nữa, đă thật sự giác ngộ. Người thật sự giác ngộ, chắc chắn sẽ “tin sâu nhân quả, đọc tụng Đại Thừa”, trí huệ mở mang. “Khuyến tấn hành giả”: Không chỉ thành tựu chính ḿnh, mà c̣n phải giáo hóa kẻ khác. Thích Ca Mâu Ni Phật giác ngộ, sau khi đă giác ngộ, suốt đời theo đuổi việc dạy học. Bốn câu ấy chính là Trí Tri. Đă Trí Tri th́ Ư Thành, [nghĩa là] ư niệm chân thành bèn hiện hữu. Thành () là ǵ? Một vọng niệm cũng chẳng có. Trong Cầu Khuyết Trai Bút Kư, ông Tăng Quốc Phiên đă giải thích và định nghĩa chữ Thành trong Chân Thành, lăo nhân gia định nghĩa chữ Thành giống như cách nói trong kinh Phật: “Một niệm chẳng sanh gọi là Thành”. Ư thành th́ tâm sẽ chánh, tâm chẳng lệch lạc, không tà vạy, chẳng nhiễm, chẳng tịnh, Phật pháp gọi đó là Trung Đạo Đệ Nhất Nghĩa Đế. Đó là ǵ? Là cái Dụng của Tâm, tâm khởi tác dụng. Thể của Tâm là ǵ? Thể của Tâm là Thành Ư. Thành Ư khởi tác dụng tức là “nhị biên bất lập, Trung Đạo bất tồn” (Hai bên chẳng lập, Trung Đạo không c̣n), mới có thể “chỉ ư chí thiện”. Hiệu quả của “chỉ ư chí thiện”“thân tu, gia tề, quốc trị, thiên hạ b́nh”. Có thiện tâm thiện hạnh th́ vua Diêm La đưa quư vị tới thiện đạo. Do vậy, tam ác đạo chính là “tự tư tự lợi, tiếng tăm, lợi dưỡng, ngũ dục, lục trần, tham, sân, si mạn”. Buông bỏ những thứ này sẽ là thiện đạo, là trở về tự tánh.

Thử chương cụ nhị nguyện” (chương này nêu lên hai nguyện). Kinh văn trong trong chương này có hai nguyện là “quốc vô ác đạo nguyện, cập bất đọa ác thú nguyện” (nguyện cơi nước chẳng có ác đạo và nguyện chẳng đọa trong đường ác). Đây là chương thứ nhất. “Thủ sổ cú” (mấy câu đầu) là nói chung, bốn câu mở đầu, “chi văn ư vi: Ngă nhược chứng đắc Như Lai Quả Giác, thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, tức dĩ cứu cánh thành Phật, thị thời ngă sở trụ tŕ chi Phật độ, cụ túc vô lượng bất khả tư nghị công đức trang nghiêm” (ư của kinh văn là: Nếu tôi chứng đắc Như Lai Quả Giác, thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác tức là đă rốt ráo thành Phật, th́ ngay khi ấy, trong cơi Phật mà tôi trụ tŕ, sẽ có đầy đủ vô lượng công đức trang nghiêm chẳng thể nghĩ bàn). Đây là ư nghĩa của kinh văn, cụ Hoàng dùng văn Bạch Thoại để giải thích, chúng ta đọc thấy rất dễ hiểu. “Dĩ thượng sổ cú” ([Kinh văn] dùng mấy câu trên đây), bốn câu ấy, “tổng biểu Cực Lạc thế giới chi vi diệu thù thắng, cố ư đệ nhất nguyện thủ tuyên thuyết chi” (để diễn tả một cách tổng quát những sự vi diệu thù thắng của thế giới Cực Lạc. V́ vậy, những câu ấy được tuyên nói ở đầu nguyện thứ nhất). Phần mở đầu của nguyện thứ nhất nói rơ sự vi diệu thù thắng trong Tây Phương Cực Lạc thế giới. Nói thật ra, cơi Cực Lạc là nơi thực hiện ba cương lănh đă nói trong sách Đại Học, Tam Cương Bát Mục đều được thực hiện trọn hết. Người Trung Quốc gọi thế giới Cực Lạc là “đại đồng chi trị”. Trong cảnh giới đó, mọi sự đều viên măn, chẳng có mảy may khiếm khuyết. Nhân dân khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo tác đều tùy thuận Tánh Đức. Tánh Đức như người Trung Quốc đă nói, [chính là] Ngũ Luân, Ngũ Thường, Tứ Duy, Bát Đức, hết thảy đều được áp dụng trong đời sống hằng ngày, quư vị đă thấy, đă thấu hiểu: Những thứ ấy tương ứng với Tánh Đức. Đấy là cảnh giới thánh hiền, là xă hội thánh hiền, là nền chánh trị của thánh hiền.

Con người toàn là bậc thánh hiền, sự vật toàn là sự vật thánh hiền, cảnh giới là cảnh giới thánh hiền. Người đời sau vô cùng hâm mộ, ngưỡng mộ, hy vọng có thể thực hiện. Có thể làm được hay không? Có thể! Dùng phương pháp ǵ? Dùng dạy học. Chánh phủ Trung Quốc chánh thức thiết lập quan chức chăm sóc việc giáo học. Vào thời vua Nghiêu đă lập ra một quan chức trông nom giáo dục là Tư Đồ (司徒), đó là danh xưng của một chức quan. Tư Đồ trông nom việc ǵ? Trông nom giáo dục, giống như Bộ Trưởng Bộ Giáo Dục hiện nay. Họ dạy ǵ? Dạy Ngũ Luân, Bát Đức. Chúng ta thấy trong chương thứ nhất sách Ngũ Chủng Di Quy của tiên sinh Trần Hoằng Mưu đă nói về chuyện này, nói về sự khởi đầu của nền giáo học Trung Quốc, rất hay! Trung Quốc tiếp nhận sự giáo dục của thánh hiền quân tử suốt mấy ngàn năm nay, nên nước này trải qua lịch sử mấy ngàn năm vẫn c̣n có thể tồn tại. Trong bốn nền văn minh cổ xưa trên thế giới, ba quốc gia khác đă chẳng tồn tại, v́ sao? Họ bỏ quên nền giáo dục thánh hiền, nên mới bị diệt vong. Người Trung Quốc xem trọng giáo dục thánh hiền, nên ngày nay vẫn c̣n đứng vững trên thế gian, chớ nên không biết chuyện này! Nếu không biết chuyện này, người Trung Quốc sẽ cảm thấy rất xấu hổ, chẳng biết những thứ quư báu của tổ tiên để lại, ngay cả người ngoại quốc c̣n biết mà!

Bốn câu ấy, “dĩ hạ tắc phân tự tứ thập bát nguyện các các nội dung” (kế đó, lần lượt tŕnh bày nội dung của từng nguyện trong bốn mươi tám nguyện). Trong Khoa Phán, tôi gọi [những phần ấy] là Biệt Đề, gọi bốn câu trước là Tổng Thuyết (nói chung). Bốn mươi tám nguyện sau đó là Biệt Thuyết (nói riêng), báo cáo từng điều riêng rẽ.

Kỳ hạ đệ nhất nguyện viết: Vô hữu địa ngục, ngạ quỷ, cầm thú, quyên phi nhuyễn động chi loại” (tiếp theo đó là nguyện thứ nhất: “Chẳng có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, cầm thú, các loài ngọ nguậy, bay lượn, ḅ trườn”), đây là nói đến tam ác đạo. “Năi quốc trung vô hữu tam ác đạo nguyện, thử chánh biểu Di Đà đại bi tâm thiết, cố thủ lưỡng nguyện duy nguyện chúng sanh vô khổ, tam ác đạo năi khổ trung chi cực dă” (đó là nguyện “cơi nước không có ác đạo”. Nguyện này thật sự thể hiện đức Di Đà do tâm đại bi thiết tha, nên ngay trong hai nguyện đầu đă chỉ mong chúng sanh không khổ. Sự khổ trong ba ác đạo là nỗi khổ nặng nề nhất). Ở đây đă nêu hết sức rơ ràng: Đức Phật tạo ra cơi Cực Lạc, vô cùng từ bi, thương yêu hết thảy chúng sanh, khiến cho chúng ta cảm ân, cảm động. Quư vị thấy trong quan niệm của Ngài, khế nhập từ chỗ nào? “Chúng sanh khổ nhất, hết thảy chúng sanh sanh về cơi nước của tôi sẽ không phải chịu khổ nữa!” Trong cơi nước của Ngài, không có tam ác đạo. Trong kinh Hoa Nghiêm, chúng ta đọc phẩm Hoa Tạng Thế Giới và phẩm Thế Giới Thành Tựu, hai phẩm ấy giới thiệu thế giới to lớn trong vũ trụ, các khoa học hiện thời gọi [cách nh́n ấy] là Vũ Trụ Vĩ Mô. Kinh nói rất rơ ràng, vũ trụ do đâu mà có? Khởi nguyên của vũ trụ là ǵ? Hiện thời, phần kinh văn ấy được gọi là “khoa học cao cấp”. Không chỉ là triết học cao cấp, mà c̣n là khoa học cao cấp.

Nhiều thế giới, nhiều cơi nước chư Phật đều có lục đạo luân hồi. Có nơi nào hoàn toàn là Tịnh Độ hay không? Có chứ! Không nhiều! Vũ trụ quả thật quá lớn, do vậy, cũng không thể nói [Tịnh Độ] là thiểu số. Đó là Báo Độ của chư Phật, Bồ Tát, trong đó không có mười pháp giới, trong kinh gọi [các cơi ấy] là “thanh tịnh quốc độ”. Cũng có cơi nước chỉ có tứ thánh pháp giới, chứ không có lục đạo luân hồi. Do đây biết rằng: Nếu nói theo cách hiện thời, giáo dục thánh hiền ở thế giới đó rất phát triển. V́ vậy, cư dân ở đó đều được giáo dục rất tốt, tâm hạnh đều đoan chánh, chẳng có ác niệm, nên ở đó không có ác đạo. Tây Phương Cực Lạc thế giới do A Di Đà Phật từ bi vô hạn tạo lập dành cho chúng sanh khổ nạn, thậm chí kiến lập cho chúng sanh trong tam ác đạo, nên nó có lục đạo; nhưng chúng sanh từ tam ác đạo sanh về cơi Cực Lạc, quả báo thấp nhất cũng là được làm thân người, chẳng phải là súc sanh, dĩ nhiên chẳng phải là ác quỷ, địa ngục, điều này thật phi thường! Do đó, thế giới Cực Lạc không có lục đạo, chỉ có tam đạo, [tức là] có ba thiện đạo, chẳng có tam ác đạo. Thế giới Cực Lạc c̣n có một đặc điểm nữa, bốn cơi [Tịnh Độ] ở đó đều b́nh đẳng, đây là điểm không thể t́m được trong các cơi nước chư Phật khác. Trọn pháp giới, hư không giới đều chẳng có, chỉ riêng cơi Cực Lạc là như vậy. B́nh đẳng như thế nào? Bốn cơi b́nh đẳng, cơi Thường Tịch Quang, cơi Thật Báo Trang Nghiêm, cơi Phương Tiện Hữu Dư, cơi Phàm Thánh Đồng Cư, có bốn cơi rơ ràng, nhưng chư Bồ Tát ở đó đều là A Duy Việt Trí Bồ Tát, đều b́nh đẳng. Đây là cảnh giới thù thắng vi diệu cùng cực, chẳng thể nghĩ bàn.

Nếu chúng ta có Túc Mạng Thông, biết hạnh nghiệp chính ḿnh đă tạo trong đời quá khứ, biết những quả báo chính ḿnh đă hứng chịu, chúng ta sẽ thật sự giác ngộ, sẽ không dám làm nữa, mệt quá rồi, rất đáng thương! Tạo nghiệp sanh tử luân hồi trong lục đạo chẳng có ư nghĩa ǵ cả, mê hoặc, điên đảo, đối với chúng sanh oan oan tương báo chẳng bao giờ dứt, nhiều đời nhiều kiếp đều là như vậy! Đối với người giác ngộ th́ chuyện này rất đáng thương. V́ thế, người thật sự giác ngộ sẽ không muốn làm [chuyện luân hồi] nữa. Đến nơi đâu? Các cơi nước chư Phật tuy thanh tịnh trang nghiêm, nhưng đ̣i hỏi điều kiện rất cao, không thể đến được. Điều kiện ǵ vậy? Phải đoạn phiền năo! Đoạn Kiến Tư phiền năo th́ mới có thể sanh trong cơi Phương Tiện Hữu Dư, tức là tứ thánh pháp giới. Mấy ai có thể đoạn Kiến Tư phiền năo? Chúng ta đừng nói mức cao lắm, chỉ nói mức thấp nhất, Tiểu Thừa Sơ Quả là mức thấp nhất, ví như lớp Một của Tiểu Học. [Sơ Quả Tiểu Thừa] đ̣i hỏi điều kiện là phải buông xuống những cách nh́n sai lầm đối với vũ trụ và nhân sinh. Cách nh́n sai lầm rất nhiều, trước hết, phải bắt đầu từ những chỗ nghiêm trọng nhất. Thứ nhất là quan niệm có thân thể, chúng sanh trong lục đạo đều chấp trước thân thể này là Ta, nên họ không thể thoát khỏi lục đạo luân hồi. V́ sao có lục đạo? V́ chấp trước thân h́nh này là Ta, đây là một nhân tố chủ yếu của lục đạo luân hồi, chỉ cần có chấp trước ấy, chắc chắn quư vị chẳng thể thoát nổi, đó là chuyện phiền phức. Sơ Quả Tiểu Thừa đă hiểu rơ, nên các Ngài không c̣n chấp trước nữa. Tuy không chấp trước, nhưng họ chưa đoạn dứt tập khí, vẫn c̣n tập khí sót lại, nên vẫn chưa thoát khỏi lục đạo luân hồi, phải đạt đến Tứ Quả th́ mới thoát khỏi lục đạo luân hồi. Sơ Quả Tu Đà Hoàn, Nhị Quả Tư Đà Hàm, Tam Quả A Na Hàm đều chẳng thoát khỏi lục đạo; nhưng đạt tới A Na Hàm th́ đă thoát khỏi Dục Giới, trong lục đạo, các Ngài chẳng sanh trong Dục Giới nữa, chỉ ở trong các cơi trời thuộc Sắc Giới, trụ trong Tứ Thiền, tức Đệ Tứ Thiền của Sắc Giới Thiên. Người thông minh lợi căn từ Sơ Thiền bèn có thể vượt khỏi lục đạo. Nếu căn tánh kém hơn, phải trải qua Tứ Không Thiên, tu Tứ Không Định đến tầng cao nhất là Phi Phi Tưởng Xứ Thiên, lại tăng cao hơn nữa, bèn vượt khỏi lục đạo, quư vị nghĩ xem, quá khó! Chúng ta tu học, hiểu rơ đạo lư này, sẽ biết phải tu như thế nào. Niệm Phật cũng đă biết niệm, đừng chấp trước cái thân là chính ḿnh! Thân là giả, bất cứ lúc nào cũng có thể buông bỏ. Thân chẳng phải là ta, thân [là vật] thuộc về ta, thân chẳng phải là Ta, giống như quần áo, đây là quần áo của tôi, chẳng phải là tôi. Quan niệm này rất quan trọng.

Quan niệm, tức cách nh́n sai lầm thứ nh́ là Biên Kiến, tức là “đối lập”. Quư vị có ưa thích, có chán ghét. Những ǵ ḿnh ưa thích sẽ không chịu chia sẻ với người khác; những ǵ ḿnh chán ghét bèn chẳng chịu ở chung với họ, đó là đối lập nặng nề, là chuyện phiền phức! Quư vị thấy đức Phật xếp nó vào tầng thứ hai, [có nghĩa là] chuyện này quan trọng lắm, chỉ thua chấp trước thân thể mà thôi, đó là Biên Kiến, phiền phức lắm! Phải tu hành như thế nào, đặc biệt là đối với những người ḿnh chán ghét nhất? Lúc trước, tôi ở Đài Loan, hoặc ở Mỹ, có các đồng tu đến hỏi tôi về vấn đề này, phải làm sao? Tôi bảo họ, hăy lập một bài vị Trường Sanh ghi tên người mà họ ghét nhất, không ưa nhất. Trong nhà quư vị chẳng phải là có thờ tượng Phật ư? Hăy đặt bài vị đó cạnh tượng Phật, mỗi ngày lạy Phật xong, hướng về bài vị, lạy người đó ba lạy, [làm như vậy sẽ dần dần] hóa giải [sự đối lập] ấy. Có nhiều người thật sự làm, có hiệu quả, [sự chán ghét ấy] giảm bớt rất nhiều. Có người lạy hết hai, ba năm, nhưng mỗi lần nhắc tới [kẻ đó] th́ trong tâm vẫn c̣n ghét, “vậy th́ tôi phải làm sao?” Tôi nói: Công phu của quư vị c̣n chưa đủ, hăy nỗ lực tiếp tục lạy. Oan gia hăy nên giải, đừng nên kết. Đối xử với hết thảy chúng sanh, hăy giữ tâm cung kính, hăy giữ tâm cảm ơn. Tại sao phải cảm ơn? Hết thảy chúng sanh từng giờ từng phút đều nhắc nhở chúng ta, nhắc nhở ǵ vậy? Nhắc nhở chúng ta giáo dục nhân quả, họ đang biểu diễn. Quư vị thấy kẻ đó làm lành, đạt được thiện báo; làm ác mắc ác báo, đều là biểu diễn cho chúng ta thấy “nhân quả báo ứng tơ hào chẳng sai”. Đó là đại ân đại đức đối với chúng ta, rốt cuộc chúng ta thấy rơ ràng, hiểu rành rẽ. Sau khi thật sự hiểu rơ, quư vị nhất định sẽ đoạn ác, tu thiện, đă có trí huệ. “Đoạn ác tu thiện, chẳng có phân biệt, chấp trước” là mức cao hơn, là Bồ Tát. Dứt ác mà không chấp trước tướng dứt ác, tu thiện mà không chấp trước tướng tu thiện, chuyện ấy thường được nói là “xem trọng thực chất, không xem trọng h́nh thức, không chấp tướng”. Không chấp tướng là Bồ Tát, hễ c̣n chấp trước th́ là phàm phu. Chớ nên không hiểu đạo lư này.

V́ vậy, nếu quư vị quan sát cặn kẽ th́ hết thảy sự việc, ở mọi chỗ, trong mọi lúc đều đang dạy chúng ta, chúng ta đang được giáo dục. Giáo dục ǵ vậy? Giáo dục của Phật, giáo dục của Bồ Tát, năm mươi ba lần tham học của Thiện Tài Đồng Tử nhằm dạy chuyện này, quư vị thật sự học sẽ thật sự giác ngộ. Thật sự đă hiểu th́ quư vị mới hiểu một câu trong kinh Phật: “Hết thảy chúng sanh vốn là Phật”. Họ đang thị hiện, đều nhằm dạy ta. Vậy th́ xin chúc mừng quư vị, trong đời này, quư vị sẽ thành Phật rất nhanh, v́ sao? Quư vị đă thấy Phật. Hết thảy chúng sanh đều là Phật, đều đang biểu diễn cho chúng ta xem, đều đang dạy chúng ta; họ chẳng dạy bằng lời nói, mà dạy bằng hành động, làm sao không cảm ân cho được! Thiện Tài đồng tử có thể thành tựu trong một đời là v́ đạo lư này: Đối với hết thảy chúng sanh đều “luyến đức lễ từ”, “luyến” () nghĩa là cảm kích. Họ biểu diễn mọi thứ cho ta xem, có ân đức với ta, ta phải cảm kích họ. “Lễ” () là cung kính đối với họ, “từ” () là không học theo họ. Họ làm ác, ta không bắt chước; họ làm thiện, ta bắt chước theo, nhưng không chấp trước. Nói cách khác, chẳng có mảy may ư niệm danh lợi ǵ hết. Cổ nhân có hai câu rất hay, [câu thứ nhất là] “vi thiện mạc cận danh”, [nghĩa là] quư vị làm việc thiện chẳng cần nổi danh. Hễ nổi danh là hỏng rồi! [Câu thứ hai là đối với] chuyện làm việc ác th́ “mạc cận h́nh”, [ư nói] có thể làm việc ác, nhưng không thể làm việc phạm pháp, phải giữ vững [nguyên tắc này]. Do đó thiện và ác đều có phạm vi “không thể đến gần”, [nghĩa là] thiện không thể gần gũi cái danh, ác không thể tiếp cận chuyện phạm pháp, dạy quư vị giữ nơi Trung Đạo. Người giữ Trung Đạo là người có phước.

Tiếp đó, sách Chú Giải viết: “Mật Giáo trung viết: ‘Đại bi vi căn, Bồ Đề vi nhân, phương tiện vi cứu cánh’. Hựu Hoa Nghiêm Kinh Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm viết: ‘Chư Phật Như Lai dĩ đại bi tâm nhi vi Thể cố’. Cố nguyện quốc trung vĩnh vô ác thú” (Trong Mật giáo có nói: “Đại bi làm căn, Bồ Đề làm nhân, phương tiện làm cứu cánh”. Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện của kinh Hoa Nghiêm cũng nói: “Chư Phật Như Lai lấy tâm đại bi làm Thể”, nên Phật nguyện trong nước Ngài vĩnh viễn chẳng có đường ác). Những câu này h́nh dung tâm đại bi thiết tha của A Di Đà Phật, tâm đại bi thương xót hết thảy chúng sanh trong ác đạo. Ngài tạo phương tiện cho chúng ta, phương tiện là cứu cánh. Bồ Tát có thể xả ḿnh v́ người, siêng dạy chúng sanh, chẳng mệt, chẳng chán, sức mạnh ǵ thúc đẩy các Ngài? Người trong thế gian nỗ lực hết ḷng làm việc, động lực ǵ thúc đẩy họ? Danh lợi thúc đẩy! Có danh, có lợi, quư vị sẽ làm hết ḿnh. Nếu không có danh lợi, quư vị sẽ không làm. Sau khi Trung Quốc cải cách, mở cửa, nhân dân cần mẫn, phấn khởi [làm việc]. Trước kia, chúng tôi ở nước ngoài nghe thấy, có không ít người đă đến Trung Quốc, khi trở về, họ nói như thế nào? Họ nói: “Dân Trung Quốc biếng nhác nhất thế giới! Họ chẳng làm việc, chẳng chịu làm việc, vô cùng tiêu cực”. Đó là ǵ? Lúc đó người dân sống theo kiểu công xă, chẳng có danh lợi, quư vị làm nhiều hơn th́ cũng hưởng bấy nhiêu, quư vị không làm th́ cũng hưởng bấy nhiêu, do đó, ai cũng không chịu làm. Sau cải cách, làm được bao nhiêu đều là của chính ḿnh, nên ai cũng ra sức làm việc trối chết, làm cả ngày lẫn đêm, đó không phải là một chứng minh cụ thể cho [sự thúc đẩy của danh lợi] hay sao? Phật, Bồ Tát chẳng cần ǵ hết, tại sao các Ngài lại làm hết ḿnh như vậy? V́ tâm từ bi, là bi tâm. Do đó, động lực này c̣n mạnh mẽ hơn động lực của danh lợi rất nhiều. [V́ danh lợi] th́ lợi nhuận không c̣n, sẽ không làm việc; nhưng tâm từ bi th́ các Ngài chẳng thể không có, tâm ấy vĩnh hằng bất diệt. Do tâm từ bi thúc đẩy, nên các Ngài vĩnh viễn không nghỉ ngơi, vĩnh viễn không ngưng nghỉ. Trong thế gian, không thể t́m động lực nào có thể sánh bằng tâm từ bi ấy, t́m không ra! Do đó, người không học Phật thấy dường như những người học Phật tinh tấn ngần ấy, họ không có danh, mà cũng chẳng có lợi, tại sao lại khờ như vậy? Thật ra, họ chẳng khờ tí nào, đó là v́ tâm từ bi của họ lưu lộ, họ đang tu Bồ Tát hạnh, chẳng kỳ lạ, hiếm hoi chút nào! Chúng ta chớ nên không biết điều này.

Bồ Đề là nhân, Bồ Đề là giác, chẳng c̣n mê hoặc. Quư vị thấy đó: Đại bi là gốc rễ, bi tâm thúc đẩy quư vị, có trí huệ sẽ không có phiền năo, đó là Bồ Đề. Phương tiện: Phương () là phương pháp, Tiện (便) là phương pháp vô cùng thích đáng. Phương tiện chẳng có nhất định, hết thảy đều do đối tượng, do thời điểm, do sự việc, do nhiều thứ khác nhau, nhưng nói chung đều gom về “chỉ ư chí thiện”. Làm đến mức tốt nhất, viên măn nhất th́ phương tiện mới có thể thực hiện được, chẳng phải [chỉ] là một phương pháp [cố định]. Do đó, nhà Phật thường thêm hai chữ “thiện xảo” (善巧: khéo léo) sau chữ “phương tiện”. [Nói việc ǵ đó] vô cùng tốt lành, vô cùng khéo léo, việc đó làm được viên măn dường ấy th́ mới gọi là “cứu cánh” (究竟: rốt ráo). Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện cũng nói như vậy “chư Phật Như Lai dĩ đại bi tâm nhi vi Thể” (Chư Phật Như Lai dùng tâm đại bi làm Thể), chỉ rơ A Di Đà Phật lúc tu nhân, tức là tỳ-kheo Pháp Tạng, kiến lập thế giới Cực Lạc, dũng mănh tinh tấn là do nguyên nhân ǵ? Đại bi, Bồ Đề, phương tiện khéo léo. Đích thực là rất giống với ư nghĩa “minh đức, thân dân, chỉ ư chí thiện” được nói trong sách Đại Học. “Chỉ ư chí thiện” nghĩa là dùng phương tiện để đạt đến cứu cánh, “thân dân” là dùng Bồ Đề làm nhân, “minh đức” là dùng đại bi làm gốc rễ. Ba cương lănh ấy (minh đức, thân dân, chỉ ư chí thiện) là bản tánh của hết thảy chúng sanh. Tam Tự Kinh nói: “Nhân chi sơ, tánh bổn thiện” (con người lúc ban đầu tánh vốn thiện), ba cương lănh ấy chính là tánh vốn lành, mỗi người đều có. Tại sao nay chúng ta không có? V́ đă mê mất tự tánh, tức là mê mất ba cương lănh ấy, chúng ta mê mất “minh đức, thân dân, chí thiện”. Minh Đức biến thành vô minh, chẳng sáng suốt, hồ đồ, chẳng hiểu rơ. Thân Dân biến thành phiền năo; vốn là trí huệ, Bồ Đề biến thành phiền năo. Phương tiện thiện xảo biến thành tạo nghiệp; tạo hết thảy ác nghiệp, điên đảo mất rồi, đảo ngược một trăm tám mươi độ. Đó là phàm phu, phải xoay trở lại th́ mới là thánh nhân, Phật, Bồ Tát. Đây là nguyện thứ nhất, nguyện “cơi nước không có ác đạo”.

Lại xem nguyện thứ nh́: “Bất đọa ác thú nguyện, hoặc viết bất cánh ác thú nguyện” (Nguyện chẳng đọa vào đường ác, hoặc c̣n gọi là nguyện chẳng đọa đường ác lần nữa), tức là nguyện chẳng c̣n đọa trong ác đạo. “Vi đệ nhị nguyện. Thử thừa đệ nhất nguyện nhi ngôn, ngă quốc bất đản vô tam ác đạo, thậm chí ư tùng Diễm Ma La giới” (là nguyện thứ hai. Nguyện này thừa tiếp ư nghĩa trong nguyện thứ nhất: Cơi ta không chỉ chẳng có ba đường ác, mà thậm chí từ cơi vua Diêm La), từ cơi vua Diêm La sanh về, tức là đến từ cơi địa ngục, “đẳng ác đạo trung, lai sanh ngă quốc chi nhất thiết chúng sanh, thọ Phật chi giáo hóa” (hết thảy các chúng sanh từ các nẻo ác v.v… sanh về cơi ta, nhận lănh sự giáo hóa của Phật), câu này vô cùng quan trọng, “bất đản vĩnh bất cánh nhập ác thú, tịnh tất giai thành A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề” (th́ không chỉ vĩnh viễn chẳng bị sanh vào ác đạo lần nữa, mà c̣n đều thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác), tuyệt diệu thay! Đây thật sự là dùng phương tiện để thực hiện cứu cánh, phương tiện khéo léo đạt đến rốt ráo chính là “chỉ ư chí thiện”. Dùng kinh Phật để giải thích những đạo lư của Nho gia sẽ giảng rất thấu triệt. Dùng Phật giáo để giải thích một cương lănh do Nho gia đưa ra, sẽ giảng giải rơ ràng, rành rẽ, thấu triệt, chúng ta sẽ giác ngộ. Do đó, Tiến Sĩ Thang Ân Tỷ (Arnold Joseph Toynbee) từng nói: “Tâm lượng của cổ nhân Trung Quốc rất lớn, có thể bao dung văn hóa của dị tộc”, [văn hóa dị tộc] chính là Phật giáo”. Phật giáo chẳng phải là văn hóa bản địa của Trung Quốc, mà là văn hóa nước ngoài. Phật giáo truyền đến Trung Quốc, người Trung Quốc bao dung, hấp thụ, và học tập Phật giáo. Nhờ đó, Phật giáo phong phú hóa nền văn hóa vốn sẵn có của Trung Quốc. Chúng ta dùng những điều này để giảng giải Tứ Thư, Ngũ Kinh, sẽ nói rất có ư vị, thật sự giảng giải thấu triệt. Do đó, Phật giáo có cống hiến rất lớn đối với nền văn hóa truyền thống của Trung Quốc, quá to lớn. Văn hóa Trung Quốc vĩnh viễn không thể tách ĺa Phật giáo. Quư vị thấy “chỉ ư chí thiện” được thể hiện ở chỗ này.

Thậm chí những chúng sanh đến từ ác đạo, đến từ chỗ vua Diêm La, chúng ta biết, vua Diêm La cai quản rất nhiều địa ngục, rất phức tạp. Bất luận từ địa ngục nào thoát ra, nếu gặp gỡ chúng sanh hữu duyên, chúng ta có thể lư giải chuyện này, các chúng sanh đọa trong ác đạo ấy, trong đời quá khứ đă từng học Phật, nếu họ không học Phật, sẽ chẳng có cái nhân này, người khác chẳng thể giúp họ được. Người nào giúp họ? Nhân vật tiêu biểu là Địa Tạng Bồ Tát. Chư vị phải biết: Địa Tạng Bồ Tát chẳng phải là một người. Phàm những ai tu pháp môn Địa Tạng, phát nguyện vào trong ác đạo giáo hóa chúng sanh, đều gọi là Địa Tạng Bồ Tát. Do đó, Địa Tạng Bồ Tát là một danh hiệu chung, có rất nhiều người mang danh hiệu này. Người phát nguyện học theo Địa Tạng Bồ Tát rất nhiều, tâm rất từ bi, tâm rất hiếu thảo, người như vậy có duyên với Địa Tạng Bồ Tát, ở trong các địa ngục khác nhau, trong các phần trước đă nói [về địa ngục] rất nhiều, họ ở trong đó giáo hóa những người hữu duyên. Hữu duyên, có duyên với Bồ Tát th́ trong A Lại Da Thức đă có chủng tử Phật pháp, họ chịu khổ trong địa ngục, đau khổ đến cùng cực, người ấy khuyên họ niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, họ nghe xong, liền thật sự niệm A Di Đà Phật, thật sự phát tâm cầu sanh Tịnh Độ, thật sự văng sanh. Quư vị thấy đó: Nhanh ngần ấy, chỉ trong ṿng một niệm! Người có nghiệp chướng rất nặng, nhắc nhở một lần, họ đă nghe, nhưng v́ quá khổ, nên chưa cảm nhận được, c̣n chưa tiếp nhận được, vậy th́ phải tiếp tục chịu khổ, đến lúc cơ duyên thích hợp, Bồ Tát sẽ nhắc họ một lần nữa. Có người phải được nhắc nhở nhiều lần mới giác ngộ, vừa giác ngộ liền thoát ra. Thọ mạng trong địa ngục rất dài, rất dài là như thế nào? Người không gặp duyên sẽ rất dài; nếu gặp những duyên này, sẽ thoát khỏi rất nhanh. Từ địa ngục có thể trực tiếp văng sanh Cực Lạc thế giới, quư vị thấy pháp môn này thù thắng biết bao!

      Chúng sanh cơi địa ngục c̣n văng sanh dễ dàng ngần ấy, huống hồ nhân gian! Nhân gian khó [văng sanh] nhất, v́ sao không thể văng sanh? Do chính ḿnh tự tạo, tự ḿnh nghĩ hoàn cảnh trước mắt hăy c̣n khá lắm, c̣n tốt đẹp lắm, tham luyến hoàn cảnh ấy, chẳng nỡ ĺa bỏ, đó là ngu si! V́ lẽ đó, quư vị niệm Phật không có cảm ứng, niệm Phật mà chẳng thể tức khắc văng sanh. Tại sao phải đọc kinh cho nhiều? Tại sao phải nghe giảng kinh cho nhiều? Dụng ư ở chỗ nào? Dụng ư là muốn làm cho quư vị có thể buông xuống, muốn cho quư vị thật sự hiểu rơ hết thảy mọi sự mọi vật trên thế giới này đều là hư vọng. Người xưa có nói hai câu rất hay: “Sanh không đem theo đến, chết chẳng mang theo đi”. Hai câu ấy rất có lư! Lúc quư vị tới đầu thai, chẳng mang ǵ đến. Trong tương lai, lúc quư vị chết đi, chẳng mang một thứ nào theo được! Nói với quư vị “tất cả đều là giả, toàn là để cho quư vị tạm thời nh́n thấy, quư vị chấp trước làm chi!” Mục đích thật sự của nghe kinh là ở chỗ này! Nếu quư vị đă hiểu rơ ràng, hiểu rành rẽ, có thể không cần nghe kinh nữa. Cứ thật thà niệm một câu A Di Dà Phật là được rồi. Nếu chưa buông xuống được th́ không thể chẳng nghe kinh, v́ sao? Quư vị c̣n chưa hiểu rơ ràng. Thật sự đă hiểu rơ, chẳng bao giờ không chịu buông xuống, chẳng cần người khác khuyên bảo, sẽ tự động buông xuống. Một khi buông xuống, cảm ứng sẽ hiện ra, “một niệm tương ứng một niệm Phật, niệm niệm tương ứng niệm niệm Phật”, chẳng thể không buông xuống!

      Chúng sanh từ ác đạo đến, được đức Phật giáo hóa. Câu này quan trọng, họ sanh về thế giới Cực Lạc, hằng ngày học hành trong thế giới Cực Lạc. Quư vị hăy tra duyệt kinh điển, cuộc sống hằng ngày của người trong thế giới Cực Lạc là làm chuyện ǵ? Trong thế giới ấy chẳng có sĩ, nông, công, thương. Thế giới Cực Lạc chẳng có các ngành nghề như trong thế giới này. Quư vị thấy đó, tra duyệt trọn bản kinh điển này, đây là đại kinh bậc nhất của Tịnh Tông, [sẽ thấy kinh] chẳng nói bên đó có mua bán, làm quan, hoặc làm bất cứ nghề nghiệp nào, đều chẳng thấy nói! Nếu có, đương nhiên [kinh Vô Lượng Thọ] sẽ nói, trong bốn mươi tám đại nguyện nhất định sẽ nói, nhưng chẳng có! V́ vậy, thế giới Cực Lạc chỉ có hai hạng người: Một là thầy, hai là tṛ. Trừ hai hạng người ấy ra, chẳng có hạng thứ ba! Thế giới Cực Lạc chẳng có tổ chức chánh trị, chẳng có h́nh thức quốc gia, chẳng có quốc vương, chẳng có thiên vương, mà cũng chẳng có Tổng Thống, cũng chưa nghe nói thế giới Cực Lạc có quốc gia, chẳng có! Chẳng có gia đ́nh! Có Bồ Tát, A La Hán, đều là học tṛ. Phật là thầy, hằng ngày dạy học, hằng ngày lên lớp. Không chỉ nghe A Di Đà Phật giảng dạy, mỗi ngày nghe A Di Đà Phật giảng kinh, dạy học, mà đồng thời c̣n nghe mười phương chư Phật giáo hóa. Sanh về bên đó đều có thần thông. Mười phương vô lượng vô biên thế giới, mỗi thế giới đều có Phật giáo hóa chúng sanh. Những người ấy có bản lănh, chẳng rời khỏi A Di Đà Phật, đang nghe kinh dưới ṭa của A Di Đà Phật, mà phân thành vô lượng vô biên thân, trong vũ trụ có bao nhiêu thế giới, họ đều có thể phân thành bấy nhiêu thân, mỗi phân thân đến thân cận một vị Phật.

      Thân cận Phật là cúng dường, cúng dường là vun bồi phước, nghe pháp là vun bồi trí huệ, phước huệ song tu! Đến thế giới Cực Lạc tu phước tu huệ thù thắng lắm! Mỗi ngày quư vị tu được bao nhiêu phước huệ? Ở thế giới này, tu ức vạn năm cũng chẳng bằng tu một ngày trong thế giới Cực Lạc. Chúng ta muốn tăng trưởng phước huệ mỗi ngày th́ đến thế giới Cực Lạc mới thật sự tăng trưởng phước huệ. Tăng trưởng phước huệ trong thế giới này chẳng phải là chuyện dễ! Trong thế giới này, tăng trưởng phiền năo dễ dàng, tăng trưởng phước huệ rất khó khăn. Thật sự muốn phước huệ viên măn, hăy mau chóng đến thế giới Cực Lạc, đúng như vậy, chẳng giả! Do vậy, quư vị thấy đó: Tiếp nhận sự giáo hóa của Phật, không chỉ là vĩnh viễn chẳng c̣n đọa ác đạo. Chỉ có một ngoại lệ, họ vào ác đạo để độ chúng sanh trong ác đạo có duyên với họ. Do có cảm, nên họ hiện thân Bồ Tát, hoặc hiện thân Phật vào trong ác đạo nhằm hóa độ chúng sanh. Vào ác đạo không phải để chịu tội, mà là Phật, Bồ Tát chẳng có nơi nào không hiện thân. Nơi nào có cảm, bèn có ứng nơi đó. V́ vậy, hết thảy đều thành Phật, và đều thành tựu A-Nậu-Đa-La Tam-Miệu Tam-Bồ-Đề, tức Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Đó là cứu cánh, đó là “chỉ ư chí thiện”, chẳng có ǵ cao hơn, đúng là “chỉ ư chí thiện”.

Tịnh Độ Luận Chú viết: Phật sở đắc pháp, danh vi A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề” (Tịnh Độ Luận Chú ghi: “Pháp do đức Phật đạt được gọi là A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề”), đây là chú giải cho chúng ta, nhằm giải thích A-Nậu-Đa-La Tam-Miệu Tam-Bồ-Đề là ǵ? Từ ngữ này là tiếng Phạn, tức ngôn ngữ của Cổ Ấn Độ. “Hựu Pháp Hoa Huyền Tán viết” (Pháp Hoa Huyền Tán lại ghi), [sách ấy] giải thích “A vân Vô”, [nghĩa là] chữ A trong tiếng Phạn có nghĩa là Vô (không), tức là chữ Vô trong từ ngữ “Hữu Vô” (Có, Không), “Nậu-Đa-La” nghĩa là Thượng. Hợp lại là vô thượng. “Tam” nghĩa là Chánh, “Miệu” nghĩa là Đẳng. Sau đó lại có một chữ “Tam” nghĩa là Chánh, “Bồ Đề” dịch sang nghĩa tiếng Hán là Giác. Do đó, dịch hoàn toàn sang tiếng Hán sẽ là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, tiếng Phạn gọi là A-Nậu-Đa-La Tam-Miệu Tam-Bồ-Đề. Có thể hoàn toàn phiên dịch từ ngữ ấy, v́ sao lại không phiên dịch? Trong quá khứ, dịch kinh có một thể lệ, thể lệ ấy chính là “do tôn trọng, nên không phiên dịch”. Học Phật th́ rốt cuộc là quư vị cầu ǵ? Cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, chẳng cầu ǵ khác. Trong đó, tuyệt đối không có tiếng tăm, lợi dưỡng, tôi chỉ cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đấy là mục đích cao nhất của người học Phật, tức là “chỉ ư chí thiện” như sách Đại Học đă nói. Chí Thiện chính là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Do đó, đây là pháp bậc nhất trong nhà Phật, v́ tôn trọng nên không dịch nghĩa, chỉ dịch âm, thật ra là có thể dịch, nhưng do tôn trọng không dịch. Sách Pháp Hoa Huyền Tán giải thích rơ ràng như vậy khiến cho chúng ta hiểu rơ. Hôm nay đă hết thời gian, chúng ta học tập tới đây mà thôi.

 

Tập 198

 

Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang thứ hai trăm ba mươi lăm, hàng thứ bảy đếm từ dưới lên:

Đại Trí Độ Luận Bát Thập Ngũ viết” (quyển thứ tám mươi lăm trong Đại Trí Độ Luận có nói). Đại Trí Độ Luận gồm có một trăm quyển, “bát thập ngũ” nghĩa là quyển thứ tám mươi lăm, trong đó có một đoạn như sau: “Duy Phật nhất nhân trí huệ vi A-Nậu-Đa-La Tam-Miệu Tam-Bồ-Đề” (chỉ có trí huệ Phật gọi là A-Nậu-Đa-La Tam-Miệu Tam-Bồ-Đề). Trong phần trước, chúng ta đă học: Câu kinh văn này là hy vọng của người học Phật; mục tiêu cuối cùng, mục tiêu cao nhất, chính là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Câu nói của Đại Luận (Đại Trí Độ Luận) rất hay, “duy Phật nhất nhân trí huệ vi A-Nậu-Đa-La Tam-Miệu Tam-Bồ-Đề” (chỉ có Phật mới chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác), chữ “nhất nhân” chỉ địa vị ấy (quả vị Phật). Quả vị do Bồ Tát chứng đắc, ngay cả quả vị của Đẳng Giác Bồ Tát, được gọi là Chánh Đẳng Chánh Giác, không thêm hai chữ Vô Thượng. Chữ Vô Thượng chỉ được thêm vào khi đă thành Phật. Thật ra, đó đều là trí huệ Bát Nhă vốn có sẵn trong tự tánh của mỗi chúng sanh, trí huệ Bát Nhă chính là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Nay trí huệ của chúng ta biến thành phiền năo, do đó, trong kinh thường nói “phiền năo tức Bồ Đề”, đây là sự thật. Khi giác ngộ, sẽ là trí huệ Bát Nhă sẵn có trong tự tánh. Khi mê trí huệ ấy biến chất, biến thành phiền năo. V́ lẽ đó, phiền năo vô lượng vô biên, mà trí huệ cũng vô lượng vô biên. Đức Phật thấy chúng ta mê mất tự tánh, hết sức đáng thương. Đức Phật cùng các Bồ Tát, đặc biệt là Pháp Thân Bồ Tát, Pháp Thân Bồ Tát cũng đă thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nói thông thường th́ các Ngài đều có cùng một đẳng cấp, cùng một địa vị, đều lấy tâm đại bi làm gốc, dùng thiện xảo phương tiện để giúp đỡ hết thảy chúng sanh phá mê, khai ngộ, ĺa khổ, được vui. Nói thật ra, hoàn cảnh cư trú của chúng ta c̣n thù thắng hơn thế giới Cực Lạc! Thường Tịch Quang Tịnh Độ là quê cũ của chúng ta, là cội rễ của chúng ta. Mục tiêu cuối cùng của sự học Phật là trở về cơi Thường Tịch Quang, chứng đắc quả vị Diệu Giác. Quả Diệu Giác chính là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Nguyện này thù thắng khôn sánh! Chúng ta xem tiếp: “Ác đạo chúng sanh thiện căn vi nhược, phục đa túc nghiệp, mông Phật nguyện lực gia bị, nhiếp thọ văng sanh. Sanh bỉ độ dĩ, tất linh thành Phật. Thử thật A Di Đà Như Lai từ bi chí cực chi vô thượng thánh nguyện” (chúng sanh trong ác đạo thiện căn kém cỏi, lại lắm túc nghiệp, được nhờ nguyện lực của Phật gia bị, nhiếp thọ văng sanh, sanh sang cơi kia rồi thảy đều thành Phật. Đây thật là thánh nguyện vô thượng từ bi đến cùng cực của Di Đà Như Lai). Câu này có nghĩa là ǵ? Chúng sanh trong địa ngục có thể thành Phật hay không? Có thể. V́ sao? Chúng ta có thể nói là trong A Lại Da Thức của hết thảy chúng sanh đều có đầy đủ chủng tử (hạt giống) của mười pháp giới. Chủng tử là nhân, khi gặp duyên, nó sẽ dấy lên hiện hành. Nếu hạt giống Phật trong A Lại Da Thức của các chúng sanh trong địa ngục gặp duyên của Phật, đương nhiên họ sẽ thành Phật, lại c̣n chỉ trong một niệm! Đây là điều chúng ta có thể tin tưởng, có thể chấp nhận. Vấn đề là họ có thể gặp duyên hay không? Khi gặp được duyên họ có thể tiếp nhận hay không? Then chốt là ở chỗ này. Tại sao chúng sanh trong địa ngục chịu khổ nhiều như vậy? Tội địa ngục đă hết, vẫn phải sanh trong các cơi ngạ quỷ, súc sanh? Đó là v́ trong địa ngục, tuy Địa Tạng Bồ Tát giáo hóa trong đó, ngoài Địa Tạng Bồ Tát ra, c̣n có rất nhiều Phật, Bồ Tát [giáo hóa chúng sanh nơi đó], chúng sanh có cảm, Phật, Bồ Tát liền ứng, vấn đề quan trọng ở đây là túc nghiệp của họ. Nếu thiện căn của họ kém cỏi, dù có gặp duyên của Phật, họ vẫn bỏ lỡ, vấn đề ở chỗ này!

Những chuyện giống như vậy chúng ta cũng đă từng trải qua. Hăy suy nghĩ về chính ḿnh, đời này đă gặp Phật pháp, hăy nên nghĩ tới những người trong địa ngục cũng giống như chúng ta. Chúng tôi từ nhỏ đă có duyên gặp Phật pháp. Lúc ấy, c̣n ở dưới quê, những phụ nữ mê tín trong làng quê thường đến chùa miếu để thắp hương cầu b́nh an, cầu gia hộ; lúc nhỏ chúng tôi cũng theo cha mẹ đến chùa miếu cúng bái. Sau này, lớn lên đi học, hấp thụ giáo dục trong nhà trường, biết đó là tôn giáo, là mê tín. Sau khi học mấy năm trong trường, chúng tôi chẳng tin tưởng chuyện [cúng kiếng] nữa, chẳng c̣n tiếp xúc nữa, đó là ǵ? Bị túc nghiệp ảnh hưởng, thiện căn yếu kém, có ư nghĩa ấy.

Nếu đời này tôi không gặp tiên sinh Phương Đông Mỹ, làm sao có thể học Phật cho được? Nếu quư vị kể với những bạn học và giáo viên trong ngôi trường tôi đă học rằng tôi đă xuất gia, chắc chắn chẳng có ai tin lời quư vị! Ngay cả bản thân tôi cũng không ngờ ḿnh sẽ xuất gia, chuyện này không thể nào xảy ra được! Tôi theo học Triết với cụ Phương Đông Mỹ, Ngài là một triết gia lỗi lạc đương thời, là một vị giáo sư đại học nổi tiếng ở Đài Loan và cũng nổi tiếng trên quốc tế. Do vậy, những ǵ tôi học là Triết học. Cụ Phương giảng khái luận triết học cho tôi, đề mục cuối cùng là giảng về triết học trong kinh Phật, tôi cảm thấy hết sức ngạc nhiên. Lúc giới thiệu Triết học trong kinh Phật, cụ nói: “Thích Ca Mâu Ni Phật là một triết gia vĩ đại nhất trên thế giới”, chúng tôi chưa hề nghe lời ấy, làm sao chúng tôi biết Phật Thích Ca là triết gia, đây là lời khẳng định được thốt ra từ miệng của một triết gia. Cụ nói: “Triết học trong kinh Phật là Triết học cao nhất trên toàn thế giới, học Phật là sự hưởng thụ cao nhất trong đời người”, câu này rất hấp dẫn, có sức lôi cuốn rất mạnh. Từ bài giảng ngày hôm đó, chúng tôi thay đổi quan niệm sai lầm trước đó, dần dần t́m ṭi và hiểu rơ hơn, và cũng đến các chùa miếu. Đến chùa chẳng phải là để thắp hương, cúng bái, mà cũng không phải là để tham dự các hoạt động của họ; đến chùa là để t́m kinh sách. Lúc đó, bên ngoài chẳng bán kinh sách. Thầy bảo: “Hiện thời, Triết học trong kinh Phật chẳng ở trong chùa”, ở nơi đâu? Ở trong kinh điển, nhất định phải t́m trong kinh điển th́ mới được. Tôi nói: “Đấy là chuyện tốt đẹp!” Tôi bước vào cửa nhà Phật như vậy đó. Sau khi nhập môn, bèn [học tập] chân thật, v́ sao? Có tâm cung kính. Đấy là nghiệp chướng! Nếu không có tâm cung kính, dẫu được thầy giỏi đến mấy chỉ dạy, quư vị cũng chẳng đạt được lợi ích. Quư vị sẽ nghi ngờ, chẳng tôn kính họ, sẽ không thể t́m được cửa vào. Ấn Quang đại sư đă dạy, dạy rất có lư: “Một phần thành kính, đạt được một phần lợi ích. Mười phần thành kính, sẽ được mười phần lợi ích”. Quư vị có thể đạt được bao nhiêu, hoàn toàn tùy thuộc mức độ thành kính đối với Phật pháp. Chẳng ăn nhằm ǵ đến thầy giáo, mà là do cái tâm thành kính. Sau đó, chúng tôi liễu giải, pháp thế gian và xuất thế gian đều dựa trên ḷng thành kính. Không cung kính công khóa mà chính ḿnh đang học, chẳng coi trọng và cung kính thầy giáo, chắc chắn là kẻ đó chẳng học được ǵ! Đấy chính là túc nghiệp và thiện căn đang được đề cập ở đây.

Chúng ta có thể suy tưởng: Chư Phật, Bồ Tát đều từ bi đến cùng cực, toàn tâm toàn lực giúp đỡ hết thảy khổ nạn chúng sanh phá mê khai ngộ, ĺa khổ, được vui, đấy là sự nghiệp của các Ngài, là sự nghiệp vĩnh hằng, vĩnh viễn chẳng thay đổi. Hết thảy thời, hết thảy chỗ, khi gặp chúng sanh, liền sanh khởi tâm từ bi. Nếu thiện căn của chúng sanh phát hiện, họ chịu tiếp nhận [giáo huấn của Phật, Bồ Tát], họ sẽ được lợi ích, chúng sanh ở địa ngục cũng chẳng phải là ngoại lệ. Chúng tôi tin tưởng: Chúng sanh trong địa ngục tuy tạo nghiệp bất thiện nên đọa địa ngục, nhưng trong đời quá khứ, nhất định có thời gian huân tập Phật pháp khá dài. Do đó, thiện căn trong A Lại Da Thức sâu dầy, vừa gặp [Phật, Bồ Tát hóa độ] liền quay đầu, tin tưởng, một niệm tín tâm ấy giúp họ văng sanh Tịnh Độ. Quá nửa sanh trong Biên Địa Nghi Thành, đây là chuyện rất có thể xảy ra. Tuy có nghi hoặc, nhưng họ chịu nghe lời dạy, thử làm theo: “Nếu thật sự là đúng, chẳng phải là đă chiếm được tiện nghi ư? Nếu không có th́ thôi”, họ mang cái tâm ấy nên sanh vào Biên Địa Nghi Thành. Họ thật sự sanh sang thế giới Cực Lạc, chẳng giả. Trong thế giới Cực Lạc có người giúp họ tu hành. “Mông Phật nguyện lực gia bị” (nhờ nguyện lực của Phật gia bị) chính là nguyện thứ hai.

Nguyện thứ nhất nói rơ thế giới Cực Lạc không có ba đường ác; nói cách khác, không ai có tham, sân, si. V́ sao? Tham, sân, si là nghiệp nhân của ba ác đạo, cũng tức là nói người trong thế giới Cực Lạc hoàn toàn không có tham, sân, si, mạn, nghi. Chẳng có nhân, chẳng có duyên, đương nhiên sẽ chẳng có quả báo. V́ lẽ đó, cơi Phàm Thánh Đồng Cư của thế giới Cực Lạc chỉ có hai loại quả báo là trời và người. Tuy là thân phận trời người, vẫn được Phật lực gia tŕ, hưởng đầy đủ sự đăi ngộ của A Duy Việt Trí Bồ Tát, chẳng khác ǵ A Duy Việt Trí Bồ Tát, đây là điều thù thắng khôn sánh! Sau khi đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, nhất định thành Phật trong một đời, chỉ là thời gian sớm hay trễ khác nhau. Sớm hay trễ có liên quan tới tập khí và túc nghiệp. V́ vậy, có người dũng mănh, tinh tấn, thời gian chứng quả sẽ rút ngắn; có người hơi giải đăi, biếng nhác th́ thời gian thành Phật của họ sẽ kéo dài, nhưng chắc chắn đều là ngay trong đời này. Thọ mạng của người trong cơi Cực Lạc lâu dài, đều là vô lượng thọ; do đó, họ có đầy đủ thời gian để tu học. Câu kế tiếp là lời tán thán của cụ Hoàng, cụ nói: Đây đích thực là “A Di Đà Như Lai từ bi chí cực vô thượng thánh nguyện” (vô thượng thánh nguyện từ bi đến cùng cực của A Di Đà Như Lai), Ngài có nguyện ấy, khiến cho chúng sanh trong ba ác đạo đều có cơ duyên văng sanh bất thoái thành Phật.

Chúng ta xem đoạn kế tiếp: “Cái dĩ tùng ác thú đới nghiệp văng sanh chi chúng sanh, túc cụ ác nghiệp, ưng đọa ác đạo” (Ấy là v́ chúng sanh từ trong đường ác mang theo nghiệp văng sanh, vốn đầy dẫy ác nghiệp, đáng lẽ đọa vào ác đạo). Nếu họ không gặp Phật pháp, [khi nào] thời gian thọ quả báo trong ác đạo đă hết th́ mới có thể thoát ra, thoát khỏi địa ngục. Sau khi thoát khỏi địa ngục, quá nửa là sanh trong ngạ quỷ đạo hoặc súc sanh đạo, cũng có khi sanh trong cơi người hay cơi trời, do gặp duyên khác nhau. Có khi có duyên gặp Phật, tuy gặp Phật, Bồ Tát, họ chẳng thể sanh về Cực Lạc, mà sanh vào cơi Trời hay cơi Người; nhưng sanh trong cơi trời hay cơi người, trong tương lai chẳng tránh khỏi phải đọa trong ba ác đạo lần nữa, không có cách nào né tránh! Do vậy bèn nói: Thoát khỏi lục đạo luân hồi vô cùng khó khăn! Những người này v́ được nguyện lực của A Di Đà Phật gia tŕ, được sanh về thế giới Cực Lạc, “văng sanh Cực Lạc, bất phục cánh đọa tam đồ, cố viết bất đọa ác thú” (văng sanh Cực Lạc, chẳng đọa trong tam đồ nữa, nên bảo là “chẳng đọa đường ác”). Những người này dù sanh đến cơi Cực Lạc, chư vị nhất định phải nhớ, chẳng phải sanh trong Biên Địa. Nếu họ có thể hạ hạ phẩm văng sanh trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư, liền được nguyện lực của A Di Đà Phật gia tŕ, tức là được nguyện A Duy Việt Trí này gia tŕ. Những chúng sanh có duyên với Ngài trong ba ác đạo có cảm, Ngài sẽ có ứng, Ngài cũng có thể hóa sanh trong ba ác đạo để giúp đỡ và độ họ. Ngài có đọa vào ba ác đạo hay không? Không thể nào. Ngài từ Tây Phương Cực Lạc thế giới đến ba ác đạo, dùng thân phận Bồ Tát, đến đó để hóa độ chúng sanh, nên vĩnh viễn chẳng c̣n đọa trong tam đồ nữa.

Tiếp đó, sách viết: “Cố Long Thọ đại sĩ viết: Nhược nhân sanh bỉ quốc, chung bất đọa tam thú” (V́ vậy, Đại Sĩ Long Thọ nói: “Nếu kẻ nào sanh về cơi kia th́ trọn chẳng đọa trong ba đường ác nữa”). Tam Thú (三趣) là ba đường ác, vĩnh viễn thoát khỏi ba đường ác. Chúng ta phải lắng ḷng thấu hiểu câu này, mới biết sự thù thắng trong đó. Tội nghiệp ba đường ác của mỗi người chúng ta nặng cỡ nào? [Nghiệp nhân của] tam đồ là tham, sân, si, chúng ta phải thêm vào hai thứ, thành tham, sân, si, mạn, nghi, [gọi chung là] Ngũ Độc, [chúng ta] có hay không? Những ư niệm ấy thường thường khởi lên, chẳng biết mỗi ngày khởi lên bao nhiêu lần, quư vị sẽ biết nghiệp nhân của ba đường ác này nặng đến mức nào! Duyên bên ngoài gồm có tài, sắc, danh, thực, thùy (tiền tài, sắc đẹp, tiếng tăm, ăn uống, ngủ nghỉ), bên trong có gốc rễ tham, sân, si, mạn, nghi. Bịnh độc trong A Lại Da Thức là gốc rễ. Duyên bên ngoài là tài, sắc, danh, thực, thùy. Khi nhân gặp duyên, quư vị liền tạo nghiệp, tạo nghiệp của ba đường ác, quư vị nói xem: Chuyện này có đáng sợ hay không? Mỗi lần khởi lên một ư niệm là một lần tạo nghiệp; mỗi ngày quư vị khởi lên bao nhiêu ư niệm? Quư vị tạo bao nhiêu nghiệp nhân trong ba đường ác? Chúng ta lắng ḷng suy nghĩ sẽ biết. Mỗi ngày tôi niệm A Di Đà Phật là tạo tịnh nghiệp của Tây Phương Cực Lạc thế giới. Thời gian niệm Phật ít, thời gian khởi ác niệm nhiều! Ư niệm thiện đang niệm “A Di Đà Phật, A Di Đà Phật”, niệm mấy câu liền chẳng thấy [thiện niệm] đâu nữa, chẳng biết đă quên khuấy từ lúc nào. Lúc ư niệm ác khởi lên th́ niệm niệm liên tục, quư vị thấy chuyện này lợi hại hay không, có đáng sợ hay không? Lắng ḷng suy nghĩ, quan sát, mới biết phiền phức lớn lắm.

Đặc biệt là hiện thời tai nạn đang xảy ra, xă hội động loạn, sống trong thế gian này có ư nghĩa ǵ đâu? Lưu luyến thế gian này tức là không muốn thoát khỏi lục đạo luân hồi. Trong lục đạo, cơi trời và cơi người kể ra vẫn c̣n đỡ một chút, nhưng thời gian ngắn ngủi, tạm bợ, một trăm năm giống như thời gian khảy ngón tay, đến lúc quư vị bảy tám chục tuổi sẽ biết, chẳng đáng lưu luyến tí nào! Được làm thân người, phải nên tu hành, phải nên thoát khỏi lục đạo luân hồi. Chuyện tốt trên thế gian chỉ có một chuyện, đó là giúp đỡ chúng sanh phá mê khai ngộ, đó là chuyện tốt. Những chuyện tốt khác đều chẳng thể thoát khỏi lục đạo luân hồi, đều là nghiệp luân hồi. Chỉ có niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ là chuyện tốt. Đă thật sự hiểu rơ ràng, minh bạch, hăy dốc hết tâm lực để niệm Phật. Có nghi hoặc th́ phải nghe giảng kinh, phải đọc kinh, giúp quư vị phá mê, sanh tín. Quư vị có nghi hoặc, tín tâm chẳng đủ [nên phải nghe kinh, đọc kinh ḥng] giúp quư vị đoạn nghi, sanh tín. Khi tín nguyện đă vững chắc, có thể không đọc kinh, có thể không nghe giảng, nhất tâm niệm Phật là được rồi! Nếu c̣n nghi hoặc, tín tâm c̣n chưa vững chắc, kinh giáo sẽ giúp đỡ quư vị rất nhiều. Nếu không có kinh giáo, rất dễ đọa lạc, tự ḿnh chống đỡ không nổi! Do đó, kinh giáo là trợ duyên của Phật, Bồ Tát đối với chúng ta. “Hựu Thiện Đạo đại sư viết: ‘Năi chí thành Phật, bất lịch sanh tử’. Thị tắc hoành xuất ư lục thú hỹ” (Đại sư Thiện Đạo cũng dạy: “Cho đến khi thành Phật, chẳng lăn lóc trong sanh tử nữa”. Đấy chính là vượt ngang ra khỏi sáu đường vậy). Sanh tới Tây Phương Cực Lạc thế giới, chắc chắn sẽ thành Phật, chắc chắn không đọa trong ba đường ác nữa.

Sau đó, c̣n có một đoạn: “Hựu thử chương đại nguyện, nhiếp nhị thù thắng. Nhất giả, ác thú chúng sanh diệc đắc văng sanh Cực Lạc, bất phục cánh đọa ác đạo, biểu Di Đà bi tâm vô tận, độ hóa vô dư dă” (Lại nữa, đại nguyện trong chương này bao gồm hai điều thù thắng. Một là chúng sanh trong đường ác cũng được văng sanh Cực Lạc, chẳng bị đọa vào ác thú nữa, biểu thị Di Đà bi tâm vô tận, hóa độ không sót). Chúng ta có thể hiểu được ư nghĩa này. “Nhị giả, phàm văng sanh giả, tất giai tác Phật, cứu cánh Bồ Đề” (Hai là hễ được văng sanh, thảy đều thành Phật, rốt ráo Bồ Đề). Pháp môn này chỉ cần quư vị văng sanh, phẩm vị cao hay thấp không quan trọng. Trong Di Đà Kinh Yếu Giải, Ngẫu Ích đại sư đă bảo, đấy là Ngài tự nói, Ngài hy vọng nhất định được sanh về Tịnh Độ trong đời này, phẩm vị ǵ? Hạ hạ phẩm là đủ rồi, được như vậy th́ Ngài đă măn nguyện. Thật vậy sao? Thật đó! Ngài đă thật sự thông suốt, v́ sao? Quư vị văng sanh thượng thượng phẩm, bèn là A Duy Việt Trí Bồ Tát, nhưng hạ hạ phẩm văng sanh cũng là A Duy Việt Trí Bồ Tát. Tây Phương Cực Lạc thế giới là một thế giới b́nh đẳng, b́nh đẳng với ai? B́nh đẳng với Phật, b́nh đẳng với A Di Đà Phật. Trong đoạn sau, chúng ta có thể thấy được [điều này], khiến cho chúng ta bái phục A Di Đà Phật năm vóc sát đất, chẳng có lời nào diễn tả nổi! Ngài là người tốt bậc nhất trong thế gian và xuất thế gian, chúng ta sanh về thế giới Cực Lạc sẽ không thua Ngài một tí nào, đều giống như Ngài! Ngay cả thân thể và tướng mạo cũng giống Ngài. “Do thử khả kiến Di Đà bổn tâm, niệm niệm nguyện nhất thiết chúng sanh thành Phật” (do vậy, ta thấy được tấm ḷng của Phật Di Đà, niệm niệm đều nguyện chúng sanh thành Phật), chúng ta phải học theo tâm niệm ấy. Thật ra, người thế gian chưa thể thành Phật, mỗi ngày đều tạo nghiệp, là v́ họ khởi lên ư niệm ǵ? Hy vọng tôi tốt hơn bất cứ ai khác! Kẻ nào tốt hơn tôi một chút, tôi liền đố kỵ, liền sanh phiền năo. Có ư niệm như vậy th́ làm sao thành Phật cho được? Có ư niệm ấy làm sao văng sanh cho được? Người thật sự muốn có thể văng sanh trong một đời này, ở đây, quư vị phải đặc biệt chú ư, trong các buổi giảng, chúng tôi thường nhắc nhở đại chúng: Thật sự cầu văng sanh th́ tâm phải giống như tâm Phật, nguyện phải giống như nguyện của Phật, đức phải giống như đức của Phật, hạnh phải giống như hạnh của Phật. Nếu tâm, nguyện, đức, hạnh của quư vị giống như Ngài, chắc chắn quư vị sẽ văng sanh. Chân tâm là như vậy đó, mỗi ngày quư vị có niệm Phật hay không đều không sao cả, tự nhiên cảm ứng đạo giao. A Di Đà Phật có tâm như thế nào? Niệm niệm đều mong mỏi hết thảy chúng sanh mau chóng thành Phật. Há Ngài c̣n có oan gia, c̣n có đối đầu nữa sao? Chẳng hề có! Tại sao? V́ hết thảy chúng sanh vốn là Phật, bất luận họ phạm lỗi ǵ, [nguyên nhân khiến họ phạm lỗi] là ǵ? Do mê hoặc tạm thời, đó chẳng phải là bổn tánh của họ. Điên đảo tạm thời, xử sự bằng t́nh cảm, chẳng cần phải bận tâm! Nếu ghim trong ḷng th́ họ đâu có bị thiệt tḥi, mà là chúng ta phải chịu thiệt tḥi. Quư vị phải suy nghĩ thông suốt chân lư này!

V́ vậy, người thật sự niệm Phật, thật sự cầu văng sanh phải thấy như thế nào? Phải thấy tất cả hết thảy chúng sanh đều là A Di Đà Phật, khởi tâm cảm ân! Phải thật sự thấy như vậy, không phải là “tôi nên thấy như vậy”, [nếu nói] “nên” th́ đă sai mất rồi! Sự thật là như vậy, chẳng giả tí nào! Ai làm được? Thiện Tài đồng tử đă làm được. Quư vị xem kinh Hoa Nghiêm, Thiện Tài đồng tử thành tựu trong một đời, chứng đắc quả vị Phật viên măn trong một đời, dựa vào ǵ? Dựa vào điều này. Người giúp đỡ, tán thán, có ân với tôi, tôi niệm niệm đều không quên, những người ấy là Phật, Bồ Tát chăm sóc tôi. Người hủy báng, sỉ nhục, hăm hại tôi cũng là Phật, Bồ Tát, chẳng sai khác ǵ hết! Đó là Phật, Bồ Tát khảo nghiệm, xem tôi có sanh phiền năo hay không. Vừa sanh phiền năo liền phải nên cảm kích, v́ sao? Thi chưa đậu! Rơ ràng là họ có ân đối với tôi, tại sao tôi lại lấy oán báo ân? Há chẳng phải là hồ đồ hay sao? Họ tham muốn những vật ngoài thân, những vật ở ngoài cái thân này đều là giả, tiền để tôi dùng hay cho họ dùng chẳng phải là đều giống như nhau hay sao? Cần ǵ phải so đo? Toàn là rỗng tuếch! Do đó, tâm cảm ân phải từ chỗ này mà khởi lên, chẳng có ai ta không cảm ơn cả! Được như vậy th́ chúng ta mới có thể thành tựu viên măn trong một đời này. Khi khởi tâm động niệm, hăy nghĩ xem A Di Đà Phật có bao giờ khởi lên ư niệm ấy hay chăng? Do đó, phải hiểu đạo lư này: Chân lư chỉ là mê và ngộ. Mê chứ không giác bèn tạo nghiệp, tạo nghiệp th́ sẽ luân hồi. Giác chứ không mê là con đường văng sanh. Nếu người học Phật cảm thấy có kẻ khiến ta chướng mắt, có sự việc ta cảm thấy chướng mắt, sai mất rồi! Quư vị thật sự sai lầm! Người học Phật gặp chuyện ǵ cũng hoan hỷ. Khi trước, chúng tôi thường nói: “Người nào cũng là người tốt, việc ǵ cũng là việc tốt”. Hăm hại ta cũng là chuyện tốt! Nếu tôi vượt qua sự khảo nghiệm đó, chẳng ghim việc đó trong tâm, chẳng oán hận, chẳng phiền năo, vẫn vui vẻ như thường, pháp hỷ sung măn, như vậy là đúng. Đó là đă thi đậu, phải cảm ơn người đă khảo nghiệm ta. Nếu thi trượt, cũng phải cảm ơn họ. Không đủ điểm, thi trượt th́ sao? Ta phải nỗ lực dụng công nhiều hơn, ta chưa qua được thử thách đó. Đă thi đậu th́ phải cảm ơn họ, ta đă vượt qua sự thử thách ấy. Vĩnh viễn sống trong thế giới cảm ơn, quư vị nghĩ xem: Quư vị sẽ vui sướng, hạnh phúc biết bao! Khi xưa, thầy dạy Phật pháp cho tôi, thầy nói: “Học Phật là sự hưởng thụ cao nhất trong đời người”. Đúng là sự hưởng thụ tối cao, vĩnh viễn cảm ơn, vĩnh viễn hoan hỷ, vĩnh viễn tự tại. V́ thế, chúng ta phải học điều này: “Niệm niệm đều nguyện cho hết thảy chúng sanh thành Phật”. Trong lúc quư vị xích mích với kẻ khác, bất kể là ai, trong tâm chẳng tự tại, chẳng sảng khoái, hăy niệm câu này: “A Di Đà Phật niệm niệm nguyện cho hết thảy chúng sanh thành Phật”, oán hận sẽ được hóa giải, phiền năo sẽ tiêu trừ hết.

Nhi thử nguyện kư dĩ thành tựu” (nhưng nguyện này đă thành tựu), A Di Đà Phật đă thành Phật trong thế giới Cực Lạc, thành Phật nghĩa là những nguyện mà Ngài đă phát đều viên măn, đều trở thành hiện thực, “túc chứng Di Đà trí huệ, công đức, oai thần, lực dụng bất khả tư nghị” (đủ chứng tỏ trí huệ công đức, oai thần, lực dụng của Phật Di Đà thật chẳng thể nghĩ bàn), đúng vậy! Quư vị hăy xem nhé, biến toàn bộ tập khí phiền năo thành trí huệ, công đức, chính ḿnh đă đạt được và thành tựu thanh tịnh, b́nh đẳng, giác, vô thượng thanh tịnh - b́nh đẳng - giác, tự lợi, lại c̣n lợi tha. Do đó, niệm niệm nguyện cho chúng sanh thành Phật là lợi tha, tự lợi lợi tha. V́ vậy, oai thần và lực dụng chẳng thể nghĩ bàn.

Mạt vân”, nghĩa là cuối cùng bèn nói, “đắc thị nguyện, năi tác Phật”, [nghĩa là] Ngài phát nguyện nếu thỏa nguyện này th́ mới thành Phật, “bất đắc thị nguyện, bất thủ Vô Thượng Chánh Giác” (chẳng thỏa nguyện này, chẳng giữ lấy vô thượng Chánh Giác), Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. “Biểu thử nguyện thành tựu, ngă phương thành Phật”nói: Nguyện này thành tựu, ta mới thành Phật). Chữ Ta là Pháp Tạng Bồ Tát tự xưng. “Nhược thử nguyện bất thành, ngă chung bất thành Phật. Cố viết: Bất thủ Vô Thượng Chánh Giác. Dĩ hạ các nguyện, giản vi bất thủ Chánh Giác” (nếu nguyện này chẳng thành, ta trọn chẳng thành Phật, nên nói rằng: “Chẳng giữ lấy vô thượng Chánh Giác”. Trong các nguyện sau, chỉ nói gọn là “chẳng giữ lấy Chánh Giác”). Như vậy là lược bớt, chỗ này nói đầy đủ sẽ là “chẳng giữ lấy Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”, những nguyện sau đều ghi gọn “chẳng giữ lấy Chánh Giác”. Câu văn càng đơn giản, càng dễ thọ tŕ.

Chúng ta xem kinh văn trong chương thứ hai. Ở đây, [phần lời nguyện được] chia thành hai mươi bốn chương, gồm bốn mươi tám nguyện, bao gồm đầy đủ các ư trong năm bản dịch gốc, chẳng bỏ sót. Chúng ta đọc chương thứ hai, gồm có ba nguyện:

 

Ngă tác Phật thời, thập phương thế giới sở hữu chúng sanh, linh sanh ngă sát, giai cụ tử ma chân kim sắc thân, tam thập nhị chủng đại trượng phu tướng, đoan chánh tịnh khiết, tất đồng nhất loại. Nhược h́nh mạo sai biệt, hữu hảo xú giả, bất thủ Chánh Giác

時,十方 界,所 生,令 剎,皆 身,三 相。端 潔,悉 類。若 別,有 者,不

(Lúc tôi thành Phật, khiến cho tất cả chúng sanh trong mười phương thế giới sanh về cơi tôi đều được đầy đủ thân sắc vàng ṛng trau giồi sáng bóng, ba mươi hai tướng đại trượng phu đoan chánh, tịnh khiết, giống hệt như nhau. Nếu họ h́nh dáng sai khác, có xấu đẹp, th́ chẳng giữ lấy Chánh Giác).

 

Trong phần trước, tôi đă tiết lộ tin tức, ở đây, ta thấy điều đó: Thế giới b́nh đẳng, mười phương thế giới chẳng có chuyện này! Thứ nhất là “thân tất kim sắc nguyện”, tức là “giai cụ tử ma chân kim sắc thân” (đều được đầy đủ sắc thân vàng ṛng trau giồi sáng bóng). Thứ nh́ là “tam thập nhị tướng nguyện” (nguyện có đủ ba mươi hai tướng). Từ chữ “đoan chánh tịnh khiết” trở đi là nguyện thứ ba: “Thân vô sai biệt nguyện” (nguyện thân chẳng sai khác). Chúng ta không có ngôn từ ǵ để tán thán, khiến cho chúng ta cảm ân chẳng hết! Các cơi nước trong mười phương đều chẳng có [chuyện này], đặc biệt là chúng sanh trong lục đạo, sanh đến thế giới Cực Lạc, [dẫu là] hạ hạ phẩm văng sanh, hết thảy đều trọn đủ, thật là phi phàm. Sanh trong Biên Địa, kinh đă nói rất rơ: Sanh về Biên Địa là v́ lúc văng sanh, quư vị có nghi hoặc, tín tâm trọn chẳng vững chắc. Nếu quư vị đoạn trừ ḷng nghi ấy, sẽ lập tức nhập phẩm (thoát ra khỏi Biên Địa, dự vào chín phẩm văng sanh), [nghĩa là] hạ hạ phẩm văng sanh chính là “nhập phẩm”. Nhập phẩm th́ những điều đă nói trong nguyện thứ hai quư vị đều trọn đủ. Sanh trong Biên Địa Nghi Thành, thời gian dài nhất là năm trăm năm, tức là năm trăm năm trong nhân gian. Kẻ ấy nhất định phải đoạn nghi sanh tín. Do đó, có người ở Biên Địa trong một thời gian rất ngắn, chỉ mấy ngày liền [giác ngộ và] quay lại. Chúng ta thường nghe kinh, thường tụng kinh Vô Lượng Thọ, công đức và lợi ích rất lớn, v́ sao? Có thể tăng trưởng tín tâm. Dù cho tương lai sanh trong Biên Địa Nghi Thành th́ cũng có thể thoát ra rất mau. Chẳng uổng công nghe giảng kinh này, chẳng uổng sức đọc kinh này! Nghe giảng, tụng kinh có tác dụng như vậy.

Chúng ta đọc lời chú giải của cụ Hoàng: “Thử chương cụ tam nguyện” (chương này gồm ba nguyện). Trong chương thứ hai có đủ ba nguyện. “Thập phương thế giới sở hữu chúng sanh, linh sanh ngă sát, giai cụ tử ma chân kim sắc thân” (khiến cho tất cả chúng sanh trong mười phương thế giới sanh về cơi tôi đều đầy đủ thân màu vàng ṛng trau giồi sáng bóng) là nguyện thứ ba “thân tất kim sắc nguyện” trong bốn mươi tám nguyện. Chẳng nói không kể Phàm Thánh Đồng Cư Độ, chẳng nói hạ hạ phẩm văng sanh trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư Độ không được bao gồm trong nguyện này. Tức là nói rơ: Chỉ cần sanh về thế giới Cực Lạc, tất cả đều có thân vàng ṛng, chẳng có ngoại lệ. “Sanh bỉ độ giả, thân giai tử ma chân kim chi sắc” (Đă sanh trong cơi ấy, thân đều có màu như màu của vàng ṛng được trau chuốt đến mức sáng bóng). Kế đó là phần giải thích: “Chân kim sắc giả, cái vi Như Lai chi thân sắc. Thiện Đạo đại sư viết: Chư Phật dục hiển thường trụ bất biến chi tướng, thị cố hiện hoàng kim sắc” (màu vàng ṛng là màu nơi thân Như Lai. Đại sư Thiện Đạo nói: “Chư Phật muốn hiển thị tướng thường trụ bất biến nên hiện ra sắc hoàng kim”). Trong năm thứ kim loại, vàng, bạc, đồng, sắt, thiếc, ngoài vàng ra, bốn thứ kia đều dễ bị rỉ sét, màu sắc dễ bị thay đổi, chỉ có vàng là không bị sét, nên người ta mới coi vàng là quư giá. Màu của vàng vĩnh viễn không thay đổi, có ư nghĩa như vậy. Do đó, tướng đức Phật hiện ra chính là tướng màu này, vĩnh hằng chẳng biến đổi. Pháp Sư Nhật Khê nói: “Thử biểu Trung Đạo Thật Tướng sắc” (màu đó tiêu biểu màu của Trung Đạo Thật Tướng). Vĩnh viễn không đổi màu cũng có ư nghĩa tiêu biểu pháp, biểu thị Trung Đạo Thật Tướng. “Kim thử đại nguyện, dục linh nhất thiết văng sanh chi nhân, đồng Phật thân tướng, giai chân kim sắc” (Nay trong đại nguyện này, Phật muốn khiến cho hết thảy người đă văng sanh đều có thân tướng giống hệt như thân Phật, đều có màu vàng ṛng), đây là nói theo phương diện thể chất, thân Kim Cang bất hoại. Nguyện kế tiếp nói theo tướng mạo, đều giống nhau! “Thử hiển sanh Phật bất nhị, chân thật b́nh đẳng” (Nguyện ấy tỏ rơ chúng sanh và Phật không hai, chân thật b́nh đẳng). Trong các thế giới khác chẳng b́nh đẳng!

Trên địa cầu, thuở Thích Ca Mâu Ni tại thế, địa cầu là cơi Phàm Thánh Đồng Cư của Thích Ca Mâu Ni. Tuy đức Phật trụ trong cơi Thật Báo, Ngài thị hiện có ba mươi hai tướng, tám mươi thứ hảo trong nhân gian, chẳng b́nh đẳng với nhân loại. Thể chất của chúng ta khác đức Phật, tướng mạo cũng không giống nhau. [Thể chất và tướng mạo của] Ngài thù thắng hơn chúng ta nhiều lắm. Nhưng trong thế giới Cực Lạc, chẳng t́m thấy ai có tướng mạo khác biệt A Di Đà Phật! Hết thảy đều có cùng h́nh tướng, thân thể giống nhau. Lúc mới bắt đầu học, chúng ta thường có nghi vấn: Sanh về đó, làm sao biết người nào là ai? Rốt cuộc ai mới là A Di Đà Phật? Ai là người mới văng sanh? Chẳng lẽ không thể nhận ra ư? Đừng bận tâm chuyện ấy! Đến đó, nhờ Phật lực gia tŕ, quư vị đều là A Duy Việt Trí Bồ Tát, nên biết rơ ràng, rành rẽ, vị nào là Phật, vị nào là Quán Âm Bồ Tát, vị nào là đồng tham đạo hữu mà quư vị quen biết, đều biết cả, tuyệt đối chẳng nhận lầm! V́ vậy, trong hiện tại, mà từ xưa đến nay cũng là như vậy, h́nh Biến Tướng Đồ của Tây Phương Cực Lạc thế giới luôn vẽ [Phật, chư Bồ Tát và nhân dân] tướng mạo không giống nhau, tức là chẳng tương ứng với bốn mươi tám nguyện! Vẽ tượng Phật rất lớn, rất cao, c̣n tướng những người văng sanh cơi đó đều vẽ nhỏ hơn, sai mất rồi! Thế giới Cực Lạc là liên hoa hóa sanh; hoa sen vừa nở, khi ấy, tướng của người văng sanh giống hệt như tướng của A Di Đà Phật.

Cố Hội Sớ viết: Thị cố nguyện ngôn, ngă quốc nhân dân, thuần nhất kim sắc, vô hữu hảo ác” (V́ vậy, sách Hội Sớ nhận xét: “Do đó, nguyện rằng nhân dân trong cơi tôi thuần một sắc vàng, chẳng có xấu, đẹp”), mọi người đều giống nhau, “bỉ ngă b́nh đẳng, t́nh tuyệt vi thuận” (ta và người đều b́nh đẳng, dứt tuyệt ư tưởng trái, thuận). Ư này rất hay! Tại sao A Di Đà Phật thị hiện như vậy? Quư vị thử nghĩ xem, Ngài đến mười phương thế giới khảo sát, tham quan, lấy điều hay, bỏ điều dở trong hết thảy các cơi nước chư Phật, [Ngài nhận thấy] thân thể và tướng mạo của chúng sanh sai khác sẽ đem đến rất nhiều phiền phức. Người có tướng tốt sẽ kiêu căng, ngă mạn, người có tướng xấu sẽ đố kỵ chướng ngại, như vậy chẳng phải là sanh ra phiền năo hay sao? Do đó, quư vị đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, đới nghiệp văng sanh, phiền năo vĩnh viễn sẽ chẳng dấy lên, v́ sao? V́ chẳng có duyên! Trong thế giới Cực Lạc, tướng mạo của ai nấy đều giống nhau, chẳng cần phải chọn lựa, mọi người đều b́nh đẳng. Do đó, tâm của người trong cơi Cực Lạc vĩnh viễn giữ ǵn thanh tịnh, b́nh đẳng, giác. Đây là trí huệ và lợi ích chân thật của A Di Đà Phật. Quư vị sanh trong thế giới khác, chắc chắn sẽ có những ngoại duyên ấy khiến cho tập khí phiền năo dấy lên, c̣n cơi Cực Lạc chẳng có. “Hội Sớ chi thuyết, chánh hiển Trung Đạo Thật Tướng chi nghĩa” (thuyết của sách Hội Sớ thật sự đă tŕnh bày tỏ tường ư nghĩa của Trung Đạo Thật Tướng). V́ lẽ đó, không thể chẳng đến thế giới Cực Lạc! Quư vị t́m đâu ra một chỗ tốt đẹp như vậy? Có những ngoại duyên đó, tức các duyên bất đồng, sẽ khiến cho quư vị tạo nghiệp. Chỉ có cơi Cực Lạc là quư vị không có cách nào tạo nghiệp, v́ thể chất của mọi người đều giống nhau.

Đoạn kế tiếp nói về tướng mạo: “Tam thập nhị chủng đại trượng phu tướng” (ba mươi hai tướng đại trượng phu), đây chính là “nguyện ba mươi hai tướng tốt”. “Quốc trung thiên nhân” (trời, người trong cơi nước ấy), nói rơ cơi Phàm Thánh Đồng Cư “giai thị tam thập nhị chủng đại trượng phu tướng, thị vi đệ tứ nguyện, xưng vi táp nhị tướng nguyện. Tam thập nhị chủng đại trượng phu tướng, hựu danh tam thập nhị đại nhân tướng, giản xưng tam thập nhị tướng. Thử tam thập nhị tướng, bất hạn ư Phật, Chuyển Luân Thánh Vương diệc cụ thử tướng” (đều đủ ba mươi hai tướng đại trượng phu là nguyện thứ tư, [nguyện này] c̣n gọi là “nguyện ba mươi hai tướng”. Ba mươi hai tướng đại trượng phu c̣n gọi là ba mươi hai tướng đại nhân, gọi tắt là ba mươi hai tướng. Ba mươi hai tướng này chẳng phải riêng ḿnh đức Phật mới có, Chuyển Luân Thánh Vương cũng có đủ ba mươi hai tướng). Đức Phật Thích Ca giới thiệu thế giới Cực Lạc, có nhiều chỗ c̣n dè dặt, [v́ phải] tùy thuận kiến thức thông thường của chúng sanh trên thế gian này, v́ sao? V́ nếu nói sự thật, quư vị sẽ không tin. Nói là “ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp” th́ quư vị mới tin, v́ sao? V́ thế giới này có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Ai có? Chuyển Luân Thánh Vương có; bởi lẽ, tướng tốt là phước báo.

Trí Độ Luận bát thập bát” (quyển thứ tám mươi tám của Trí Độ Luận), trong quyển ấy có nói, “vị Phật hiện thử đại nhân tướng giả, nhân tùy thử gian Diêm Phù Đề trung Thiên Trúc quốc nhân sở thuyết, tắc vị hiện táp[5] nhị tướng” (Phật hiện ra tướng đại nhân này là v́ “thuận theo quan niệm của người Thiên Trúc nơi cơi Diêm Phù Đề trong thế gian, nên hiện ra ba mươi hai tướng). Thuyết này rất tuyệt, “Phật bổn ly tướng, nhi hiện tướng giả, thuận thế gian tập tục cố” (Phật vốn ĺa tướng, lại hiện có tướng, là thuận theo tập tục thế gian vậy). Nếu nói thật với quư vị th́ trong đại kinh có nói, Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật thân có vô lượng tướng, mỗi tướng có vô lượng hảo, quư vị sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới mới biết. Điều thù thắng khôn sánh trong cơi Cực Lạc là các hàng trời, người đều có h́nh tướng như vậy: Ai cũng có vô lượng tướng, mỗi tướng có vô lượng hảo, chẳng phải chỉ có ba mươi hai tướng mà thôi! Nói thật với quư vị, xác thực là không ai có thể sánh bằng. Trong mười phương thế giới, tướng của chư Phật, tướng của Bồ Tát, Thanh Văn, trời, người đều có sai khác, chẳng giống nhau, chỉ riêng thế giới Cực Lạc là thể chất giống nhau, tướng mạo giống nhau.

Đức Thế Tôn đă thuận theo kiến thức thông thường của chúng sanh để nói. Tiếp theo đó, cũng giới thiệu [ba mươi hai tướng] đơn giản một chút. “Hựu Pháp Giới Thứ Đệ hạ” (lại nữa sách Pháp Giới Thứ Đệ, quyển hạ), “hạ” là quyển hạ, “Như Lai ứng hóa chi Thể, hiện thử tam thập nhị tướng, dĩ biểu Pháp Thân chúng đức viên cực, sử kiến giả ái kính, tri hữu thắng đức khả sùng, nhân thiên trung tôn, chúng thánh chi vương. Cố vị hiện tam thập nhị tướng” (Nơi thân ứng hóa của đức Như Lai thị hiện ba mươi hai tướng này để biểu thị Pháp Thân có các đức viên măn đến cùng cực, khiến cho người khác trông thấy liền yêu kính, biết Phật có đức hạnh thù thắng đáng tôn sùng, là bậc tôn quư trong trời người, là vua của chư thánh. V́ vậy, Phật thị hiện có ba mươi hai tướng). Các vị đồng học chúng ta nên biết chư Phật, Bồ Tát, kể cả A La Hán, khi ứng hóa trên thế gian đều hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức. Trong hội Lăng Nghiêm, đức Phật nói: “Tùy chúng sanh tâm, ứng sở tri lượng” (thuận theo tâm chúng sanh mà ứng hiện phù hợp với khả năng hiểu biết của họ). Ba mươi hai tướng ấy tương ứng với sự hiểu biết của chúng sanh. Nếu nói “thân có vô lượng tướng, mỗi tướng có vô lượng hảo” th́ chúng sanh chưa bao giờ nghe nói tới. Do vậy, phải dùng tri kiến b́nh thường của chúng sanh, trong tâm họ thường mong mỏi: “Tôi phải trọn đủ những tướng tốt nào, trong sách tướng số cũng có ghi [những tướng tốt đẹp ấy]”, [chư Phật bèn] dùng phương pháp ấy để xứng hợp ḷng ưa thích của chúng sanh, cho nên hiện tướng ấy. Như trong kinh Pháp Hoa, đức Phật [có nêu ra một tỷ dụ]: Đức Phật dẫn dụ chúng sanh khiến cho họ tiếp nhận Đại Thừa, nhưng họ không chấp nhận. Do đó, Ngài nêu ra ba loại xe. Quư vị thích xe nhỏ, đức Phật bảo quư vị ngoài cửa có một chiếc xe dê. Rất nhiều người thích xe dê, đủ để một người ngồi mà thôi. Lại bảo quư vị c̣n có xe nai, có rất nhiều xe nai, mọi người đều ưa thích. Rốt cuộc, ra ngoài cửa chỉ có xe ngựa, xe ngựa lớn nhất, chẳng có xe dê hay xe nai, chỉ có xe ngựa, toàn là xe lớn. Đây là một phương pháp khéo léo của Phật để dẫn dắt chúng sanh. Ở đây cũng vậy, nói với quư vị ba mươi hai tướng đại trượng phu, quư vị nghe xong vô cùng hoan hỷ, đến thế giới Cực Lạc, [sẽ thấy] c̣n thù thắng hơn nhiều, quư vị mới thật sự sanh tâm hoan hỷ lớn lao.

Ở đây có một câu tiêu biểu pháp, câu này rất quan trọng “biểu Pháp Thân chúng đức viên cực” (biểu thị Pháp Thân có các đức viên măn đến cùng cực), viên măn tột độ! Thân ấy có vô lượng tướng, mỗi tướng có vô lượng hảo. “Sử kiến giả ái kính” (Làm cho người trông thấy liền yêu kính), v́ sao? Tánh Đức viên măn hiển lộ. Đây là nói tập khí vô thỉ vô minh đều đoạn sạch. Khi tập khí chưa đoạn, tướng ấy có hiện không? Vẫn hiện! Tập khí chưa đoạn dứt. Nói thật ra, lúc minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật th́ sẽ hiện tướng, chẳng phải chỉ là ba mươi hai tướng, tám mươi thứ hảo. Thường nói là “thân có vô lượng tướng, mỗi tướng có vô lượng hảo”, tướng ấy hiện ra. Lúc hiện ra, mức độ rơ rệt kém hơn một chút. Thí dụ như so giữa vô lượng tướng hảo của Thập Trụ Bồ Tát và Thập Hạnh Bồ Tát th́ tướng của Thập Hạnh Bồ Tát rơ ràng, Thập Trụ Bồ Tát kém hơn một chút. Thập Hạnh Bồ Tát lại kém hơn Thập Hồi Hướng Bồ Tát một chút. Thập Hồi Hướng Bồ Tát lại kém hơn Thập Địa Bồ Tát một chút, đó là ǵ? Do tập khí vô minh của họ chưa đoạn. Thật ra, hết thảy [các tướng] đều có, chẳng phải là không có, nhưng đạt đến quả vị Đẳng Giác, [các tướng ấy] sẽ hiện ra viên măn; đến quả vị Diệu Giác th́ chẳng c̣n nữa, quả vị Diệu Giác trở về tự tánh. Do vậy, đạt đến quả vị Đẳng Giác là viên măn nhất. Khi đạt đến quả vị Diệu Giác, phàm những ǵ có tướng đều là hư vọng, tướng ấy cũng chẳng c̣n nữa, trở về tự tánh. Trong kinh này có nói ba thứ chân thật, cái được gọi là “chân thật chi tế” chính là trở về tự tánh.

Chúng ta mê là mê từ tự tánh, một niệm bất giác, tự tánh biến thành A Lại Da, đến cuối cùng, khi nhập địa vị Diệu Giác, trở về tự tánh, giống như một sự tuần hoàn rất lớn. Sau đó, có c̣n tuần hoàn như vậy nữa hay không? Trong hội Lăng Nghiêm, tôn giả Phú Lâu Na đă hỏi giùm chúng ta câu hỏi này, Thích Ca Mâu Ni Phật dạy: Sẽ chẳng mê trở lại. Chúng ta có thể tin tưởng hay không? Có thể chứ! V́ chúng ta đă trải qua chu tŕnh ấy, đă tỉnh mộng rồi, đều đă từng trải qua, đều có kinh nghiệm, sẽ chẳng mê nữa, đều biết đó là sự việc như thế nào. Lúc chưa có kinh nghiệm, rất khổ; lúc mê, chẳng hay, chẳng biết, khởi tâm động niệm, tạo tội, thọ báo, do vậy, tạo nên mười pháp giới, tạo luân hồi, tạo ra ba đường ác. Sau khi trở về tự tánh, sẽ chẳng như vậy nữa. Trong khắp pháp giới, hư không giới, vẫn c̣n có một số người chưa quay lại, rất nhiều người như vậy, tự tánh khởi tác dụng, cũng là Diệu Giác Cứu Cánh Phật khởi tác dụng: Chỗ nào có cảm, bèn ứng hiện chỗ đó; ngay trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm cũng có ứng. Trong cơi Thật Báo có cảm, th́ các Ngài ứng đến đó. Chuyện cảm ứng đạo giao này, nói thật ra là ở ngay trong lúc đó, v́ nó không có thời gian và không gian. Không có thời gian th́ chẳng có trước sau, không có không gian th́ chẳng có khoảng cách, tức là ngay ở trong lúc đó, những chuyện này đều là sự thật.

Chúng ta xem lời giải thích đơn giản trong phần kế tiếp: “Tam Tạng Pháp Số tứ thập bát” (theo Tam Tạng Pháp Số, quyển bốn mươi tám). Hiện thời, Tam Tạng Pháp Số có rất nhiều bản in, số trang khác nhau. Trong bản Tam Tạng Pháp Số tôi đang dùng, [điều sắp nói được ghi trong] trang năm trăm hai mươi tám. Trong sách ấy, [điều đó được chép trong] quyển bốn mươi tám. Chúng ta xem trang năm trăm hai mươi tám, sách ấy nói rơ hơn một chút, chúng ta hăy đọc thử.

Tướng thứ nhất là: “Túc an b́nh tướng” (bàn chân bằng đầy), tức là ḷng bàn chân không có chỗ nào lơm xuống, đều bằng phẳng. Chúng ta có thể thấy bàn chân của trẻ sơ sinh bằng phẳng, chân Phật cũng bằng phẳng, nên gọi là “an b́nh tướng”, chẳng có chỗ nào bị lơm xuống. Tôi cũng nghe nói: Hiện thời, nếu đi lính mà bàn chân bằng phẳng như vậy, người ta sẽ không tuyển người đó. Quư vị thấy mỗi địa phương có phong tục khác nhau, người Ấn Độ cho đó là hảo tướng, c̣n nay chúng ta tuyển lính lại chê. Do đó, cổ nhân chú giải rất hay, nói đó là tập tục của Ấn Độ, họ cho rằng đó là tướng tốt.

Tướng thứ hai: “Thiên bức luân tướng, túc hạ hữu luân h́nh giả” (tướng bánh xe ngàn căm: Dưới bàn chân có h́nh bánh xe). Đây là nói tới các lằn chỉ trong bàn chân, giống như chỉ tay vậy, mỗi ngón tay đều có hoa tay. Dưới chân đức Phật có h́nh bánh xe, được gọi là tướng bánh xe ngàn căm. Tướng này tương đối ít thấy.

Tướng thứ ba: “Thủ chỉ tiêm trường tướng, thủ chỉ tế trường giả” (Tướng ngón tay dài nhọn, tức là ngón tay thon dài). Đây là một tướng tốt.

Tướng thứ tư: “Thủ túc nhu nhuyễn tướng” (tướng chân tay mềm mại). Người Trung Quốc cũng cho đây là tướng tốt. Nếu quư vị bắt tay với người giàu sang, tay họ mềm như bông g̣n, đúng là khác hẳn.

Tướng thứ năm: “Thủ túc man tướng” (tướng chân tay có màng lưới). Tướng này rất ít thấy, giữa các ngón chân và ngón tay có màng lưới nối liền nhau giống như chúng ta thấy loài ngỗng hay vịt, giữa các ngón chân của chúng có màng nối liền. Đó là tướng thứ năm.

Tướng thứ sáu: “Túc cấn măn túc tướng, cấn thị túc chủng, chủng viên măn vô ao xứ” (Tướng gót chân đầy đặn: Cấn () là gót chân, gót chân đầy đặn không khuyết). Lũ phàm nhân chúng ta không có tướng viên măn này.

Tướng thứ bảy: “Túc phu cao hảo tướng” (tướng lưng bàn chân vun tṛn). “Phu” () là mu (lưng) bàn chân. Chúng ta ngồi xếp bằng tĩnh tọa gọi là “già phu tọa”. Đây là nói mu bàn chân, “túc bối cao khởi nhi viên măn giả” (mu bàn chân cao đầy, tṛn trịa).

Tướng thứ tám: “Thuyên như lộc vương tướng” (tướng bắp đùi như nai chúa). Ta gọi “thuyên” () là bắp đùi, xác thực là đùi nai. Nai chạy rất nhanh v́ đùi nai rất khỏe. Do vậy, quư vị thấy đùi nai tṛn trịa, đây là một tướng khoẻ mạnh.

Tướng thứ chín: “Thủ quá tất tướng” (tướng tay dài quá gối), tay dài qua khỏi đầu gối. Tay người thường không dài như vậy, nhưng chúng ta thấy tay của khỉ vượn rất dài. Đây là một tướng tốt.

Tướng thứ mười: “Mă âm tàng tướng, Phật chi nam căn, mật tàng thể nội, như mă âm dă” (Tướng mă âm tàng: Nam căn của Phật ẩn kín trong cơ thể như âm ngựa).

Tướng thứ mười một: “Thân tung quảng tướng” (tướng thân to rộng), thân thể cao ráo và “đầu túc chi cao, dữ trương lưỡng thủ chi trường tương tề dă” (Chiều cao từ chân tới đầu bằng với khoảng cách hai tay giang ra).

Tướng thứ mười hai: “Mao khổng sanh thanh sắc tướng, nhất nhất mao khổng sanh thanh sắc chi mao, nhi bất tạp loạn” (tướng lỗ chân lông có sắc xanh: Nơi mỗi lỗ chân lông mọc một sợi lông có màu xanh, nhưng các sợi lông chẳng mọc loạn xị). Đại khái là người Ấn Độ lắm lông hơn chúng ta. Quư vị thấy lông của người ngoại quốc đều rất dài, sẫm màu. Chúng ta thường thấy màu tro hoặc đen, chứ màu xanh khá ít thấy.

Tướng thứ mười ba: “Thân mao thượng mị tướng” (Lông trên thân mướt đẹp), lông trên thân mịn, mọc xoáy về phía phải, hướng lên trên.

Tướng thứ mười bốn: “Thân kim sắc tướng” (tướng có thân sắc vàng), trong phần trước chúng ta đă nói, thân Phật có màu vàng ṛng.

Tướng thứ mười lăm “Thường quang[6] nhất trượng tướng, thân phóng quang minh, tứ diện các nhất trượng” (Tướng thân có thường quang chiếu xa một trượng: Thân Phật tỏa quang minh, mỗi phía đều chiếu xa đến một trượng). Trên thực tế, người Trung Quốc gọi Quang là Khí. Người luyện Khí Công biết, họ có thể thấy được Khí, trong Phật pháp gọi là Quang. Quang lớn nhỏ khác nhau, màu sắc khác nhau. Thông thường, nh́n vào Khí, có thể biết t́nh trạng sức khoẻ nơi thân thể của một người, lại c̣n có thể thấy rất chính xác. Có thể thấy rằng: Đích thực là có Quang! Hiện thời, do tâm chúng ta sôi nổi, tạp niệm quá nhiều, nên chẳng trông thấy, đă mất khả năng này; nhưng trẻ nít có thể nh́n thấy. Trẻ nít ngây thơ, không có tạp niệm, nên có thể nh́n thấy. Dần dần lớn lên, do vọng niệm nhiều sẽ không nh́n thấy nữa! Nhưng trẻ nhỏ ngày nay khác thuở xưa, trẻ nhỏ thuở trước, lúc tám chín tuổi vẫn c̣n thể thấy những thứ người thông thường chẳng thấy. Tôi nghĩ trẻ nhỏ hiện thời ba tuổi th́ đă không được rồi, v́ sao? Mỗi ngày từ sáng tới tối xem TV, TV đă nhiễu loạn chúng nó, rối loạn những năng lực sẵn có của chúng.

Tướng thứ mười sáu: “B́ phu tế hoạt tướng” (tướng da dẻ mềm mại, mượt mà), tướng này chúng ta dễ hiểu.

Tướng thứ mười bảy: “Thất xứ b́nh măn tướng” (tướng bảy chỗ bằng phẳng, đầy đặn). Bảy chỗ là hai ḷng bàn chân, hai ḷng bàn tay, hai vai và đảnh đầu. Bảy chỗ ấy đều bằng phẳng, đầy đặn, không bị khuyết hăm.

Tướng thứ mười tám: “Lưỡng dịch măn tướng, dịch hạ sung măn” (tướng hai nách đầy đặn, dưới nách tṛn đầy)”. Phần dưới nách chúng ta đều bị lơm vô, nhưng trên thân Phật, chỗ này tṛn đầy.

Tướng thứ mười chín: “Thân như sư tử tướng. Thân thể b́nh chánh, oai nghi nghiêm túc” (tướng có thân h́nh như sư tử. Thân thể đầy đặn, đẹp đẽ, oai nghi đoan nghiêm). Oai nghi là dung mạo, cử chỉ, tất cả các tư thái động tác “như sư tử vương” (như sư tử chúa). Chúng ta ít thấy sư tử, nhưng trong truyền h́nh, trong chương tŕnh động vật kỳ quan th́ có thể trông thấy.

Tướng thứ hai mươi: “Thân đoan trực tướng, thân h́nh đoan chánh, vô ủ khúc giả” (Tướng thân thể đoan trực, thân h́nh đoan chánh, không cong vẹo). “Ủ khúc” (傴曲) là như lưng cong, hay lưng gù. Chẳng có tướng [cong vẹo] ấy!

Tướng thứ hai mươi mốt: “Kiên viên măn tướng. Lưỡng kiên viên măn nhi phong du giả” (tướng vai tṛn đầy, hai vai tṛn trịa, đầy đặn), có nghĩa là hai vai rất viên măn, đầy đặn.

Tướng thứ hai mươi hai: “Tứ thập xỉ tướng” (Tướng có bốn mươi cái răng). Phật có đủ bốn mươi cái răng. Người thường chúng ta chỉ có ba mươi sáu cái răng, bốn mươi cái răng là quư tướng.

Tướng thứ hai mươi ba: “Xỉ bạch tề mật tướng” (tướng răng trắng, khít, bằng). Không chỉ có bốn mươi cái răng, mà răng Ngài c̣n đều rất cứng cáp, trắng sạch, bằng đều nhau.

Tướng thứ hai mươi bốn: “Tứ nha bạch tịnh tướng” (tướng bốn răng nanh trắng sạch), đây là nói tới bốn cái răng nanh, tức bốn cái răng to ở hàm trên và hàm dưới, răng nanh đó mà!

Tướng thứ hai mươi lăm: “Giáp xa như sư tử tướng” (tướng má tṛn đầy như tướng sư tử). Hai g̣ má tṛn đầy, giống như sư tử hai bên má đều có tóc mai, râu, h́nh thể cân đối, tṛn đầy.

Tướng thứ hai mươi sáu:“Yết trung tân dịch đắc thượng vị tướng. Phật chi yết hầu trung, thường hữu tân dịch, phàm thực vật, nhân chi đắc thượng vị” (tướng nước miếng trong họng có vị ngon ngọt nhất: Trong cổ họng Phật thường có chất nước miếng khiến cho ăn vật ǵ cũng trở thành thơm ngon nhất). Chúng ta có thể hiểu điều này. V́ thế, thuở đức Phật tại thế, ra ngoài khất thực, người ta cho ǵ Ngài ăn nấy, tuyệt đối chẳng chọn lựa. Đă thế, Tăng đoàn thật sự là một đoàn thể Lục Ḥa, b́nh đẳng. Khi thác bát (tŕ bát khất thực) bèn chia ra (thành nhiều nhóm nhỏ) đi khắp các đường phố, ngơ hẻm để khất thực. Quư vị thấy một đoàn thể lớn như vậy, một ngàn hai trăm năm mươi lăm người, tôi tin là phải chia thành nhiều tổ nhỏ. Mỗi người đi khất thực, xin xong, trở về cùng ăn chung. Khi quay về, bèn dồn chung lại, thật đúng như câu nói: “Một bát, cơm ngàn nhà”, nên b́nh đẳng. Quư vị xin được thức ăn rất ngon, người khác xin được thức ăn dở, mọi người đều trộn chung lại. Đă trộn chung lại, chúng tôi tin tưởng khi được đức Phật gia tŕ th́ mùi vị đều trở thành món ăn ngon lành nhất, cảnh chuyển theo tâm mà! Ngài có năng lực ấy.

Tướng thứ hai mươi bảy: “Quảng trường thiệt tướng. Thiệt quảng nhi trường, nhu nhuyễn, tế bạc, triển chi tắc phú diện nhi chí ư phát tế giả” (tướng lưỡi rộng dài: Lưỡi to mà dài, mềm mại, thanh mảnh, khi thè ra che cả khuôn mặt đến tận mí tóc). Phật có tướng lưỡi rộng dài, lưỡi thè ra rất mỏng, có thể che cả khuôn mặt.

Đối với các tướng này, ở đây chẳng nói đến nhân. Trong ba mươi hai tướng, tám mươi thứ hảo, mỗi tướng hảo đều có nhân. Do vậy, kinh có nói Bồ Tát tu hành chứng quả, trước khi thành Phật, phải dùng thời gian dài một trăm kiếp để tu tướng hảo. V́ sao? Tướng hảo là tu phước báo. Nếu không có phước báo, người ta không thích quư vị. Khi quư vị đến giúp người khác, họ không tiếp nhận, không chịu tiếp nhận; do vậy, phải tu phước báo. Điều này cũng nhằm ban cho chúng ta một sự khải thị, hy vọng chúng ta đều có thể phước huệ song tu. Nếu quư vị tu phước, không tu huệ, tức là phàm phu. Tu huệ, không tu phước, quư vị sẽ chẳng thể độ chúng sanh. Tôi có đọc một bài văn, [tức là] một lá thư do ông Tăng Quốc Phiên gởi cho bạn. Trong đó, ông Tăng Quốc Phiên cảm thán thời thế mỗi ngày một suy vi. Ông nói rất nhiều kẻ, thậm chí là kẻ đọc sách mà vẫn tham danh lợi, chẳng thật ḷng v́ nước v́ dân, toàn là v́ tiếng tăm, lợi dưỡng cá nhân, hết sức đáng cảm khái! Họ làm quan lớn, giữ địa vị cao, hưởng bổng lộc dồi dào, trọng hậu, lại thoái thác trách nhiệm, chẳng chịu thật sự dốc sức phục vụ nhân dân. Ông thật sự gặp người tốt, nhưng người tốt đó có địa vị rất thấp, lại c̣n chẳng có cơ hội, chẳng được trọng dụng. V́ vậy, suốt đời khốn đốn, sau cùng ôm hận mà chết. Đối với chuyện này, ông vô cùng cảm khái. Người học Phật chúng ta biết tại sao lại như vậy? V́ sao người tốt chẳng được hưởng quả báo tốt? Họ có trí huệ, nhưng thiếu phước báo, v́ đời trước tu huệ, chẳng tu phước, nên họ phải chịu quả báo như vậy. Những kẻ làm quan lớn, chẳng có tâm yêu nước thương dân chi cả, nhưng họ lại có địa vị cao quư, là v́ họ có tu phước, chẳng tu huệ, nên có phước báo lớn. Chúng ta hiểu rất rơ ràng, liễu giải chân tướng sự thật. Do vậy, gặp Phật, quư vị sẽ đạt được [phước huệ], thật sự đạt được viên măn. Nếu phước không đủ th́ cũng được [Phật dạy phương pháp tu để] tăng thêm phước. Nếu huệ không đủ th́ sẽ được [Phật dạy phương pháp tu để] tăng thêm huệ. Hễ gặp Phật pháp th́ tất cả sẽ đầy đủ, đại viên măn.

      Nếu Thích Ca Mâu Ni Phật chẳng xuất gia, Ngài sẽ làm vua, cho thấy phước báo của Ngài rất lớn. Tuy xuất gia, dạy học, đệ tử thường theo Ngài có tới một ngàn hai trăm năm mươi người, đó là những vị thường đi theo Ngài; c̣n những người không thường theo Ngài, hoặc chỉ theo học trong một thời gian ngắn, tôi phỏng đoán khoảng ba ngàn người. Có một đoàn thể đông đảo như vậy, đó là phước báo. Ngài được đại chúng trong xă hội cung kính, tán thán, mỗi người đều là học tṛ tốt, những người đi theo Ngài đều là phước huệ song tu, tiếp nhận lời dạy của đức Thế Tôn. Sau đó, họ dạy lại người khác, đi khắp bốn phương tám hướng để dạy học; do đó, phước huệ song tu. Đây là nói chúng ta phải xem trọng cả phước lẫn huệ, đức Phật đặc biệt coi trọng tu phước. Lúc chúng tôi mới bắt đầu theo học với thầy Lư, khi thầy chỉ dạy chúng tôi luôn nhắc nhở chúng tôi đừng lơ là tu phước. Nếu không có phước báo, thầy nói rất rơ ràng: “Nếu anh có Huệ, giảng kinh đến mức hoa trời rơi lả tả, nhưng sẽ như thế nào? Sẽ chẳng có ai nghe, đó là ǵ? V́ chẳng có phước báo, chẳng có duyên với người ta”. Do đó, phải coi trọng tu phước, thầy thường răn nhắc chúng tôi phải kết pháp duyên, phải tu phước. Đám học tṛ chúng tôi cũng rất nghèo, tiền thâu nhập rất ít, tu phước bằng cách nào đây? Thầy rất khéo léo. Mỗi tuần, thầy giảng kinh hai lần, một lần ở thư viện, một lần ở liên xă. Thầy dạy những người học giảng kinh chúng tôi, hai mươi mấy người, vào những ngày thầy giảng kinh, chúng tôi đến tiếp đăi. Tiếp đăi là tu phước. Chúng tôi đứng ở cửa chào đón mọi người đến dự, hướng dẫn mọi người, xếp chỗ ngồi cho họ, phát kinh sách. Thầy nói: “Nếu các anh có chút tiền lẻ, hăy mua đậu phộng, phát cho mỗi người một hạt, hoặc một viên kẹo. Đó đều là tu phước, đều là kết duyên”. Chúng tôi học từ chỗ ấy. Do vậy, sau này pháp duyên thù thắng, càng kết duyên càng rộng. Phải thật sự làm th́ mới được.

      Đức Phật dạy chúng ta đừng tích lũy tiền tài, v́ “tích tài thương đạo” (tích lũy tiền tài th́ tổn thương đạo). Nếu có tiền tài th́ sao? Có tiền tài th́ phải bố thí, [tiền tài] từ mười phương đến th́ trở về mười phương, hiệu quả là ngày càng nhiều, ngày càng thù thắng. Càng thù thắng th́ phải làm nhiều hơn, không làm không được. Phương pháp tốt nhất là ǵ? Đời này tôi học theo Ấn Quang đại sư, suốt đời Ấn Quang đại sư dùng tiền mười phương cúng dường cho Ngài để làm một chuyện là pháp bố thí. Quư vị thấy Ngài dùng tiền do người khác cúng dường cho Ngài để lập ra Hoằng Hóa Xă. Hoằng Hóa Xă giống như một nơi lưu thông kinh Phật. Ngài có thể tự xuất bản. Lúc đó, Ngài đă mua một bộ máy, đó là máy xếp khuôn chữ bằng ch́. Ngài c̣n có công nhân, tức là có công nhân sắp chữ, có người giảo chánh, đối chiếu, biên tập, giống như một thư cục vậy, có thể tự in, in rất đẹp! Bản in của Hoằng Hóa Xă có khổ chữ lớn, rơ ràng, dùng giấy in cũng tốt, rất chú trọng phẩm chất. Quư vị đọc các bản sách ấy rất thích, v́ ít chữ sai. Ít chữ sai th́ gọi là bản in tốt. Do đó, so với những bản in tốt trong thời cận đại, có thể nói là sách của Hoằng Hóa Xă xứng đáng là những bản in tốt đẹp. V́ vậy, đây là một chuyện rất khó có, chúng tôi học theo lăo ḥa thượng: Suốt đời lăo ḥa thượng chỉ làm một chuyện này mà thôi. Lúc gặp tai nạn, lăo ḥa thượng cũng làm việc cứu trợ, lấy tiền từ đâu [để cứu trợ]? Lấy từ ngân khoản in kinh sách để làm chuyện này; nhưng in kinh, ấn tống thiện thư là việc chính yếu, cả đời Ngài chẳng làm việc ǵ khác, chẳng xây chùa, ở nhờ đạo tràng của người khác, chỉ làm một việc này. Tôi cảm thấy làm như vậy rất tốt, đỡ bận ḷng, chẳng bị vướng bận mảy may. Lưu thông Phật pháp trên toàn thế giới, việc này thật chẳng dễ dàng!

      Hiện nay, chúng tôi làm rất nhiều việc. Chúng tôi có thể phát sóng trên truyền h́nh, có thể làm mạng lưới Internet, có thể làm CD, DVD, có thể in sách, nhưng tất cả đều có tánh chất giống nhau: Khiến cho càng nhiều người biết đến Phật pháp, liễu giải Phật pháp, học tập Phật pháp, có thể đạt được thành tựu thù thắng trong Phật pháp, đó là việc tốt, vô lượng công đức. Cúng dường nhiều th́ sao? Cúng dường nhiều th́ chúng tôi đem in những bộ sách lớn. Năm kia, tôi nhờ Thương Vụ Ấn Thư Quán tái bản bộ Tứ Khố Toàn Thư, đặt họ in một trăm bộ. Năm nay đă hoàn thành, sách đă được gởi tới Hương Cảng. Chúng tôi gởi mười bộ tới Úc Châu, mười bộ tới Mă Lai, cũng gởi mười bộ cho Indonesia, vài bộ cho Nhật Bản, phần c̣n lại sẽ gởi đến các trường đại học ở Đại Lục. Tuần trước, Thế Giới Thư Cục cũng đến t́m tôi, họ muốn tái bản bộ Tứ Khố Hội Yếu. Nghe xong, tôi rất hoan hỷ, bộ này c̣n hay hơn bộ Toàn Thư, giá trị c̣n cao hơn bộ Toàn Thư.

      Lúc vua Càn Long [xuống chiếu sai các quan] biên soạn bộ sách ấy nhằm mục đích nhằm bảo tồn sách vở của Trung Quốc, chẳng để cho chúng bị mất đi, dụng ư rất tốt. Thuở đó đều là chép tay. Có tất cả bảy bộ Toàn Thư, chia ra cất giữ ở bảy chỗ. Hiện thời, do chiến tranh loạn lạc, Toàn Thư chỉ c̣n ba bộ rưỡi, [tức là] có một bộ chẳng đầy đủ và ba bộ hoàn chỉnh, sách Hội Yếu dành riêng cho vua xem. V́ thế, trong Toàn Thư, những câu văn không có lợi đối với triều đ́nh nhà Thanh đều bị xóa mất, nhưng trong Hội Yếu th́ không bị xóa; [bởi lẽ], Hội Yếu là sách dành cho vua xem, chẳng phải để cho người ngoài xem. Hội Yếu chỉ có hai bộ, một bộ để ở thư pḥng của nhà vua, bộ thứ nh́ để ở vườn Viên Minh. Vườn Viên Minh bị liên quân Anh Pháp hủy diệt, nên [Hội Yếu] chỉ c̣n lại một bộ. Bộ này hiện nay được giữ ở Đài Loan, họ dựa trên h́nh chụp để in lại. Lần in thứ nhất, tôi mua khoảng hơn sáu chục bộ, lúc đó, xuất bản tổng cộng hai trăm bộ, tôi đă mua ước chừng hơn sáu mươi bộ. Tôi là khách mua sách chủ yếu của họ, nên bây giờ họ đến t́m tôi muốn tái bản. Tôi nói: “Tốt lắm, tôi đồng ư mua một trăm bộ”. Thật là tốt, Hội Yếu có giá trị c̣n cao hơn bộ Toàn Thư, nhưng phân lượng chỉ bằng một phần ba của Toàn Thư. Do đóng b́a cứng thành năm trăm tập, nên chỉ bằng một phần ba bộ Toàn Thư. Nếu tiền cúng dường của tôi nhiều th́ tôi in nhiều, in những bộ sách lớn, tiền ít th́ in ít, hết thảy đều để làm việc này.

      Gần đây tôi c̣n in một bộ sách nhỏ hơn. Bộ sách này cũng là sách tôi thường tâm niệm. Có đồng tu gởi tặng, chẳng biết là ai tặng nữa, đó là bộ Quần Thư Trị Yếu. Ở đây, tôi giới thiệu đơn giản cùng mọi người. Sách ấy do Đường Thái Tông hạ lệnh biên tập. Chúng ta biết Đường Thái Tông lúc mười sáu tuổi đă theo cha khởi nghĩa, b́nh định xă hội động loạn thuở ấy, về sau, lên ngôi vua. Lúc làm vua, ông liền nghĩ cách cai trị quốc gia như thế nào? Nhất định phải t́m các tài liệu trị quốc của những triều vua trước, những tài liệu ấy nằm rải rác trong Tứ Khố Toàn Thư (đương nhiên là lúc đó chưa có Tứ Khố Toàn Thư, nhưng hiện nay, dùng chữ Tứ Khố Toàn Thư th́ mọi người đều biết), thuộc các phần Kinh, Sử, Tử, Tập. Ông sai Ngụy Trưng là một vị đại thần rất nổi danh đời Đường, [nhà vua] sai Ngụy Trưng làm chủ biên, t́m những phần văn tự có liên quan đến vấn đề trị quốc, tu thân, tề gia, b́nh thiên hạ trong các tác phẩm thuộc loại Kinh, Sách, Sử, Tử để chép lại, biên soạn thành một bộ sách. H́nh như họ dùng đến tất cả sáu mươi mấy loại sách, sáu mươi mấy loại sách ấy đều có trong Tứ Khố, tổng cộng có khoảng năm mươi mấy vạn chữ. Sau khi sách được soạn xong, Đường Thái Tông mỗi ngày đều đọc. Do sách chẳng rời tay. Đối với nền thịnh trị thời Trinh Quán (Trinh Quán là niên hiệu của Đường Thái Tông), bộ sách này có cống hiến vô cùng to tát, rất hay! Vào đời Đường, những người làm quan nhất định phải đọc sách này.

      V́ lẽ đó, tôi nghĩ tới bộ sách này, v́ đối với chánh trị, trị gia, trị quốc, thậm chí để điều hành xí nghiệp hiện thời, chủ nhân hoặc các vị quản trị xí nghiệp, công ty, và những người làm lănh đạo đều cần phải biết [những đạo lư trong bộ sách ấy]. Khi đồng học tặng sách này cho tôi, vừa đọc tôi đă rất thích. Sách này được in vào đầu thời Dân Quốc, tám chục năm trước. Sách tám chục năm trước mà tôi mở ra xem, dường như chưa có ai từng đọc, c̣n rất mới, c̣n rất sạch. Tôi cũng đưa cho Thế Giới Thư Cục, nhờ họ in cho tôi ba ngàn bộ. Tôi in để làm ǵ? Để làm quà tặng. Tặng cho ai? Tặng cho những người đang ở trong chánh trường, đang làm quan, làm chủ công ty, tôi dùng làm quà tặng họ. Lúc đó, tôi lập tức nghĩ sẽ tặng sách này cho [những người lănh đạo trong] đảng Cộng Sản, đảng Quốc Dân, đảng Dân Tiến, đó là chuyện tốt! Sách này in càng nhiều càng hay, từng chữ từng câu đều trân quư, rất đáng đọc. Sách bao gồm những đức hạnh làm người cơ bản, thảy đều đầy đủ, là một cuốn sách rất hay. Muốn phục hưng văn hóa truyền thống Trung Quốc, quư vị đọc sách này cũng như đọc sáu mươi mấy loại sách thuộc thể loại Kinh, Sử, Tử, lại có thể khơi gợi hứng thú t́m đọc Tứ Khố.

      C̣n một loại nữa, lúc tôi có được bộ Hội Yếu thứ nhất, tôi đọc rất thích thú, nên nghĩ có thể trích yếu những phần tinh hoa tốt đẹp trong sách, soạn thành một cuốn sách, tôi đă có ư niệm ấy. Tôi t́m em tôi, t́m những người về hưu ở Trung Quốc, t́m các giáo sư dạy Quốc Văn, t́m ba bốn người, mời họ xem Hội Yếu [để trích lục]. Lúc đó, tôi tặng đại học Phục Đán một bộ. Ở Thượng Hải có hai bộ: Đại học Phục Đán một bộ, thư viện Thượng Hải giữ một bộ. Mời họ xem rồi trích lục. Sau đó, tôi thấy những phần họ trích lục cũng không được hợp lư cho lắm, nên bỏ dở. Gần đây, hằng ngày vẫn nghĩ tới việc này, nào ngờ khi Thương Vụ Ấn Thư Quán khai trương, lúc đó là cuối đời nhà Thanh, tôi chưa ra đời, họ đă soạn một bộ sách gọi là Quốc Học Trị Yếu. Chữ Trị này không phải là Chính Trị, mà là Trị Học. Quốc Học Trị Yếu là một bộ sách gồm tám cuốn dày dường ấy. Có nội dung ǵ? Bao gồm [những phần trọng yếu về đạo b́nh trị trong] Kinh, Sử, Tử, Tập của Tứ Khố, phần Tập họ cũng biên soạn. Toàn Thư chỉ có Kinh, Sử, Tử, chẳng có Tập, bộ này có Tập. Tác phẩm này chính là Tiểu Tứ Khố Toàn Thư. Quá lư tưởng! Tôi đă xem và rất thích. Trung Hoa Thư Cục xuất bản [bộ sách ấy] vào năm Dân Quốc mười chín (1930), tôi xem thử có t́m được nguyên bản hay không. T́m được nguyên bản, tôi cũng muốn in lại với số lượng lớn để tặng thư viện các trường. Đó là tinh hoa của các sách vở trong Tứ Khố, trích lục những phần tinh hoa, rất có giá trị. Phân lượng của sách này c̣n nhiều hơn bộ Quần Thư Trị Yếu.

      Do đó, tôi thường nói: Phương pháp để phục hưng văn hóa truyền thống Trung Quốc là phải có người thật sự phát tâm, suốt đời dốc chí học hỏi, chẳng mong lên chức, chẳng màng phát tài, th́ mới làm được chuyện này. Tâm danh lợi nặng nề sẽ chẳng thể làm chuyện này thành công. Tâm danh lợi thật đạm bạc, chúng ta sống trên thế gian này có thể ăn no, mặc ấm, có căn nhà nhỏ để che mưa che nắng là vui sướng lắm rồi, người như vậy mới có thể làm việc này. Họ có thể thật sự làm được chuyện “vị cổ thánh kế tuyệt học, vị thiên hạ khai thái b́nh” (kế thừa cái học tuyệt diệu của bậc cổ thánh, tạo thái b́nh cho thiên hạ), đó là sự nghiệp thánh hiền, suốt đời thích làm chuyện này, chẳng chán. Vậy th́ phải làm sao? Trước hết, phải tu đức hạnh. Chúng tôi thường nói đức hạnh gồm có bốn cội rễ, phải thực hiện được [giáo huấn của] Đệ Tử Quy, Cảm Ứng Thiên, Thập Thiện Nghiệp Đạo và Sa Di Luật Nghi, sốt sắng học tập, dốc sức thực hành. Lại c̣n phải học thuộc ḷng hai trăm bài cổ văn, sẽ chẳng c̣n gặp chướng ngại nơi chữ nghĩa nữa. Quư vị có thể đọc Tứ Khố, chẳng gặp khó khăn về mặt văn tự, v́ đă nắm được ch́a khóa, đă lấy được ch́a khóa để đọc Đại Tạng Kinh. Quư vị có thể đọc Đại Tạng Kinh, hoặc đọc Tứ Khố Toàn Thư, chẳng bị trở ngại về văn tự. Quư vị có thể đổ công dốc sức mười năm hoặc hai mươi năm học Nho giáo th́ nhà Nho hạng nhất của Trung Quốc sẽ xuất hiện. Nếu học Đạo giáo th́ sẽ thành thần, thành tiên; học Phật bèn thành Phật, thành Bồ Tát. Dốc sức từ mười năm cho tới hai mươi năm chắc chắn có thể đạt được, Trung Quốc sẽ hưng vượng. Tiến sĩ Thang Ân Tỷ đă nói: “Thế kỷ hai mươi mốt là thế kỷ của người Trung Quốc”, xin thưa với chư vị, đó là thế kỷ của văn hóa Trung Quốc, phải hiểu chuyện này! Văn hóa Trung Quốc không chỉ có thể cứu quốc gia dân tộc của chính ḿnh, mà c̣n có thể cứu cả thế giới, toàn thế giới đều cần đến. Điều này dựa trên kinh nghiệm mười năm gần đây của tôi. Tôi tiếp xúc các tôn giáo khác, các chủng tộc khác, các vị lănh đạo của nhiều quốc gia, tôi giới thiệu văn hóa truyền thống Trung Quốc cho họ, chẳng có ai không hoan hỷ, họ đều có thể tiếp nhận, rất khó có! Chúng ta phải trân quư, phải nỗ lực, thật sự phát nguyện đến thế gian này để làm chuyện lớn lao, cuối cùng, đừng quên niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, thành Phật! Đến thế giới Cực Lạc để thành Phật.

      Tiếp đó, tướng thứ hai mươi tám: “Phạm âm thâm viễn tướng” (tướng Phạm âm sâu xa). “Phạm âm” nghĩa là thanh tịnh, tức là âm thanh của Phật thanh tịnh, có thể nghe được từ xa, chẳng cần phải dùng máy khuyếch âm, từ rất xa cũng có thể nghe rơ ràng, có tướng tốt như vậy. Điều này cũng khiến cho chúng ta nghĩ tới lúc đức Thế Tôn tại thế, chẳng có khoa học tiên tiến như ngày nay, chẳng có thiết bị khuyếch âm, nhất là nơi đồng trống, lúc giảng kinh phần lớn là trong rừng, hoặc bên bờ sông, ba ngàn người, nói chuyện mà người ta có thể nghe rơ ràng. Chúng ta sẽ thắc mắc [v́ sao ba ngàn người có thể nghe rơ], đọc tới tướng hảo này, chúng ta liền hiểu: Âm thanh của Phật chẳng giống âm thanh của phàm phu chúng ta, có thể nghe từ xa.

Tướng thứ hai mươi chín: “Nhăn sắc như cám thanh tướng” (tướng màu mắt như màu cám thanh), [cám thanh (紺青)] là tướng tṛng mắt màu xanh biếc hơi pha sắc đỏ.

Tướng thứ ba mươi: “Nhăn tiệp như ngưu vương tướng, nhăn mao thù thắng” (Tướng lông mi như trâu chúa, lông mày thù thắng), giống như lông mi của trâu, rất rơ ràng, rất ngay ngắn, chẳng rối loạn tí nào.

Tướng thứ ba mươi mốt: “Mi gian bạch hào tướng” (Tướng bạch hào giữa hai chân mày). Thật ra, [vệt tṛn sáng lóng lánh giữa hai mày của tượng Phật] chẳng phải là một hạt châu, mà là hai sợi lông cuộn tṛn ở chính giữa hai chân mày, cuộn theo chiều phải và c̣n phóng quang. Đức Phật thường phóng hào quang từ chỗ này.

Tướng thứ ba mươi hai: “Đảnh thành nhục kế tướng” (trên đỉnh đầu có tướng nhục kế). Chúng ta thấy tượng Phật, trên phần trước của đỉnh đầu có một khối màu đỏ, đó là Nhục Kế (肉髻), c̣n gọi là Vô Kiến Đảnh Tướng. Kinh Lăng Nghiêm nói rất rơ, nhiều người có thần thông, muốn bay lên hư không để nh́n đảnh đầu Phật, nhưng nh́n không được v́ chỗ đó phóng quang. Đỉnh đầu phóng quang nên nh́n không thấy, chỗ đó gọi là Vô Kiến Đảnh Tướng[7].

     “Vọng Tây sư viết: Y thử nguyện cố, chúng sanh sanh giả, giai cụ chư tướng, bất giả tu đắc” (Sư Vọng Tây nói: “Do bởi nguyện ấy, các chúng sanh đă văng sanh đều đủ các tướng, chẳng cần tu mà tự đạt được”). Quư vị thấy Bồ Tát thành Phật phải tu, phải dùng thời gian một trăm kiếp để tu phước th́ mới có ba mươi hai tướng tốt. Người văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới được tiện nghi quá lớn, sanh về thế giới Cực Lạc, do quả báo liền đạt được, trọn đủ, chẳng cần phải tu. “Cụ túc thử tướng, vi hoa khai hậu” (Có đầy đủ các tướng đó sau lúc hoa sen nở), hay là trước khi hoa nở? Có người hỏi rốt cuộc là trước khi hay sau khi hoa sen đă nở? “Đáp: Bất đăi hoa khai, thị sanh đắc cố” (Đáp: Chẳng đợi hoa nở, vừa sanh đến liền có). Đúng là có sẵn các tướng ấy khi vừa sanh vào [hoa sen trong cơi Cực Lạc]. Lúc quư vị ở trong hoa sen, khi hoa chưa nở, các tướng hảo ấy đă hoàn toàn trọn đủ. Ở đây, tôi tiết lộ một tin tức cho quư vị biết: Không chỉ là ba mươi hai tướng, mà là thân có vô lượng tướng, mỗi tướng có vô lượng hảo. Ba mươi hai tướng là đức Phật nói phương tiện. Đến thế giới Cực Lạc, quư vị mới phát hiện sự thù thắng khôn sánh này, sẽ cảm ơn Thích Ca Mâu Ni Phật. Hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng ta học tập tới đây thôi.

Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa

phần 99

 

 



[1] Tân Dịch: Cách dịch kinh theo phong cách của ngài Huyền Trang, đối lập với Cựu Dịch là cách dịch kinh theo phong cách của pháp sư Cưu Ma La Thập. Ngài Huyền Trang chủ trương bám sát nguyên bản, không bỏ bớt chữ nào dù kinh văn rườm rà đến cách mấy. Ngài La Thập chủ trương dịch thoát ư, chỉ gạn lọc lấy ư chính.

[2] Tân Tỳ Bà Sa Luận là bản dịch Tỳ Bà Sa Luận của ngài Huyền Trang, gọi là Tân nhằm phân biệt với bản dịch trước đó của các vị Phù Đà Đạt Ma và Đạo Thái dưới thời Bắc Lương. Bản cựu dịch gồm 100 quyển, nay chỉ c̣n sót lại 60 quyển. Bản dịch của ngài Huyền Trang gồm 200 quyển. Tỳ Bà Sa (Vibhāṣā) có nghĩa là chú giải (c̣n dịch là Quảng Giải, Khái Yếu, Khái Luận, Thắng Thuyết, Quảng Thuyết v.v…). Tên gọi đầy đủ của Tỳ Bà Sa Luận là A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ Bà Sa Luận, như vậy Tỳ Bà Sa Luận chính là tác phẩm nghị luận nhằm giải thích những ư nghĩa chánh yếu trong Luận Tạng. Sách này được viết ra để chú giải bộ Phát Trí Luận (Jñāna-prasthāna) của ngài Ca Chiên Diên Ni Tử thuộc truyền thống Nhất Thiết Hữu Bộ. Theo truyền thống, bộ luận này thường được xem là do các vị Thi Đà Bàn Ni, Đạt Tất và Bễ La Ni hợp soạn.

[3] Tác phẩm này có tên gọi đầy đủ là Tứ Giáo Nghi Chú Vựng Bổ Phụ Hoằng Kư gồm mười quyển. Tác phẩm này thoạt đầu do ngài Đế Quán ghi chép những lời dạy của tổ Trí Giả về giáo nghĩa Tứ Giáo (Tạng, Thông, Biệt, Viên), sau đó được ngài Mông Nhuận chú giải, tỳ-kheo Thanh Tịnh bổ sung thêm những lời giải thích, nên gọi là Phụ Hoằng Kư.

[4] Đây là tên gọi khác của Phật Thuyết Vô Thường Kinh, do ngài Nghĩa Tịnh dịch vào đời Đường. Đầu kinh và cuối kinh có bài tán thán Tam Bảo của Mă Minh Bồ Tát, cũng như thuyết minh ư nghĩa kinh. Do vậy, nh́n vào cấu trúc bài kinh này, dường như có ba đoạn, nên gọi là Tam Khải. Theo Nam Hải Kư Quy Truyện, tăng đồ Ấn Độ thuở ấy dùng kinh này làm kinh nhật tụng.

[5] Táp () là ba mươi.

[6] Thường quang là quang minh thường chiếu ra nơi thân Phật. Gọi là Thường Quang để phân biệt với Phóng Quang là quang minh do đức Phật phóng ra khi thọ kư hoặc sắp tuyên giảng đại pháp. Một Trượng là 3,33 m.

[7] Vô kiến đảnh tướng: Chỉ tướng nhục kế trên đảnh đầu Phật. V́ đảnh đầu Phật có thịt dồn lên như h́nh búi tóc, nên gọi là Nhục Kế. Từ nhục kế tỏa ra hào quang vô lượng, ngay cả những vị Thập Địa Bồ Tát chỉ thấy được một phần, ngoài ra không ai thấy được tướng trạng của nhục kế, nên gọi là “vô kiến đảnh tướng”. Trong kinh Bảo Tích có chép ngài Mục Kiền Liên ỷ vào sức thần thông bay lên không trung, vượt qua vô lượng thế giới để nh́n cho rơ đảnh tướng của Phật Thích Ca, nhưng Ngài vẫn không thấy được.